- Trang 7 -:
VĂN HÓA – NGHỆ THUẬT
Có những bài ca không bao giờ quên
Họ đa số là những diễn viên
nghiệp dư, chưa từng qua một trường lớp nào. Bằng niềm hăng say, nhiệt huyết
cách mạng, họ vào các đoàn văn công để phục vụ đồng bào. Và có một thời, những
bài hát cách mạng sục sôi theo niềm nhiệt huyết ấy đã có một sức mạnh lớn lao cổ
vũ tinh thần dân chúng “rũ bùn đứng dậy”, giành lại độc lập cho quê hương, đất
nước.
1. Năm
1970, một đêm biểu diễn của đoàn văn công giải phóng Cà Mau tại rừng U Minh. Như
thường lệ, xuồng chở tổ sân khấu (phục vụ máy phóng thanh) gồm 5 - 7 anh em đã
có mặt tại sân diễn lúc trời vừa chập choạng tối. Buổi sáng, máy bay đầm già đảo
liên hồi bắn phá trên đầu nên “cữ” diễn bao giờ cũng là buổi tối. Gần 9 giờ đêm,
xuồng chở anh em đờn ca đến nơi, buổi biểu diễn mới bắt đầu, những bài ca cách
mạng quen thuộc lại trỗi lên. Anh phụ trách ánh sáng (đèn măng xông chớ nào phải
đèn điện) phải canh me thật kỹ, đang diễn vậy nhưng máy bay đảo tới là tắt đèn,
chờ chúng đi rồi mới tiếp tục buổi diễn. Hát xong 5 - 7 bài hát, gần nửa khuya
mới tới vở cải lương “Võ Thị Sáu”. Giọng hát và diễn xuất của đào Tuyết Thu rất
ngọt, nên khán giả rất mê… Buổi biểu diễn kết thúc cũng là lúc trời vừa hừng
sáng. Anh em tranh thủ dọn bãi diễn thật nhanh để còn chèo thêm 4 - 5 cây số nữa
mới tới chỗ an toàn để nghỉ ngơi…
2. Kỷ
niệm sâu sắc nhất của nhạc sĩ Thế Phương, cây văn nghệ nổi tiếng nhất, nhì của
đoàn văn công năm xưa, chính là đêm diễn ở Tân Thành. Vừa mới tới đầu lộ, đoàn
bất ngờ gặp một đại đội ngụy đang “rảo” xung quanh khu vực đó. Trở tay không
kịp, xuồng chở tổ sân khấu đi trước bị thương một anh. Các diễn viên trong đoàn
vừa chạy vừa bắn trả liên tục nhưng thế yếu hơn nên anh em bị thương rất nhiều.
Một hồi sau đó, chúng rút, nhạc sĩ Thế Phương quay trở lại tìm xuồng. Khi đi mặc
chiếc quần dài tới gót nhưng do lội ruộng bị “lúa ăn” nên lúc về ống quần đứt
ngang đầu gối. Về tới nơi, mấy anh em văn công cười quá đỗi. Hiểm nguy là vậy
nhưng ai nấy cũng đều lạc quan yêu đời…
3. “Thời
chiến tranh ác liệt, những bài ca cách mạng đóng vai trò rất quan trọng. Chiến
tranh, chết chóc ngày nào cũng có, chứng kiến cảnh đó làm sao dân không lo sợ.
Nhưng cứ mỗi lần nghe có đội văn công về phục vụ, người dân lại phấn chấn hẳn
lên, họ suy nghĩ rằng nơi nào còn lời ca tiếng hát thì nơi đó cách mạng còn, tức
phe mình sẽ thắng”. Đôi vợ chồng nhạc sĩ, diễn viên Thế Phương - Tuyết Thu kể
lại. Vì vậy, bằng mọi cách đoàn văn công luôn bám sát các địa bàn để phục vụ
nhân dân. Nhưng nhiệm vụ của họ lúc này cũng không giản đơn chút nào. Họ phải
“tay súng tay đàn” để vừa hát cổ vũ phong trào cách mạng, vừa trực tiếp chiến
đấu với giặc. Chỉ mỗi nhiệm vụ diễn viên, họ cũng phải kiêm cả nhiều vai như
múa, hát, đàn, đóng kịch… Ngoài việc chép nhạc, chép lời những bài ca cách mạng
từ máy thu thanh, những người có năng khiếu còn phải làm luôn nhiệm vụ nhạc sĩ.
Từ đó, ngoài những ca khúc nổi tiếng như Tiếng đàn Ta lư, Xuân Chiến Khu, Bài
ca may áo, Cô gái vót chông…, còn có nhiều bài hát cách mạng tự biên cũng
không thua kém như: “Tiếng hát hậu phương” (ca ngợi phong trào 3 sẵn sàng, 3 đảm
đang), “Đội pháo binh trên sông” (ca ngợi chiến sĩ trong trận đánh trên sông Tam
Giang), Quang Phong với “Bài ca bám đất” (nói lên tinh thần bất khuất của nhân
dân trong đấu tranh chống giặc giữ làng), Thanh Hòa có bản đồng ca “Cà Mau thành
đồng”, Lê Lương có “Lá thư con”… Hát nhạc trữ tình lúc này cũng phải mang sắc
thái động viên tinh thần chiến đấu của kẻ hậu phương với người tiền tuyến, như
“Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”, “Chiếc khăn tay”… Từng có lúc diễn viên của
đoàn ca bản “Dưới ánh trăng rằm” của tác giả Lâm Tường Vân xong, nườm nượp thanh
niên trai tráng xin được tham gia tòng quân cứu nước. Hay ở những phong trào
“đào kinh chống Mỹ”, “đánh chông liên quân”… văn công luôn đeo sát phục vụ để
ủng hộ tinh thần quân dân. Thế mới thấy, bài hát cách mạng có một sức cổ vũ,
cuốn hút mạnh mẽ.
Có lẽ,
những ai đã từng xem đoàn văn công biểu diễn trong những năm đất nước còn chiến
tranh sẽ không thể nào quên giọng ca nữ cao điêu luyện của Tuyết Thu cũng như
vai diễn Võ Thị Sáu để đời của chị, hay một cô Năm Chi nổi tiếng có giọng hò
hay, một Tuyết Hồng vừa là ca sĩ hát hay, vừa là cô diễn viên dễ thương, xinh
xắn; rồi những Sáu Huy, Lê Lương, Hồng Lịnh, Út Nghệ, Mười Nam, Hồng Chi… Và
những bài ca các mạng, có thể, lời văn chưa mượt mà, bóng bẩy, nhưng chính cái
hồn, cái tâm huyết và tính thời sự đã giúp chúng trở thành những tuyệt tác trong
dòng nhạc cách mạng, tuyên truyền, vận động hiệu quả nhất cho nhân dân đồng tâm
hiệp lực chiến đấu cho đến khi chiến thắng.
Chiến
tranh ác liệt là thế, bom đạn hiểm nguy là thế, không ai biết được chuyện sống
chết ra sao nhưng họ vẫn cất cao tiếng hát lạc quan, yêu đời. Vì vậy, “đội quân
văn nghệ” này đã góp phần không nhỏ trong chiến thắng vẻ vang của đất nước.
Phan TỪ
Tổ đình Quốc
mẫu Âu Cơ
Mùng 10 tháng 3 âm
lịch năm nay - ngày giổ tổ Hùng Vương và cũng là ngày giỗ Tổ đầu tiên, cán bộ,
công chức được nghỉ một ngày hưởng nguyên lương. Nhân ngày kỷ niệm này, xin được
nhắc về một đình thờ Tổ của người miền Nam ở cực Nam Tổ quốc.
Ngôi đình đó hiện
ở TP. Cà Mau và có tên là Tổ đình Quốc mẫu Âu Cơ. Đây cũng là một trong số ít
những ngôi đình thờ bà Âu Cơ ở Đồng bằng sông Cửu Long mà không phải ở tỉnh nào
cũng có. Đình được thành lập khoảng đầu những năm 1960, tọa lạc tại đường Nguyễn
Trãi, phường 9, TP. Cà Mau, gần đối diện trường Chính trị tỉnh Cà Mau. Trước
đây, đình chỉ là gian nhà lợp lá, thờ Quốc mẫu bằng bài vị, không có tượng Quốc
mẫu. Điểm đáng chú ý là đình không thờ thêm thần thánh nào khác ngoài bà Âu Cơ.
Năm 1997, đình
được trùng tu, xây dựng cơ bản bằng tường gạch, mái ngói, an vị tượng Quốc mẫu,
với kinh phí trên 30 triệu đồng do nhân dân địa phương đóng góp. Trong đợt trùng
tu này, đình lập thêm một bàn thờ Bác Hồ ở phía trước chính điện đối diện với
nơi thờ Quốc mẫu. Chính điện có ngai của vua Hùng. Ngai được làm bằng gỗ, được
bá tánh dâng cúng vào ngày 6/12/1965. Phía 2 bên chính điện thờ Quốc mẫu là nơi
thờ Lạc thư (bên trái) và Hà đồ (bên phải).
Trong đình có liễn
đối bằng chữ quốc ngữ. Hai câu đối nơi chính điện thờ Quốc mẫu là:
DỰNG SƠN HÀ TIÊN
MẸ MỞ VĂN LANG (trái)
KHAI THÁNH ĐỊA
RỒNG CHA TRUYỀN BÁCH VIỆT (phải)
2 câu viết trên
tường, góc dưới chính điện:
* Tạ ơn cha!
Các con mang tình
cha qua từng thế hệ đến mảnh đất cuối cùng để dựng dậy hồn thiêng sông núi cho
nòi giống tiên rồng (trái)
* Lạy mẹ!
Các con dù nghèo
hay giàu ở quê hương hay lưu lạc tha phương từng thế hệ đi qua vẫn mang trong
tim tình thương của mẹ (phải).
Ngoài ra, còn có 2
câu đối trên 2 cột giữa điện, 2 câu đối 2 bên nơi thờ Lạc thư, 2 câu đối 2 bên
nơi thờ Hà đồ. 2 bên vách đình, có vài bài thơ tứ tuyệt bằng chữ quốc ngữ ca
ngợi công đức Quốc mẫu và truyền thống của dân tộc.
Vào những ngày
mùng 1 hoặc rằm âm lịch, nhiều người đến đình lễ bái cầu quốc thái dân an. Mỗi
năm, đình có 3 ngày giỗ lớn là: mùng 1 Tết (giỗ Lạc Long Quân); mùng 10/3 âm
lịch (giỗ tổ Hùng Vương); mùng 5/5 âm lịch (vía Quốc mẫu Âu Cơ).
Tổ đình Quốc mẫu
Âu Cơ ở Cà Mau tuy thành lập tương đối muộn, cách đây chỉ gần 40 năm, nhưng đây
là một điểm sinh hoạt văn hóa truyền thống thuần Việt, rất đáng được trân trọng,
gìn giữ, làm phong phú thêm đời sống văn hóa ở một vùng đất trẻ cuối trời Tổ
quốc.
T.C
Thơ:
Quê hương
Nơi
nào mắc võng ru ta
Tự
hồi bay lả bay la cánh cò,
Nơi
nao có một bến đò
Vẫn
neo đậu những hẹn hò đời ta,
Nơi
nào lam lũ bóng cha,
Lom
khom bóng mẹ mưa sa đầy đồng,
Mồ
hôi cứ chảy ròng ròng,
Mặt
người cúi xuống, lúa đồng mới lên,
Nơi
nao rau muống, rau dền,
Khoai
lang, rau má đặt tên cho người,
Nơi
nào nước mắt, mồ hôi,
Tuổi
xuân và máu đổi đời tự do,
Nơi
nao lỡ vạn hẹn hò
Để
hôm nay có cánh cò bình yên,
Nơi
nào có chí thì nên,
Bao
lần ngã lại đứng lên làm người,
Nơi
nao xanh đất, xanh trời,
Em
ơi, nơi ấy, đời đời quê hương...
PhẠm Minh Giang