Nghi án phong thủy: Trụ
đồng Mă Viện
Hằng nằm
cứ vào ngày 6-2 âm lịch lể kỷ niệm hai bà
Trưng được cử hành tại nhiều nơi có
người Việt sinh sống. Đây là một sinh
hoạt có tính lịch sử truyền thống.
Vào năm 40 sau công nguyên Trưng
Trắc cùng em là Trưng Nhị quê ở Mê Linh đă
dựng cờ khởi nghĩa trước là trả thù cho
chồng sau là đánh đuổi quân xâm lượt, Hai Bà
đă lấy được 65 thành tŕ và sau đó là xưng
vương họ Trưng.
Năm 42 scn Mă Viện theo đường biển xua quân đánh
trở lại. Trước thế giặc
mạnh, quân hai bà chống cự không nổi, rút lui về
Cẩm Khê và tan hàng từ đó.
Sau khi xâm chiếm đất Giao
Chỉ Mă Viện cho thực hiện hai công tŕnh là: Dựng
trụ đồng Mă Viện tại động Cổ Sâm,
châu Khâm và xây thành Kiên Giang h́nh tổ kén ở Phong Khê.
(hinh so 1)
Đền thờ Hai Bà Trưng
tại xă Hát Môn, Sơn Tây đang trong giai đoạn trùng
tu
Nguồn: Thiên Đức 8/2005
Trang
lịch sử này đă gây nhiều tranh căi về nhiều
vấn đề như là :
-
Nguyên do khởi
nghĩa của hai bà v́ thù chồng hay v́ nợ nước?
-
Hai bà lập nên chế
độ mẫu hệ đầu tiên ở Việt
-
Ngày lễ kỷ
niệm của hai bà cũng có sự khác biệt? Ngày 6/2 hay
6/3 Âm lịch?
-
Nguyên do cái chết
của hai bà nhảy sông tự tử hay bị chém đem
đầu về Trung Quốc?
Cho dù có đặt nghi vấn
như thế nào chăng nữa chúng ta cũng phải
thừa nhận một điều là Bà Trưng là vị
nữ vua đầu tiên tại Việt
Hai bà Trưng đă tạo
dựng nên truyền thống vẻ vang nữ anh hùng dân
tộc trong lịch sử Việt
Một câu hỏi đặt ra
là: tại sao trong suốt gần 2000 năm kế tiếp
dân tộc ta vẫn không xuất hiện được
một vị nữ anh hùng thứ hai có tầm cỡ Bà
Trưng cho dù lịch sử Việt Nam là lịch sử
của chiến tranh chống ngoại xâm từ đó cho
đến nay? Phải chăng người
phụ nữ Việt
Thật vậy nghi vấn đó
phát xuất từ hai hành vi cụ
thể đầy bí ẩn của Mă Viện sau khi xâm
chiếm đất nước ta chưa được lư
giải rơ ràng.
Theo Khâm Định Việt Sử
Thương Giám Cương Mục trang 24-25 ghi
:” Trưng vương cùng em gái là Nhị cự
chiến với quân Hán, quân vỡ, thế cô, đều
bị thất trận chết. Mă Viện
đuổi đánh tàn quân của hai bà là bọn Đô
Dương đến huyện Cư Phong th́ hàng phục
được họ. Mă Viện lập cột
đồng để ghi địa giới tận cùng của
Nhà Hán...
Sách Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên chép
rằng: Mă Văn Uyên (tức Mă Viện) dựng cái mốc
đồng để làm giới hạn cuối cùng
của đất phía nam Trung Quốc....
Sách Nhất Thống Chí nhà Đại Thanh có chép:
Tương truyền cột đồng ở về
động Cổ Sâm châu Khâm, Mă viện có thề rằng:
“Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” nghĩa là
“Cột đồng ấy găy th́ Giao Chỉ bị
diệt”, nên người Việt đi qua dưới chân
cột đồng ấy cứ lấy đá bồi
đắp lên măi thành g̣ đống cao. Đó v́ sợ cột đồng ấy bị
đổ găy.
Mă Viện nhà Hán đắp thành
Kiển Giang
V́ thấy huyện Tây Vu có
đến ba vạn ba ngh́n hộ, Mă Viện xin chia ra làm
hai huyện Phong Khê và Vọng Hải. Vua Hán y cho Mă Viện
lại lập hành quách, đặt tỉnh ấp (xóm làng),
đắp thành Kiển Giang ở Phong Khê. Thành
này h́nh tṛn như cái Tổ kén. Nên gọi
là thành Kiển giang. Ba năm sau Mă
Viện về nước.
http://viethoc.org/eholdings/sach/kdvstgcm.pdf
A/- Trụ Đồng Mă Viện: Trải qua một thời gian
dài bị đô hộ dưới thời Hán thuộc,
trụ đồng Mă Viện đă hoàn toàn mất hết
dấu tích nhưng vẫn c̣n để lại nhiều nghi
vấn lịch sử như sau:
I/- Sự thật của trụ
đồng:
Trụ đồng
Mă Viện là một câu chuyện có thật, đă
được ghi vào sử liệu của cả hai
nước Trung Hoa và Việt
Vào đời vua
Trần Thánh Tôn đă cho người đi t́m lại
dấu tích cột đồng nhưng không thấy.
“Tháng 4 mùa
hạ.( 1272) Sai viên ngoại lang là Lê Kính
Phu sang hội với người nhà Nguyên biện luận
việc cương giới. Nhà Nguyên sai Ngột
Lương sang hỏi giới mốc đồng trụ
ngày trước, nhà vua phái Lê Kính Phu đi hội
đồng khám xét. Kính Phu nói với Nhà Nguyên rằng:
“Chỗ cột đồng do Mă Viện dựng lên lâu ngày
bị ch́m lấp, nay không thể biết ở chỗ nào
được.” Việc đó sau cũng thôi. ...( KDVSTGCMCB Quyển
“Tháng 8 mùa thu
(1345) Sai sứ sang nhà Nguyên. Nhà Nguyên sai Vương Sĩ
Hành sang hỏi địa giới cột đồng ngày
trước. Nhà vua sai Phạm Sư Mạnh sang Nguyên
biện bạch sự việc này.” (KDVSTGCMCB quyển IX Tr.279)
II/- Vị trí của trụ
đồng:
Đa số sử liệu đă
thống nhất vị trí của trụ đồng
như sau:
-
Sách
Nhất Thống Chí nhà Đại Thanh chép: Cột đồng
ở về động Cổ Sâm, châu Khâm
-
Đại
Việt Sử Kư Toàn Thư Ngoại Kư của Lê Văn
Hưu Quyển III Tr. 22 ghi : Mă Viện
bèn dựng cột đồng làm giới hạn cuối
cùng của nhà Hán. Cột đồng tương truyền
ở trên động cổ Lâu, châu Khâm.
Tóm lại theo sử liệu trên
có thể kết luận là trụ đồng nằm
ở vùng Châu Khâm tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu
thuộc vùng biên giới cực bắc Giao Chỉ cũng
là cực nam nhà Hán.
Một vấn đề cần
được sáng tỏ nữa là: châu Khâm là huyện biên
giới giữa Giao Chỉ và Nam Hán hiện nay nằm
ở đâu?
Theo tài liệu nghiên cứu
mới nhất của bác sỹ Trần Đại Sỹ, Giám
đốc Trung Quốc sự vụ, viện Pháp Á “ Thử t́m lại biên giới cổ của
Việt
http://www.vietnamsante.com/trandaisy/tds-nguongoctocviet.pdf
Sau khi dẫn chứng lịch
sử thời hai bà Trưng, di tích, cổ vật, cùng
kết quả thử nghiệm
Sự phát hiện này có thể
xác quyết một điều là vị trí trụ
đồng nằm ở biên giới phía Bắc Việt Nam
qua thời gian đô hộ đă bị Trung quốc
lấn chiếm và vùng đất động Cổ Sâm
(Cổ Lâu) hiện nằm sâu trong lănh địa Trung
Quốc hiện nay.
Trong hầu hết
cổ sử Trung Quốc và sử Việt ghi chép lại,
giải thích câu này chỉ là một lời thề. Điểm này có
nhiều nghịch lư.
1.- Đây không thể là một
lời thề, thật vậy Mă Viện là người
đi chinh phục và vui mừng thắng trận, nên không có
động cơ nào để tạo ra một lời
thề ghi trên trụ đồng. V́ vậy
sách sử gọi đây là lời thề là không đúng
sự thật.
2.- Ư nghĩa câu chữ “Trụ
đồng chiết, Giao Chỉ diệt” ngầm ư hăm
dọa cũng như gây hận thù với dân tộc Giao
Chỉ rất là phi chính trị. Theo sử
sách cho biết Mă Viện là một danh tướng văn
vơ song toàn giỏi quân sự lẫn chính trị, có thể
nào ngây ngô đưa ra một lời thề phi chính trị
như trên hay không? Tất nhiên là không, v́
thế Mă Viện cố t́nh ghi khắc câu này tất
phải có mưu đồ sâu độc nào đó
đối với đất nước Giao Chỉ
vậy.
3.- Đa số sách sử Trung Hoa
cũng như Việt
Do vậy sự dịch
thuật câu chữ này hoàn toàn sai lầm một cách cố
t́nh nhằm che dấu một bí mật lịch sử mà
người viết sẽ phân tích ở phần sau.
IV/- Công dụng của trụ
đồng:
Hiện nay vẫn
c̣n nhiều tranh căi và cũng chưa có lời đáp thích
hợp.
1)- Theo sử gia Phạm Văn
Sơn chuyện cột đồng Mă Viện thiết
tưởng không đáng tin lắm chỉ nên coi là một
giai thoại không hơn không kém... Nếu coi
cột đồng Mă Viện là một mỹ đàm th́ chép
vào sử để làm một câu chuyện kể chơi
cho có thú vị thiết tưởng không hại ǵ. (Việt sử Tân Biên tr.199). Đây
chỉ là lối nói huề vốn khi không lư giải
được những nghịch lư của câu chuyện
trụ đồng, do vậy không đáng tin cậy. Viết lịch sử của một dân tộc
cần sự nghiêm túc chứ không phải là chuyện
mỹ đàm, kể chơi cho vui.
2)- Theo tác giả Trương Thái Du trong bài
“Một cách tiếp cận những vấn đề
cổ sử Việt
Cột
đồng Mă Viện dựng năm 43 ở quận Giao
Chỉ và Tây Đồ Di cũng chính là đài quan trắc thiên
văn ... Trong công tác thiên văn thời Mă Viện,
để xác định những vùng đất mới,
cần phải tiến hành quan trắc các chỉ số
năm này qua năm khác. Cột thiên văn chuẩn phải
vừa tránh được thời tiết xâm hại,
vừa bền vững nên chất liệu đồng
đă được chọn. Muốn đo đầy
đủ th́ phải cử người ở lại làm
việc, ít nhất là hằng năm tập hợp số
liệu đem về kinh đô. Chuyện dân
gian Việt
Giả
thiết này khó thuyết phục bởi những nghịch
lư sau: Một cột đồng đặc ruột
thuần túy trồng giữa trời mưa nắng không
thể gọi là một đài (?)thiên
văn được. Theo người viết hiểu ư
của tác giả là trụ đồng Mă Viện
được sử dụng như là một cái cột
chuẩn để đo lường sự di chuyển
của bóng mặt trời, mặt trăng.... Nếu
chỉ với công dụng như vậy th́ chẳng
cần phải dùng cột đồng làm ǵ cho năng
nhọc, thực hiện khó khăn (từ việc gom
đồng, đúc cột, điêu khắc, di chuyển,
dựng cột...), rất tốn kém tiền bạc, công
sức và thời gian. Ngoài ra c̣n viện lư do khỏi bị
thời tiết xâm hại lại không chuẩn.
V́ rằng
cột đồng to và cao đủ để đo bóng
mặt trời th́ rất nặng hằng tấn tạo
sức ép trên một tiết diện nhỏ th́ với
thời tiết mưa lụt khí hậu ẩm thấp,
đất ướt, mềm nở ra rất dễ
bị lún, hay đổ ngă nguy hiểm. Với độ
lún hằng năm của trụ đồng, th́ độ
đo đạt lại càng thiếu chính xác, sẽ làm giảm
mất giá trị công dụng nói ở trên. Với
trụ gỗ tốt vừa nhẹ, bền, dễ
kiếm, dễ bảo quản, dễ thay thế, lại
đạt yêu cầu trên có lẽ hợp lư hơn cột
đồng.
Với uy
danh của một tướng lănh thống trị
đương thời chắc chắn có rất nhiều
cách để bảo quản trụ đồng cần ǵ
phải ngầm bảo dân bị trị phải coi sóc
“đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận bằng câu
“Đồng trụ chiết, Giao chỉ diệt” vừa vô
chính trị đối với một vị tướng
văn vơ toàn tài, vừa mất tư cách đạo
đức của một kẽ đi thống trị. Với toán công tác thường trực ghi số
liệu báo cáo hằng năm không đủ sức bảo
quản trụ khí tượng hay sao, mà cần phải
ngầm bảo dân bị trị coi sóc?
3)- Theo cổ sử, cột đồng chỉ
là cột mốc biên giới mà thôi. Lối
giải thích này cũng không thỏa đáng. Nếu là
cột mốc biên giới tại sao không ghi những thông
tin cần có của vùng biên giới lại ghi câu : “Trụ đồng chiết , Giao
Chỉ diệt” trên cột đồng?.
Thứ
nữa là cột mốc biên giới tại sao không
đặt tại những con đường đi
giữa ranh giới của hai nước, mà lại
đặt tại một hang động trong vùng hẻo
lánh?
B/- KIỂN THÀNH: Là công tŕnh
cụ thể thứ hai của Mă Viện đă hoàn thành
trước khi về nước. Theo sách sử giải
thích thành Kiển Giang có h́nh tổ kén của con tằm,
như vậy nó có h́nh tṛn và dài túm hai đầu, chứ
không đơn giản là h́nh tṛn ghi trong sử liệu,
đă đem lại nhiều ngộ nhận cho
người đọc sử.
H́nh dáng của
Kiển Thành cũng đem là nhiều nghi vấn. Thật vậy đây là
loại thành quách quân sự rất hiếm thấy trong
sử sách, là loại h́nh dài và ốm có rất nhiều
nhược điểm như sau:
-
Dễ
bị tàn phá bởi thời tiết gió băo, thật vậy
một trường thành dài và ốm sẽ hứng
chịu nhiều sức tàn phá của gió băo hơn là
một bức thành ngắn, tṛn hay vuông và rộng.
-
Mục
đích xây thành cho dân ở v́ dân số đông mà lại xây
thành h́nh ốm và đài là không kinh tế và khó có thể
thỏa măn đầy đủ nhu cầu phát triển
cư dân về lâu dài.
-
Về
mặt quân sự một trường thành dài rất khó
trấn thủ v́ tốn kém nhiều nhân lực canh gác, và
khó tiếp ứng từ đầu này đến
đầu khác.
V́ thế câu
hỏi đặt ra là tại sao không xây thành h́nh vuông,
đa giác lồi hay h́nh tṛn b́nh thường như
những thành quách khác mà lại xây thành h́nh cái kén? Ẩn ư của
kiến trúc này là ǵ vẫn chưa được giải
đáp trong sử sách.
Tóm lại,
những nghịch lư trên của lịch sử đă
trải qua gần 2000 năm vẫn chưa được
lư giải minh bạch dưới nhăn quang của các nhà
sử học hay nhà khảo cổ. Thế nhưng,
nếu nh́n sự việc trên đây bằng nhăn quang
của một nhà phong thủy th́ tất cả mọi nghi
vấn trên đều được giải đáp
thỏa đáng.
Thật vậy đây là một
trận đồ phong thủy mà Mă Viện bày ra nhằm
hăm hại đất nước Giao Chỉ. Hai Bà Trưng
đối với Việt Nam là những anh hùng dân tộc,
thế nhưng theo quan niệm của triều đ́nh Hán
hai bà Trưng chỉ là yêu tặc.
Theo An Nam Chí Lược (trang 40)
do tác giả Lê Tắc là người Việt nam, chạy
qua sống ở Trung Hoa và viết sử theo quan niệm
của Trung Hoa như sau:
Năm Kiến Vơ thứ 16
của Hán Quang Vũ Đế (sau công nguyên 40), người
đàn bà Giao Chỉ là Trưng Trắc làm phản, quận
Cửu Chân và quận Nhật Nam đều hưởng
ứng theo. đành các quận ấp,
cướp được 60 thành, rồi tự lập làm
vua...
Đến năm Kiến Vơ thứ 19
Mă Viện chém yêu tặc là Trưng Nhị (Nhị là em gái
của Trưng Trắc) và đánh luôn dư đảng,
bọn Đô Lương, đến huyện Cư Phong,
bọn này chịu đầu hàng...
http://viethoc.org/eholdings/sach/ancl.pdf
Vào thời đại nhà Hán, thuật phong
thủy, địa lư rất thịnh hành, tất cả
những công tŕnh xây dựng mồ mả, lâu đài
đều tuân hành nghiêm túc quy luật địa lư phong
thủy.
Ảnh
hưởng bởi quan niệm này, Mă Viện sau khi trừ
diệt được hai Bà Trưng(?)đă bày một trận đồ phong
thủy để diệt tận gốc yêu quái, trừ
hậu hoạn, nhằm hăm hại đất nước
ta không c̣n vua nữ giới nữa bằng những hành
động như sau:
1- Mă Viện
cho dựng một trụ đồng tại động
Cổ Sâm hay Cổ Lâu, nghi vấn đặt ra là tại
sao không đặt nơi đồng bằng trống
trải dễ thấy hay tại những con
đường đi lại giữa hai nước như
là cột mốc b́nh thường mà lại đặt
tại một hang động? Chỉ có thể trả
lời là động Cổ Sâm chính là huyệt hàm rồng
kết phát làm vua của đất Giao Chỉ nên Mă
Viện muốn phá hủy để đất
nước không c̣n vua nữa, dễ bề cai trị.
Nếu
tự nhiên Mă Viện cho đào sâu xuống để chôn hoàn
toàn một trụ đồng mà không có lư do chính đáng th́
mọi người sẽ nghi ngờ, và gặp nhiều
khó khăn trong thực hiện, vả
lại cũng kém hiệu quả về mặt phong
thủy. V́ thế mà Mă Viện đă thâm độc, cho
dựng đứng trụ đồng không cần phải
chôn sâu và ghi khắc câu chữ “Trụ Đồng chiết,
Giao Chỉ diệt” bề ngoài như là hăm dọa,
nhưng thực chất là khiêu khích ḷng tự ái dân tộc
của dân Giao Chỉ, sau đó ngầm hỗ trợ cho
người dân mỗi ngày ném gạch đá vào trụ
đồng để chôn lấp. Sự việc này có hai
tác dụng thứ nhất là giữ cho trụ đồng
không bị nghiêng ngả với thời gian, thứ hai
trụ đồng nặng hàng tấn tạo một
sức ép mạnh trên một tiết diện nhỏ th́ dễ
dàng từ từ lún sâu vào ḷng đất mỗi khi thời
tiết mưa ẩm, đất nở và mềm ra. Có
như vậy mới che dấu được quỷ
kế thâm độc của ḿnh và tác dụng phong thủy
lại càng tăng cao.
2- Ư nghĩa
thật sự của câu: “Đồng trụ chiết... Giao
Chỉ Diệt”, Đây là một câu thần phù c̣n ẩn
dấu một hai chữ để che đậy âm mưu
phá huyệt phong thủy. Thật vậy chữ chiết
ở đây không có nghĩa là găy mà có nghĩa là tách làm hai,
ví dụ như chiết cành chẳng hạn. Do đó câu
trên nên giải thích là “trụ đồng tách huyệt
(đế vương) ra làm hai, vua Giao Chỉ bị
giết.” Chứ không thể dịch là trụ đồng
bị găy, dân Giao Chỉ bị giết hoàn toàn phi lư. Như
vậy câu trên có hai chữ bi ẩn dấu là chữ
huyệt và chữ vương.
3- Kiển
Thành h́nh cái kén, nếu chúng ta tách rời hai sự kiện
này ra th́ sẽ không thấy âm mưu sâu độc của
Mă Viện, v́ thế người viết, kết hợp
cả hai sự kiện này bằng một h́nh vẽ
tượng h́nh, bạn đọc sẽ thấy rơ ràng
hơn:
(hính so 2)
Bùa lưỡng
nghi (loại tượng h́nh)
Nguồn:
Thiên Đức
H́nh dáng Kiển Thành, tổ con tằm, Âm, Thủy,
tượng h́nh của người đàn bà, kết
hợp với h́nh dáng trụ đồng Mă Viện,
Dương, Hỏa, tượng h́nh của người
đàn ông.
Theo Kinh
Dịch lư thuyết Vũ trụ: Thái Cực - Lưỡng
Nghi - Tứ Tượng - Bát Quái.
Theo thuật phong thủy, nói về nhà cửa
thường sử dụng bùa bát quái để trấn
yểm hướng xấu. Trong phạm vi rộng
lớn của một đất nước, bùa bát quái
không có hiệu lực, v́ thế Mă Viện đă sử
dụng một loại bùa rất hiếm hoi đề
cập trong sách vở đó là loại bùa Lưỡng Nghi
tức là bùa Âm Dương có hiệu lực cao hơn bùa
bát quái hai bậc theo Kinh Dịch.
Loại bùa
này được thực hiện bởi hai công tŕnh:
Kiển Thành, Âm thủy và trụ Đồng Mă Viện,
Dương Hỏa.
Ngoài ra, nói
theo kiểu dung tục th́ Mă Viện đă chơi một
tṛ rất thô bỉ là “Đóng cọc người đàn bà Giao
Chỉ” nhằm triệt tiêu con đường kết phát
vương quyền cho nữ giới Việt Nam sau này.
Với chứng cứ đê tiện này cũng có thể
chứng minh truyền thuyết quân Mă Viện lúc giao
chiến với đội quân nữ giới của Hai Bà
đă chơi tṛ đồng loạt “Truồng cởi” làm
hổ thẹn nữ binh không phải là không có lư.
Tóm lại
câu chuyện trên có thể kết luận như sau:
-
Cột đồng Mă Viện là một
dụng cụ phong thủy chôn tại động Cổ
Sâm nhằm mục đích phá vỡ huyệt kết phát
vương quyền của đất Giao Chỉ.
-
Câu “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ
diệt” là một câu thần phù hay nói đúng lời là
một lời nguyền có hiệu lực cho đến khi
được giải mă(?)
-
H́nh dáng Kiển Thành kết hợp với
trụ đồng Mă Viện tạo nên một đạo
bùa Lưỡng Nghi nhằm trấn yểm không cho người
đàn bà Giao Chỉ (mà thời nhà Hán gọi là yêu nữ)
tiếp nối truyền thống anh hùng dân tộc.
Sở
dĩ loại bùa chú này có hiệu lực lâu dài bởi
hội đủ những điều kiện sau đây:
-
Đặt đúng huyệt vị
-
Điều quan trọng nhất không ai có thể
hại ḿnh bằng chính ḿnh hại ḿnh. Dựa vào nguyên
tắc này Mă Viện đă thâm hiểm khích tướng
để cho dân Giao Chỉ ném đá vào trụ đồng
để giữ vững cho chôn trụ đồng có
thời gian tự lún sâu vào huyệt đạo tạo thêm
hiệu lực cho bùa trấn yểm.
-
Thời gian hiệu lực của bùa chú càng
lâu dài nếu bí mật của nó chưa được
tiết lậu, các sử gia Trung Quốc v́ quyền
lợi Trung Quốc đă che đậy sự việc này
và dối trá cho đây chỉ là cột mốc biên giới
đơn thuần mà không có giải thích toàn bộ sự
kiện. Và theo truyền thuyết bùa
ngải, phong thủy, nếu một người mà dùng bùa
chú hại người khác nếu được cao nhân
cứu giải th́ loại bùa chú đó sẽ trở
lại tác động với chủ nhân của nó. V́
thế người Trung Quốc rất sợ phản
đ̣n và rất kín miệng về sự việc này.
Ngoài ra
để cho đất Giao Chỉ không c̣n huyệt phát vua
chúa nữa, Hán tộc đă âm thầm cướp trắng
một phần đất của Giao Chi, trong đó có vùng
châu Khâm động Cổ Sâm và xóa tan dấu tích để
người dân Việt không c̣n phương cách truy cứu.
Và sự việc này cũng không
được ghi chép vào sử sách.
Trong thời
đại không gian điện tử hiện nay, nhiều
người sẽ đánh giá câu chuyện kể trên
thuộc vào loại hoang đường nhảm nhí.
Tin hay không là tùy mỗi người, nhưng
với chứng cứ và lư luận khó có thể phản
biện như trên, trong tư cách là một người
nghiên cứu phong thủy lâu năm, Thiên Đức trân trọng
bố cáo:
Trước trời đất
và mọi người chứng giám rằng:
Những âm mưu đê tiện
của Mă Viện người Trung Quốc đă dùng
thủ thuật phong thủy để ám hại dân tộc
Giao Chỉ, nay đă được phơi bày ra ánh sáng.
Phải chấm dứt ngay mọi uy lực của lời nguyền
và trao trả hiệu quả thảm hại lại cho
cố chủ.
Cấp! Cấp! tuân lệnh!
Để tăng thêm uy lực hóa
giải lời nguyền của Mă Viện, khẩn mong các
bạn có cơ duyên đọc bài viết này th́ xin cho
một lời nguyền rủa từ đáy ḷng ḿnh
trả lại cho Trung Quốc là nơi xuất phát
nguồn gốc của câu chuyện.
Thiên Đức mong mỏi các nhà
viết sử tiếp nhận thông tin này và tiếp tục
làm sáng tỏ sự việc ḥng trả lại sự
thật cho lịch sử với cầu mong giải
tỏa lời nguyền rủa gớm ghiếc để
cho dân tộc Việt Nam có thể có những nữ anh hùng
dân tộc trong tương lai vậy.
Thiên Đức trân
trọng tŕnh báo.