Học Những Bài Học Iraq - Việt Nam,  
Những Bài Học Lăng Quên

Bill Bell  
Chuyển Dịch: Nguyễn Phượng Hoàng

LTS: Sau đây là bài viết của ông Bill Bell, một biên tập viên của Tạp Chí Cách Mạng, nhân dịp kỷ niệm 31 năm Miền Nam Việt Nam đă bị mất vào tay CSVN. Ông Garnett "Bill" Bell, một người lính bộ binh, đến Việt Nam năm 1965 và đă phục vụ nhiều "tour" ngoài mặt trận tại Việt Nam. Vợ và con trai ông Bell đă bị tử nạn và cô con gái đă bị thương nặng hôm tháng Tư năm 1975, khi gia đ́nh của các viên chức Hoa Kỳ của toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài G̣n đă được tản cư cùng chung với chiến dịch "Operation Babylift" (tản cư các cô nhi). Ông Bell đă trở lại Việt Nam sau thời hậu chiến, và là viên chức đại diện Hoa Kỳ đầu tiên sau khi cuộc chiến kết thúc khi ông được chỉ định làm Chánh Văn Pḥng về POW/MIA ở Hà Nội. Ông Bell sau đó phục vụ như là một thành viên của ban Nhân Viên Quốc Hội (Congressional Staff) của Hạ Viện Hoa Kỳ. Văn bản bằng tiếng Anh có thể t́m thấy tại trang nhà www.daiviet.org. Ông Bell là đồng tác giả của cuốn hồi kư về cuộc chiến tranh Việt Nam: "Không Để Lại Một Ai" (Leave No Man Behind).

Khi chiếc trực thăng bốc lên từ mái nhà của toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài G̣n vào lúc rạng đông ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi đă nghĩ đến cảnh tàn sát của chiếc hỏa tiễn tầm nhiệt bắn bởi những lực lượng Cộng Sản Việt Nam hiện từ từ bao quanh vây hăm thủ đô của nền Việt Nam Cộng Ḥa đang hấp hối. Kiệt sức bởi thiếu ngủ hàng nhiều ngày, tôi hết cả sợ hăi, chỉ c̣n là những sự hỗn loạn. Cặp mắt tôi ngập đầy nước mắt, có lẽ phần v́ nỗi đau đớn đang mục kích một sự kiện đau thương đang bắt đầu, nhưng cũng phần là v́ những luồng khói cay độc phun ra trên nóc nhà từ những ḷ đốt rác đang đốt cháy rực đỏ hàng tập giấy tài liệu mật của chính phủ Hoa Kỳ. Cảm thấy phần nào nhẹ nhơm, song le tôi lại thấy cảm giác tội lỗi mạnh hơn nữa.

Vào những ngày cuối cùng của nền Cộng Ḥa Việt Nam, khi tôi nh́n xuống khoảng đất đang từ từ biến mất và nh́n vào đôi mắt kinh hoàng trên những khuôn mặt đau buồn của hàng trăm người Việt Nam và các công dân của những nước bạn với Hoa Kỳ, những người bị bỏ lại đàng sau, tôi biết rằng tôi sẽ bị ám ảnh hàng nhiều năm sau này. Khi chiếc "Hải Mă" tôn kính đập rộn ràng trong không khí ẩm ướt buổi sáng, đi về hướng chiếc tàu chở trực thăng đang đậu ở ngoài vùng duyên hải Vũng Tầu, những tên đạn lửa sáng rực màu sắc phóng lên từ ṿm rừng tối đen bên dưới như lời chào từ giă nước Mỹ và thời đại được mệnh danh là Chiến Tranh Việt Nam. Trong suốt 30 phút bay vào tương lai, tôi ngồi bần thần và tức giận sau gần 10 năm dính líu đến một vùng đất xa xôi tên gọi là Việt Nam. Tôi tự hỏi không hiểu những mạng sống và tiền bạc mà người Mỹ hy sinh có xứng đáng hay vô ích. Sau 30 năm trầm ngâm suy tưởng vấn đề, tôi tin rằng bi giờ là thời gian tính vốn cuộc chiến của Hoa Kỳ ở Việt Nam để người Mỹ, nhất là những người như chúng ta đă phục vụ ở đó, cuối cùng có thể quyết định xem ngày kỷ niệm kết cục cuộc chiến đau thương thứ 31 sắp tới đây biểu hiện lư do cho sự ăn mừng hay là sự kéo dài của một cuộc thất trận đau đớn.

Với việc nhượng lại Miền Nam Việt Nam, như là nhiều phân tích gia đă tiên đoán, các lực lượng hồ hỡi cộng sản đă mau chóng xâm lăng và chiếm những khu vực đông dân cư. Hàng nhiều trăm ngàn các cựu quân nhân và các viên chức cán chính đă bị thanh lọc, phân loại và ghi vào sổ là những kẻ thù địch của cách mạng để bị giam giữ tại những trại tù tập trung xa xôi và cách biệt dưới những trạng thái khủng khiếp. Hàng nhiều ngàn người chết v́ bệnh tật và thiếu dinh dưỡng, nhiều người gia đ́nh họ không bao giờ được nghe thấy nữa. Cùng lúc đó, những người lănh đạo cộng sản khẳng định rằng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ở Miền Bắc và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời ở Miền Nam thống nhất là một. Từ ngày đó trở đi, theo bản hiến pháp, chỉ có một đảng chính trị, Đảng Cộng Sản Việt Nam, được quyền hiện hữu. Trên các văn bản và bao thư của chính phủ, ba chữ trước đây được dùng tạo nên câu khẩu hiệu toàn quốc của Miền Bắc cộng sản là: "Tự Do, Độc Lập và Dân Chủ" đă được đổi vô định kỳ thành: "Tự Do, Độc Lập và Hạnh Phúc". Với những người dân Việt Nam, sự thay đổi trong thuật ngữ này, nhất là việc chỉ đến sự hạnh phúc, đă mang lại một trong những nguồn giễu cợt trong suốt thời gian chán nản tuyệt vọng. C̣n làm nhục thêm vào nỗi đau đớn, những ngôi mộ của những người lính VNCH đă nằm xuống bị san bằng, phá trụi bởi các xe ủi đất (bulldozer) trong các nghĩa trang trên toàn quốc. Các máy đánh chữ, radio, TiVi và bất cứ cái ǵ có thể dùng để tuyên truyền hay truyền thông đều bị bắt buộc khai với "Ủy Ban Hành Chánh Quân Sự" trách nhiệm về an ninh chính trị dưới nền "Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam".

Khi niềm thích thú vơi đi, thỉnh thoảng những sự tham khảo tới chiến tranh Việt Nam đă đặt ra các cụm từ như "nguyên nhân cao đẹp" hay "một cuộc chiến không cần thiết". Câu hỏi để xem cuộc chiến tranh Việt Nam có hay không là điều cần thiết đă là điểm chia rẽ bất đồng trong các buổi tranh luận sau cuộc chiến, giống y như trong những ngày sau cuộc "Tổng Tấn Công Tết" 1968. Theo sự đánh giá của tôi về cả hai điều cần thiết và kết quả của cuộc chiến Việt Nam, hai điểm chính được xét là quyền lợi quốc gia của Hoa Kỳ lúc đó và sứ mệnh của các lực lượng quân sự Hoa Kỳ đă chiến đấu tại Đông Nam Á. Sứ mệnh chung tất cả của các lực lượng quân sự Hoa Kỳ của phần cuối thế kỷ 20 bắt đầu thành h́nh mau chóng sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt. Lúc đó chính sách của Hoa Kỳ là chặn đứng chủ thuyết Cộng Sản. Tôi tin rằng chính sách này hoàn toàn thoả đáng, bởi v́ rơ ràng là Cộng Sản Quốc Tế, nhất là Nga Sô và Trung Cộng, đă mưu cầu "giải phóng" toàn thế giới. Chính sách chặn đứng này đă được biết tới là "Cuộc Chiến Tranh Lạnh" và mặc dù đă có nhiều vụ đụng độ mănh liệt liên quan đến những đơn vị nhỏ và những phi hành đoàn trong các phi vụ thám thính và hành quân đặc biệt, chiến địa lớn đầu tiên của cuộc chiến đó đă bùng nổ vào năm 1950 trên bán đảo Đại Hàn, nơi mà sứ mệnh ngăn chặn chủ thuyết cộng sản hoàn tất mỹ măn nhưng bị giới báo chí truyền thông gắn cho cái tên "bế tắc".

Vào lúc bắt đầu cuộc chiến tranh ở Việt Nam, nhiệm vụ căn bản của người quân nhân Hoa Kỳ trên thế giới là giết, tiêu diệt hay bắt sống quân thù, hay đẩy lùi các cuộc tấn công bằng hỏa lực. Hơn một triệu người nam và nữ đă đáp lời hiệu triệu của tổ quốc, và họ đă làm hết sức ḿnh để hoàn tất nhiệm vụ của ḿnh ở Đông Nam Á. Kết quả, 58.000 người Mỹ và khoảng 225.000 lính đồng minh đă làm một sự hy sinh tối thượng, trong khi đó qua sự so sánh, quân cộng sản Việt Nam đă bị tổn thất hơn 1 triệu 3 trăm ngàn (1.300.000) quân, bao gồm 150.000 lính bị chết mất xác tại mặt trận. Chính cá nhân tôi mục kích các lực lượng cộng sản đă bị đánh một cú mạnh nhất bởi những đoàn quân chiến đấu hăng say Hoa Kỳ và quân lực VNCH đă xẩy ra suốt ngày 31 tháng 1 năm 1968, cuộc tổng tấn công "Tết". Xác của hàng ngàn lính cộng sản được chất thành đống xung quanh các căn cứ dọc suốt Miền Nam Việt Nam, và sự tổn thất quá nặng nề cho phía bên cộng sản đến nỗi tất cả các cơ cấu quân sự cao cấp đă tạm thời bỏ, và các cán bộ được chọn để chỉ huy và điều khiển các đơn vị đă được chỉ định chỉ dựa trên địa vị hay chức vụ mà thôi, không phải dựa trên các cấp bậc quân sự nữa. Số lượng tử vong phía bên cộng sản nhiều đến nỗi chóng mặt, và bất cứ vị chỉ huy quân sự Hoa Kỳ nào có số lượng tổn thất chỉ bằng một phần trăm nhỏ của số thương vong bên cộng sản lúc đó th́ hầu như chắc chắn bị cách chức chỉ huy và bị đuổi ra khỏi lính một cách nhục nhă. Mặc dù các quân nhân và nữ quân nhân Hoa Kỳ đă chiến đấu một cách anh dũng trong suốc cuộc tổng tấn công "Tết" năm 1968, giới truyền thông Hoa Kỳ và quốc tế song le đă xoay sở để thay đổi sự chiến tháng đầy công lao khó nhọc của họ thành một sự thua trận trên mặt chính trị. Những chuyên viên tuyên truyền của cộng sản Việt Nam tài giỏi tới độ, họ đă thuyết phục được rất đông người trong giới truyền thông báo chí và ngay cả một số các nhà phân tích quân sự rằng hai chính phủ riêng biệt, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa ở Miền Bắc, hiện hữu song song và cả hai đă dính dáng đến một trận "nội chiến". Điều đă được chứng ḿnh rằng cả hai Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa đă bị chế ngự khắc khe bởi Đảng CSVN và cả hai chính phủ thật ra chỉ cùng là một, không khác. Hơn thế nữa, quân đội của hai tổ chức quân sự giả mạo của cả hai chính phủ ảo tưởng, Quân Đội Miền Bắc Việt Nam và Việt Cộng, trong thực tế chính là Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

Công nhận là nói về kinh phí th́ cuộc chiến Việt Nam không phải là rẻ. Tuỳ vào những con số của nhà chuyên gia nào, tổng cộng kinh phí của cuộc chiến Việt Nam mà Hoa Kỳ đă chi dùng nằm trong khoảng 220 tỷ đô la. Bằng vào sự so sánh với tổng số ngân sách quốc pḥng của Hoa Kỳ trong suốt thời hậu chiến, những năm ḥa b́nh đă vượt qua con số đó hàng năm. Trong thực tế một triệu quân nhân đă không thể được huấn luyện ở những trung tâm huấn luyện Hoa Kỳ cho thời hạn 10 năm với một số tiền ít hơn thế, ngay cho dù chỉ dùng những viên đạn mă tử. Trong khi cuộc chiến Việt Nam chắc chắn đă làm tiêu hao nền kinh tế Hoa Kỳ, trong suốt thập niên chúng ta giao chiến, th́ cựu Liên Bang Sô Viết cũng đă cung cấp những số lượng đáng kể về tài chánh và vật dụng để trợ giúp các lực lượng cộng sản đóng quân trải dài vùng Đông Nam Á. Sự trợ giúp của Liên Bang Sô Viết tới Việt Nam, cuộc xâm lăng A Phú Hăn năm 1979 và khó xoay sở, thêm nền kinh tế chế ngự tập trung tất cả cộng lại đă kéo Liên Bang Sô Viết cũ quỵ ngă và kéo theo sự sụp đổ của Đảng Cộng Sản. Cuối cùng sự sụp đổ này đă dẫn đến sự chấm dứt cuộc Chiến Tranh Lạnh. Những cựu chiến binh của cuộc Chiến Tranh Lạnh, nhất là những người đă chiến đấu tại Đại Hàn và Việt Nam, hiện tại đang thụ hưởng ḷng biết ơn sâu xa của dân chúng ở nhiều nước Âu Châu, Đông Á và Đông Nam Á. Riêng về Việt Nam, như là kết quả của những hy sinh của các cựu chiến binh Hoa Kỳ, ngày hôm nay dân chúng Thái Lan, Mă Lai Á, Phi Luật tân, Tân Gia Ba và Nam Dương đang sống dưới một chính phủ tự do dân cử. Điều này kể được cho một phần tư dân số trên trái đất. Rơ ràng, người thật sự mất mát chính là dân tộc Việt Nam, không hẳn chỉ những người của chế độ VNCH cũ, nhưng mọi công dân từ khắp miền đất nước, bao gồm cả Miền Bắc. Mặc dù hàng triệu người Việt Nam "đă bỏ phiếu bằng chân" qua cách chạy trốn trên những chiếc thuyền bé bỏng băng ngang những luồng sóng đại dương đầy nguy hiểm, kết cục là những tử vong kinh hoàng của nhân loại, ngày nay hàng triệu người Việt Nam hăy c̣n khát khao được tự dọ

Khi mà ngày kỷ niệm thứ 31 kết thúc chiến tranh Việt Nam đang đến, tôi tin là hai vấn đề song phương quan trọng bậc nhất hăy c̣n giữa nước Hoa Kỳ và nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là một cuộc kiểm kê cho hơn 1800 người Mỹ hăy c̣n mất tích bởi chiến tranh Việt Nam, và một nền dân chủ cho người Việt Nam. Hàng loạt các chính phủ kế thừa ở Washington D.C đă áp lực cho nền dân chủ ở nhiều nước trên thế giới, bao gồm Nga Sô, Haiti, Nam Phi, A Phú Hăn và Iraq. Nhưng chỉ có rất ít biểu hiện sự quan tâm đạt được cho nền dân chủ cho những người Á Châu, và tiêu chuẩn hai mặt này th́ thật khó hiểu nổi. Nó gần giống như là chúng ta, những người Mỹ, có một cái nh́n chung là chúng ta tin rằng những người có mầu da vàng không thể ǵn giữ được tự do, và sự kiểm soát chặt chẽ là điều chọn lựa duy nhất có được. Đó chẳng phải là điều bí mật ǵ cả về cộng đồng thương mại người Hoa Kỳ, đă xông xáo mua trọn những hàng hóa rẻ mạt làm ở Á Châu để bán lại trên thị trường Hoa Kỳ, đă bị đui mù bởi sự thiếu vắng các nghiệp đoàn lao động, lương bổng rẻ mạt và ḷng sợ hăi những cuộc trả thù bạo động chống lại những cuộc đ́nh công lao động. Một điều thật mỉa mai sau khi hơn 58000 người thanh niên trẻ Hoa Kỳ đă chết ở Việt Nam để chiến đấu cho nền dân chủ th́ cộng đồng thương Mại Hoa Kỳ hiện tại phát triển đều đặn nền kinh tế do cộng sản kiềm chế tại Việt Nam, bảo đảm rằng Đảng CSVN sẽ không những chỉ tiếp tục nắm quyền mà c̣n gia tăng khả năng duy tŕ một lực lượng quân sự rộng lớn hơn và mạnh hơn.

Về hoàn cảnh khó khăn của những gia đ́nh của những tù nhân chiến tranh (POW) và mất tích (MIA), nền dân chủ cũng có thể đi một đường dài để giúp về mặt này. Tôi tin rằng hầu hết những người Hoa Kỳ, nhất là các cựu chiến binh Việt Nam, sẽ đồng ư là hầu hết các người Việt Nam đều lưong thiện và làm việc cần cù. Giống như dân của chúng ta ở ngay tại nước, tôi không thể tưởng tượng ra được một trường hợp nào mà người dân Việt Nam muốn che dấu hài cốt của người thân của bất cứ ai để tống tiền họ. Mặc dù trong suốt 30 năm qua những người cộng sản cầm quyền đă phát nhỏ giọt một vài mảnh vụn của những xương cốt khô và các vật dụng cá nhân để nhận những khoản tiền kếch sù, một khi Đảng CSVN bị sụp đổ, dân chúng Việt Nam sẽ có cơ hội vùng lên và cung cấp bất cứ sự trợ giúp cần thiết nào để giải quyết vấn đề người mất tích của chúng ta. Mọi người chúng ta phải làm tất cả những ǵ chúng ta có thể làm được để đảm bảo ngày đó sẽ đến.

Bill Bell