Tổng Hội Cựu SVSQTB/TĐ/HN
Ủy Ban Thường
Trực
*****
Phổ
biến dự thảo
quan
niệm sách lược quốc gia
thời hậu cộng sản.
******
Kính gởi quí Đồng Môn, Đồng
Đội
và các cháu Hậu Duệ
đại gia đ́nh
Thủ Đức
Như dự liệu trong
“Kế Hoạch Công Tác Nhiệm Kỳ 2006-2008”, hôm nay
Ủy Ban Thường Trực gởi đến quí
đồng môn Cố Vấn, Liên Hội Trưởng, Hội
Trưởng, Chi Hội Trưởng, và Trưởng
Đoàn TTN/CATN Queensland, Australia, dự thảo “Quan Niệm
Sách Lược Quốc Gia” thời hậu cộng sản.
Kèm theo dự thảo này là Phụ bản A, B, C, và D. Dự
trù cuối tháng 4 tới (2007) sẽ gởi tiếp Phụ
bản E.
Cách nay 44 năm, sự bối
rối của Hội Đồng Quân Cách Mạng
(HĐQNCM) ngay sau cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963 và
cuộc chỉnh lư ngày 30/1/1964, cho thấy mức
độ cần thiết khi soạn thảo những
kế hoạch đánh đổ một chế độ,
cùng lúc phải soạn thảo những kế hoạch
cần thực hiện sau khi thành công. V́ không
được chuẩn bị một kế hoạch
như vậy, nên HĐQNCM đă lúng túng trong một
thời gian tuy không dài, nhưng thời gian lúc bấy
giờ rất cần thiết v́ đất nước
trong thời chiến tranh.
Cách nay 6 năm, chiến tranh
chống khủng bố quốc tế do Hoa Kỳ và các
quốc gia đồng minh tiến hành trên đất
Cách nay 4 năm, song song với
cuộc vận động cho cuộc chiến giải
giới các loại vũ khí giết người hằng
loạt của Iraq, Hoa Kỳ hội họp với các
tổ chức của người Iraq lưu vong, hội
họp với người Kurk đang tranh đấu cho
nền tự trị của họ ở phía Bắc Iraq,
hội họp với các quốc gia Đồng Minh dự
liệu những vấn đề xảy ra khi chiến
tranh bùng nổ. Ngay tại Hoa Kỳ, chánh phủ mời
gọi một số đại công ty nghiên cứu
những dự án khôi phục những sinh hoạt của
quốc gia
Nhớ lại những thập
niên giữa thế kỷ 20, Trường Đại
Học Quân Sự, và về sau là Trường Chỉ Huy
Tham Mưu Cao Cấp, với phương châm “Tham mưu đi trước
một bước” được sử dụng trong
mục tiêu đào tạo sĩ quan tham mưu trong quân
lực Việt Nam Cộng Ḥa. Phương châm này không
chỉ áp dụng trong quân
sự mà c̣n ứng dụng vào những sinh hoạt trong xă
hội với những lợi ích của nó. Tham mưu, là
một chuỗi công tác liên tục từ sưu tầm, phân
tách, đánh giá, nghiên cứu, kết luận, cộng
với nhiệm vụ phải đạt để h́nh
thành một kế hoạch. Chưa hết, kế hoạch
c̣n phải dự liệu những bất trắc có
thể xảy ra khi thực hiện, và đề ra
biện pháp giải quyết.
Nói cách khác, từ nhiệm
vụ do tự đặt ra hoặc do cơ quan cao hơn
giao phó, kế hoạch thực hiện được
soạn thảo gồm 3 phần chính:
Phần
một, nhận định t́nh h́nh do sưu tầm những dữ
kiện liên quan, phần này rất quan trọng v́ nó dẫn
đến h́nh thành quan niệm thực hiện, và từ
quan niệm thực hiện dẫn đến những
trách nhiệm giao phó cho các cơ quan đơn vị
thực hiện. Thí dụ như soạn thảo kế
hoạch về nền giáo dục Việt Nam tương
lai chẳng hạn, mục tiêu giáo dục đă có trong chính
sách chiến lược, người soạn kế
hoạch phải biết về t́nh trạng giáo dục
hiện nay tại Việt Nam, bao gồm: Mục tiêu
chiến lược của giáo dục. Hệ thống
tổ chức từ bậc tiểu học, trung học,
đến đại học. Chương tŕnh học
của từng bậc. Nội dung sách giáo khoa cua từng
bậc. Phương pháp giảng dạy. Kết quả
tốt nghiệp trong ba năm gần nhất. Lượng
giá về phẩm chất giáo dục của học sinh sinh
viên học và tốt nghiệp. Tổng số học sinh
sinh viên ghi danh trong ba năm gần nhất. Tổng số
giáo viên giáo sư và phân loại theo tŕnh độ. T́nh
trạng lương bổng. Tổng số trường
tiểu học, trung học đệ nhất cấp, trung
học đệ nhị cấp, trường đại
học từng ngành. Và cần nhiều dữ kiện khác
nữa có liên quan đến
giáo dục để làm nền cho phần hai.
Phần
hai, quan niệm thực hiện, gồm cả trách
nhiệm và phương tiện giao cho từng cơ quan hay
đơn vị thực hiện trong một thời gian
nhất định nào đó. Cái quan trọng của
phần này là phải xây
dựng một quan niệm thực hiện hợp lư,
để công cuộc chuyển đổi nền giáo
dục xă hội chủ nghĩa hiện nay do đúc
kết các dữ kiện đă thu thập vừa nói trên,
sang một nền giáo dục nhân bản khai phóng trong
tương lai mà tránh được những xáo trộn
nghiêm trọng. V́ vậy mà dữ kiện thu thập càng sát
với thực trạng Việt
Phần
ba, ước tính những bất trắc, cùng những biện pháp
giải quyết từng bất trắc đó. Nói chung, người soạn
kế hoạch muốn đạt đến mục tiêu
hoàn chỉnh của nền giáo dục để phục
vụ hướng phát triển đạt đến
mục tiêu quốc gia, bằng cách đào tạo những
thế hệ thích ứng với nhu cầu các loại
chuyên viên của các ngành sinh hoạt quốc gia.
Trong những năm qua, và
hiện nay, trong Cộng Đồng Tị Nạn chúng ta,
những cá nhân quan tâm đến vấn đề tổ
chức và quản trị xă hội, cũng như những
bộ phận phụ trách tham mưu chiến lược
trong các tổ chức đấu tranh, thể nào cũng
đă và đang chuẩn bị những kế hoạch xây
dựng Việt Nam thời hậu cộng sản. Nhưng
thiết nghĩ sẽ không thừa, nếu có thêm nhiều
suy nghĩ h́nh thành nhiều quan niệm trong cùng mục
đích, từ nhiều giới trong Cộng Đồng
hỗ trợ, cho dù suy nghĩ có khác biệt, thậm chí
đối nghịch nhau, vẫn là điều cần
thiết cho công tác tham mưu.
Chúng ta đấu tranh chống
CSVN độc tài cũng như chống bất cứ
chế độ độc tài nào khác, là do tinh thần
tự phát từ trách nhiệm công dân đối với
quốc gia dân tộc, mọi người t́m đến
nhau để kết hợp hoạt động, vừa
tự túc mọi phương tiện, vừa hoạt
động công khai vừa không công khai tùy nơi chốn,
thời gian, cơ hội, nếu không dùng “tham mưu đi
trước một bước” sẽ gặp rất
nhiều vấn đề nan giải trong trường
hợp t́nh h́nh quốc nội quốc tế biến
chuyển bất ngờ và nhanh chóng.
Bởi trong chính trị, nhất
là chính trị đang trong trào lưu dân chủ hóa lan
rộng trên b́nh diện thế giới, không nhà lănh
đạo độc tài nào lường trước
được những đột biến bất ngờ
đến với họ, cho dù họ luôn luôn đề
pḥng bất trắc, chỉ v́ họ biết ngày nay không
một dân tộc nào chấp nhận chế độ
độc tài cả. Nếu như về mặt nổi
của một quốc gia độc tài nào đó có vẻ
như đang ḥa b́nh sung túc, nhưng thật sự th́
mặt ch́m của quốc gia đó là những đợt
sóng ngầm sẳn sàng bùng lên rồi ập xuống đè
bẹp cả chế độ, v́ nhân loại đang trên
đà tiến đến dân chủ hóa toàn cầu
để cùng nhau “hợp tác phát triển bền vững”
do Liên Hiệp Quốc chủ xướng, qua hai
đại hội toàn thế giới về mục tiêu này
tại Brasil năm 1992, và tại Nam Phi năm 2002 vừa
qua. Nhóm lănh đạo CSVN hiện nay, là một trong
những quốc gia độc tài đó.
V́ vậy mà chúng ta, nhất
thiết không để t́nh trạng quốc tế vẽ
sẳn những kế hoạch cho chúng ta như
trường hợp
Xin đừng nghĩ rằng,
những kế hoạch quốc gia phải là những
vị Tổng Trưởng Bộ Trưởng mới làm
được, dù những văn kiện đó do các
vị Tổng Trưởng Bộ Trưởng duyệt kư
ban hành. Tŕnh tự của công tác tham mưu là do các vị
ấy đưa ra quan niệm tổng quát để
từ đó các sĩ quan hay viên chức tham mưu nghiên cứu
dự thảo, tŕnh lên các vị Tổng Trưởng
Bộ Trưởng duyệt xét thêm bớt sửa
đổi.
Nói như vậy không có nghĩa
là bất cứ ai cũng soạn thảo được
những kế hoạch loại này, nhưng cũng không v́
vậy mà chúng ta không làm được. Thật ra, sống
trong những xă hội dân chủ pháp trị, những xă
hội mà khoa tổ chức và quản trị đă
chứng tỏ vai tṛ quan trọng của nó trong sự phát
triển quốc gia. Mỗi người chúng ta trong Cộng
Đồng tị nạn tại hải ngoại, ít
nhiều cũng học hỏi được nguyên tắc
lẫn kinh nghiệm thực tế về tổ chức và
quản trị xă hội. Đây là điều mà chúng ta
cần vận dụng vào sự suy nghĩ cho ngày mai,
chẳng riêng ǵ chuyện quốc gia mà ngay cả chuyện
gia đ́nh cũng cần đến óc tổ chức và
quản trị đó nữa, tất nhiên là kích cở khác
nhau trong từng lănh vực.
Nói đến kế hoạch,
nghe chừng có vẻ như công việc ngoài tầm tay nhưng
thật ra nó chỉ là những chuyện trong cuộc
sống thường ngày của chúng ta, chỉ khác nhau
ở kích thước của mỗi lănh vực trách
nhiệm. Chẳng hạn như ngày mai, bạn A sẽ tham dự buổi tŕnh
diễn nhạc, bạn A phải nghĩ xem là tự lái xe
hay cùng đi xe với bạn nào đó, theo đường
nào để đi cho nhanh, mấy giờ rời khỏi
nhà để đến nơi cho kịp, cần bao nhiêu
tiền để vào cửa, nói chung là những ǵ liên quan
đều phải chuẩn bị trước. Như
vậy là bạn A đă soạn kế hoạch rồi đó.
Và từ những căn bản của kế hoạch nho
nhỏ này chúng ta soạn những kế hoạch lớn
hơn, dĩ nhiên là nhiều góc cạnh hơn, và phức
tạp hơn. Từ tinh thần trách nhiệm giúp chúng ta
rèn luyện ḷng kiên nhẫn, từ ư chí học hỏi giúp
chúng ta tăng thêm kiến thức, nhất thiết chúng ta
sẽ làm được những ǵ mà chúng ta thật
sự mong muốn, trong ư nghĩa góp chút nhỏ nhoi vào quê hương
Việt Nam ngày mai, với một xă hội dân chủ pháp trị,
một dân tộc sống trong nguyện vọng của ḿnh,
một quê hương Việt Nam phát triển trên nền tảng
bền vững.
Ngoài các bộ phận tham mưu
chiến lược của các tổ chức đấu
tranh, rất có thể là đă hoặc sẽ có những
vị tự ḿnh tiến hành, hoặc vài ba người
cộng tác với nhau cùng dự thảo những kế
hoạch đóng góp cho nhóm lănh đạo lâm thời trong
thời kỳ chuyển tiếp từ chế độ
độc tài sang chế độ dân chủ tự do.
Những dự thảo đầu tiên, dĩ nhiên là chưa
thể hoàn chỉnh, nhưng từ tốn viết rồi
sửa sửa rồi viết, dần dần bản
dự thảo ngày càng hoàn chỉnh hơn. Lúc ấy sẽ
cảm thấy hài ḷng với “dự thảo kế
hoạch đầu tay”, và từ đó, những dự
thảo tiếp theo sẽ được tiến hành
với sự phấn khởi, nhiệt tâm, và tin tưởng.
Kính thưa quí Đồng Môn, Đồng Đội,
và các cháu
Hậu Duệ
trong và ngoài
đại gia đ́nh Thủ Đức
Đây
là vấn đề trọng đại cấp quốc gia,
Ủy Ban Thường Trực/Tổng Hội Thủ
Đức rất vui mừng được trao
đổi quan niệm và nghiên cứu thực hiện, với
những tổ chức cùng tất cả Đồng Môn Đồng
Đội và các cháu Hậu Duệ, trong cũng như ngoài đại
gia đ́nh Thủ Đức về công tác tham mưu này trên
tinh thần xây dựng. Ủy Ban Thường Trực/Tổng
Hội Thủ Đức rất trân trọng.
Chủ
Tịch Ủy Ban Thường Trực
Alpha Phạm Bá Hoa (khóa 5)
Tổng
Hội Cựu SVSQTB/TĐ/HN
Ủy Ban Thường Trực
*****
Số 17/UBTT/SLQG
Quan niệm
một sách lược quốc
gia
*****
Tham chiếu: Kế Hoạch Công Tác nhiệm kỳ
2006-2008.
Thưa quí Đồng Môn,
Đồng Đội,
và các cháu Hậu Duệ
đại gia đ́nh Thủ Đức.
“Nghiên cứu hôm nay, ngày mai sử
dụng”, tôi quan niệm như một phương châm. “Hôm
nay” có nghĩa là bắt đầu ngay khi có thể
được. “Ngày mai” có
nghĩa là trong thời kỳ chuyển tiếp từ
chế độ cộng sản độc tài sang chế
độ dân chủ tự do, và sau đó.
Dự
thảo “quan niệm một
sách lược quốc gia” dựa theo mẫu kế
hoạch trong tham mưu quân sự với vài thay đổi
tên các đoạn và tiểu đoạn thích hợp với
nội dung, mà bài học của Trường Đại
Học Quân Sự Việt Nam Cộng Ḥa năm 1960, có tên
gọi “Kế Hoạch Hành Quân 5 Đoạn”.
*****
1. Nhận Định.
a. Sự kiện trong nước.
(1) Mức phát triển kinh tế Việt Nam từ
những năm cuối thập niên 90 bắt đầu
xuống dốc do suy đồi về chính trị nội
bộ và xă hội, trong bối cảnh một thế
giới dân chủ tự do tiếp tục phát
triển. Từ năm 2001 mức phát triển gia tăng
dần, đến năm 2006 mức phát triển vừa
hơn 8%, với tổng sản phẩm nội địa
tính theo đầu người khoảng 550 mỹ kim.
Nhưng tỷ lệ phát triển của những năm
trước đó, tiến
sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế hàng đầu
tại Việt Nam, đă nói trong phiên họp mật của
Bộ Chính Trị cộng sản Việt Nam ngày 2 tháng 11
năm 2004 rằng: “Việt Nam có tốc độ
tăng trưởng tương đối nhanh, nhưng
mức độ tăng trưởng ấy chỉ là so
với chính bản thân Việt Nam, v́ nh́n ra chung quanh,
rất nhiều quốc gia tăng trưởng nhanh hơn
Việt Nam nhiều. Việt Nam ta không nên lớn giọng
dạy bảo thiên hạ, không nên tự cho ḿnh là đ̣n
bẩy của thế kỷ, cũng không nên tự xưng
là ḿnh làm xung kích cho lịch sử, v́ những điều
đó không giúp ǵ cho sự phát triển của đất
nước. Với lại thế giới không có ai công
nhận Việt
(2) Bức
tranh xă hội xă hội chủ nghĩa Việt Nam từ
sau 30/4/1975 cho đến năm 2000, được cựu
Trung Tướng cộng sản Trần Độ “vẽ
lại” trong tập nhật kư “Rồng Rắn” mà ông hoàn
tất năm 2001. Trong đó, ông tự hỏi: “Tại
sao chiếm được miền
Nhận
định của ông Trần Độ từ năm 2001
và ông Lê Đăng Doanh từ cuối năm 2004,
đến nay là năm 2007 vẫn c̣n nguyên đó. V́ trong
đại hội lần thứ 10 của họ, với
một số nhân sự lănh đạo mới trong cơ
quan có quyền hạn tuyệt đối, cũng chỉ
thay đổi bộ mặt chớ không thay đổi
chính sách. V́ những bằng chứng đầu tiên cho
thấy họ càng cứng rắn với chính sách bịt
mắt bịt tai bịt miệng, những ai bày tỏ quan
tâm đến dân chủ tự do trên quê hương
Việt
(3)
Ngày 8 tháng 4 năm
2006, bản “Tuyên Ngôn Dân Chủ 2006” do những nhà
đấu tranh dân chủ trong nước phổ biến
tại Việt Nam và tại hải ngoại bằng
nhiều phương tiện khác nhau, mà phương
tiện thông dụng nhất là mạng lưới thông tin
toàn cầu (NET). Bản Tuyên Ngôn này có 118 chữ kư gồm
những thành phần khác nhau trong xă hội, và cư ngụ
tại nhiều địa phương khác nhau từ Nam ra
Bắc. Chỉ một tháng sau -ngày 8 tháng 5 năm 2006-
số vị kư tên vào Bản Tuyên Ngôn lên đến 424
người. Theo thông cáo của Khối 8406 tính đến
ngày
Bản Tuyên Ngôn Dân Chủ đ̣i
hỏi một hệ thống chính trị đa nguyên đa
đảng, đ̣i hỏi tự do thông tin, tự do chính
kiến, tự do tôn giáo, tự do tham gia vào các công đoàn
lao động độc lập, tự do hội họp,
tự do thành lập các hội đoàn, tự do thành lập
đảng chính trị, và tự do tham gia ứng cử.
Bản Tuyên Ngôn Dân Chủ phổ biến ngày 8 tháng 4 năm
2006, c̣n gọi là “Tuyên Ngôn Dân Chủ 2006”, hay gọi
ngắn gọn là “Khối
8406”.
(4) Từ Khối 8406 này, dẫn
đến những sự kiện :
- Phát hành bán nguyệt san Tự
Do Ngôn Luận từ ngày
- Phát hành Đặc san Tự Do
Dân Chủ ngày
- Thành lập
Đảng Thăng Tiến Việt
- Ngày 10/9/2006, kêu gọi vận
động thành lập Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ, bao
gồm các tổ chức đấu tranh và các đảng
chính trị, liên kết thành một Liên Minh trực diện
đấu tranh với đảng CSVN, giành lại Tự
Do Dân Chủ và Nhân Quyền cho dân tộc Việt Nam.
Đảng có 12 văn pḥng đại diện tại 8
quốc gia.
- Phát hành Đặc san Tổ
Quốc ngày
- Tháng 10/2006,
thành lập Liên Đoàn Công Nhân Độc Lập.
(5) Ông Nguyễn Tấn Dũng thay
ông Phan Văn Khải trong chức vụ Thủ
Tướng, có dư luận trong Cộng Đồng
Việt Nam Hải Ngoại, nhất là vài tổ chức
chính trị, có vẻ như chờ đợi Nguyễn
Tấn Dũng trở thành một Gorbatchew của Việt
Nam, trong khi các tổ chức chính trị trong nước,
nhất là Khối 8406 không một đợi chờ nào
như vậy. Hành động ngay sau khi nắm quyền, tân
Thủ Tướng ra lệnh siết chặt thêm các sinh hoạt
trong hệ thống truyền thông, internet, kể cả quyết
định không chấp nhận báo chí tư nhân mà trước
mắt nhắm vào Khối 8406. Nguyễn Tấn Dũng tuyên
bố dẹp tham nhũng, nhưng chưa có sự kiện
nào chứng minh bước đầu thực hiện lời
tuyên bố đó. Hi vọng, nếu ông ta thực sự quyết
tâm đánh tham nhũng, ông ta có cơ hội bị tham nhũng
hạ bệ, thậm chí có thể bị ám sát là đằng
khác, v́ tham nhũng là mục tiêu
của các cấp lănh đạo cộng sản Việt
Nam, trong đó có Nguyễn Tấn Dũng.
(6)
Đợt
đàn áp tàn bạo.
Nguyễn Tấn Dũng “thừa
thắng xông lên” sau khi thế giới đánh giá cộng
sản Việt Nam tổ chức đại hội APEC
thành công, được gia nhập WTO, nhất là được
Hoa Kỳ b́nh thường hóa quan hệ thương măi, cùng
lúc rút tên cộng sản Việt Nam ra khỏi danh sách CPC,
liền thẳng tay đàn áp các nhân vật đấu tranh
ôn ḥa cho nền dân chủ thật sự trên toàn cơi Việt
Nam. Điển h́nh là linh mục Nguyễn Văn Lư,
luật sư Nguyễn Văn Đài, luật sư Lê
Thị Công Nhận, Lê Trí Tuệ, Nguyễn Phong, ..v..v… Với
tṛ đê tiện của lănh đạo cộng sản Việt
b. Sự kiện
quốc tế.
(1) Bản
đồ lộ tŕnh dân chủ hóa Việt
Trong “lộ tŕnh dân chủ hóa Việt
Tổng
Thống Bush tuyên bố khi tuyên thệ nhậm chức
nhiệm kỳ 2, Hoa Kỳ quan tâm và hỗ trợ các
phong trào dân chủ trên thế giới. Dĩ nhiên là trong
đó có nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa
Việt
(2)
Vi phạm nhân
quyền.
Ngày
1/12/2005, tại trụ sở Quốc Hội Âu Châu ở
Brussels, 730 Dân Biểu của 25 quốc gia thuộc các khu
vực Đông Âu, Tây Âu, và Bắc Âu, bao gồm nhiều
đảng phái chính trị với những khuynh
hướng khác nhau, đă đồng thuận khi biểu
quyết một Nghị Quyết, đ̣i lănh đạo
cộng sản Việt Nam phải thực hiện không
chậm trễ, việc trả tự do cho các nhân vật
bất đồng chính kiến, đặc biệt là
đ̣i Việt Nam phải tổ chức bầu cử
tự do trên căn bản đa đảng. Đồng
thời, thực hiện quyền tự do báo chí.
Ông Ian Pearson, Bộ Trưởng
Thương Mại & Đặc Trách Nhân Quyền Bộ
Ngoại Giao Anh quốc, đang là Chủ Tịch luân phiên
của Liên Hiệp Âu Châu, phát biểu sau khi Nghị
Quyết được thông qua: “Tôi chào mừng sự quan tâm của Quốc Hội Âu
Châu trên vấn đề hôm nay. Đặc biệt là
cuộc điều trần quan trọng ngày 12 tháng 9 năm
2005 dẫn đến Nghị Quyết này. Tôi biết
rất rơ về t́nh trạng vi phạm nhân quyền
trầm trọng tại ba nước Việt Nam, Cam
Bốt, và Lào. Ví dụ như tại Bộ Ngoại Giao,
trong năm nay đă nhận được 100 thư
khiếu nại của các Dân Biểu Anh quốc về
những vụ vi phạm nhân quyền tại Việt Nam.
Tôi mừng rằng, sau cuộc điều trần nói trên, nhà
cầm quyền Việt Nam đă để cho Liên Âu
gặp thăm Ḥa Thượng Thích Quảng Độ. Tôi
sẽ nêu vấn đề này và đưa ra một danh sách
tù nhân phải được trả tự do, trong cuộc
gặp gỡ và đối thoại về nhân quyền
với phái đoàn nhà cầm quyền Việt Nam vào ngày 12
tháng 12 sắp tới (2005)”.
(3) Ngăn
chận phái đoàn ngoại quốc.
Ngày 15/3/2007, phái đoàn Nhân Quyền Na Uy có tên là “Rafto Foundation
for Human Rights” do Cô Therese Jebsen hướng dẫn sang Việt
Nam, với mục đích thăm Ḥa Thượng Thích Quảng
Độ và trao giải thưởng Nhân Quyền mà Ngài được tổ chức
này quyết định trao tặng hồi tháng 11/2006. Cùng đi,
c̣n có ông Tom Rune Orset, thông tín viên đài truyền h́nh TV2 của
Na Uy, và cô Kiều Trần với trách nhiệm thông dịch.
Công An đă ngăn chận, chẳng những không cho phái
đoàn vào Thanh Minh Thiền Viện, mà c̣n đưa phái
đoàn về trụ sở Công An “làm việc” mấy
tiếng đồng hồ. Sau đó, Công An gọi riêng cô
Kiều Trần đến trụ sở làm việc, nhưng
Cô Trưởng phái đoàn ngăn chận hành động
của Công An, v́ Cô nghi ngờ họ hành động gian trá đối
với cô Kiều Trần.
c. Sự chống
đối từ Cộng Đồng tị nạn.
Từ năm 1995 đến nay, bất
cứ nhân vật lănh đạo cao cấp cộng sản
Việt Nam sang thăm Hoa Kỳ, đáng kể hơn hết
là chuyến đi của Thủ Tướng Phan Văn Khải
hồi tháng 6/2005, mỗi khi đặt chân đến
nơi nào cũng bị Cộng Đồng Việt Nam tị
nạn cộng sản chống đối dữ dội giữa
rừng quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ.
Đến nay (2/2007) đă có 12 tiểu bang, 7 quận hạt,
và 87 thành phố Hoa Kỳ chánh thức công nhận quốc
kỳ chúng ta, mặc dù họ sử dụng mọi phương
tiện và mọi phương cách ngăn chận, nhất
là tại Virginia có ṭa đại sứ và San Francisco có ṭa tổng
lănh sự của họ, nhưng đều thất bại.
Phái đoàn Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng
Ngoại Gia cộng sản Việt Nam Phạm Gia Khiêm đến
Hoa Kỳ, đă bị hai “cái tát” khá đau: Thứ nhất,
bị Nữ Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, sau đó là các
phóng viên trong buổi họp báo, đă chất vấn về
những hành động vi phạm nhân quyến mới đây
tại Việt Nam. Thứ hai, bị Cộng Đồng Việt
Nam tị nạn cộng sản biểu t́nh trong khuôn viên Quốc
Hội Hoa Kỳ ngày 15/3/2007, phản đối mọi hành
động gian trá đê tiện của lănh đạo Việt
Nam đối với những nhà tranh đấu ôn ḥa trong
nước, đồng thời đ̣i thực thi dân chủ
và nhân quyền cho dân tộc Việt Nam mà Hiến Pháp của
họ thừa nhận, và Công Ước quốc tế cũng
thừa nhận mà họ là thành viên phải thực thi.
Cái tác hại đối với lănh đạo cộng
sản Việt Nam c̣n sâu xa hơn, là họ rất đau mỗi
khi đến bất cứ quốc gia nào đùm bọc người
Việt Nam tị nạn cộng sản, họ đều
bị chống đối quyết liệt trong khi cả Bộ
Chính Trị của họ rất thèm muốn khối chuyên
gia khoa học kỹ thuật và khối tài chánh kếch sù,
cùng với tiềm năng dồi dào của Cộng Đồng
này. Cái đau đó càng làm cho họ nhục nhă khi họ nh́n
sang các Cộng Đồng Đại Hàn, Do Thái, Phi Luật
Tân, ngay cả cộng đồng Nga, đă đón tiếp
nồng nhiệt mỗi khi lănh đạo của họ từ
quốc gia gốc đến thăm, v́ lănh đạo của
họ do dân bầu trong các cuộc bầu cử tự do, đồng
bào của họ tại quê nhà được hưởng
dân chủ tự do, và nhân quyền được tôn trọng.
Trong khi bản thân họ cũng mang danh lănh đạo nhưng
chỉ do một nhóm người cộng sản bầu với
nhau, c̣n “đại biểu dân” th́ do họ chọn trước
mới đến dân bầu. V́ những cơ cấu đó
chỉ là h́nh thức để che đậy độc tài,
mà người dân trên toàn cơi Việt Nam bị tước đoạt
quyền làm người, bị bịt mắt bịt tai bịt
miệng, đến mức bất cứ ai bày tỏ ư thức
chính trị của ḿnh cũng đều bị chụp cho
tội này tội khác rồi vào tù hay bị quản thúc đâu
đó.
d. Sinh hoạt trong Cộng
Đồng tị nạn.
Trong sinh hoạt Cộng Đồng. Với quốc sách
ngang qua nghị quyết 36 mà lănh đạo cộng sản
Việt Nam ban hành hồi tháng 3 năm 2004, cho thấy họ
sẽ tung thêm tài lực để sử dụng những tên
tay sai của họ tại hải ngoại, trong mục
đích liên tục tấn công bằng cách đẩy
mạnh công tác đánh phá các tổ chức trong Cộng
Đồng tị nạn tại hải ngoại dưới
những h́nh thức khác nhau, đặc biệt là các
tổ chức mà họ cho là có thực lực đấu
tranh về một hay nhiều lănh vực nào đó.
Ngay trước khi và trong khi chế độ độc
tài trong nước sụp đổ, sinh hoạt trong
Cộng Đồng tị nạn tại hải ngoại
sẽ rất rộn rịp, nhất là với các tổ
chức chính trị, tổ chức đấu tranh. Và
từ trong sự rộn rịp này, thể nào cũng phát
sinh những va chạm trong nội bộ các tổ
chức, và giữa các tổ chức với nhau. Nguyên nhân
va chạm có thể có nhiều, nhưng nguyên nhân chính, nh́n
theo một cách nào đó, vẫn là quyền lợi chính
trị dù chưa nắm trong tay.
Tổng Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ
Đức Hải Ngoại, tin tưởng nhu cầu
tổ chức và quản trị xă hội ngày mai, có
những cá nhân cũng như những bộ phận tham
mưu chiến lược trong các tổ chức
đấu tranh, đă và đang chuẩn bị “sách lược
xây dựng và phát triển quốc gia”. Nhưng thiết nghĩ,
cho dù Chánh Phủ lâm thời có chuẩn bị chu đáo
đến mấy đi nữa, vẫn c̣n nhiều
khiếm khuyết khi nh́n từ nhiều phía, và sự
đóng góp quan điểm từ nhiều tổ chức cũng
như từ những cá nhân, sẽ giúp rất nhiều cho
thời kỳ tiếp sau trong công tác tham mưu. Nhớ
lại cuối tháng 4/1975, khi cộng sản chiếm VNCH chúng
ta, họ có sẳn bộ máy cai trị theo khuôn mẫu
độc tài chuyên chính trên lănh thổ nước
VNDCCH, họ chỉ cần nong rộng ra và đưa
vào
Trường hợp Chánh Phủ
lâm thời tới đây, cho dù những vị lănh
đạo thuộc thành phần nào đi nữa, chắc
chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn trở
ngại, v́ xă hội đang điều hành bởi bộ
máy độc tài với nền kinh tế mà họ gọi
là “kinh tế thị trường theo định
hướng xă hội chủ nghĩa”, bỗng chốc
chuyển sang bộ máy dân chủ tự do với nền
kinh tế thị trường đúng nghĩa. Nhưng
nếu công tác tham mưu cung ứng được
những chuẩn bị cho dù chưa chu đáo, Chánh
Phủ lâm thời có thể giảm bớt được
những khó khăn đáng kể. Cũng cần nhớ
đến xứ
e. Giả thuyết.
Chế độ độc tài
tại Việt
(1) Hoặc sụp đổ do
chuyển đổi từng bước theo “diễn
biến ḥa b́nh”. Trường hợp này tuy chậm nhưng
không đổ máu hoặc ít đổ máu, xă hội cũng không
đảo lộn nhiều. Giả thuyết này ít khả năng
xảy ra, v́ cho đến tháng 2/2007 nhóm lănh đạo cộng
sản Việt Nam chưa hề tỏ dấu hiệu nào họ
sẽ từ bỏ chế độcộng sản độc
tài, trong khi họ vẫn tiếp tục chính sách đàn áp bất
cứ ai bày tỏ ư thức chính trị khác với chế độ
của họ.
(2) Hoặc sụp đổ do
“bạo loạn”, máu sẽ đổ và sinh hoạt xă
hội rất nhiều bất trắc trong một thời
gian nhất định, mà chánh phủ lâm thời lúc ấy
có thể sẽ rất khó kiểm soát. Giả thuyết này
nhiều khả năng xảy ra.
(3) Chánh phủ lâm thời trong
thời kỳ chuyển tiếp từ chế độ
độc tài sang chế độ dân chủ tự do, đại
đa số là những nhân vật trong nước đă và
đang dấn thân đấu tranh trực diện với
cộng sản, với hỗ trợ tích cực của
Cộng Đồng Việt Nam tị nạn tại
hải ngoại, và sự hỗ trợ từ các quốc
gia phát triển, nhất là Hoa
Kỳ.
2. Mục Đích.
Với tư cách những Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trừ
Bị Thủ Đức/Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa
tại hải ngoại, và tư cách công dân quê hương Việt Nam cội nguồn,
Tổng Hội Thủ Đức muốn được
đóng góp “quan niệm một sách lược quốc gia”
với quí vị lănh đạo lâm thời trong thời
kỳ chuyến tiếp từ chế độ cộng
sản độc tài sang chế độ dân chủ
tự do, góp phần xây dựng quê hương Việt Nam
phát triển, mọi người được sống
trong một xă hội dân chủ pháp trị với
đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ
của mỗi công dân. C̣n quí vị lănh đạo lâm
thời có sử dụng hay không là tùy quí vị ấy,
nhưng ít ra, nỗi đau chưa tṛn nhiệm vụ của
Cựu SVSQ Trừ Bị Thủ Đức Hải
Ngoại cũng vơi bớt đôi phần.
3. Quan Niệm.
a.
Quan niệm công tác.
- Tham mưu, là một chuỗi công tác; từ thu thập
dữ kiện, nghiên cứu, phân tách, đánh giá, sử
dụng làm nền cho dự thảo những kế
hoạch, rồi tiếp tục thu thập dữ kiện
mới nhất để nhật tu dự thảo. Và
cứ như thế.... Thu thập dữ kiện từ
thân nhân thân hữu về Việt Nam, thư tín cá nhân,
hội luận, báo chí, đài phát thanh phát h́nh, nhất là
trên hệ thống internet có vô số dữ kiện từ
các website, ..v..v..
- Chuỗi công tác tham mưu được quan niệm
thực hiện qua từng bước:
Bước 1. Nghiên cứu t́m hiểu “nguyện
vọng người dân”, cũng là mục tiêu quốc gia. Phụ bản A.
Bước 2. Từ nguyện vọng
người dân, xây dựng
một “sách lược quốc gia” với
những chính sách chiến lược của từng ngành
để thực hiện mục tiêu quốc gia. Phụ bản B, C, và D.
Bước 3. Từ chính sách căn bản
từng ngành, xây dựng “những quan niệm căn
bản” cho từng mục tiêu của ngành. Phụ bản E.
Bước 4. Từ những quan niệm
căn bản của từng mục tiêu, dự thảo “những
kế hoạch thực hiện”.
Bước
5. Những kế hoạch dự thảo xong, phải “thường
xuyên hoàn chỉnh” đến khi chế độ
độc tài trên quê hương sụp đổ, lúc
ấy hoàn chỉnh cuối cùng và đóng góp với Chánh
Phủ lâm thời nếu Chánh Phủ này thật sự
quyết tâm xây dựng chế độ dân chủ tự
do.
b.
Quan niệm tổ chức.
(1) Tiến đến tổ chức một Ban
Phối Hợp Tham Mưu và những Nhóm Tham Mưu cho
từng chính sách, hoặc hai hay ba chính sách, tùy theo t́nh h́nh
nhân sự và khả năng. Trường hợp không có
trở ngại quan trọng, sẽ thành lập Ban Phối
Hợp Tham Mưu vào tháng 7 hoặc tháng 8/2007. Ban Phối Hợp
Tham Mưu có trách nhiệm:
- Soạn thảo và phổ
biến “Kế Hoạch Công Tác” bao gồm tổ chức và
phương thức điều hành Ban Phối Hợp Tham
Mưu, và phương thức điều hành giữa Ban
Phối Hợp Tham Mưu với các Nhóm Tham Mưu.
- Từng bước thành lập
các Nhóm Tham Mưu tại Âu Châu, Mỹ Châu, Úc Châu.
- Nghiên cứu và hoàn chỉnh dự
thảo “Quan niệm sách
lược” này từ Bước 1 đến
Bước 3, để hướng dẫn các Nhóm Tham
Mưu nghiên cứu soạn thảo các kế hoạch của Bước 4.
(2) Mỗi kế hoạch
dự thảo xong, chuyển đến Ban Phối Hợp Tham
Mưu/Tổng Hội Ban này trách nhiệm chuyến
đến tổ chức hay cá nhân đồng môn phụ
trách kế hoạch có liên quan để tham khảo cần
thiết. Trường hợp thuận tiện, Ban Phối
Hợp Tham Mưu/Tổng Hội sẽ tổ chức
họp mặt ở địa điểm thích hợp
nhất để thảo luận trực tiếp và hoàn
chỉnh dự thảo. Xong, hoàn lại tổ chức hay
cá nhân phụ trách bản thảo đó.
c.
Quan niệm nhân sự.
Nhân
sự, bao gồm các đồng môn Thủ Đức,
Hậu Duệ đại gia đ́nh Thủ Đức, và
đồng đội do Nhóm Tham Mưu giới thiệu và
Ban Phối Hợp Tham Mưu chấp nhận. Thành viên trong
các cơ cấu tham mưu, có thể ở khắp nơi
tại hải ngoại và có sử dụng internet cá nhân.
Trách
nhiệm Trưởng Ban Phối Hợp Tham Mưu cũng
như Trưởng Nhóm Tham Mưu, do thành viên trong Ban trong
Nhóm bầu cử trực tiếp hoặc qua e-mail.
d.
Quan niệm quản trị.
Dự thảo kế hoạch
hoàn chỉnh, không phổ biến cho bất cứ cá nhân hay
tổ chức nào, nhất là các cơ quan truyền thông, v́
đây là tài sản của tập thể Thủ
Đức. Khi cộng sản độc tài sụp
đổ và một Chánh Phủ lâm thời lên cầm
quyền thật sự xây dựng chế độ dân chủ
tự do trên quê hương Việt Nam, một phái đoàn
do Đại Hội cử đi trao tận tay cho Chánh
Phủ lâm thời đó. V́ vậy mà mỗi 2 năm
Đại Hội Hải Ngoại, sẽ quyết
định về phương thức quản trị công
tác và hồ sơ tham mưu này thích hợp với hoàn
cảnh lúc
ấy.
e.
Quan niệm điều hành.
Do Ban Phối Hợp Tham Mưu soạn thảo
phương thức điều hành, và hướng dẫn
thực hiện.
4.
Phương Tiện.
- Trong công tác nghiên cứu tham mưu
này, chúng ta “những người tự ḿnh nhận trách nhiệm”
không được cung cấp bất cứ phương
tiện ǵ
- Chúng ta đến với nhau do
tinh thần trách nhiệm chưa tṛn, và cùng góp ư kiến thể
hiện một quan niệm góp phần xây dựng nước
Việt Nam dân chủ tự do thời hậu cộng sản.
Đây cũng là cách chúng ta nối tiếp trách nhiệm c̣n
dang dở. Do vậy, mỗi cá nhân hay mỗi tổ
chức nhận trách nhiệm tham mưu này đều
tự túc mọi nhu cầu, từ chi phí điện
thoại đường dài, cước phí bưu
điện, đến tiền giấy mực bút viết,
chi phí sử dụng internet, những chi phí linh tinh khác,
thậm chí đến chi phí di chuyển đường dài
để dự họp liên quan đến công tác tham
mưu này nữa.
5.
Liên Lạc & Phối Hợp.
a.
Liên lạc.
-
Ban Phối Hợp Tham Mưu nghiên cứu mở một
group e-mail chung để liên lạc. Bất cứ những
liên lạc trao đổi dữ kiện nào liên quan
đến công tác nghiên cứu tham mưu, tất cả
thành viên đều biết, để có thể góp ư
cần thiết dù không thuộc phạm vi nghiên cứu
của Nhóm.
b.
Phối hợp.
Khi
Ban Phối Hợp Tham Mưu thành lập, Ban này trách
nhiệm phối hợp các Nhóm Tham Mưu trong công tác nghiên
cứu và soạn thảo các kế hoạch trong
phương thức điều hành.
Từ nay đến hết tháng
6 năm 2007, là thời gian quí Đồng Môn và các cháu
Hậu Duệ nghiên cứu những bản gợi ư kèm theo
văn kiện này. Về dự thảo tài liệu tham
mưu bước 3 sẽ phổ biến vào cuối tháng 4/2007.
Xin quí Đồng Môn và các cháu
Hậu Duệ đại gia đ́nh Thủ Đức,
nghiên cứu và góp ư. Xin cho biết nhận xét và ư kiến
đóng góp từ nay đến hết tháng 7/2007. Có bất
cứ ư kiến ǵ xin cứ đóng góp mà đừng nghĩ
là đúng hay không đúng. Trong nhiều ư kiến, thể nào
cũng có những ư kiến cần nghiên cứu ứng dụng.
Chủ Tịch Ủy Ban
Thường Trực.
Alpha Phạm Bá
Hoa (khóa 5)
Đính
kèm:
- Tham mưu bước 1:
Phụ bản A. Gợi ư t́m
hiểu nguyện vọng người dân.
- Tham mưu bước 2:
Phụ bản B. Gợi ư thành
phần chánh phủ lâm thời.
Phụ bản C. Gợi ư
một sách lược quốc gia.
Phụ bản D. Gợi ư
bản Thông Điệp đầu tiên.
Phụ bản
Phổ
biến:
-
Cố Vấn, HĐĐH, HĐGS
-
Các Liên Hội, Hội, Chi Hội.
-
Đoàn TTN/CATN
-
Ban Vận Động Liên Hội Thủ Đức Âu Châu
Để xin nghiên cứu và góp
ư
- Trang Web của Tổng Hội.
để lưu giữ tham
khảo
Lưu.
*****
Phụ bản A
T́m
Hiểu Nguyện Vọng Người Dân.
*****
Tổng quát.
Đây là tham mưu bước 1,
t́m hiểu nguyện vọng người dân.
Muốn phục vụ người
dân, bất luận nhóm lănh đạo quốc gia ngay sau khi
chế độ độc tài sụp đổ là
những vị nào, nhất thiết phải t́m hiểu “Nguyện
Vọng Người Dân”, v́ đó chính là “Mục Tiêu
Quốc Gia” mà nhóm lănh đạo có trách nhiệm thực
hiện. Vậy, “Nguyện Vọng Người Dân” trong
thời kỳ hậu cộng sản là ǵ? Lẽ ra
phải thông qua cuộc trưng cầu dân ư, nhưng v́ t́nh
h́nh sau khi chế độ độc tài sụp
đổ không thể thực hiện ngay được,
nên nhóm tham mưu cần nghiên cứu t́m hiểu nguyện
vọng người dân để từ đó đưa ra
bản Hiến Ước lâm thời, trong khi chờ
đợi bầu Quốc Hội Lập Hiến soạn
thảo Hiến Pháp và trưng cầu dân ư.
Do vậy mà căn cứ vào
những giai đoạn lịch sử của đất
nước từ nửa cuối thế kỷ 19
đến nay, rút ra nhận thức như là một
gợi ư về t́m hiểu nguyện vọng người
dân.
- Giai đoạn từ
nửa cuối thế kỷ 19 đến mùa thu 1945, dân
tộc ta bị thực dân Pháp cai trị. Khi thiết
lập hệ thống giáo dục tại nước
Việt Nam thuộc địa, như bất cứ chánh
phủ thực dân nào khác, chánh phủ Pháp không hề có
mục đích đào tạo lớp người có tư
tưởng chính trị để chống đối
họ, dù rằng có một số thanh niên đáng kể
học hết bậc đại học tại Việt Nam
hoặc du học trên đất Pháp. Chính sách giáo dục
học đường cũng như giáo dục xă hội,
chỉ nhằm trang bị cho mọi người một
tư tưởng chấp nhận sự cai trị của
nước Pháp, chấp nhận một quốc gia từ
Âu Châu mang nền văn minh đến khai phóng Việt
- Giai đoạn từ mùa hè
1954 đến cuối mùa xuân 1975. Trên phần lănh
thổ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (VNDCCH)
dưới sự cai trị của cộng sản
độc tài, những nhóm lănh đạo cộng sản
Việt Nam (CSVN) đă có một hệ thống giáo dục
từ mẫu giáo đến đại học. Nhưng
chính sách giáo dục học đường cũng như
giáo dục xă hội chỉ là giáo dục một chiều,
nhằm đào tạo những thế hệ thần dân
để vâng lời đảng cộng sản. Chính sách
giáo dục buộc mọi người phải tôn vinh
ông Hồ chí Minh, tôn vinh đảng CSVN, một tư
tưởng chỉ biết chấp nhận chế
độ chính trị do đảng cộng sản
chọn sẳn, và chọn một lần cho măi măi. Người
dân phải chấp nhận tư tưởng chỉ có
đảng cộng sản mới đủ tài lănh
đạo, như thể nếu không có đảng CSVN th́
nước Việt
- Cũng trong giai đoạn
đó, trên phần lănh thổ nước Việt Nam
Cộng Ḥa (VNCH) dưới chế độ dân chủ
tự do. Tuy có nhiều hạn chế nhất định,
một phần v́ trong chiến tranh bảo vệ tổ
quốc mà kẻ địch là cùng chủng tộc, nên không
phải dễ dàng nhận ra kẻ địch xâm nhập
trong hàng ngũ ta, và phần khác v́ dân chủ tự do là
chế độ mới mẽ đối với quốc
gia non trẻ Việt Nam, mà những vị lănh đạo
chưa đủ căn bản lư thuyết cũng như
chưa đủ kinh nghiệm thực tế, nhưng rơ
ràng là cuộc sống người dân nước VNCH,
hạnh phúc hơn người dân thời bị thực
dân cai trị, và hạnh phúc tuyệt vời so với
người dân sống trong xă hội chủ nghĩa
của nước VNDCCH. Cái xă hội chủ nghĩa đó
được bà Dương Thu Hương, nhà văn
chuyên nghiệp của CSVN, sau những năm đảng
của bà cai trị toàn cơi nước Cộng Ḥa Xă Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), bà mới nhận ra được cốt
lơi của cái chủ nghĩa mà bà đă tham gia từ năm
17 tuổi. Là nhà văn, ng̣i bút của bà đă bày tỏ
nỗi thất vọng chán chường về cái xă
hội mà bà đă sống và chiến đấu hơn 20
năm, rằng: “Xă hội chủ nghĩa, là mô h́nh man
rợ và u ám nhất của thời đại. Cái xă
hội mà đa số những người đă tham gia xây
dựng nó, cuối cùng không muốn có nó, ngoại trừ
nhóm lănh đạo đặc quyền đặc lợi”.
- Đến nay, sau 32 năm cai
trị nước CHXHCNVN, 83 triệu dân với đời
sống vật chất có khá hơn đôi chút so với
thời làm dân nước VNDCCH, nhưng vẫn chưa
hơn đời sống vật chất của
người dân nước VNCH trước đây bao nhiêu,
mà lẽ ra phải phát triển hơn hiện tại
nhiều bước nữa v́ không có chiến tranh.
Nhưng về đời sống chính trị th́ hoàn toàn
bị bóp nghẹt, mà nguyên nhân duy nhất v́ chế độ
độc tài, nên lúc nào đảng với nhà nước cộng
sản cũng sợ người dân nổi dậy chống
đối.
- Do trải qua những giai đoạn lịch sử
bị kềm kẹp một số quyền tự do
căn bản của con người trong 80 năm bị
thực dân Pháp cai trị, nối tiếp đến nay
đă 32 năm bị cộng sản độc tài hoàn toàn
bóp nghiệt mọi quyền căn bản của người
dân, nên nguyện vọng người dân thời hậu
cộng sản, suy nghĩ không ǵ hơn là: “Dân chủ, tự do, nhân quyền, và hạnh phúc”,
mà phải là thật sự chớ không như những nhóm
lănh đạo CSVN đă lừa dối nhân dân từ
giữa thế kỷ 20 đến nay, và vẫn c̣n
tiếp tục lừa dối.
Kết
luận. Nguyện
vọng của toàn dân, là mọi người phải được sống trong
một xă hội dân chủ pháp trị với các quyền
tự do căn bản của con người
được tôn trọng. Một xă hội có nhiều
cơ hội tiến thân đồng đều cho mọi
người, được bảo đảm tối
thiểu về các sinh hoạt xă hội, và một cuộc
sống an lành trong đạo nghĩa. Một dân tộc
không nuôi ư đồ lấn chiếm lân bang, nhưng
quyết tâm bảo vệ tổ quốc. Một chánh
phủ được đánh giá là của dân, do dân, và v́
dân, phải là một chánh phủ thực hiện
được nguyện vọng người dân, cũng là mục tiêu quốc gia
./.
Chủ Tịch Ủy Ban Thường
Trực.
Alpha Phạm Bá Hoa (khóa 5)
*****
Phụ bản B
Thành Phần Chánh Phủ
Lâm Thời
*****
Tổng
quát.
Đây là tham mưu bước 2a với quan niệm gợi ư Chánh
Phủ lâm thời trong thời kỳ chuyển tiếp,
từ chế độ cộng sản độc tài sang
chế độ dân chủ tự do, cần có những
thành phần sau đây:
Thứ nhất. (1) Thành phần đảng viên và
cựu đảng viên cộng sản hoặc ngoại vi
của đảng cộng sản, có thành tích chống
đối lănh đạo cộng sản Việt
Những nhân vật trong hai thành
phần này, trong một chừng mực nào đó, vẫn
c̣n uy tín do thành tích mấy chục năm lăn lộn trong
đảng, rất có thể sẽ được
những đơn vị quân đội và cảnh sát công
an ủng hộ.
Thứ nh́. Thành phần ngoài đảng cộng
sản gồm những cá nhân hay trong tổ chức
đấu tranh chính trị
đ̣i cộng sản Việt
Thứ ba. Những trí thức ngoài đảng,
bằng cách nào đó như bài viết, lời nói, hay hành
động, đă thể hiện mạnh mẽ tư
tưởng tự do dân chủ, thể hiện cao độ
tinh thần trách nhiệm trong hoạt động chuyên môn
hay trong các sinh hoạt văn hoá xă hội, và có uy tín với
đồng bào. Nói chung là những trí thức tiêu biểu
cho một thành phần nào đó trong xă hội, có khả
năng chuyên môn đóng góp vào sự ổn định
trật tự xă hội và phát triển đất
nước.
Thứ tư. Những chức sắc thân
hào nhân sĩ thuộc các sắc tộc thiểu số, có thành tích đấu tranh chính
trị đ̣i cộng sản Việt Nam thực hiện
dân chủ tự do, hoặc có uy tín trong đồng bào
thiểu số. Cần có tiếng nói của các sắc
tộc ngay từ bước đầu, để tránh
những xáo trộn có thể xảy ra nếu họ không
có vị trí b́nh đẳng trong chánh quyền. Kế
hoạch phát triển cao nguyên miền Trung miền Bắc,
nhất thiết phải thực sự xem xét và tôn
trọng nguyện vọng của các sắc tộc liên
hệ. Cao nguyên miền Trung là mái nhà và cao nguyên miền
Bắc là nóc nhà của tổ quốc, có tầm vóc quan
trọng đặc biệt trong chiến lược pḥng
thủ quốc gia, đồng thời với phát triển
kinh tế và văn hoá trong bối cảnh chung của
tổ quốc.
Và thứ năm. Thành phần cộng đồng
tị nạn hải ngoại, có thành tích rơ ràng trong đấu tranh dưới
mọi h́nh thức, những vị đă hoặc đang
tham gia ḍng sinh hoạt chính tại Hoa Kỳ, cũng như
tại các quê hương thứ hai, có thành tích và kinh
nghiệm trong nhiều lănh vực, đặc biệt là các
vị có vị thế quan trọng có khả năng làm
gạch nối giữa Chánh Phủ lâm thời với các
quốc gia tự do, hậu thuẫn và tích cực yểm
trợ cấp thời trong kế hoạch cải thiện
đời sống xă hội tại các thành phố lớn
trong bước đầu, song song với những kế
hoạch ngắn hạn dài hạn hỗ trợ
đất nước Việt Nam phát triển.
Bốn thành phần đầu là lực lượng trong
nước, và thành phần thứ năm là lực
lượng ngoài nước. Những thành phần theo
thứ tự trên đây, cũng mang ư nghĩa thứ
bậc quan trọng của mỗi thành phần trong
thời kỳ chuyển tiếp. Cũng trong thời
kỳ này, lực lượng trong nước là chính
để ổn định t́nh h́nh, trong khi lực
lượng hải ngoại hỗ trợ mạnh mẽ.
Chánh Phủ lâm thời cùng lúc tiến hành hai nỗ lực:
“Khôi phục an ninh trật
tự và sinh hoạt b́nh thường, và tiến hành công tác
soạn thảo những văn kiện sinh hoạt chính trị,
từng bước chuẩn bị tiến tới bầu
cử Quốc Hội Lập Hiến khi kiểm soát
được t́nh h́nh nội bộ và t́nh h́nh biên
giới”.
Bản Hiến Pháp là nền
tảng xây dựng cơ cấu dân chủ pháp trị trong
toàn bộ hệ thống tổ chức để thực
hiện mục tiêu quốc gia, v́ vậy mà cả hai nỗ
lực trên đây, đặc biệt là nỗ lực
thứ hai, cần có sự phối hợp chặt chẻ
giữa lực lượng trong nước với lực
lượng hải ngoại, để công tác chuẩn
bị những sinh hoạt chính trị kế tiếp
được hài ḥa trong tinh thần phục vụ quốc gia dân tộc. Chữ
lực lượng dùng ở đây, có thể là những
cá nhân hay những tổ chức./
Chủ
Tịch Ủy Ban Thường Trực
Alpha
Phạm Bá Hoa (khóa 5)
*****
Phụ bản C
Xây Dựng Sách Lược Quốc Gia
*****
Tổng quát.
Đây là tham mưu bước 2b,
gợi ư xây dựng một sách lược quốc gia.
Căn cứ vào nguyện
vọng người dân mà phác thảo một sách
lược quốc gia. Khung phác thảo này dựa theo tài
liệu nghiên cứu “sách lược quốc pḥng” của
Trường Cao Đẳng Quốc Pḥng Việt
Đây là phác thảo quan niệm
một chính sách chiến lược 10
điểm.
1. Chính sách chính trị ngoại giao. Việt
2. Chính sách hành chánh. Hệ thống tổ chức
hành chánh công quyền thích hợp với nhu cầu trong quan
niệm: “Nhân dân với viên chức, là mối tương
quan cần thiết giữa nhu cầu với trách
nhiệm, và tác động qua lại tạo nên sức phát
triển chung của xă hội”. Một lực lượng
Cảnh Sát được huấn luyện trên nền
tảng đạo đức và tôn trọng luật pháp,
để hoàn thành trách nhiệm bảo vệ an ninh
trật tự.
3. Chính sách quốc pḥng. Xây dựng
một quân đội tối đa dưới 1% dân
số, với khoảng 15% nhân viên dân sự trong tổng
số quân để phục vụ trong các cơ quan
đơn vị không chiến đấu. Nhiệm vụ
của quân đội là bảo vệ tổ quốc.
Những xung đột với quốc gia lân bang, ưu tiên
giải quyết bằng chính sách ngoại giao trong tinh
thần hợp tác. Bộ quốc pḥng phụ trách chiến
lược, các quân chủng phụ trách chiến thuật.
Vừa tổ chức vừa bảo vệ tổ quốc,
trước mắt ưu tiên bảo vệ biên giới phía
bắc, vịnh Bắc Việt, đảo, quần
đảo, và biên giới phía tây. Về quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa, sẽ nghiên cứu chuẩn bị
một hồ sơ chứng minh chủ quyền của
Việt Nam, vận động đưa ra Liên
Hiệp Quốc giành lại chủ quyền trên căn
bản lịch sử và pháp lư.
4. Chính sách kinh tế. Chuyển
đổi toàn bộ kinh tế xă hội chủ nghĩa
sang kinh tế thị trường. Kỹ nghệ khai thác,
sản xuất, chế biến, nông nghiệp, thương
măi, dịch vụ, và xuất nhập cảng, trên căn
bản khả năng cạnh tranh xây dựng, và tất
cả tác động qua lại thúc đẩy sức phát
triển chung của xă hội. Xây dựng nhóm mặt hàng
xuất cảng trên căn bản nhu cầu dài lâu của
khách hàng ngoại quốc, thích hợp với khả
năng và tiềm năng quốc gia. Kỹ nghệ dầu
hỏa, nông nghiệp, và dịch vụ, là ba lănh vực
được quan tâm đặc biệt trong giai
đoạn đầu.
5. Chính sách tài chánh. Trong thời kỳ
chuyển tiếp, phối hợp với các chủ
trương mục và các tổ chức tài chánh quốc
tế, t́m biện pháp thích hợp giải quyết khối
tài chánh kư thác trong các ngân hàng. Thuế vụ phù hợp
với mức sinh hoạt xă hội, và thay đổi theo từng
bước phát triển. Phục vụ kinh tế phát
triển. Nâng đỡ ngành tiểu thương là “xương
sống” của nền kinh tế tổng thể. Bảo
đảm mức sống tối thiểu của nhân dân.
Hỗ trợ mọi thành phần trong xă hội -nhất là
tuổi trẻ- thăng tiến trong lănh vực giáo
dục.
6. Chính sách giáo dục. Con người là
yếu tố quan trọng bậc nhất trong xây dựng
và phát triển đất nước. Nền giáo dục
phải đào tạo con người tử tế trong xă hội,
đồng thời phối hợp các ngành -nhất là kinh
tế- để đào tạo con người có kiến
thức chuyên môn thích ứng nhu cầu phát triển của
các ngành sinh hoạt quốc gia. Những thế hệ được
đào tạo có căn bản vững chắc về
tổ chức & quản trị xă hội, và có tinh
thần trách nhiệm cộng đồng trong mọi sinh
hoạt phục vụ lợi ích chung. Bản thân giáo dục,
xây dựng một đội ngũ giáo chức có kiến
thức và uy tín, duy tŕ và phát triển nền giáo dục Việt
Nam thích nghi với sự phát triển khoa học kỹ thuật
thế giới ḥa vào nét tinh hoa trong văn hoá Việt
Nam.
7. Chính sách luật pháp. Mọi công dân
đều b́nh đẳng trước pháp luật, bất
luận người đó là vị lănh đạo cao
nhất nước hay người dân b́nh thường. Dân
chủ pháp trị, là nền tảng cư xử giữa
người dân với hành chánh công quyền. Người
Việt
8. Chính sách đảng chính trị.
Những thập niên trước mắt, không chấp nhận đảng chính
trị khuynh hướng độc tài. Khuyến khích các
đảng chính trị hoạt động trong tinh
thần cạnh tranh dân chủ, góp phần thúc đẩy
sinh hoạt xă hội ngày thêm phát triển. Khuyến
khích bước đầu tiến đến số
lượng đảng chính trị dưới hai con
số, những bước kế tiếp c̣n lại không
quá 5 đảng.
9. Chính sách du lịch. Du lịch, một
ngành kỹ nghệ không khói. Mở rộng cửa
đón du khách thưởng ngoạn thắng cảnh thiên
nhiên, thắng cảnh nhân tạo, những sinh hoạt trong
đời sống văn hoá dân tộc, những di tích
trận địa, những hành vi tội ác của chế
độ độc tài trong chiến tranh và sau chiến
tranh, gồm cả cơ sở bảo tàng những
vật chứng trong cuộc vượt biên vượt
biển t́m tự do vĩ đại nhất và bi thảm
nhất trong lịch sử nhân loại, cùng những thành
công của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn
cộng sản tại hải ngoại trong nhiều lănh
vực. Đồng thời bày tỏ ước vọng
tương lai của dân tộc Việt
10. Chính sách xă hội. Trước mắt, vận
động các tổ chức quốc tế và các chánh
phủ, trợ giúp cấp thời cho tất cả
thương phế binh, ưu tiên cho thành phần nghèo đói.
Cai nghiện x́ ke ma túy. Dạy nghề cho những thành
phần mà đạo lư xă hội không chấp nhận. Nuôi
dưỡng người già không nơi nương tựa,
trẻ mồ côi, và người tàn phế. Trợ giúp
những gia đ́nh từ các khu kinh tế mới trở
về nhà cũ. Nghiên cứu một kế hoạch hoàn
chỉnh và thực hiện công tác hoàn trả tất cả
bất động sản c̣n kiểm soát được
cho các sở hữu chủ hợp pháp, mà trước
đó bị nhà nước cộng sản tịch thu dưới
mọi h́nh thức và c̣n nắm quyền quản trị,
hay đă chuyển quyền quản trị cho cá nhân hay
tổ chức bất cứ h́nh thức nào.
Kết
luận. Chắc rằng, cho dù Chánh
Phủ lâm thời có chuẩn bị chu đáo đến
mấy đi nữa, vẫn c̣n nhiều khiếm khuyết
khi nh́n từ nhiều phía, và sự đóng góp quan
điểm từ nhiều tổ chức hoặc từ
những cá nhân, sẽ giúp rất nhiều cho thời
kỳ tiếp sau trong công tác tham mưu. Nhớ lại
cuối tháng 4/1975, khi cộng sản chiếm Việt Nam Cộng
Ḥa chúng ta, họ có sẳn bộ máy cai trị theo khuôn
mẫu độc tài chuyên chính trên lănh thổ nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, họ chỉ cần
nong rộng ra và đưa vào
Chủ
Tịch Ủy Ban Thường Trực
Alpha Phạm Bá Hoa (khóa
5)
*****
Phụ bản D
Thông
Điệp Đầu Tiên
*****
Dự
thảo Bản Thông Điệp đầu tiên với nội dung thể
hiện một phần sách lược quốc gia, do chánh
phủ lâm thời công bố trước quốc dân đồng
bào và ngoại giao đoàn.
Điểm 1.
Việt
Điểm 2. Ban
hành Hiến Ước Lâm Thời, thay thế và hủy
bỏ Hiến Pháp của CSVN ban hành năm 1992 và sửa
đổi năm 2001.
Điểm 3.
Thủ đô đặt tại Sài G̣n.
Điểm 4. Giải tán Quốc Hội và toàn bộ
các cơ cấu dân cử từ trung ương đến
địa phương.
Điểm 5.
Giải tán đảng cộng sản Việt
Điểm 6.
Tất cả đảng viên cộng sản và những
thành viên của các tổ chức ngoại vi của
đảng cộng sản tính đến ngày sụp
đổ, được sống tự do và b́nh
đẳng như tất cả công dân trong xă hội. Riêng
những thành viên "bộ chính trị" từ khóa 1
đến khóa đương nhiệm, cơ quan có
thẩm quyền hoạch định và điều
khiển thi hành chế độ độc tài, sẽ
được quyết định bởi luật pháp,
ngoại trừ những thành viên đă thật sự góp
phần quyết định và cụ thể vào sự
sụp đổ của cộng sản.
Điểm 7.
Ngăn cấm mọi hành động có tính cách trả thù
giữa cá nhân với nhau, giữa cá nhân với tổ
chức bất luận là tổ chức nào.
Điểm 8. Tôn
trọng các quyền: Sở hữu tư nhân. Tự do tôn
giáo. Tự do lập hội. Tự do báo chí. Tự do ngôn
luận. Tự do mưu cầu hạnh phúc trong luật
pháp và đạo nghĩa.
Điểm 9. Tôn
trọng các thỏa ước cùng các văn kiện
quốc tế phù hợp với chế độ tự do
dân chủ. Mở rộng bang giao quốc tế, không phân
biệt xu hướng chính trị trên căn bản tôn
trọng lẫn nhau.
Điểm 10. Toàn
bộ quân nhân, công an cảnh sát, giáo viên giáo sư, công nhân
viên chức các cấp các ngành, đến nhiệm sở
tiếp tục công tác thường ngày. Tất cả
học sinh sinh viên, đi học b́nh thường.
Điểm 11.
Trả tự do tất cả tù nhân chính trị không phân
biệt nguồn gốc, dù có án hay chưa có án, dù trong nhà tù
hay trong trại cải tạo. Các án chính trị ngụy
trang dưới án lệnh h́nh sự mà phát hiện
được, sẽ xóa bỏ.
Điểm 12.
Bảo vệ lănh thổ lănh hải và hải đảo,
ưu tiên bằng chính trị.
Điểm 13.
Bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xă hội,
ưu tiên bằng chính sách nhân sự trên căn bản b́nh
đẳng giữa các thành phần trong xă hội.
Điểm 14. Tài
sản tư nhân bị cộng sản tịch thu, sẽ
hoàn trả cho chủ hợp pháp.
Điểm 15.
Tạo điều kiện thuận lợi cho dầu
hỏa hơi đốt, và kỹ nghệ chế biến
từ phó sản dầu hỏa phát triển, đồng
thời với phát triển nông nghiệp.
Điểm 16.
Khuyến khích các đảng chính trị hoạt
động trong tinh thần dân chủ, góp phần thúc
đẩy sinh hoạt xă hội ngày càng phát triển. Không
chấp nhận đảng chính trị độc tài.
Điểm 17. Mọi
người Việt
Điểm 18. Cơ chế quốc gia sẽ
thực hiện theo Hiến Pháp do Quốc Hội Lập
Hiến soạn thảo và lănh đạo ban hành sau cuộc
trưng cầu dân ư.
Chủ Tịch Ủy
Ban Thường Trực
Alpha Phạm Bá Hoa (khoá
5)
*****