Quyền thành lập đảng ở Việt Nam
Thiên Đức
Quyền Tự do lập đảng là Tiền lệ Pháp luật Xă hội Chủ nghĩa (XHCN) và
có Truyền thống Lịch sử
Tôi chưa là luật sư dù đă tốt nghiệp đại học luật khoa Sài G̣n cùng thời với
luật sư (ls.) Đặng Dũng, khóa cuối cùng được tổ chức trọng thể với áo mũ đầy đủ
theo truyền thống của ngành luật vào năm 1974. Tôi cũng đă kết thúc khóa bồi
dưỡng pháp lư của trường đại học pháp lư Hà Nội tổ chức tại thành phố Hồ Chí
Minh vào những năm cuối thập niên 80 cho những người tốt nghiệp luật khoa và
quốc gia hành chánh cũ. Tôi đă từng tham gia hoạt động và tổ chức sáng lập một
trong những văn pḥng dịch vụ pháp lư hiếm hoi đầu tiên ở Sài G̣n (tiền thân của
những văn pḥng luật sư hiện nay). Thế nhưng với chính sách cai trị bằng lư lịch
c̣n nặng nề vào thời điểm đó nên người viết chưa có cơ hội trở thành luật sư
thực thụ tại Việt Nam vậy. Sở dĩ người viết giới thiệu hơi rườm rà như trên
không ngoài mục đích là đảm bảo tính đồng nghiệp trong thảo luận cùng hai ls
Nguyễn Văn Đài, và ls Đặng Dũng trước một vấn đề luật học đầy nhạy cảm. Đó là
bài viết về
Quyền tự do thành lập đảng tại Việt Nam và
Phản biện bài viết của luật sư Đài, được phổ biến trên đài BBC.
Trước hết người viết bày tỏ ḷng ngưỡng mộ dũng khí của hai ls Nguyễn Văn Đài và
ls Đặng Dũng trong việc làm sáng tỏ một vấn đề về luật học bất chấp bạo lực và
cường quyền cho dù các bạn tranh luận ở vai tṛ biện giải hay phản biện và có
được sự đồng thuận hay không, các bạn vẫn có quyền bảo lưu ư kiến của ḿnh. Đây
chỉ là sự giải thích và làm sáng tỏ luật pháp, một công việc b́nh thường của một
luật sư trong phạm vi nghề nghiệp ở một xă hội văn minh, trọng pháp.
Sự giải thích luật pháp tự thân không phải là một hành vi chính trị hay
hoạt động chính trị dù rằng nội dung của nó liên quan đến chính trị.
Tương tự như vậy, các luật sư nhận bào chữa cho các vụ án chính trị đối lập với
nhà nước Cộng Sản, th́ chính các luật sư đă thực hiện chức năng thuộc phạm vi
nghề nghiệp chứ không phải là người hoạt động chính trị. Việc phổ biến rộng răi
một vấn đề luật học không thể bị qui kết là một sự vi phạm pháp luật.
Mọi sự trấn áp, đe dọa,bắt bớ tù đày v́ một hành vi giải thích luật pháp trong
phạm vi nghề nghiệp, đều trái pháp luật và hiến pháp.
Các luật sư giải tŕnh luật pháp trên Internet có phải là một hành vi chính trị
hay không? Theo tôi đó không phải là một hành vi chính trị để biểu lộ sự đồng
t́nh hay phản đối chế độ hiện hữu mà đó là một công việc phổ biến luật pháp là
một trong những chức năng cần có của người trợ tá pháp luật. Nhà nước Việt Nam
(VN) cần phải đặt lại vấn đề tại sao không cho giới luật sư có một tờ nội san,
một trang web riêng biệt để thảo luận những vấn đề luật pháp trao đổi chuyên môn
nhằm giúp đỡ cho giới luật sư, thẩm phán có được sự đồng thuận trong việc bảo vệ
hiến pháp. Tờ báo Pháp Luật hiện nay là một tờ báo nặng về chính trị và thực thi
pháp luật, phổ biến rộng răi trong quần chúng không thích hợp để dung chứa những
nội dung luật pháp cần tranh luận.
Trong thực tế, dưới chế độ XHCN tất cả mọi lănh vực từ luật pháp, giáo dục, học
đường.... thậm chí cả tôn giáo đều bị chính trị hoá. V́ thế khi ls. Đài
mới phân tích một phần nhỏ trong luật học đă sớm trở thành một đề tài chính trị
nhạy cảm làm rung chuyển cả một chế độ, th́ đó là một điều đáng suy gẫm từ phía
nhà nước VN và đảng Cộng Sản chứ không phải từ giới học thuật chuyên môn.
Trở lại những năm cuối thập niên 80 nhà nước Việt Nam phục hồi lại sinh hoạt của
giới luật sư, tất nhiên đă công nhận luật sư có quyền ăn nói. Quyền giải thích
luật pháp là một trong những chức năng chính của người luật sư. Vấn đề c̣n lại
là nội dung luật học đă làm sáng tỏ đó có được đồng thuận hay không là do tranh
căi trên căn bản Luật và Lệ chứ không do sự áp đặt chân lư bởi
quyền lực chính trị.
Và kết luận chung cuộc của tranh luận là thuộc về Ṭa án tối cao hay Toà án Bảo
Hiến (nếu có) sau này. Việc giải thích luật pháp này không thuộc thẩm quyền của
nhà nước, đảng Cộng Sản ĐCS), Mặt Trận Tổ Quốc, kể cả quốc hội, cho dù quốc hội
có quyền soạn thảo và ban hành hiến pháp và luật lệ.
Đă đến lúc giới luật sư Việt Nam nên hành sử đúng quyền lực và chức năng của
ḿnh để giải thích tường tận, công khai mọi vấn đề luật pháp cho người dân hiểu
biết quyền lợi của ḿnh, để sống và làm việc theo hiến pháp như:
Điều 50: "Ở nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt nam, các quyền con
người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xă hội được tôn trọng”...
Điều 69: "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền
được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu t́nh theo qui định của luật
pháp”.
Cảm nhận đầu tiên khi đi vào nội dung thảo luận cùng hai luật sư là sự giới hạn
của bài viết chưa giải tŕnh hết mọi khía cạnh luật pháp của đề tài. Người viết
cảm thông sâu xa điều đó v́ hai luật sư chưa hoàn toàn được độc lập trong vai
tṛ người trợ tá pháp luật dưới chế độ XHCN, c̣n bị ảnh hưởng nặng nề bởi quyền
lực chính trị, v́ vậy người viết xin được chấp bút làm tiếp công việc này.
Tôi đồng ư với ls. Đài khi trích nguyên văn điều 68 Hiến pháp 1992: “Công dân
có quyền tự do đi lại và cư trú, ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước
ngoài về theo qui định của pháp luật”, không có minh thị qui định quyền tự
do thành lập đảng. Thế nhưng tôi lại đồng ư với luận điểm của ls. Đài tại Việt
Nam có quyền tự do lập đảng trên nguyên tắc “Luật pháp phải được giải thích
chặt chẽ” chứ không phải dựa vào trích dẫn thiếu chính xác của ls. Đài.
Theo điều 50 Hiến pháp: “Ở nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, các quyền
con người về chính trị… , xă hội được công nhận”. Và hiện này chưa có văn
bản luật pháp giải thích nội dung quyền con người về chính trị như thế nào cả.
Chúng ta có quyền giải thích đó là quyền tự do thành lập đảng phái, tự do sinh
hoạt chính trị v́ ư nghĩa này cũng không nằm ngoài nội dung quyền con người về
chính trị, xă hội, không trái với tinh thần hiến pháp.
Quốc hội có trách nhiệm phải điều chỉnh, bổ sung hiến pháp bằng những tu chính
án. Ví dụ như tu chính án chấp nhận hay bác bỏ quyền tự do thành lập đảng tại
Việt Nam. Thế nhưng theo nguyên tắc “Bất hồi tố của các đạo luật h́nh”, các đảng
phái đă thành lập trước đó không thể bị truy tố h́nh sự bởi các đạo luật mới ban
hành.
Không một ai có thể bị truy tố về tội danh thành lập đảng phái trái phép. Nhà
nước Việt Nam đă lợi dụng những tội danh khác để triệt tiêu các đảng phái th́ đó
là một vấn đề pháp luật khác đi ngoài nội dung của bài viết.
Từ năm 1945, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa đă có một chính phủ đa đảng như đảng
Cộng Sản, Quốc Dân Đảng (QDĐ), Đại Việt, ... Tại thời điểm này bản tuyên ngôn
độc lập của Hồ Chí Minh làm căn bản luật pháp Việt Nam không có lời nào nói về
tự do thành lập đảng, và hiến pháp 1946 sau đó cũng không quy định sự tự do
thành lập đảng th́ chúng ta có thể nào kết luận các đảng khác ngoài đảng CSVN là
vi phạm hiến pháp hay trái luật pháp chăng?
Sự việc ông Hồ Chí Minh nhân danh đảng Cộng Sản mời các đảng phái khác tham gia
nội các là một minh chứng rơ ràng nguyên tắc đa nguyên, đa đảng đă được
thừa nhận một cách công khai và mặc nhiên. Sau đó v́ nhu cầu chính trị, nguyên
tắc đa đảng này chưa được áp dụng đầy đủ theo từng giai đoạn lịch sử. Chứ không
thể nói là Việt Nam không thừa nhận nguyên tắc đa nguyên, đa đảng.
Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và hiến pháp bổ sung 1960
cũng không có điều nào qui định về quyền tự do thành lập đảng, thế mà trên thực
tế đă có ba đảng tự do hoạt động đó là đảng Lao Động (tiền thân của đảng Cộng
Sản hiện nay), đảng Dân Chủ và đảng Xă Hội. Sự kiện này lại minh chứng thêm một
lần nữa là Việt Nam có quyền tự do thành lập đảng cho dù không có qui định trong
hiến pháp. Như vậy, quyền tự do thành lập đảng tại Việt Nam đă là một tiền lệ
bất thành văn trong hệ thống pháp luật XHCN kể từ 1945.
Ngoài ra quyền tự do thành lập đảng đă có truyền thống lịch sử bắt nguồn từ thời
kỳ chống Pháp. Những đảng Việt Nam QDĐ, Đại Việt, và cả Đảng Cộng Sản đều bí mật
thành lập đâu cần ai cấp phép, bất chấp áp bức và bạo quyền đô hộ. Và Chưa bao
giờ các đảng phái này bị yêu cầu xuất tŕnh giấy phép thành lập cả. Thế th́ tại
sao các đảng phái sau này không phát huy truyền thống lịch sử oai hùng này?
Do vậy những ai bào chữa cho nguyên tắc độc đảng và cấm quyền tự do thành lập
đảng là sai về mặt pháp lư và trái với truyền thống lịch sử Việt Nam.
Từ trước đến nay, tất cả các đảng phái Việt Nam, kể cả đảng Cộng Sản đều chưa
hoàn thành thủ tục hành chính về cách thức thành lập đảng đối với sự quản
lư của Nhà Nước, bởi lư do Việt Nam chưa có luật định. Như vậy chúng ta có thể
nào nói Đảng Cộng Sản Việt Nam vi phạm pháp luật chăng? (cho dù Đảng Cộng Sản
được định danh minh thị trong hiến pháp Việt Nam). Việc đăng kư thành lập đảng
phái chỉ là những thủ tục hành chánh (theo luật định nếu có?). Sự kiện chưa hoàn
thành thủ tục hành chánh này bởi lư do khách quan của lịch sử, không có nghĩa là
các đảng phái không được quyền hoạt động. Các đảng phái Việt Nam là những thực
thể từng hiện diện trong sinh hoạt chính trị Việt Nam rất đa dạng dưới nhiều
h́nh thức khác nhau, ở trong nước hay ở hải ngoại. Đó là một thực tế khách quan
không thể phủ nhận.
Hiện nay không thể nói là có ổn định chính trị bền vững, một khi các đảng phái
đă gia tăng hoạt động bí mật hay công khai làm ảnh hưởng đến tất cả các tầng lớp
xă hội ở một mức độ nhất định trong chiều hướng đi lên. Ổn định chính trị
không có nghĩa là đàn 1p hay tiêu diệt đảng phái, mà phải đặt tất cả các đảng
phái trong một sân chơi chính trị b́nh đẳng chung dưới bóng luật pháp. V́
càng đàn áp, nhân tâm càng ly tán, càng nổi lên đấu tranh. “Có áp bức là có đấu
tranh”. Đó là qui luật.
Có thể sử dụng giải tŕnh này, để xét lại hành vi trước đây của Nguyễn Vũ B́nh
làm đơn xin thành lập đảng Tự Do – Dân Chủ, trên ư nghĩa đấu tranh trực
diện với Cộng Sản là một hành vi dũng cảm. Thế nhưng về phương diện hành chánh
đây là một việc làm không cần thiết, nhà nước Việt Nam cho dù có đồng ư cũng
không thể giải quyết đơn xin, v́ không có cơ sở pháp lư.
Về phương diện chính trị, hành vi này lại là một điều tối kỵ. Tại sao xây dựng
một đảng phái chính trị để đấu tranh nghị trường, b́nh đẳng với các đảng
phái khác mà lại làm đơn xin phép đảng Cộng Sản cho thành lập? Hành vi này là
một tiền đề của sự lệ thuộc chứ không phải là một lộ tŕnh độc lập trong đấu
tranh dân chủ.
Trong thực tế từ 1945 cho đến nay đảng Cộng Sản Việt Nam đă ra sức tiêu diệt các
đảng phái và các nhà đấu tranh dân chủ bằng bạo lực mà vẫn không thành công.
Ngoại trừ đảng Dân Chủ và Xă Hội củ tại miền Bắc tự tuyên bố giải tán, c̣n lại
tất cả các đảng phái khác chưa hề tuyên bố giải tán, lại c̣n phát sinh nhiều
đảng phái mới, vẫn hoạt động bền bỉ, và hiện diện trong từng nhịp đập của đất
nước. Chưa có văn bản pháp luật Việt Nam nào minh thị đặt đích danh một đảng
phái nào ngoài ṿng pháp luật cả.
Đảng CS đă dựa trên nguyên tắc đấu tranh chuyên chính vô sản để không
chấp nhận nguyên tắc đồng sinh tồn chính trị trên lănh thổ Việt Nam. Giờ
đây sự nghiệp cách mạng vô sản đă bị phá sản. Một khi tuyên bố chấp thuận cho
đảng viên làm kinh tế, th́ bản chất đảng Cộng Sản đă hoàn toàn thay đổi, tuy
rằng chưa có sự công nhận chính thức.
Như vậy vào thời điểm này, trên cơ bản mục đích đấu tranh cho dân giàu nước
mạnh, dân chủ, tự do cho Việt Nam của tất cả đảng phái kể cả đảng Cọng Sản tuy
có khác biệt về đường lối thực hiện nhưng không phải quá đối nghịch nhau về mục
đích đấu tranh đến mức phải tiêu diệt lẫn nhau (trên thực tế muốn tiêu diệt cũng
không thực hiện được), phải chăng đă đến lúc các đảng phái có thể (?) ngồi lại
với nhau trong đấu tranh nghị trường. T́nh trạng đa nguyên đa đảng đă là một
hiện thực không cần phải bàn căi nữa.
Đảng Cộng Sản phải “vượt qua cái bóng của ḿnh” để thừa nhận sự thật này như đă
từng thừa nhận Việt kiều hải ngoại (Cho dù họ đối nghịch hay đồng thuận với đảng
Cộng Sản) là vốn quư, là khúc ruột ngàn dậm mà một thời đảng đánh giá họ là bọn
phản động, ma cô, đĩ điếm theo gót ngoại bang vậy, phản bội tổ quốc. (Tham khảo
thêm vấn đề này ở bài “Góp ư Đại Hội 10, bài 3/3 “ Tại sao không dựa trên
quyền lợi Tổ quốc và dân tộc để đánh giá hoạt động của ĐCSVN” -
www.ptdcvn.org, www.doithoai.com, www.phusa.net) .
Đảng Cộng Sản lănh đạo đất nước Việt nam trên căn bản Hiến pháp 1992 ở điều
4: Có nội dung nguyên văn như sau:
“Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại
biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lănh
đạo Nhà nước và xă hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật”.
Hiến Pháp Việt Nam không có quy định nào cho đảng Cộng Sản là đảng duy nhât
và lănh đạo toàn diện. Hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào minh thị
qui định quyền lănh đạo này có ư nghĩa toàn diện. Cũng như không có văn bản pháp
luật nào quy định đảng Cộng Sản là đảng duy nhất được quyền hoạt động tại Việt
Nam cả. Như vậy bao nhiêu năm qua đảng Cộng Sản đă vi phạm Hiến pháp một
khi c̣n duy tŕ t́nh trạng độc đảng và lănh đạo toàn diện.
Một điều cần bàn căi ở đây là Hiến pháp Việt nam c̣n bỏ ngỏ là không minh thị
cấm các công dân Việt Nam và đảng phái khác tham gia chính quyền trong vai tṛ
đồng lănh đạo hay chia xẻ quyền lănh đạo đất nước. (Điều 53 hiến pháp ghi rỏ:
“Công dân có quyền tham gia quản lư Nhà nước và xă hội”. Có giải thích chặt
chẽ hiến pháp như vậy th́ chúng ta mới không ngạc nhiên khi có một ông bộ trưởng
ngoài đảng xuất hiện trên chính trường Việt Nam).
Điểm cuối cùng thảo luận trong đề tài này là người viết không đồng ư với ư kiến
của ls. Đài về phương thức thành lập đảng. Bởi lư do là ư kiến của ls. Đài không
có tính khả thi trong một t́nh thế chính trị mà đảng Cộng Sản chưa chính
thức tuyên bố từ bỏ chuyên chính vô sản hay từ bỏ bạo lực cách mạng (?)
th́ không thể công khai lập ủy ban vận động, làm tổ chức chính thức hoạt động
được.
Nếu ai đó công khai lập ủy ban vận động, chắc chắn sẽ bị tiêu diệt ngay trong
trứng nước. Các đảng phái chỉ có thể bí mật thành lập và hoạt động tranh thủ
quần chúng theo khả năng và vị thế xă hội của ḿnh không cần theo một qui củ nào
cả, cho đến khi có luật pháp chính thức hay cho đến khi có được đảm bảo trong
một phạm vi quyền lực chính trị nào đó mới có thể chính thức hoạt động công khai
được.
Điều chú ư ở đây các đảng phái hoạt động không cần phải tranh thủ sự đồng
t́nh công nhận của đảng CSVN (cho dù đảng CS đang lănh đạo các cơ quan quyền
lực). V́ trên nguyên tắc đảng CS cũng sẽ là một tập thể chính trị giống như các
tập thể chính trị khác cùng hoạt động trong khuôn khổ luật pháp (Nếu có sau
này?).
Tóm lại, trên lư thuyết tại Việt Nam có quyền tự do thành lập đảng, và không vi
phạm hiến pháp và luật pháp. Những người đấu tranh cho dân chủ có phát huy được
quyền tự do này hay không trong thực tế lại là một vấn đề thuộc về phạm vi đấu
tranh chính trị, không nằm trong nội dung của đề tài.
09/05/2006