Chuyện về người tù Trương Văn Sương
Nguyễn Khắc Toàn
“ở nước CHXHCNVN không
có tù nhân chính trị, tù nhân bất đồng chính kiến, tù nhân v́ lư do bị đàn
áp tôn giáo !!!???” Thế là sao ?
Tôi đă có ư định viết bài này ngay từ khi c̣n bị tù ở trong trại giam Nam Hà
từ những năm 2003-2005. Ư nghĩ đó nung nấu trong tôi suốt mấy năm trời, v́
lương tri mách bảo, thúc giục tôi phải lên tiếng về một trường hợp đặc biệt
đó là t́nh cảnh của anh Trương Văn
Sương-một người tù chính trị rất kiên
cường mà ai đă từng thụ án ở đây dù là tù h́nh sự hay tù “an ninh chính trị”
đều không thể không biết tiếng anh.
Sáng ngày 25-4-2003, tôi bị chuyển từ trại giam B14 Thịnh Liệt, ngoại thành
Hà Nội đến trại giam Nam Hà để thi hành bản án 12 năm tù phi pháp và bất
công. Trong hơn 1 giờ, chiếc xe hơi Toyota của trại giam B14 chở tôi lao
nhanh ra hướng cầu vượt Ngă Tư Vọng rồi xuôi theo đường số 1 đi về phía nam.
Đường quốc lộ số 1 này là hành tŕnh mà hơn 30 năm về trước, lớp thanh niên
chúng tôi tuổi mười tám đôi mươi c̣n rất trẻ vừa rời ghế nhà trường để vượt
qua các tỉnh khu 4 cũ ở miền Trung, rồi vượt Vĩ tuyến 17 trên sông Bến Hải.
Ḍng sông này đă trở thành lằn ranh ngăn cách hai miền Bắc-Nam thành hai
quốc gia, hai chế độ hoàn toàn đối lập nhau sau hiệp định Giơ-ne-vơ 1954,
rồi sau đó theo dọc dăy Trường Sơn trùng điệp, xuyên qua các cánh rừng ở đại
ngàn Tây nguyên và hạ Lào, qua mấy tỉnh phía đông nam Campuchia giáp biên
giới Việt nam, cuối cùng xâm nhập sâu vào các tỉnh miền Đông và Tây Nam Bộ,
thuộc đồng bằng sông Cửu long. Nhưng hôm nay cũng trên con đường này, trên
chiếc xe hơi đời mới có gắn máy lạnh do tư bản Nhật chế tạo của trại giam
B14, lại đưa tôi đến một nhà tù nào đó ở các tỉnh phương Nam để lưu đày v́
tôi đă chấp nhận dấn thân vào một cuộc tranh đấu mới.. Đó là một cuộc kháng
chiến mới cùng cả dân tộc đ̣i tự do dân chủ và các quyền con người, để mọi
người dân Việt Nam có thể sống ngẩng cao đầu hơn.
Đi cùng trên xe để áp giải tôi hôm đó là một số cán bộ của trại giam B14,
gồm trung tá Nguyễn Văn Thịnh đội trưởng đội quản giáo sinh năm 1958, một
đại uư lái xe cỡ trung niên ngoài 40 tuổi, một sĩ quan trẻ có trang bị súng
ngắn rulô ổ quay và roi điện, c̣ng số 8 tên là Toàn trên 30 tuổi người béo
mập và lùn chỉ khoảng 1,52m-1,55m áp giải, và một nữ cán bộ khá xinh gái
tuổi ngoài 30 mặc thường phụ trách hồ sơ của trại cùng đi. Tay tôi bị khoá
chặt bởi chiếc c̣ng số 8 mạ kền sáng loáng và ngồi kẹp giữa trung tá Thịnh
cùng viên sỹ quan áp giải. Hàng ghế trước là lái xe và cô nữ sỹ quan công
an. Qua câu chuyện của nhóm cán bộ áp giải tôi trên xe, tôi đă đoán được là
họ sẽ đưa tôi đến trại Ba Sao-Nam Hà . Một trại giam khá nổi tiếng, v́ nơi
đă từng giam các tù chính trị mà thế giới từng biết đến từ hàng chục năm qua
như các ông: GS Hoàng Minh Chính, GS Đoàn Viết Hoạt, cựu phi công Lư Tống,
Trần Mạnh Quỳnh, học giả Nguyễn Kiến Giang, nhà sư Thích Tuệ Sỹ, A Quư… Kể
cả một số tướng lĩnh của chế độ Việt nam cộng hoà cũng đă từng bị giam giữ ở
đây gần 20 năm sau ngày kết thúc cuộc chiến tranh Việt nam 30-4-1975 như
các tướng Lê Minh Đảo, Nguyễn Hữu Có, Trần Văn Giằng… và hàng trăm sỹ quan
khác, cấp từ đại tá trở xuống thuộc quân lực Việt nam Cộng hoà trước đây ở
miền Nam Việt Nam.
Tôi đến trại giam này bị trung tâm trại A đưa vào buồng số 6 phân trại III,
c̣n gọi là phân trại C trại giam Nam Hà. Theo lời các cán bộ kể lại, trại
này trước đây hồi năm 1945-1946 chỉ là đồn điền trồng hồ tiêu và một số cây
ăn quả, cây công nghiệp của một chủ người Pháp. Năm 1954 sau khi miền Bắc
vào tay những người cộng sản kiểm soát th́ họ biến nó trở thành trại giam
vào đầu những năm thập niên 1960. Lúc đầu trại được đặt tên là trại Ba
Sao-tỉnh Hà Nam. Sở dĩ có tên như vậy là v́ trại được đóng trên địa bàn xă
Ba Sao, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Và tỉnh Hà Nam đồng thời cũng là quê
hương của nhà thơ trào phúng nổi tiếng thế kỷ 19-20 Trần Tế Xương, c̣n gọi
Tú Xương. Thời chiến tranh khi không quân Mỹ oanh kích miền Bắc, trại đă
được dời đi sơ tán nhiều nơi và lúc ấy chỉ có duy nhất một phân trại A là
nơi tôi vừa phải chịu án tù giam cùng Linh Mục Nguyễn Văn Lư, nhà báo Nguyễn
Vũ B́nh, bác sỹ Phạm Hồng Sơn... Sau gần 40 năm trại tồn tại và phát triển
đến nay, số tù nhân cả h́nh sự lẫn chính trị đă lên quá đông. Nên Bộ Công
An, Cục quản lư trại giam V26 đă cho xây thêm hai phân trại nữa là phân trại
II và phân trại III (c̣n gọi là phân trại B và C). Phân trại III được xây
dựng năm 2000 trên nền một đầm sen rộng mấy héc ta, được bao bọc quanh là
núi đá vôi có cây cối lúp xúp, xung quanh cách khá xa trại C có một xóm dân
cư nhỏ, thưa thớt.
Tôi vào phân trại C này bị đưa vào buồng giam số 6, lúc đó mới được thành
lập theo chỉ đạo của Tổng cục an ninh-Bộ công an từ Hà Nội chuyên dành để
giam những tù dân tộc người Thượng đă tham gia biểu t́nh, vận động đ̣i thành
lập nhà nước ĐỀ-GA độc lập và những người truyền đạo Tin Lành trên các tỉnh
Tây Nguyên trong các cuộc nổi dậy ngày 3-2-2001 và ngày 10-4-2004. Trước đây
buồng giam số 6 này là dành cho các tù nhân đội làm bếp nấu cơm cho tù cả
trại, đội tù phục vụ “Nhà văn hoá” của trại và các tù tự giác làm lẻ, phục
vụ hầu hạ riêng cho ban giám thị và các cán bộ có quyền thế của phân trại.
Buồng giam số 6 lúc đó chỉ có khoảng 18-20 người tù, trong buồng có 5-6
người Kinh c̣n lại toàn là người dân tộc thiểu số người Thượng. Trong số đó
có mấy người tù án h́nh sự và án “xâm phạm an ninh”vừa được chuyển sang từ
buồng số 6 phân trại I (c̣n gọi là trại A) trại giam Nam Hà, như các anh Ngô
Văn Phung án 18 năm, khoảng 46 tuổi, quê Vĩnh Bảo-Hải Pḥng phạm tội làm
gián điệp cho công an tỉnh Quảng Tây, Vân Nam Trung Quốc; Vũ Văn Khiêm sinh
năm 1968, quê Móng Cái-Quảng Ninh trước là bộ đội, sau đó cùng một người anh
họ lấy “tài liệu quân sự” (theo Khiêm nói th́ chỉ là tài liệu hướng dẫn về
tập đội ngũ quân sự) bán cho Trung Quốc bị án gián điệp 14 năm tù đă ở được
gần 10 năm; Hoàng Đồng dân tộc Tày quê Lạng Sơn làm nghề xe ôm bị án gián
điệp 14 năm do chở mấy người mang tài liệu về kinh tế của Việt nam đi bán
cho công an tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Hai người nữa là Nguyễn Thế Truyền
63 tuổi, kỹ sư đă từng tốt nghiệp ở Liên Xô với 2 bằng đại học, là giám đốc
một công ty của nhà nước, bị xử tội “tham ô do làm trái các quy tắc và chế
độ chính sách của nhà nước”, bị án 20 năm tù, quê Thái Nguyên, và một người
c̣n lại là Trần Hữu Dũng, lái xe tư nhân quê Hồng Bàng-Hải Pḥng, bị án 18
năm tù v́ tội buôn lậu gỗ pơ-mu. Đồng thời anh này cũng là buồng trưởng
buồng số 6 do ban giám thị cử ra để giám sát và báo cáo mọi động tĩnh hàng
ngày của anh em tù trong buồng với ban giám thị . Mấy tù nhân buồng số 6
phân trại I chuyển sang là những người đă cùng ở mấy năm liền với những
người tù chính trị quê gốc phần lớn ở miền Nam mà án tù rất dài, thấp nhất
là 18-20 năm đến chung thân và tử h́nh. Đúng như tên, tuổi các tù nhân mà
ông Phạm Văn Thành, Trần Nam B́nh ở Paris là những cựu tù nhân chính trị đă
viết ngày mồng 3 Tết năm Bính Tuất vừa rồi trong bài báo: “Về một người
tù mang tên Trương Văn Sương” và sau đó được đăng trên trang website
VietLand ngày 26-02-2006. Trong bài báo đó cả hai ông Trần Văn Thành và Trần
Nam B́nh đă nêu một danh sách cụ thể. Tôi xin trích nguyên văn:
“Chân thành tri ân ông Nguyễn Khắc Toàn. Chúng tôi đă chờ sự lên tiếng của các anh chị từ lâu về sự kiện có những tù chính trị miền Nam đang bị giam giữ cùng trại Nam Hà với các anh. Họ đă bị bắt giam từ năm 1982 đến 1985 như:
a - Vũ Đ́nh Thụy, tù cải tạo 1975-1980, tù v́ tội danh “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” năm 1983, án 20 năm; tội danh “làm thơ phản động gởi ra nước ngoài”, năm 1990 án 10 năm, án này là án cộng thêm với bản án 20 năm xét xử năm 1983”. Tên thật của ông là Vơ Lâm Tề, quê Phú Yên, cựu sĩ quan BDD Q VNCH xuất thân Thủ Đức. Ông sinh khoảng năm 1952/1953.
b - Trương Văn Sương, án chung thân, bắt giam năm 1984 cùng với ông Trần Văn Bá về Việt nam từ Pháp (tử h́nh 1/1985 cùng với ông Hồ Thái Bạch (Cửu Long) và Lê Quốc Quân. Ông cũng là người bị bắt tù cải tạo từ 1982. Tuổi ông Sương nay khoảng 65, người quê Cửu Long.
c - Phan Văn Bàn, án chung thân bị bắt giam năm 1985 khi vừa rời trại cải tạo được 1 năm (1975-1984). Tuổi ông Bàn nay trên dưới 70. Ông quê Quảng Ngăi, gia đ́nh hiện ở Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
d - Bùi Thúc Nhu, sinh khoảng 1950, án chung thân bị bắt khoảng năm 1989. Quê Phú Yên, người xuất thân từ Đảng Đại Việt/Phú Yên. [http://www.geocities.com/tuchinhtri]
e - Nguyễn Đ́nh Văn Long, người miền Trung, bị bắt khoảng năm 1985.
f - Trần Tư, về từ Hoa Kỳ, bị bắt 1993, án chung thân.
Đây là một số cụ thể những tù nhân mà chúng tôi biết chắc chắn đang c̣n bị giam giữ tại Trại Nam Hà, nơi ông Nguyễn Văn Lư cùng hầu như tất cả các anh em trong lực lượng dân chủ ngoài Bắc đă hoặc đang sống.
Một lần nữa, chúng tôi xin phép được thay mặt các anh em miền Nam đang c̣n trong ṿng lao lư v́ các tội danh từng được gọi là “tù phản động-phản cách mạng”, tại trại giam Nam Hà, chân thành tri ân sự ngay thẳng và can đảm của ông Nguyễn Khắc Toàn.
Kính báo.
Phạm Văn Thành
Cựu tù chính trị từ 1993-1998/ đă từng ở các trại giam B34, A20, trại Trung Ương 5 Lam Sơn, Đầm Đùn-Thanh Hoá”
Ngoài ra c̣n có một người tù chính
trị nữa tên là Đỗ Hườn nhưng không thấy được nêu trong danh sách trên, mặc
dù anh Đỗ Hườn được chuyển ra từ miền Nam và Thanh Hoá ra buồng số 6 phân
trại I trại Nam Hà và chết ở đây. Riêng trường hợp anh Đỗ Hườn th́ tôi được
nghe kể lại trực tiếp từ các anh Ngô Văn Phung, Vũ Văn Khiêm, Hoàng Đồng…Và
trước khi tôi bị nhà cầm quyền CSVN bỏ tù, tôi đă được biết về trường hợp
ông Đỗ Hườn qua báo chí, tivi của nhà nước, ở ngoài xă hội, lúc đó đưa tin
trên mục “V́ an ninh tổ quốc” của truyền h́nh “công an nhân dân” có chiếu
cảnh ông Đỗ Hườn đi phát chẩn thực phẩm, cứu tế cho các đồng bào nghèo ở các
tỉnh miền Trung, và cảnh sau đó ông ngồi cùng trung tướng Nguyễn Khánh Toàn,
thứ trưởng Bộ công an lúc ông bị bắt do hô hào vận động nhân dân nổi dậy,
xuống đường biểu t́nh chống chế độ CSVN tại Sài g̣n khoảng năm 1993-1994.
Nhưng trong số những người tù chính trị trên, tôi cảm phục và có quí mến
nhất là người tù mang tên Trương Văn Sương quê ở Chùa Dơi tỉnh Sóc Trăng bị
bắt vào khoảng những năm 1977-1978.Tôi đựơc biết, theo một số người tù từng
ở mấy năm liền tại buồng giam số 6 phân trại I như tôi đă nêu ở trên th́ anh
Sương quê ở Chùa Dơi, tỉnh Sóc Trăng chứ không phải là quê Cửu long. Tôi có
ấn tượng mạnh mẽ về trường hợp người tù đó. Theo hai ông Phạm Văn Thành và
Trần Nam B́nh là những cựu tù chính trị từ những năm 1993-1998, đă từng ở
các trại B34, A20, trại 5 trung ương, Lam sơn, Đầm Đùn-Thanh Hoá, th́ trong
bài báo trên cho biết anh Sương bị bắt năm 1984…Nhưng một số tù nhân đă từng
ở trong trại giam Nam Hà 14-15 năm và hiện nay vẫn đang thụ án được ban giám
thị trại phân công sang bộ phận làm việc ở “Nhà văn hoá” của trại giam Nam
Hà, chuyên môn viết hồ sơ, lư lịch trích ngang của tất cả các tù nhân trong
trại gồm hơn 3000 người của cả 3 phân trại, th́ họ khẳng định rằng đích thân
họ biết về ngày, tháng, năm anh Sương bị bắt là vào khoảng những năm
1977-1978! Nếu như vậy th́, có thể anh Trương Văn Sương có lẽ bị tù cải tạo
từ những năm 1977-1978 và đến 1984 th́ anh Sương bị tù lần thứ hai. Và tổng
số thời gian ở tù của anh cũng đă ngót 28 đến 30 năm ṛng ră.
Trước khi tôi được thả khỏi trại giam Nam Hà khoảng hai ngày cụ thể là vào
lúc 9 giờ sáng ngày 22 tháng 1 năm 2006, tôi được trung tá Hoàng Xuân Nam
đưa lên gặp giám thị trưởng trại giam Nam Hà là đại tá Dương Đức Thắng tại
pḥng tiếp khách của ban giám thị bên sườn núi gần phía ngoài cổng trại.
Trong buổi nói chuyện hơn một giờ đồng hồ giữa ông Thắng và tôi xung quanh
chủ đề đa nguyên, đa đảng, dân chủ tự do và sự cầm quyền của Đảng CSVN cũng
như nhiều vấn đề xă hội, chính trị, kinh tế trong nước và trên thế giới…Ngay
sau đó ông Thắng cũng đề cập đến những người tù chính trị miền Nam đă ở gần
30 năm trong buồng giam số 6 và ở buồng 17 khu biệt giam-giam riêng phân
trại I trại giam Nam Hà. Điều đó chứng tỏ có thật những người tù như anh
Sương và những người tù chính trị thuộc Đảng Phục Quốc ở tỉnh Phú Yên và
miền Trung đă ở tù thời gian phải ngót nghét gần 30 năm, chứ không thể nào
là 18-20 năm trở lại.Trong một lần nói chuyện với trung tá Ḥang Xuân Nam,
là sĩ quan phụ trách mấy buồng án chính trị tôi cũng đựơc ông cho biết ít
nhất là anh Sương cũng đă ở tù được 25 năm.
Anh Trương Văn Sương
có vóc dáng người to cao, đầu húi cua sống rất hiền lành, anh em trong buồng
nhiều khi nhờ cọ rửa cho những nồi xoong chậu lâu ngày cáu bẩn anh cũng đều
vui ḷng làm giúp rất tận t́nh. Nhiều lúc anh em tù đùa nhau quá lời đụng
chạm đến tên tuổi anh, anh đều ôn tồn, điềm đạm nói: “Các em, các cháu đừng
nói chọc, nói chơi như vậy ḿnh lớn tuổi rồi người khác họ nghe được họ cười
cho, lần sau thôi nhé”. Anh Sương sống trong buồng giam rất gắn kết, hoà
thuận với anh em, sống rất hiền lành chất phác, đa số các tù nhân chính trị
người miền Nam họ đều biết đùm bọc, thương yêu nhau hết mực, giúp đỡ nhau
rất nhiệt t́nh lúc hoạn nạn khó khăn, để cùng vượt qua nỗi cay đắng nhọc
nhằn trong chốn lao tù.
Tôi c̣n nghe kể anh đă từng là sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng Hoà trước
đây. Nhưng đối với cán bộ quản giáo, công an và ban giám thị trại th́ anh
rất cứng rắn. Anh là một người tù chính trị không thể khuất phục
được, một con người gang thép. Anh luôn dẫn đầu các cuộc đấu tranh đ̣i cải
thiện chế độ sinh hoạt trong lao tù. Chẳng hạn như đ̣i phải được
phát báo Nhân dân hàng ngày đủ và đúng theo quy định của nhà nước, đ̣i phải
được cấp phát đầy đủ khẩu phần thức ăn rau cơm theo đúng nội quy trại giam.
Nhiều lúc cơm bị sống, rau chưa chín anh đă lên tiếng tranh đấu, đ̣i cán bộ
phải cho người tù được đem đổi cơm, rau khác đă nấu chín lúc đó mới nhận cho
anh em cả buồng. Có những lần, những chậu đựng thức ăn bằng nhôm bị dúm dó
trông rất mất mỹ quan, anh cũng yêu cầu phải thay đổi cái khác mới hơn, đẹp
mắt hơn và hợp vệ sinh làm cho cán bộ quản giáo và ban giám thị rất khó
chịu, nhưng cuối cùng họ vẫn phải ra lệnh cho những tù h́nh sự là “tù tự
giác” chuyên đưa cơm, rau cho tù nhân ở các buồng mang đi đổi cái khác. Có
đến một, hai lần mấy cán bộ quản giáo, kể cả cán bộ quản giáo trực tiếp của
tôi như trung tá Nguyễn Văn Tuyên, đại úy Kiện có nói : “Tù chính trị mà sao
lúc nào cũng để ư miếng ăn miếng uống như vậy thật nhỏ nhen!”. Tôi ôn tồn
nói lại: “Không! Ông Tuyên ơi! Không phải như vậy đâu, anh Sương hay những
tù nhân ở buồng số 6 họ đ̣i hỏi những cái đó cũng hợp lư thôi, v́ những điều
này phù hợp với chế độ chính sách, nội quy trại giam và theo đúng những tiêu
chuẩn mà “Pháp lệnh thi hành án phạt tù” của nhà nước ban hành và đang được
thực thi.
Trước đây những người tù là cộng sản chống chế độ thực dân Pháp và đế quốc
như các ông Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Trần Độ, Hoàng Minh Chính,
Tố Hữu, Xuân Thuỷ… cũng đấu tranh quyết liệt đ̣i cải thiện chế độ lao tù về
bát cơm, manh áo và những sinh hoạt khác cho ḿnh và cho anh em bạn tù trong
thời kỳ các ông lăo thành cộng sản này bị giam ở các nhà tù Côn đảo, Sơn La,
Hoả Ḷ, Đắc Mê…đó sao ??? ”. Các cán bộ quản giáo nghe tôi nói thế, thấy
cũng hợp lư và im lặng, họ không phản bác ǵ. Ban giám thị trại giam Nam Hà
họ rất ngại và rất ít xuống thăm buồng số 6. Bởi v́ đă nhiều lần họ xuống
đây đă bị anh em tù chính trị miền Nam thẳng thừng la ó phản đối, quyết liệt
chẳng e dè hay giữ mồm giữ miệng ǵ làm cho các cán bộ lănh đạo rất bối rối
và thật khó phản ứng, khó mà tranh luận với lư lẽ đáng thuyết lại được với
họ. Đối với buồng chúng tôi,đa số là giam những người tù dân tộc Tây nguyên,
nên đa phần họ sống chất phác, thật thà, hiền lành ít có phản ứng lại cán
bộ. Bởi thế ban giám thị cũng hay xuống thăm hỏi luôn và quản giáo trông coi
những buồng này cũng rất nhàn hạ, dễ chịu hơn.
Ngày 16-12-2003, tôi bị chuyển sang buồng số 1 của phân trại 1 cũng tại trại
giam này. Tôi vẫn ở cùng với anh em người Thượng – Tây Nguyên, trong buồng
lúc này có 3 người Kinh cũng bị xử án gián điệp v́ bán tài liệu cho công an
và t́nh báo Trung Quốc về t́nh trạng tệ nạn ma tuư, măi dâm ở Hải Pḥng. Hai
người Kinh là anh Phạm Văn Viết 68 tuổi quê ở Móng Cái-Quảng Ninh án tù 17
năm và anh Vũ Hữu Huynh trung tá công an phó trưởng pḥng quản lư trật tự xă
hội công an Hải Pḥng án 19 năm. Người Kinh thứ ba tên là Trần Văn Tuấn
khoảng 44 tuổi, quê ở Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc-Phú Thọ, nguyên là cán bộ của hải
quan cũng bị án gián điệp 19 năm với mấy tội danh là: tàng trữ vũ khí trái
phép, vượt biên trái phép, bán tài liệu cho nước ngoài, chiếm đoạt tài liệu
bí mật của nhà nước. Tù nhân này khi tôi nhập vào buồng 1 th́ anh ta đă ở tù
tới năm thứ 14. Cũng chính người tù này anh ta đă ở buồng số 6 và nhiều
buồng khác trong trại nên biết rất nhiều chuyện về các tù nhân nổi danh khác
như Lư Tống, Đoàn Viết Hoạt, Hoàng Minh Chính, Thích Tuệ Sỹ, Trần Mạnh
Quỳnh, A Quư…Cuối tháng 2 năm 2006 sau Tết Bính Tuất vừa rồi, anh ta đă hết
án sau 15 năm rưỡi ở tù. C̣n người dân tộc Tày quê Lạng Sơn là Đinh Văn Bản,
61 tuổi, thượng tá phó trưởng pḥng t́nh báo công an tỉnh Lạng Sơn, án phạt
20 năm cũng tội gián điệp v́ bán tài liệu và câu kết với công an tỉnh Quảng
Tây Trung Quốc.
Mấy người tù này cũng đă ở với những người tù buồng số 6 mà trong đó có anh
Trương Văn Sương trong thời gian khá dài. Họ kể rơ anh Sương bị gán tội
“gián điệp” cứ mỗi lần kiểm điểm hàng tháng, quư, năm theo quy định của trại
giam và “4 Tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù số 1269” mang tính bắt
buộc mọi tù nhân phải chấp hành của Bộ công an và cục V26 ngày 25-12-2002,
th́ anh và một số người khác đều phản kháng lại chế độ CS và ban giám thị
trại bằng cách không viết nội dung nhận tội mà tố cáo luôn chế độ lao tù, tố
cáo bản án bất công, đ̣i đa nguyên đa đảng, đ̣i tự do dân chủ, tố cáo chế độ
độc tài cộng sản Việt nam…Không bao giờ anh và những người tù án nặng ở
buồng 6 viết bản nhận tội. Cứ mỗi lần như vậy th́ anh Sương đều là người
đứng đầu đấu tranh và ban giám thị trại Nam Hà phải điều hàng chục binh sĩ
và cán bộ công an xuống khoá tay, đưa anh đi cùm biệt giam ở nhà kỷ luật.
Các tù nhân Trần Văn Tuấn, Vũ Văn Khiêm, Ngô Văn Phung, Hoàng Đồng, Phạm Văn
Viết, Vũ Hữu Huynh đều kể rằng: không năm nào là anh Trương Văn Sương không
bị đưa đi cùm và biệt giam trong buồng giam kỷ luật vài tháng.
Sau mỗi lần như vậy anh Sương trở về buồng giam chung lại tiếp tục đấu tranh
và lại tiếp tục bị đi cùm. Có những năm, anh Sương bị kỷ luật như vậy tới
2-3 lần. Theo quy định của trại giam Nam Hà nói riêng và của Cục quản lư
trại giam V26-Bộ công an nói chung, th́ những trường hợp đă bị kỷ luật đi
cùm và biệt giam như vậy th́ phải hết 3 năm sau mới được xem xét, giảm án
hàng năm. Mà mỗi lần được giảm án như vậy chỉ được từ 1 tháng đến nhiều nhất
là 2-3 tháng. Từ ngày 16-12-2003 tôi bị chuyển sang buồng số 1 và 2 phân
trại I, c̣n được các anh Trần Văn Tuấn, Phạm Văn Viết, Vũ Hữu Huynh, Đinh
Văn Bản kể cho nghe rơ hơn những chuyện về anh Trương Văn Sương tranh đấu
trong tù cũng tương tự như vậy. Có lần trong lúc đưa anh Trương Văn Sương
xuống khu biệt giam để thi hành lệnh kỷ luật của ban giám thị phải cùm chân
ở khu vực buồng 17, nơi hiện nay nhà báo Nguyễn Vũ B́nh đang bị giam cầm và
trước đây là Linh Mục Nguyễn Văn Lư, bác sỹ Phạm Hồng Sơn đă từng ở. Lúc đó
anh Sương đă hô khẩu hiệu chống đối rất to: “Đả đảo CSVN đàn áp tù chính
trị, các cán bộ công an có giỏi th́ hăy bắn tôi đi. Trương Văn Sương này
suốt đời chiến đấu cho lư tưởng tự do…” làm cho hàng chục cán bộ công an,
quản giáo và các binh sỹ công an trẻ rất e ngại. Họ đă có lệnh sẽ bịt miệng
và bằng cách dùng khăn tẩm ê te và hơi cay để trấn áp không cho anh Trương
Văn Sương tiếp tục thét gào phản kháng nữa. Nhưng v́ t́nh huống nổ ra quá
bất ngờ làm cho số đông công an đi áp tải tỏ ra luống cuống, lúng túng, bối
rối không kịp trở tay. Tất cả hàng ngàn tù h́nh sự ở phân trại I, II và III
nghe thấy tên tuổi và hành động phản kháng dũng cảm, bất khuất đó đều rất
cảm phục anh. Một số tù h́nh sự và tù án “an ninh chính trị” đều lưu truyền
măi câu chuyện về gương đấu tranh kiên cường, can đảm như vậy ngay trong
ngục tù của anh Trương Văn Sương trong nhiều năm qua.
Tôi ở phân trại I hơn 2 năm c̣n hiểu biết rơ hơn về anh. V́ dăy buồng 1 và 2
chúng tôi ở cũng chỉ cách buồng 6 của anh một dăy buồng khoảng hơn 30 mét. Ở
các phân trại Nam Hà trước đây, tất cả tù chính trị và tù h́nh sự đều phải
ra đồng làm việc như nhau và làm những công việc khá nặng như đập đá, đào
ao, đào đầm để nuôi cá, leo núi vào rừng lấy củi, trồng trọt rau màu và chăn
nuôi ḅ, dê…Nhưng mấy năm trở lại đây Tổng cục an ninh-Bộ công an đă chỉ thị
không cho số tù nhân chính trị này ra đồng làm nữa. Mà mọi việc lao động sẽ
làm tại sân ngay sát buồng giam, xung quanh có tường bao bọc gọi là phân khu
buồng giam cho từng buồng, có quản giáo trông coi và các việc lao động thủ
công nhẹ nhàng hơn như đan thảm cói, đan mây tre xuất khẩu…Và ban giám thị
quy định nếu tù nhân nào không tham gia lao động th́ ngoài việc phải hạ loại
cải tạo xuống mức kém và không được xem xét giảm án hay đặc xá, th́ tất cả
số tù nhân này buộc phải vào trong buồng giam và bị khoá trái lại cho đến
giờ ăn cơm mới được mở ra. C̣n các tù nhân chấp nhận lao động th́ làm ở
ngoài sân buồng giam mỗi ngày từ 7 đến 8 giờ, riêng sáng thứ 7 hàng tuần th́
làm 2 tiếng rưỡi.
Những người tù chính trị miền Nam ở buồng 6 phần lớn chống đối không lao
động, anh Trương Văn Sương cũng ở trong số này. Và như vậy anh Sương ở trong
buồng giam số 6 suốt hơn chục năm cứ thế trôi đi, cuộc đời của những người
tù ṃn mỏi, chết dần, chết ṃn theo năm tháng. Những người tù trong cảnh ngộ
như vậy chẳng khác nào như một con thú bị nhốt trong lồng cũi quanh năm với
chút cơm, nước, rau để tồn tại ngắc ngoải. Trong số tù nhân lao động ở ngoài
sân buồng giam số 6, chỉ có một người cũng thuộc diện án nặng và được ban
giám thị xếp vào một trong những người tù nguy hiểm, nghiêm trọng cho chế
độ. Đó là anh Trần Quang Đô nằm trong nhóm kháng chiến quân đă xâm nhập vào
miền Nam để đấu tranh vũ trang chống lại nhà nước CSVN, anh đă bị xử án
chung thân và đă ở tù được khoảng 17 năm…
Đến cuối năm 2005 v́ số tù người Thượng gồm các dân tộc Mơ-nông, Gia-rai,
Ê-đê, được chuyển ra từ các trại giam thuộc các tỉnh Đắc Lắc, Kon Tum, Gia
Lai, Đắc Nông rất đông. Trại Nam Hà đă phải thành lập tới 3 buồng giam,
trong đó ở phân trại I là 2 buồng, phân trại III là 1 buồng, trung b́nh mỗi
buồng từ 70-75 người mà không đủ chứa. V́ thế ban giám thị trại giam Nam Hà
xin chỉ thị của cấp trên phải lấy lại buồng giam số 6 phân trại I nơi các
anh Sương, Bàn, Thuỵ, Nhu, Long, Đô và kể cả Đỗ Hườn…đă và đang ở để trở
thành buồng giam thứ 4 nhốt những người tù dân tộc Tây nguyên. Anh Đỗ Hườn
chuyển từ trong trại Thanh Cẩm, Thanh Hoá ra năm 1998-1999 đến trại Nam Hà ở
được gần 1 năm th́ bị chết v́ bệnh tiểu đường. Trại giam Nam Hà chỉ đưa anh
Hườn ra bệnh viện Phủ Lư khi bệnh ở giai đoạn cuối đă quá nặng và không cứu
được. Anh Đỗ Hườn là người bị bắt do đă lănh đạo Liên Đảng từ Hoa Kỳ trở về,
đă kêu gọi dân chúng xuống đường biểu t́nh bằng truyền đơn, khẩu hiệu, loa
phát thanh ở Sài g̣n những năm 1993-1994 ǵ đó. Anh Ngô Văn Phung là người
cùng ăn cơm hàng ngày với anh Đỗ Hườn cho đến khi anh Hườn qua đời kể rằng:
“anh ấy thường tâm sự với tôi rất hy vọng được đặc xá vào năm 2000”, nhưng
niềm tin, hy vọng mong manh ấy đă không bao giờ đến được với người tù chính
trị xấu số này.
Anh Phung, Khiêm, Đồng c̣n kể cho tôi nghe có một người tù chính trị cũng án
chống đối ĐCSVN quê ở miền Nam tên là Bảo, tuổi gần 70 đă ở tù được hơn 18
năm, chỉ c̣n hơn năm nữa được trở về đoàn tụ gia đ́nh, nhưng sau đó anh đă
ngă dập sọ năo khi đi vệ sinh trong buồng giam. Sau cái chết này, gia đ́nh
của ông Bảo ở miền Nam đă được trại giam báo tin, để gia đ́nh thu xếp vào
trại lo đám tang cho người nhà của ḿnh. Gia đ́nh ông Bảo khóc thương thảm
thiết, đă la ó, kêu gào, phản đối, tố cáo chế độ giam cầm vô nhân đạo của
trại giam Nam Hà đối với thân nhân họ. Tại buồng giam số 6 này c̣n rất nhiều
người tù khác nữa đă bị chết ở đây như mấy người dân tộc Hơ Mông, quê ở Sơn
La, Lai Châu bị nhà nước CSVN kết án “gián điệp” mà không bao giờ được xă
hội và thế giới bên ngoài biết đến, chỉ duy nhất có gia đ́nh họ và những
người tù h́nh sự được trại phân công chôn xác những người tù bất hạnh ngay
dưới chân núi bên cạnh trại biết đến mà thôi !
Buồng giam số 6 phân trại I hồi cuối năm 2005 chỉ có 35 người chỗ nằm rất
rộng, hơn buồng chúng tôi nhiều. Có thời kỳ chúng tôi đă phải chen chúc nhau
trong buồng số 1 và 2 rộng khoảng hơn 70 mét vuông có một gác xép bê tông
nhằm để chứa cho thêm nhiều tù, mà nhốt tới 75-80 người. Chỗ nằm ngủ của mỗi
người tù chỉ được khoảng 45-48 cm, tức là hơn 2 gang bàn tay. Chúng tôi phải
nằm nghiêng, úp th́a nhau, hoặc tráo trở đầu đuôi. V́ t́nh trạng chật chội
này nên ở các buồng giam những tù h́nh sự đă thường xuyên xảy ra đánh căi
chửi nhau, có những vụ đánh nhau nghiêm trọng gây thương tích hoặc gây án
mạng dẫn đến chết người. Nhiều vụ xảy ra tranh chấp chỗ nằm gây hậu quả
nghiêm trọng như vậy đă phải khởi tố để xử án và nhiều tù h́nh sự đă phải
chịu án tử h́nh. Ở buồng 1 phân trại I nơi tôi bị giam từ ngày tôi bị chuyển
từ trại III sang phân trại I đến ngày 19-4-2004 th́ ban giám thị lập thêm
buồng giam mới ở bên cạnh là buồng số 2, đă có một người tù h́nh sự quê Hải
pḥng trước đây đă từng ở, mà sau đó anh ta đă bị xử bắn v́ tội đánh chết tù
nhân cùng buồng do tranh chấp chỗ nằm. Trong mấy ngày liên tiếp vào cuối
tháng 8 năm 2004 Tổng cục an ninh đă chuyển tới buồng 1 trại giam Nam Hà,
nơi tôi đang bị giam cầm cùng với các người tù dân tộc Thượng, 6 người tù
rất đặc biệt. Đợt một ngày 25-8-2004 là 3 ông già tuổi trên dưới 70 đều là
đồng hương quê ở huyện Tuy Hoà tỉnh Phú Yên, đều bị kết án với tội danh mà
toà án nhà nước CSVN ở tỉnh Phú Yên gán buộc cho là “âm mưu lật đổ chính
quyền nhân dân”, mức án từ 30 tháng đến 5 năm tù giam.
Người thứ nhất là ông Hà Tấn Phương, sinh năm 1934, bị án 5 năm tù. Người
thứ hai là ông Nguyễn Trọng Đăi, sinh năm 1935, bị án 30 tháng. Người thứ ba
là ông Trương Văn Chàng sinh năm 1932, bị án 30 tháng. Nội dung vụ án của 3
ông già này là, sau khi quê hương các ông và cả miền Nam được “hoàn toàn
giải phóng” năm 1975, chính quyền CSVN ở địa phương thực hiện chính sách
“hợp tác hoá nông nghiệp” để xây dựng hợp tác xă sản xuất nông nghiệp theo
mô h́nh ở nông thôn miền Bắc. Nên chính quyền CSVN ở Tuy Hoà Phú Yên đă tịch
thu hết ruộng đất của gia đ́nh các ông. V́ bị tước đoạt tài sản ruộng đất
vốn là sở hữu hợp pháp dưới chế độ Việt nam cộng hoà cũ như vậy, nên cả 3
ông trong các cuộc họp ở thôn, xă ḿnh đều phát biểu phản đối rất mạnh mẽ,
quyết liệt chính sách cưỡng bức nông dân vào hợp tác xă của chính quyền mới.
Thêm vào đó bản thân các ông dưới chế độ cũ đều ít nhiều làm việc phục vụ
chính thể nhà nước VNCH trước đây. Người th́ phải tham gia quân lực Việt nam
cộng hoà theo chế độ quân dịch làm địa phương quân như ông Trương Văn Chàng.
Người th́ công tác cho cơ quan hỗ trợ phát triển kinh tế Mỹ USAID ở cấp
huyện như ông Nguyễn Trọng Đăi. Người th́ làm cán bộ b́nh định nông thôn hơn
10 năm như ông Hà Tấn Phương. Với một lư lịch và thái độ chính trị như vậy
nên bản thân, gia đ́nh và con cái các ông không thể theo đuổi việc học hành
hay công tác trong các cơ quan của nhà nước CSVN. V́ bức xúc và quá uất ức
trước sự chèn ép và đối xử phân biệt như vậy, nên các ông đă tham gia Đảng
Phục Quốc, chi nhánh ở tỉnh Phú Yên với hy vọng xây dựng lực lượng chính trị
để góp phần giải phóng lại quê hương, đ̣i lại tài sản ruộng đất đă bị cướp
đoạt mất.
Trong khoảng thời gian 1975-1990 nhiều đảng phái chính trị khác biệt hoặc
đối lập với Đảng CSVN bị nhà cầm quyền CSVN truy lùng và khủng bố khốc liệt
với ư đồ tiêu diệt những đảng phái chính trị đó. Đảng Phục Quốc chi nhánh ở
Phú Yên bị đàn áp tơi bời, nhiều lănh tụ của đảng này đă bị bắt, xử án chung
thân hoặc tử h́nh. Trước t́nh thế đó, cả 3 ông đem gia đ́nh bỏ trốn sâu vào
các tỉnh phía Nam thuộc các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Châu Đốc…, để đi làm thuê
kiếm sống ṛng ră 24 năm, tức là ĺa bỏ quê hương nơi chôn rau cắt rốn nhiều
đời từ ngay sau ngày được gọi là “giải phóng” chỉ vài năm(1978-1979). Điểm
cuối cùng mà cả 3 ông dừng chân để sống nốt quăng đời tuổi già c̣n lại là
thuộc huyện Trị An, tỉnh Đồng Nai cho đến ngày các ông bị bắt vào giữa năm
2003. Sở dĩ cả 3 ông già bị nhà cầm quyền CSVN bắt giam là từ việc nhẹ dạ
của ông Hà Tấn Phương. Trong một lần liên lạc được với người em họ là đại tá
quân đội CSVN đă nghỉ hưu, được người em họ này ra sức động viên ông Phương
nên ra đầu thú chính quyền tỉnh Phú Yên để được “hưởng chính sách khoan
hồng” của Đảng và nhà nước CSVN. Tin theo lời người em họ của ḿnh, nên ông
Phương sau hơn 24 năm phải rời bỏ quê hương và đổi tên mới là Hồ Tấn Phượng,
đă ra tŕnh báo với các cấp công an và chính quyền ở quê nhà. Đồng thời ông
cũng khai ra luôn nơi trú ngụ hiện nay của hai người bạn già ḿnh ở tỉnh
Đồng Nai là ông Nguyễn Trọng Đăi đă được đổi tên sau khi bỏ quê và trốn chạy
là Nguyễn Trọng, c̣n ông Trương Văn Chàng được đổi tên là Trương Chang. Cả 3
ông già tuy lo sợ hoảng loạn và phải trốn chạy suốt 24 năm như vậy, nhưng
không hề có một lệnh truy nă nào của nhà nước CSVN đối với các ông.
Nếu xét về góc độ phương diện pháp lư th́ có thể xem vụ việc của các ông là
đă “quá thời hiệu truy cứu trách nhiệm h́nh sự và miễn trách nhiệm h́nh sự ”
và cũng không đe doạ ǵ đến nền “an ninh quốc gia” cũng như không gây thiệt
hại hay đe doạ đến cuộc sống của xă hội và của bất cứ ai, theo đúng các điều
23, 24 và 25 chương IV của Bộ luật h́nh sự nước CHXHCNVN. Như vậy có nghĩa
là các ông già này có thể được hoàn toàn được miễn tố, nhà nước CSVN có thể
hoàn toàn miễn truy cứu trách nhiệm h́nh sự đối với họ. Tuy nhiên, công an
Phú Yên đă bắt sống cả 3 ông già lăo hom hem và đem về xử án rồi bỏ tù như
đă nói ở trên. Riêng ông Hà Tấn Phương sau hơn 8 tháng bị giam cầm v́ sức
khoẻ quá yếu nên được tạm thời tại ngoại v́ có “công đầu thú và khai báo”.
Cho đến ngày đem cả 3 ông già ra ngoài Bắc để thi hành án th́ công an CSVN
tỉnh Phú Yên lại bắt giữ lại ông Phương. Mấy người bạn tù già này nằm sát
bên tôi, chính họ đă kể cho tôi rất nhiều về những chuyện xă hội ở miền Nam
dưới thời chế độ VNCH trước năm 1975. Họ khẽ say sưa hát cho tôi nghe bài
quốc ca của Việt nam cộng ḥa mà họ thuộc làu do nhạc sỹ Lưu Hữu Phước sáng
tác , đó là bài “Tiếng gọi thanh niên”. Bài hát có đoạn mở đầu : “Này công
dân ơi hăy đứng lên đáp lời sông núi…”. Người th́ hát cho tôi nghe những bài
được sáng tác trong thời kỳ làm cán bộ b́nh định nông thôn. Mỗi lần hát như
vậy mấy ông lăo tù già lại phải nh́n trước ngó sau xem có cán bộ quản giáo
để ư không,có cán bộ nào gần đó không? Chúng tôi phần lớn kéo nhau ra đằng
sau dăy buồng giam ở khu vực bếp đun nấu của tù để được nghe những bài hát
hay câu thơ như vậy. Cũng may mắn là ông cán bộ quản giáo chúng tôi khá hiền
lành, ông cũng ít để ư , xăm xoi hay hạch sách ǵ chúng tôi lắm. Nhưng trong
số những câu ca, bài thơ mà tôi nghe được, ấn tượng nhất là ông Trương Văn
Chàng đă tự tay chép lại cho tôi bài thơ và cũng là bài hát được phổ nhạc
thời kỳ c̣n kháng chiến chống Pháp 9 năm và lúc ấy cuộc chiến tranh Bắc-Nam
Triều Tiên đang diễn ra ở giai đoạn gay go ác liệt năm 1951-1953. Bài thơ ấy
có đoạn như sau:
“Anh bạn Triều Tiên ơi
Máu anh cùng máu tôi rơi
Trên hai đất nước một trời thù chung.
Anh có Kim Nhật Thành
Tôi có Hồ Chí Minh
Đây Liên Xô vĩ đại,
Kia Trung Hoa mẹ hiền.
Tiến lên! Tiến lên!
Thế giới đại đồng
Siết tay, siết tay nhau
Chúng ta bước lên cùng xây thành Á Đông…”
Ông Chàng c̣n đọc để tôi chép nhiều bài thơ, bài ca khác nữa như “Chiến
thắng Ninh b́nh, Chiến thắng Điện Biên”, thơ Tố Hữu ca ngợi Stalin, Mao
Trạch Đông, Hồ Chí Minh…Sở dĩ ông Chàng thuộc rất nhiều bài thơ ca của phe
cộng sản, XHCN và CSVN v́ ông vốn là cán bộ tuyên truyền Việt minh của xă
nơi quê nhà khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Năm 1954 hiệp định Giơ-ne-vơ
kư kết tạm chia cắt 2 miền Nam-Bắc, ông Chàng là cán bộ miền Nam có tiêu
chuẩn được tập kết ra Bắc. Nhưng khi ra đến thị xă Quy Nhơn ngủ qua đêm để
ngày mai tập kết ra Bắc, nhưng v́ ông quá nhớ nhà, nhớ mẹ và lúc đó ông chưa
có gia đ́nh, vợ con nên sáng sớm ông đă bỏ trốn trở lại quê nhà mà không
xuống chuyến tàu định mệnh ấy ra ngoài Bắc. Ông ở lại quê nhà Phú Yên và ít
lâu sau khoảng năm 1960-1962 th́ được động viên đi lính VNCH đóng quân ở Thủ
Đức và cuộc đời ông rẽ sang một ngả khác, lại nhập vào đội quân chống lại
những người bạn, đồng chí của ông đă xuống tàu ra tập kết ngoài Bắc mấy năm
trước.
Tôi rất tiếc một số bài thơ, ca rất hay đă có cách đây hơn nửa thế kỷ, nó
cũng là một dấu ấn lịch sử kỷ niệm đối với cuộc đời của ông Chàng mà tự tay
ông chép và một số bài do ông đọc cho tôi chép lại rất cẩn thận đă hai lần
bị ban giám thị trại giam Nam Hà điều trung tá Hoàng Xuân Nam trực tiếp khám
xét buồng giam rồi tịch thu, tước đoạt, xé bỏ hết sức vô lư. Dù rằng đó
chính là những bài thơ ca thời kỳ cách mạng cộng sản rất cực tả, cực đoan,
sặc mùi Mao ít. Hai ông Hà Tấn Phương và Nguyễn Trọng Đăi c̣n kể cho tôi
nghe rằng khi nổ ra cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 và trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp 9 năm th́ cả hai ông đều ít nhiều tham gia mặt
trận Việt minh ở xă nhà. Nhưng thật là trớ trêu, ḍng lịch sử của cả dân tộc
đă bị người lănh đạo ở cấp cao nhất của Đảng CSVN lợi dụng tinh thần dân
tộc-quốc gia và ḷng ái quốc của dân chúng lái sang một hướng khác, một mục
đích khác để trở thành cuộc cách mạng cộng sản thuần tuư và xây dựng bằng
được thể chế chính trị xă hội chủ nghĩa trên đất nước này. Và cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc, v́ lợi ích quốc gia đă bị biến thành một bộ phận “cách
mạng” của khối cộng sản quốc tế và phe XHCN do Liên Xô và Trung Quốc cầm
đầu. Bi kịch cuộc đời cá nhân của cả 3 người tù già này là những bi kịch nhỏ
nằm trong tấn bi kịch lớn và cay đắng của cả dân tộc.
Đợt đặc xá cuối cùng ngày 2-9-2005 th́ cả hai người bạn tù già, vong niên
của tôi là ông Trương Văn Chàng và Nguyễn Trọng Đăi đă được trở về nhà trước
11 tháng so với bản án, c̣n lại ông Hà Tấn Phương hiện vẫn đang phải tiếp
tục ngồi tù. Một người tù dân tộc H’Mông tên là Mùa Sáy Xó khoảng 43 tuổi
chỉ v́ truyền đạo tin lành ở quê nhà thuộc tỉnh Điện Biên cũng bị công an và
chính quyền địa phương bắt giam bỏ tù 3 năm gán cho tội “vu khống cán bộ”.
Anh ta ở tù hơn 2 năm rồi cũng được gọi là “đặc xá” đợt cuối cùng ngày
2/9/2005 khá bất ngờ cùng với ông Đăi và ông Chàng.
Ngày 28-8-2004, ba người tù trẻ tiếp theo bị đưa vào buồng số 1 đều là người
dân tộc H’Mông, quê ở bản Huổi Một, xă Huổi Mươi, huyện Sông Mă, tỉnh Sơn
La. Ba người tù trẻ này đều bị kết án 13 năm tù với tội danh là: “bạo loạn
gây rối an ninh” do toà án thành phố Viêng chăn, nước Cộng hoà dân chủ nhân
dân Lào xét xử. Sau đó được dẫn độ về Việt nam để thi hành án, lúc đầu là
tạm giam ở tỉnh Sơn La, Việt nam. Người thứ nhất là Vừ A Dơ, 14 tuổi, cha mẹ
đă chết cả, phải sống cùng anh chị ruột, người thứ hai là Sùng Vả Giống ,15
tuổi, người thứ ba là Giàng Bá Trống, 21 tuổi. Nội dung vụ án của mấy tù
nhân trẻ người Hơ Mông này là họ đă rời bỏ quê hương nghèo đói t́m sang một
tỉnh ven biên giới với Việt nam ở hạ Lào để gặp gỡ Vua Mèo theo lời đồn đại
của một số người cùng bản. Khi sang tới nơi th́ họ sa vào một nhóm người
HơMông ở hạ Lào đang chuẩn bị cướp kho vũ khí để chống lại chính quyền cộng
sản Lào. Vụ đột phá cướp kho vũ khí không thành công, rất nhiều người Mông
bị quân đội cộng sản Lào bắn chết và bắt sống. Ba thanh thiếu niên người Hơ
Mông đó trở thành tù binh của nhà nước cộng sản Lào, bị đem về Viêng Chăn
giam giữ, xét xử với tội danh được toà án cộng sản Viêng Chăn gán cho là:
“tội phản loạn, âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân”.
Ngoài án tù giam, toà án Viêng chăn c̣n xử phạt 3 thanh thiếu niên bồi
thường cho nhà nước Lào số tiền là 20 ngh́n Kip. Sau khi có án tù , v́ nhà
nước CSVN và nhà nước CS Lào vốn là anh em đồng chí, đồng minh, thân hữu của
nhau nên họ đă trao trả về cho phía Việt nam để tiếp tục thi hành bản án.
Thời gian ở nhà tù Viêng Chăn, và Sơn La họ đă kể lại cho anh em tù chúng
tôi nghe rằng: “Hiện nay ở nhà tù Viêng Chăn, Sơn La vẫn duy tŕ chế độ đeo
gông và cùm vào chân vào tay nặng mấy kí lô gam suốt ngày đêm tuỳ theo án
nặng hay nhẹ, và tuỳ theo cân nặng của cơ thể, giống hệt thời trung cổ phong
kiến cách đây mấy ngàn năm”. Ba tù nhân trẻ này đă ở với tôi và những anh em
tù người Thượng tại buồng 1 phân trại I mấy tháng sau đó chuyển sang buồng 6
nơi có giam các tù nhân miền Nam như anh Trương Văn Sương đang ở trước Tết
năm 2005 ít ngày. Mấy thanh thiếu niên trẻ tù nhân người H’Mông c̣n kể rằng
tù chính trị chống đối lại nhà nước cộng sản Lào bị giam tại các nhà tù ở
tỉnh Xiêng Khoảng, Xavanakhet, thủ đô Viên Chăn c̣n khá nhiều và hoàn cảnh
giam cầm hết sức tồi tệ và khủng khiếp hơn t́nh cảnh giam giữ hơn ở Việt Nam
rất nhiều. Ba cháu nhỏ tù nhân vị thành niên người thiểu số này sống trong
buồng giam số 6 rất hiền lành, chăm lao động, được cán bộ rất khen ngợi,
thỉnh thoảng gia đ́nh họ cũng lên thăm nuôi và gửi quà khá đều đặn.
Nghĩ cũng nực cười, khái niệm về tội phạm học, cũng như theo các quy định
của bộ luật tố tụng h́nh sự hiện nay của nước CHXHCNVN, th́ hành vi phạm tội
của một người phải có động cơ, mục đích rơ ràng, có gây thiệt hại cho người
khác hoặc cho xă hội và nhiệm vụ của các cơ quan điều tra là phải làm rơ
nhưng vấn đề để chứng minh có hay không tội phạm. Từ đó các cơ quan chức
năng như Công An, Viện Kiểm Sát mới có thể đề nghị các cơ quan có thẩm quyền
cao hơn phê chuân lệnh bắt giam và áp dụng những biện pháp ngăn chặn cần
thiết như bắt giam khẩn cấp, quản chế hay cấm… đi khỏi nơi cư trú. Nhưng ở
đây cả nhà nước CS Lào lẫn nhà nước CS Việt Nam chẳng coi quyền con người và
quyền công dân, kể cả mạng người ra ǵ, nên mới có những vụ bắt bớ , xét xử
rồi bỏ tù tùy tiện bừa băi như nêu trên.
Sau khi buồng số 6 được thành lập để đưa bớt số tù người Thượng sang đó, th́
t́nh h́nh chỗ nằm của chúng tôi được nới rộng ra hơn đôi chút. Ở buồng số 6
ban giám thị trại đă phân loại ra những tù án nặng, có tư tưởng chống đối
mạnh mẽ và quyết liệt gồm 6 người được chuyển vào khu buồng 17 cứ 4 người ở
1 buồng trên 2 bệ xi măng và diện tích rộng trên 10 mét vuông, mỗi chiều là
2,5mét X 4,5 mét, có 2 lớp cửa sắt kiên cố, có 1 lỗ thông hơi nhỏ bằng 2 bàn
tay, ở sảnh ngoài có quây hàng rào B40 rộng chừng hơn 2 mét vuông (một chiều
1 mét, một chiều hơn 2 mét) để ban ngày người tù có thể ra tắm nắng, hít thở
không khí. c̣n tuyệt đối không được ra ngoài phạm vi đó. Tôi đă từng ở những
buồng biệt giam như thế này gần 2 năm, đó là thời kỳ ở trại B14 Thanh Liệt
Hà nội 16 tháng và ở khu biệt giam kỷ luật, cùm chân phân trại III trại giam
Nam Hà gần 4 tháng. Nên tôi biết rất rơ sự khắc nghiệt và khổ sở đến cùng
cực của sự đày đoạ trong ngục tù như thế.
Trong hoàn cảnh bị giam cầm khốc liệt như vậy, nếu người tù không chịu vận
động, tự tập thể dục, tự đi lại th́ chỉ sau một thời gian ở khu biệt giam
này hầu hết sẽ bị liệt hai chân. Sau khi được ra khỏi khu biệt giam, muốn đi
lại phải bám vịn vào tường, hoặc có người khác d́u, mất gần nửa năm trời mới
đi lại b́nh thường được. Có rất nhiều người tù là người dân tộc Thượng được
chuyển từ các trại giam ở các tỉnh cao nguyên Trung phần ra trại giam Nam Hà
đă bị liệt trong hoàn cảnh như vậy v́ họ bị giam giữ trong điều kiện quá
chật chội và v́ số tù nhân chen chúc quá đông đúc. Ban giám thị trại giam
Nam Hà đă phân loại chọn ra được 6 người tù thuộc loại nguy hiểm đặc biệt
nghiêm trọng để đưa đi khỏi buồng 6 đến buồng giam mới và chia ra làm 2
pḥng ở khu biệt giam buồng 17 gồm có: Trương Văn Sương, Vũ Đ́nh Thuỵ, Phan
Văn Bàn, Trần Quang Đô, Bùi Thúc Nhu, Nguyễn Đ́nh Văn Long. C̣n riêng một
người tù tên là Trần Tư hay là Jimmy Trần ǵ đó từ Hoa Kỳ trở về năm 1993 án
chung thân th́ hiện nay vẫn c̣n ở khu giam riêng-kỷ luật ở phân trại II trại
giam Nam Hà. Sở dĩ tôi biết được thông tin chắc chắn này là v́ trong thời
gian bị cùm chân, kỷ luật ở phân trại III trại Nam Hà tôi đă ở mấy tháng
trời hồi tháng 7-2003 đến cuối tháng 10-2003 với những người tù h́nh sự phạm
tội ma tuư, giết người, đánh nhau gây thương tích. Họ kể rằng đă từng ở khu
kỷ luật và đă từng làm tù tự giác phục vụ việc đưa cơm, rau, cho những người
tù như Trần Tư và cả Lư Tống nữa sau khi được đưa ra từ trại Xuân Phước miền
Nam ra, cho đến khi người cựu phi công Lư Tống, GS Đoàn Viết Hoạt được đặc
xá trở về Mỹ tháng 9 năm 1998.
C̣n phải nhắc đến một người tù chính trị nữa là ông Hoàng Xuân Huy, quê Hải
pḥng là bạn với anh Phạm Văn Viết năm nay cũng 70 tuổi, bị án tù chung thân
v́ thành lập “Đảng Tân Dân Chủ”, bị bắt khoảng năm 1994-1995, có lẽ v́ ông
quá già yếu nên vẫn được giữ lại ở buồng 6 cùng với các người tù dân tộc
Thượng mà đă ở cùng với tôi từ buồng 1 và buồng 2, mặc dù ông cũng là một
người tù chính trị thuộc loại án tù đặc biệt nguy hiểm, nghiêm trọng cho chế
độ của ĐCSVN. Năm vừa qua có mấy đợt gọi là đặc xá của nhà nước CSVN, nhưng
trong lệnh đặc xá đă kư của chủ tịch nước Trần Đức Lương và nhiều văn bản có
liên quan đă nói rơ không xem xét giảm án và đặc xá những tù nhân gọi là
“xâm phạm an ninh quốc gia” đặc biệt nghiêm trọng. Tuy vậy có hai trường hợp
nhà nước CSVN vẫn thả những người tù chính trị đă từng ở rất lâu, mà án chỉ
c̣n vài tháng như Đinh Văn Bé thuộc nhóm kháng chiến quân quê Thốt Nốt, tỉnh
Cần Thơ đă ở tù được hơn 17 năm, hoặc án tù chung thân nhưng chưa hề được bẻ
án xuống 20 năm mà vẫn được thả về như Nguyễn Văn Lương thuộc nhóm đảng Phục
Quốc ở miền trung. Anh Lương c̣n là một người tù mang tới 2 án tử h́nh do
toà án nhà nước CSVN xét xử. Hai người tù này được thả vào 2 đợt 30-4-2005
và 2-9-2005.
Một trường hợp đặc biệt nữa là một người tù dân tộc Ê-đê tên là Y Lớt thuộc
mặt trận Phun Rô quê ở Đắc Lắc án tử h́nh, sau đó được giảm xuống chung
thân, rồi được bẻ án xuống 20 năm. Ông Y Lớt đă ở tù được 17 năm, tổng số
các lần giảm được hơn 3 năm, nhưng trong đợt đặc xá 30-4-2005 ông cũng không
được thả, mặc dù tính đến ngày hết án ông chỉ c̣n 1 tháng. Sau đó ông đă
được thả ra khỏi trại để trở về Tây nguyên vào cuối tháng 5 năm 2005. Ở khu
buồng giam 17 mà tù h́nh sự gọi là khu “kiên giam”, tức là khu giam tù rất
kiên cố, rất đặc biệt, có một cḥi gác nhỏ ngay trước sân 4 buồng giam nhỏ
này nằm ở cuối cùng trong toàn khu trại. Nơi đây là để giam các tù chính trị
án nặng và đặc biệt nguy hiểm cho chế độ. Các sỹ quan công an không có nhiệm
vụ, không được bén mảng, lai văng ở khu vực này. Hiện nay có 3 cán bộ được
quản lư, trông coi khu giam riêng này và cả 3 buồng giam tù dân tộc người
Thượng, người Tày, người Mông có liên quan đến cái gọi là “an ninh chính trị
quốc gia”. Đó là các sỹ quan: trung tá Nguyễn Văn Tuyên quê Nam Định, đại uư
Khảm quê Ninh B́nh, và một người nữa trước đây là đại uư Kiện. Phụ trách
chung các khu buồng giam này là trung tá Hoàng Xuân Nam quê Thái B́nh, người
có trách nhiệm theo dơi hồ sơ, nhân sự, báo cáo hàng ngày mọi biến chuyển
trực tiếp lên ban giám thị trại và Tổng cục an ninh-Bộ công an ở Hà nội.
Buồng giam số 6 và khu giam đặc biệt buồng 17 nói trên có lắp camera quan
sát, theo dơi mọi động tĩnh 24/24 giờ của tù nhân trong buồng do trung tá
Nam điều hành.
Lúc Phạm Hồng Sơn c̣n bị giam ở khu buồng 17 này, trước khi bị chuyển đi Yên
Định, Thanh Hoá th́ tôi đang ở buồng số 1 vừa từ ở buồng số 6 phân trại III
chuyển sang. Tuy buồng giam tôi và buồng giam Phạm Hồng Sơn cách nhau gần
100 mét mà mấy năm trời không hề được nh́n thấy nhau. Tôi đă mấy lần đề nghị
ban giám thị và quản giáo cho tôi được ở cùng với Phạm Hồng Sơn, hoặc Linh
mục Nguyễn Văn Lư nhưng đều bị từ chối. Chúng tôi chỉ biết tin nhau qua
những người tù h́nh sự tự giác đưa cơm cho các buồng giam nhưng họ cũng vô
cùng lo sợ các cán bộ công an trại nên tin tức cũng chẳng có là bao. Họ kể
rằng có một lần đại uư Kiện quên không khoá cửa phân khu buồng giam nên Phạm
Hồng Sơn đă chạy sang được buồng giam Linh Mục Nguyễn Văn Lư ở bên cạnh và
hai bên tṛ chuyện với nhau được khá nhiều. Sau sự kiện đó đại uư Kiện đă bị
ban giám thị cho nghỉ việc, phải ngồi viết kiểm điểm mất 1 tuần và sau đó bị
chuyển ra ngoài trực “cổng phủ” tức là gác cổng trại giam, chuyên làm nhiệm
vụ khám quà, khám người các tù h́nh sự ra vào và đi lao động. Cho đến khi
tôi được thả ra, đại uư Kiện vẫn làm nhiệm ở đấy, ông vẫn hay mượn sách báo
do gia đ́nh tôi gửi để đọc, đặc biệt là thích báo thể thao. Đại uư Kiện hay
trung tá Tuyên là những người sỹ quan rất có cảm t́nh với tôi v́ có lẽ ông
đă đọc hồ sơ, biết những hoạt động bên ngoài xă hội của tôi trước khi tôi bị
nhà cầm quyền CSVN bắt và bỏ tù. Các sỹ quan này chưa có hành vi nào tỏ ra
lăng nhục, sỉ vả nhân phẩm và danh dự những người như chúng tôi. Nó trái hẳn
với những hành vi, lời ăn tiếng nói lỗ măng, thiếu văn hoá, vô học và rất
nhiều đối xử ngược đăi của thượng uư Vũ Văn Tài, đảng viên ĐCSVN là quản
giáo trực tiếp của tôi khi tôi c̣n bị giam ở buồng số 6 phân trại III trong
năm 2003.
Sau khi tôi được thả ra ít ngày, trả lời phỏng vấn trên đài BBC và trong bức
thư góp ư với dự thảo báo cáo chính trị Đại hội ĐCSVN khoá X ngày 24-2-2006
vừa qua. Tôi cố ư nêu tên anh Trương Văn Sương cũng như đ̣i trả tự do vô
điều kiện cho Phạm Hồng Sơn và Nguyễn Vũ B́nh là những chiến sỹ dân chủ trẻ
tuổi, nhằm để đánh động dư luận thế giới biết và quan tâm đến số phận một
người tù như anh Trương Văn Sương. Sau đó có một Việt kiều ở Hoa Kỳ đă gửi
biếu chúng tôi mỗi người 100 đô la để mua thuốc thang chữa bệnh và tiếp tế
cho những người tù vẫn c̣n trong trại. Riêng về trường hợp anh Sương tôi đă
liên hệ, t́m hiểu để gửi tiền thăm nuôi anh, nhưng trại giam Nam Hà không
cho nhận v́ lư do tôi không phải là người thân cận, ruột thịt của anh Sương.
Tiếp đó tôi đă quyết định dùng số tiền 100 đô la đổi ra tiền Việt mà người
Việt kiều ở Mỹ kia đă nhờ tôi gửi tới anh Sương để mua đồ tiếp tế gửi dần
hàng tháng cho anh. Sáng ngày 9-3-2006, mẹ tôi và tôi đă ra chợ Kim Liên để
mua các đồ thực phẩm khô nặng tới 12 kg để gửi theo đường bưu điện từ Hà nội
cho anh Sương kèm theo một bức thư kể rơ về nguồn gốc số tiền và có lời mời
được ghi trong thư gửi anh: “Nếu anh được ra khỏi trại trong thời gian
tới hăy đến thăm gặp tôi tại nhà riêng ở Hà nội, tôi luôn luôn sẵn sàng đón
tiếp anh”. Khoảng hơn 2 tuần sau, bưu điện ở phố Lê Thạch gửi giấy báo
cho tôi ra nhận lại số quà mà tôi đă gửi đi nói trên với ḍng chữ ghi trên
vỏ thùng quà của cán bộ trại giam Nam Hà: “không cho nhận quà v́ người gửi
không phải là người thân ruột thịt”. Ḷng tôi buồn nặng trĩu v́ số quà rất
nhỏ nhoi, nhưng ấm t́nh người của đồng bào hải ngoại nhờ tôi gửi gắm cho anh
Sương và mặc dù tôi rất cố gắng, rất vất vả nhưng không thực hiện được do sự
cố ư ngăn trở của ban giám thị trại giam Nam Hà. Trong bức thư tôi gửi kèm
trong thùng quà để tiếp tế cho anh Sương, tôi đă tha thiết nói rơ với ban
giám thị trại giam Nam Hà, hăy v́ nhân đạo, v́ t́nh người mà cho anh Sương
nhận số quà để động viên anh trong cảnh ngộ bị cách ly gia đ́nh, xă hội gần
3 thập niên như vậy. Tôi nhận lại túi quà từ nhân viên bưu điện ở phố Lê
Thạch-Hà nội mang về nhà mở ra, mặc dù vẫn c̣n niêm phong nhưng thực phẩm
bên trong đă vỡ, dập nát và bị trộn lẫn vào nhau khá nhiều. Có lẽ do vận
chuyển, quăng quật hàng trăm cây số nên đă xảy ra t́nh trạng đó. Các loại
thực phẩm trong thùng quà gồm có cá khô, đường, cà phê, miến, bánh đa, lạc
nhân, lạp sườn, bột ngọt…
Cuối cùng mấy hôm sau có một chị tên là Nguyễn Thị Hấn, một “dân oan” đă
từng bị đánh và đàn áp ở quê nhà do bị chính quyền địa phương cưỡng chế cướp
đất đai, nhà cửa ở Thái nguyên. Và chị đă lặn lội ra tận trung ương khiếu
kiện, tố cáo ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng-Hà nội mấy năm ṛng ră. Bản thân chị
đă từng là cựu chiến binh bộ đội Trường sơn, thanh niên xung phong trong
những năm chiến tranh “chống Mỹ cứu nước”, chị cho tôi xem rất nhiều huân
huy chương được Đảng và nhà nước tặng thưỏng khi đến tận nhà gặp tôi để đưa
đơn từ tố cáo, nhờ tôi giúp đỡ mà do Cụ Hoàng Minh Chính giới thiệu. Trường
hợp của chị tôi đă trực tiếp xem trên mạng internet cả đơn tố cáo lẫn h́nh
ảnh với mặt mũi bị đánh đập sưng vù. Và bây giờ mấy mẹ con chị vẫn lang
thang ban ngày đi làm thuê, ăn xin, đêm đêm lại về gầm cầu Long Biên để ngủ.
Hàng ngày chị vẫn đến vườn hoa Mai Xuân Thưởng kiện cáo nỗi oan khuất của
ḿnh. Chị cũng kể cho tôi nghe rằng đă may mắn hân hạnh được trả lời phỏng
vấn mấy lần trên đài RFA. Chị tha thiết đưa số điện thoại của chị cho tôi,
nhờ tôi nhắn cho anh phóng viên Việt Hùng của đài RFA để được phỏng vấn tố
cáo thêm về t́nh trạng bị đánh đập, trù dập đối với gia đ́nh chị. Sau đó tất
cả số quà nói trên không gửi được cho anh Trương Văn Sương, tôi đă tặng lại
cho chị Hấn và chị đă rất cám ơn tôi. Chị Hấn c̣n cho biết rằng mấy năm ở
thủ đô để kiện tụng, chị đă gặp hầu hết các nhà dân chủ ở Hà nội như cụ
Hoàng Minh Chính, ông Phạm Quế Dương, ông Lê Hồng Hà…chị gặp cả một số quan
chức cấp cao của Đảng CSVN và quân đội như cựu TBT Lê Khả Phiêu, thượng
tướng Nguyễn Nam Khánh…và nhiều người khác để kêu oan và nhờ họ giúp đỡ.
Từ khi tôi bị cắt mobile và điện thoại của gia đ́nh, lẫn internet vừa kết
nối, nên chẳng liên lạc được ǵ với người Việt kiều tốt bụng kia nữa. Có một
lần chị Bùi Thị Kim Ngân là vợ của nhà báo Nguyễn Vũ B́nh đă đến nhà tôi để
cho biết địa chỉ email của anh Việt Kiều ở Mỹ kia, mà anh đă đọc qua điện
thoại cho chị Ngân biết. Nhưng tôi gửi email mấy lần để cám ơn và nói rơ
t́nh h́nh về món quà biếu của anh dành cho anh Trương Văn Sương, song tất cả
mấy thư email đó đều bị bật trở lại mà không tới được người nhận, có lẽ
email đó do đọc qua điện thoại nên không được chính xác. Tôi hy vọng qua bài
viết này người Việt Kiều sống ở nơi nào trên nước Mỹ mênh mông đó, sẽ đọc và
biết được toàn bộ câu chuyện về tấm ḷng của anh và sự nhiệt t́nh của tôi
đối với anh Trương Văn Sương. Dù như thế nào tôi cũng sẽ dành số tiền nhỏ
nhoi c̣n lại để giúp đỡ những đồng bào khốn khổ ở Mai Xuân Thưởng hay ở Hà
nội mà tôi đă, đang và sẽ gặp họ.
Tôi c̣n được nghe các tù h́nh sự và tù an ninh chính trị cùng buồng giam với
tôi kể rằng anh Trương Văn Sương là người rất hiền lành, chất phác và thật
thà, sống tốt với anh em cùng buồng. Hàng năm bố anh tên là Trương Văn Tài
vẫn gửi đồ và tiền ra thăm nuôi anh dù là rất ít ỏi v́ gia đ́nh anh cũng rất
nghèo khổ. Anh sống rất gắn kết, hoà thuận với anh em cùng trong buồng giam.
Đă mấy lần tôi báo cáo trực tiếp quản giáo để được sang thăm anh Sương nhưng
họ đều từ chối. Nhiều hôm trời mưa rất to, tôi đội áo mưa chạy sang buồng số
6 để thăm anh nhưng cửa phân khu và cửa buồng giam đều khoá chặt, do đó
không thực hiện được mong muốn nhỏ bé này. Đối với các tù h́nh sự ở các
buồng khác th́ họ trèo rào, vượt phân khu sang thăm nhau, ăn uống chè chén
với nhau là chuyện b́nh thường. Nhưng đối với những người tù chính trị như
chúng tôi và cả anh em dân tộc người Thượng nữa không bao giờ làm những điều
dù rất nhỏ bé như vậy để tránh cán bộ họ đánh giá nhầm và hiểu sai về chúng
tôi. Tôi viết bài này c̣n có một động lực thôi thúc nữa là do anh Nguyễn
Giang hiện là phóng viên của đài phát thanh BBC có một lần gọi điện về giục
tôi gửi bài góp ư cho đại hội Đảng CSVN X cho website của BBC. Tôi và anh
Nguyễn Giang trong buổi nói chuyện hồi giữa tháng 2-2006 cũng đă đề cập đến
trường hợp của anh Trương Văn Sương và anh Nguyễn Giang mong muốn có một bài
viết riêng về trường hợp này để đài phát thanh BBC đăng tải. Hôm nay bài
viết này đă được hoàn thành và tôi mong muốn nó đến được tay anh phóng viên
Nguyễn Giang của đài BBC và các bạn quan tâm.
Suy nghĩ của tôi khi viết bài này là chỉ mong Đảng CSVN, nhà nước Việt Nam
và Bộ công an thôi đi hăy đừng cố chấp, hăy đừng mong mỏi ǵ được mấy ḍng
chữ “tôi nhận rơ tội lỗi, thật thà ăn năn hối cải” ở nơi anh Trương Văn
Sương và nhiều người tù khác nữa theo “4 tiêu chuẩn 1269” vô hồn, vô nghĩa
kia nữa. Mà hăy cao hơn thế là t́nh người, là ḷng nhân đạo, là sự bao dung,
là sự khoan dung và sự đại lượng…hăy thả vô điều kiện những người tù như anh
Trương Văn Sương ra khỏi trại giam v́ anh đă ở tù gần 30 năm là quá đủ rồi.
Dù những người án tù nặng như anh Sương, anh Bàn, anh Thuỵ, anh Huy…Và rất
nhiều người khác nữa, cho dù tất cả họ có được thả ra ngay th́ tôi tin chắc
rằng họ cũng không đe doạ nghiêm trọng đến sự sống c̣n của đảng và nhà nước
CSVN hiện nay. Bởi v́,đa số họ đă quá già yếu và cùng lắm họ chỉ là những
người có chính kiến, quan điểm, lập trường chính trị đối lập mănh liệt với
Đảng và nhà nước CSVN hiện nay như các ông Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Dương
Thu Hương, LM Nguyễn Văn Lư, Hoà thượng Thích Quảng Độ, chủ hội Phật giáo
Hoà Hảo Lê Quang Liêm, LM Chân Tín, nhà văn Trần Mạnh Hảo, TS Nguyễn Thanh
Giang, nhà văn Hoàng Tiến, học giả Trần Khuê, GS Nguyễn Chính Kết, cựu trung
tá Trần Anh Kim, một số trí thức trẻ như KS Đỗ Nam Hải, luật sư Nguyễn Văn
Đài, nhà báo Phan Thế Hải, hoạ sỹ Nguyễn Minh Thành, kể cả chính tôi nữa…và
c̣n rất nhiều những người bất đồng chính kiến khác nữa.
Tôi và dư luận nói chung cũng đều biết rất rơ trong số những người tù nói
trên hay những người tù chống đối chế độ và nhà nước của ĐCSVN ở những vụ án
khác đă được đem ra xét xử, có rất nhiều người tham gia đấu tranh vũ trang,
hay xâm nhập vào Việt nam để tiến hành các hoạt động nhằm giải thể thế chế
chính trị XHCN này. Nhưng cho đến nay hầu như tất cả không c̣n nhóm, tổ
chức, hay cá nhân nào c̣n có những hoạt động phản kháng theo kiểu cổ lỗ đó
nữa. Mà hầu hết bây giờ mọi phản kháng đều chuyển sang h́nh thức đấu tranh
văn minh mới, rất tiến bộ, đầy tính nhân văn trên mặt trận văn hoá, diễn
biến tư tưởng, nhận thức, tuyên truyền, internet, sách báo, mang tính chất
bất bạo động, tránh đổ máu. Và suy cho cùng vấn đề đấu tranh vũ trang để
chống lại một nhà nước, thể chế chính trị cổ hủ, lạc hậu, phản động, phản
cách mạng đă không c̣n phục vụ lợi ích của đa số nhân dân, dân tộc, đất nước
Việt nam nữa ở bất cứ giai đoạn lịch sử nào, th́ nó cũng giống như các cuộc
nổi dậy khởi nghĩa của các anh hùng áo vải thời xưa kia như Hoàng Hoa Thám,
Phan Đ́nh Phùng, Nguyễn Thiện Thuật… Hay cũng giống chính như những người
cộng sản đă lănh đạo nhân dân dùng vũ khí chống lại chế độ thực dân phong
kiến trước đây góp phần dành độc lập cho nước nhà. Và nói chung họ là những
người sống có nghĩa khí, có can đảm, có ḷng yêu nước, t́nh thương yêu ṇi
giống, v́ mục đích cao cả cho cộng đồng, cho quê hương, đất nước ḿnh. Và
chúng ta phải có cái nh́n rộng mở hơn, sâu sắc hơn để hiểu rơ cội nguồn mà
từ đó cảm thông và chia sẻ với họ.
Nhân đây tôi cũng muốn đặt câu hỏi với ông Lê Dũng người phát ngôn bộ ngoại
giao chính phủ nước CHXHCNVN và bà Tôn Nữ Thị Ninh, phó chủ nhiệm ủy ban đối
ngoại Quốc hội nước CHXHCNVN rằng : “Những người tôi nêu trong bài viết
này như các ông Trương Văn Sương, Vũ Đ́nh Thụy, Phan Văn Bàn, Bùi Thúc Nhu,
Nguyễn Đ́nh Văn Long, Trần Tư, Trần Quang Đô, Đỗ Hườn,Ḥang Xuân Huy Nguyễn
Vũ B́nh, Phạm Hồng Sơn, Hà Tấn Phương, Nguyễn Trọng Đăi, Trương Văn Chàng
v.v. ... Vậy họ có phải là tù chính trị không ?! Và những người như Mùa Sáy
Xó,cũng như c̣n rất nhiều có đến hàng chục, hàng trăm những đồng bào dân tộc
Tây nguyên chỉ v́ Truyền đạo tin lành đă sống ở trong tù cùng tôi nhiều năm
qua và hiện nay họ vẫn c̣n chen chúc trong các buồng giam số 1, số 2, số 6,
phân trại I và buồng giam số 6 phân trại III trại giam Nam Hà như Ksor Nơm,
Y Oal Niel, Siu Dam Jú, Y Nga Niel, Y Blong, A Ma Hưng v..v.. Vậy họ có phải
tù v́ lư do tôn giáo không ?! Thế th́ họ là ai ?!” Tôi cũng đặt thêm câu
hỏi cho cả hai người rằng : “Những người CS trước đây đă chống chế độ
thực dân, đế quốc Pháp và nhà nước phong kiến Việt Nam đă bị bắt, bỏ tù giam
như các ông Hồ Chí Minh, Lê Duẩn , Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ,
Xuân Thủy, Tố Hữu, Hoàng Quốc Việt v..v… Họ là tù h́nh sự hay tù chính trị
??? Bản chất những hoạt động chính trị của những người Cộng sản này, có khác
ǵ so với những người chống đối chính trị nhà nước Việt Nam XHCN không
???” Ở đây tôi mới nêu một trại giam mà tôi từng chứng kiến, thế c̣n bao
nhiêu trại giam khác trên đất nước khốn khổ nhỏ bé này mà chưa được nêu ???
Vậy mà rất nhiều lần dư luận thế giới cũng như trong nước thường được nghe
ông Lê Dũng, bà Tôn Nữ Thị Ninh, và kể cả ông thượng tướng thứ trưởng Bộ
Công An Nguyễn Văn Hưởng vẫn cứ leo lẻo chối bay chối biến là: “ở nước
CHXHCNVN không có tù nhân chính trị, tù nhân bất đồng chính kiến, tù nhân v́
lư do bị đàn áp tôn giáo !!!???” Thế là sao ??? Là sao ???
Tôi cũng rất cảm phục và thương mến anh Trương Văn Sương, tôi mong mỏi anh
sớm được trở về đoàn tụ bên người cha già đang héo hắt ngóng trông từng
ngày, từng giờ nơi quê nhà xa xôi. Bởi v́ anh đă chịu án tù đày dài tới
28-30 năm ṛng ră, đă trải qua nhiều nhà tù khốc liệt ở Việt nam và cho đến
bây giờ vẫn chưa được nhà cầm quyền CSVN thả ra. Anh quả thật, rất xứng đáng
là một người tù chính trị bất khuất, can trường và có thể được xem là một
Nelson Mandela của Việt nam !
Hà nội ngày 12 tháng 5 năm 2005
Nhà báo tự do, cựu tù nhân chính trị
Nguyễn Khắc Toàn
Địa chỉ: số 11 Ngơ Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, TP Hà nội.
Mọi liên hệ xin gửi về Email: gopydtbcct2006@yahoo.com
Ghi chú: Điện thoại gia đ́nh 84.4.260244 bị cắt, mobile cá nhân đă bị công
an và bưu điện Hà nội phá huỷ lần thứ 3, internet tại nhà riêng cũng bị cắt
cùng với điện thoại sau khi tôi gửi thư góp ư xây dựng bản dự thảo báo cáo
chính trị đại hội X 2006 của ĐCSVN và viết nhiều bài đ̣i dân chủ hoá đất
nước, đ̣i đa nguyên đa đảng,đ̣i xoá bỏ chế độ độc tài đảng trị tại VN