Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, 
chiến tranh đă chấm dứt chưa?

(https://w8.batterygames.org/dmirror/http/www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=721)

T. Vấn

"...nếu thực sự chiến tranh đă chấm dứt rồi, th́ cái ngày 30 tháng 4 hàng năm đă chẳng cứ ám ảnh chúng ta măi như thế!..."

Bây giờ là tháng Tư. Nơi xứ người th́ đất trời đang vào Xuân. C̣n ở quê nhà mùa khô đă bắt đầu từ lâu, kèm theo với cái nóng bốc lửa. Mùa khô. Mùa mưa. Những âm vang của một thời chiến tranh. Hẳn những người chiến binh năm xưa nay vẫn c̣n nhớ.

Vậy chiến tranh đă chấm dứt hẳn chưa?

1.

Đối với người Mỹ, cuộc chiến tranh ở Việt Nam khiến hơn 58 ngàn con em của họ phải trở về trên những chiếc ḥm kẽm có phủ quốc kỳ 3 màu xanh đỏ trắng đă chính thức chấm dứt ngày 23 tháng 4 năm 1975 khi Tổng Thống Gerald Ford dơng dạc tuyên bố trước hàng ngàn sinh viên (với sự tham dự của đông đủ phóng viên truyền thanh truyền h́nh quốc tế) của trường Đại học Tulane ở thành phố New Orleans thuộc Tiểu bang Louisiana: "Đối với Hoa Kỳ, chiến tranh Việt Nam đă kết thúc…"

Đối với hai bên tham chiến Việt Nam, chỉ một tuần sau lời tuyên bố nói trên của vị Tổng thống Mỹ, chiến tranh cũng đă được coi như là chấm dứt (ít nhất là trên ư nghĩa không c̣n tiếng súng nổ) vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi lá cờ vàng ba sọc đỏ bị kéo xuống khỏi nóc phủ Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà cùng với lời đầu hàng tuyên đọc bởi vị tổng thống cuối cùng của nền cộng hoà.

Từ Luân Đôn, phóng viên của đài phát thanh lừng danh (thời bấy giờ) BBC phát đi một bản tin với câu kết thúc thật nhẹ nhơm rằng thế là đă xong một cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam.

Với người lính miền Bắc, nỗi ám ảnh đi B (tức bị thuyên chuyển vào trong Nam để chiến đấu) cũng đă chấm dứt từ ngày ấy.

Với người lính miền Nam, tuy vẫn c̣n bao ẩn ức, nhưng cũng tự an ủi ḿnh rằng hoà b́nh rồi, bỏ súng, cởi áo trận về làm người dân dă, xây dựng lại cuộc đời.

Nhưng có thật là chiến tranh đă chấm dứt từ những ngày ấy?

2.

Bao nhiêu bút mực đă đổ ra cho 30 năm cuộc chiến tranh tương tàn, th́ cũng bấy nhiêu bút mực (thậm chí c̣n hơn nữa) hiện đang đổ ra cho hơn 30 năm sau cuộc chiến. Ai cũng ảo tưởng rằng từ nay (sau ngày hết chiến tranh) đất nước đă quy về một mối, đă "sạch bóng ngoại bang", chỉ c̣n những người Việt với nhau như những anh em ruột thịt trong gia đ́nh có chung một người mẹ Việt Nam. Nhưng chẳng may, trên thực tế, trong ḷng người (Việt Nam) một ḍng sông chia cắt thành h́nh, giống hệt như ḍng Bến Hải ngăn rẽ hai miền Nam Bắc những ngày chiến tranh.

Chúng ta đă qua một thời binh lửa. Nhưng hơn 30 năm sau vẫn c̣n những điều phải nói về những ngày binh lửa ấy. Vết thương cũ vừa kéo da non, chưa kịp lành miệng hẳn th́ lại bị cào rách. Cứ thế kéo dài từ năm này qua năm nọ. Cứ thế mà truyền từ thế hệ này cho đến thế hệ nối tiếp. V́ năm nào mà chẳng có tháng 4, và tháng 4 nào mà không có ngày 30, theo ư nghĩa ngày đó không phải là ngày chấm dứt một cuộc chiến tranh, mà là ngày mở đầu, ngày đánh dấu một giai đoạn "cả nước quy về một mối, một mối hận thù một mối đau thương" (thơ Nguyễn Chí Thiện).

Nhưng ai là người phải chịu trách nhiệm về thảm kịch 31 năm sau chiến tranh, và có thể sẽ là 35 năm, 40 năm, 60 năm sau chiến tranh?

Những ngón tay từ bên ngoài (nước) chỉ về bên trong, và - không có ǵ ngạc nhiên - những ngón tay từ bên trong (nước) chỉ lại ra bên ngoài. Đơn giản là v́ đất nước bây giờ đă "sạch bóng ngoại bang" nên không c̣n Tây hay Mỹ để đổ tội lên đầu đế quốc.

Tôi có cảm tưởng như sẽ không bao giờ có một lối thoát cho những bế tắc hiện nay. Bởi v́, ở trong nước, ngay cả những người có tư tưởng dân chủ, không bằng ḷng sự ngự trị độc tôn của Đảng Cộng sản, vẫn cho rằng sự đối đầu với chế độ cộng sản ở trong nước của cộng đồng người Việt hải ngoại - cầm đầu bởi những viên chức "thua trận" của VNCH - là một sự đối đầu nhằm "phục hồi danh nghĩa cho cái thực thể chính trị (Việt Nam Cộng Hoà – T. Vấn nhấn mạnh) ấy, qua đó lôi kéo những thành phần khác vào quỹ đạo của ḿnh, xây dựng lực lượng, hy vọng có được cơ hội trở về tái tạo cơ đồ." [1] Nói ǵ đến những người đă từng một thời cầm súng ở một bên chiến tuyến. Nói ǵ đến những người cầm quyền ở trong nước, đang bám vào bất cứ cái phao tuyên truyền nào có thể bám được.

Bởi v́, ở ngoài nước, vẫn c̣n những người chỉ sống bằng quá khứ, thứ quá khứ vang bóng một thời (và không có ǵ khó hiểu khi phần lớn những người này chưa hề một lần nếm mùi cải tạo, chưa hề biết đến bao hiểm nguy nhọc nhằn của vượt biên, chưa hề đau nỗi đau mất vợ, mất con trên biển cả), không ngớt đao to búa lớn, đ̣i mắt trả mắt, răng đền răng.

3.

Tôi đă nhiều lần nh́n những h́nh ảnh các cựu chiến binh từ cuộc chiến Việt Nam ôm nhau xoá bỏ mọi hận thù. Nhưng, thật mỉa mai, những cựu binh ấy chỉ là những cựu binh trong quân đội Mỹ và quân đội miền Bắc. H́nh ảnh "hoà giải” giữa hai kẻ thù cũ được đưa lên trang nhất những tờ báo quốc doanh ở trong nước (Việt Nam), và trên những tờ báo lớn và cũng nặng về quảng cáo thương trường của nước Mỹ, như một dấu hiệu thật đẹp đẽ cho một thời kỳ mới, thời kỳ sống chung hoà b́nh và cùng nhau phát triển. Chẳng bao lâu sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, thế giới (chứ không phải Việt Nam) mau chóng nhận ra rằng, tuy người Mỹ thua cuộc chiến tranh (Việt Nam), nhưng chủ nghĩa tư bản đă thắng (ở Việt Nam). Trên cơ sở những thị trường mới cần khai thác cho những công ty kinh doanh của Mỹ và nguồn thuế lợi tức tuy chưa phải là béo bở nhưng đầy hứa hẹn, người Mỹ đă bắt tay lại với kẻ cựu thù.

Phía Việt Nam, trước nguy cơ bị mất quyền lănh đạo v́ đất nước ngày một lún sâu vào nghèo đói, lạc hậu, mảnh đất màu mỡ ươm mầm cho những cuộc nổi dậy của nhân dân, giới chức lănh đạo đă không c̣n lựa chọn nào khác ngoài đổi mới cấu trúc kinh tế chỉ huy, một sự đổi mới nhằm cứu văn vai tṛ chính trị độc đảng, chứ không phải nhằm cứu văn cuộc sống khốn khổ của người dân như lâu nay đảng vẫn thường rêu rao (đất nước ngày nay có thay da đổi thịt cũng chỉ là một sự ăn theo, kẻ có cơm/giới cầm quyền, người có cháo/quần chúng nhân dân). Và, cũng như người Mỹ, người cộng sản choàng vai qua ôm kẻ cựu thù cũng chỉ nhằm hưởng chút "văn minh" của chủ nghĩa tư bản.

Cho nên, không lạ ǵ khi tôi vẫn chưa nh́n thấy hai kẻ cựu thù có liên hệ máu mủ (v́ cùng một bọc trứng của Mẹ Âu Cơ đẻ ra) ôm nhau giải hoà sau hơn 30 năm cuộc chiến chấm dứt.

Tôi cũng không hy vọng ǵ nh́n thấy h́nh ảnh ấy xảy ra trong một tương lai gần.

4.

Cũng thời điểm này năm ngoái, việc trở về Việt Nam sinh sống của một nhạc sĩ tiếng tăm ra đi từ tháng 4 năm 1975 đă gây khá nhiều những tranh căi, nhất là với cộng đồng người Việt hải ngoại.

Đối với người nhạc sĩ nói trên, ông tin rằng sự trở về của ḿnh là một hành động khép lại quá khứ, nh́n về tương lai. Trong một cuộc phỏng vấn, ông nói rằng nhà nước Việt Nam đă ch́a tay ra rồi (ám chỉ nghị quyết 36), nên bây giờ là lúc phải chọn con đường về với quê hương.

Ở một nghĩa nào đó, việc ông trở về và được nhà nước Việt Nam hoan nghênh, dành cho mọi sự dễ dăi (tuy vẫn giới hạn) là một biểu tượng của sự hoà giải giữa hai cựu thù. Một bên, là người nhạc sĩ đă từng đi theo kháng chiến (dưới sự lănh đạo của Đảng Cộng sản), rồi bỏ kháng chiến về thành, viết những bài hát "phản động", rồi một lần nữa, chạy trốn ra khỏi nước, tiếp tục viết những bài ca kết án người anh em bên kia. Và một bên, đă từng lên án người nhạc sĩ bằng những lời lẽ nặng nề nhất dành cho kẻ thù (không ai biết số phận của ông ra sao nếu ông không nhanh chân chạy ra khỏi nước những ngày cuối tháng 4 năm 1975).

Thế hệ bơ vơ!

Nhưng, ai cũng nh́n thấy cái dụng ư của nhà nước Việt Nam trong trường hợp người nhạc sĩ tiếng tăm này. Qua ông, giới cầm quyền trong nước nh́n về cái túi tiền và tiềm năng của cộng đồng người Việt hải ngoại. Về phía người nhạc sĩ, ông hiểu rằng 80 triệu người dân trong nước vẫn là khối thưởng ngoạn âm nhạc to lớn hơn nhiều khi so sánh với 3 triệu người Việt hải ngoại sống rải rác khắp nơi trên thế giới.

Cũng như hai cựu thù Mỹ-Việt, cuộc hoà giải giữa người nhạc sĩ và chính quyền cộng sản cũng chỉ đặt trên cơ sở trục lợi (lẫn nhau)?

5.

Mới đây nhất, có một sự kiện rất đáng chú ư ở trong nước, nhưng nhà cầm quyền đă vội cho ch́m xuồng.

Người nhạc sĩ nhắc đến ở trên, trước khi chính thức ổn định cuộc sống tại quê nhà, đă có những hợp đồng phổ biến và tŕnh diễn kho tàng sáng tác âm nhạc đồ sộ của ḿnh với một công ty kinh doanh văn hoá phẩm trong nước. Và ngay sau khi được sự cho phép của nhà nước, công ty này đă liên tục tổ chức nhiều đêm đại nhạc hội dành cho riêng ông ở nhiều thành phố lớn trong nước (phía Nam), giá vé tham dự đạt tới mức cao kỷ lục (5 trăm ngàn đồng (VN)/1 vé). Tất cả đều đạt được sự thành công vang dội, cả về mặt tài chính lẫn nghệ thuật. Ngoài ra, một công ty khác cũng đă mua 10 nốt nhạc đầu trong một bài hát nổi tiếng của người nhạc sĩ với giá 100 triệu đồng (Việt Nam). Những sự kiện vừa nêu, chưa từng xảy ra trong mọi hoạt động văn hoá văn nghệ ở Việt Nam. V́ thế, chúng gây một phản ứng ngược nơi những người hoạt động âm nhạc trong nước, thu gọn lại là những người đă từng một thời ở về phe đối nghịch với người nhạc sĩ. Họ cảm thấy ḿnh bị bỏ rơi, bị quên lăng, trước sự ưu ái của quần chúng trong nước dành cho người nhạc sĩ này. Từ mặc cảm bị bỏ rơi (bởi quần chúng), họ đă công khai bày tỏ sự ấm ức, bất măn trước những ǵ người nhạc sĩ "phản động", nay trở về được hưởng. Đúng hơn, đó là tâm trạng ganh tị, hờn dỗi, rồi tin rằng bao năm hy sinh gian khổ cho cách mạng để đến bây giờ họ bị đối xử không bằng "một người từng bỏ kháng chiến theo thực dân Pháp, khi Pháp rút lại theo Ngô Đ́nh Diệm và khi ngụy quyền sụp đổ lại chạy qua Mỹ. Và tại đó, đă viết hàng loạt bài kêu gọi chống cộng, với giọng điệu sặc mùi hiếu chiến. Nay, thấy Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, lại xin trở về! Hà cớ ǵ phải tung hô, xưng tụng đến thế!" (Nguyễn Lưu, báo Đầu Tư, 13-03-2006). Người công khai nêu lên luận điểm "phản tuyên truyền" trên là một hội viên hội nhạc sĩ Việt Nam, ngành lư luận, đă từng đoạt giải thưởng về sáng tác (âm nhạc), về lư luận, về phê b́nh. Bài viết có nhiều dẫn chứng sai lầm rất ấu trĩ, khó có thể tin được tác giả của nó đă từng đoạt nhiều giải thưởng lư luận, phê b́nh, nhưng có những đoạn văn khiến tôi phải suy nghĩ khi liên tưởng đến việc những cựu thù (Nam, Bắc Việt Nam) đến nay vẫn chưa bắt tay nhau giải hoà:

"… Đất nước đang đổi mới, chúng ta chấp nhận việc khép lại quá khứ để xây dựng tương lai, nhưng việc ấy không đồng nghĩa với việc bỏ quên tất cả, từ những hy sinh gian khổ đến những bài học máu xương…

… Tôi đọc Nam Cao và tâm đắc với nhận xét: Những thằng chuyên ác chỉ có thể hết làm việc ác nếu chúng không c̣n đủ sức để làm ác. Bây giờ, P.D. cũng là như vậy. Một Việt Nam đang vươn lên, môi trường này đang sống động và có vị thế mới đă có thể làm mềm ḷng mọi kẻ vốn kỳ thị với dân tộc này, tất nhiên đủ sức làm "kẻ chạy đi" mong được trở về…" (Nguyễn Lưu, báo Đầu Tư, 13-03-2006).

Tôi tin rằng tác giả bài báo nói trên đủ hiểu biết để nhận định được rằng, sự thành công của người nhạc sĩ từ hải ngoại trở về là do chính tài năng của ông, rằng, trong sáng tác và thưởng ngoạn văn hoá nghệ thuật không thể đem công trạng (cho đất nước) hay chính kiến để thay thế cho tài năng và xúc cảm. Chẳng qua cũng chỉ là v́ cái hàng rào ngăn cách ở trong ḷng người, hệ quả của bao nhiêu năm chiến tranh phe quốc phe cộng, rồi trong nước ngoài nước, cái hàng rào ấy đă làm cho con người ta mụ đi v́ hận thù.

Phượng hề! Phượng hề! 
Quy cố hương?

Đó mới chỉ là có vài người lên tiếng, c̣n bao nhiêu người nữa đứng trong bóng tối gật gù, ngầm tán thưởng, sợ công khai nói ra th́ lại mang tiếng là ganh tị, hẹp ḥi.

Phía chính quyền cố t́nh cho ch́m xuồng vụ việc, là v́ sợ cái bẫy "khúc ruột ngàn dặm" không c̣n hiệu nghiệm (?)!

Đau xót thật, v́, dẫu cho có là cường điệu, chắc cũng không xa sự thật bao nhiêu.

6.

Trở lại câu hỏi: Chiến tranh Việt Nam (đối với người Việt Nam) đă thực sự chấm dứt chưa, nếu trả lời: Rồi, th́ hẳn nhiên không ai có thể chối căi được. Nhưng nếu câu trả lời là: Chưa, cũng không hẳn đă sai.

V́ nếu thực sự chiến tranh đă chấm dứt rồi, th́ cái ngày 30 tháng 4 hàng năm đă chẳng cứ ám ảnh chúng ta măi như thế!

Tháng 4-2006

T. Vấn

[1] Lữ Phương, “Chiến tranh Việt Nam: chủ quyền quốc gia, xung đột ư thức hệ và hoà giải dân tộc”, talawas.