Quốc Kỳ Việt
Nguyễn Tường Bá
* Quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ
từ năm 1948 đến nay
Khắp nơi trên thế giới nơi nào có người
Việt cư ngụ, lá cờ vàng ba sọc đỏ
được sử dụng. Nhưng tại Việt
Sự xụp đổ chế độ chế
độ Cộng Sản Nga Sô Viết, biến cố
lịch sử nhân lọai thiên niên kỷ cho chúng ta
gương sáng về lá Quốc kỳ của một
nước khi sự ḱm kẹp của chế độ
cộng sản không c̣n, người dân Nga lọai bơ không
những chủ nghĩa cộng sản mà c̣n muốn xoá
tất că các dấu tích của chế độ đó
để t́m lại bản chất quốc gia dân tộc
ḿnh. Tượng Lénin, Stalin, Djerjinsky v...v. Bị đập
nát, tên các thành phố mang tên các lảnh tụ đỏ
được đổi lai, lấy các tên nguyên thuỷ
cổ xưa như Pétersburg, Volga v.v…. Tại
điện Cẩm Linh, lá cờ đỏ búa liềm
được kéo xuống và lá cờ Tam Tài thời Nga
Hoàng được kéo lên đêm Giáng Sinh
Chúng ta hảy lưu ư các điểm sau:
* Lá cờ Tam Tài thời Nga Hoàng đă được dân
nổi dậy biểu t́nh trưng lên ngay từ tháng 8
năm 1991 để qui tụ và sách động lật
đổ chế độ cộng sản. Lá
cờ nầy cũng được dân Nga lưu vong
sử dụng từ năm 1917 tại hải ngoại
để biểu t́nh chống Cộng Sản Nga.
* Nước Nga không bị xâm chiếm, dân Nga không biết
thảm cảnh mất nước về tay
ngọai bang. Nhưng ngườI dân Nga chịu ách cai
trị của đảng Cộng Sản c̣n khổ hơn
mất nước, v́ nước nga đă chết
dưới ách Cộng Sản như ông Boris Yeltsin đă
phải nói: “Nước Nga tái sinh” sau khi lật
được chế độ Cộng Sản.
Dưới chế độ Công Sản cũng như
mất nước, không có tự do dân chủ, nhưng
tệ hại hơn nưă là v́ cái gía trị cổ
truyền từ tên gọi các thành phố, văn hóa, các tôn
giáo đều bị bóp méo, bị tiêu diệt, hồn
nước không c̣n. Hơn că khác vọng tự do dân
chủ, ḷng yêu nước và sự trường tồn dân
tộc là động lực chính lật đổ chế
độ Cộng Sản.
* Hàng triệu binh sĩ Nga hy sinh dưới lá cờ
đỏ búa liềm trong đệ nhị thế
chiến, thắng Đức Phát Xít, thắng Nhật quân
phiệt, nhưng dân Nga vẫn sang suốt chỉ coi lá
cờ đỏ búa liềm là cờ của đảng
Cộng Sản Nga, không phải lá cờ của đất
nước, binh sĩ Nga dù chết dưới lá cờ
đỏ búa liềm nhưng là chết cho đất
nước, không cho đảng Cộng Sản.
* Tại các nước Cộng Sản Đông Âu, Phi Châu, Á Châu,
tất că lá cờ đỏ của các đảng Cộng
Sản dung làm quốc kỳ đều chung số phận
với cờ đỏ búa liềm của dàng anh Nga Xô
Viết khi chế độ Cộng Sản bị lật
đổ.
Cờ vàng ba sọc đỏ, nguyên thuỷ từ cờ
Quẻ Ly biến thể, là lá cờ được Ḥang
Đế Bảo Đại kéo lên khi Việt Nam hủy hiệp
ước thuộc địa kư với Pháp lấy lại
nền độc lập có từ ba ngàn năm (khác với
Hoa Kỳ cần tuyên bố độc lập năm 1776)
vào ngày 11/3/1945 nhân ngày 9/3/1945 quân đội Nhật
triệt hạ quân lực Pháp tại Đông Dương và Việt
Nam được cởi trói. C̣n có thể nói
lá cờ độc lập đầu tiên được
quần chúng biết đến là lá cờ nữa Vàng
nữa Đỏ được Việt Nam Quốc Đảng
kéo lên tại Yên Bái ngày
Cờ đỏ sao vàng lá cờ của đảng
Cộng Sản Việt sử dụng trong cuộc
đảo chánh chính phủ Trần Trọng Kim chính phủ
đầu tiên của nước Việt Nam độc
lập với thế lực thực dân Pháp đô hộ
Việt Nam giữa thế kỷ 19.
*
* *
Việt
Chi Nguyễn Hữu Quang, chuyên gia về Kinh Dịch đă
viết rất uyên bác: “Ngay từ thời Hai Bà Trưng, Bà
Triệu, đầu voi phất ngọn cờ vàng, đánh
đuổi quân Bắc xâm lấn, nước ta đă có
quốc kỳ. Màu vàng là màu quốc thể,
đồng thời cũng là màu da của giống ṇi.
Theo quang học, màu vàng chiếm vị trí trung
ương trong quang phổ thấy được.
Nhà Nguyễn, triều cuối cùng của nước ta thêm
2 vạch đỏ vào lá cờ: màu đỏ màu của chu
tước là màu chính của phương Nam, hai vạch
liền biểu trưng thái dương, một trong tứ
tương, chiếm vị trí căn để hai quẻ
Kiền, Đoàn (tiên thiên) tức là chính nam,và
đông nam, ám họp với vị trí nứơc ta trên
bản đồ Đông Nam Á. Gia dĩ thái dương
thuần dương luôn luôn biến sang ba tượng kia.
Chính phủ đoản mệnh của thủ tướng
Trần Trọng Kim (1945) thêm một vạch đứt vào
giữa hai vạch liền của lá cờ, ba vạch
nầy, một đứt hai liền hợp thành quẻ ly
đơn(Ly vi hỏa), biểu tượng mắt
trời, ánh sang, năng lượng, nói ngắn chuyện
E=mc2(1) và chiếm vị trí chính nam trong
bát quái hậu thiên của Vua Văn, cùng lúc ba vạch
nầy cũng tượng trưng cho ba kỳ Bắc-
Trung- Nam. Ly cũng có nghĩa là chia ĺa, nên có người
xấu miệng, nói là tại lá cờ nên đất
nước mới phân ly
Vận nước là vận nước mà chử nghĩa
là chử nghĩa, không nên ràng buộc quàng xiên (xin
đọc một cơn gío buị của Trần
Trọng Kim, trang 61). Vô h́nh chung Ly ở đây là Hồ Ly
Tinh đă vác rắn Cộng Sản cắn gà nhà 50 năm
nay và vạch đứt trong quẽ Ly ám chỉ việc tam
cương Anh- Mỹ- Nga đă chia đôi đất
nước tại vĩ tuyến 16 tại hội nghị
Yalta (tháng 2 năm 1945) và hội nghị Postdam (17/7/1945)
ở ngọai ô thành phố Bá Linh giữa ba cường
quốc Anh- Mỹ- Nga.
Cưu Ḥang Bảo Đại khi về
nước thành lập quốc gia Việt
Lá cờ vàng ba sọc đỏ không gắn
liền với một người, một đoàn thể,
một chính đảng, một thể chế hay một
giai đoạn lịch sử giới hạn. Trái
lại cờ ấy đă được trưng lên
từ thời kỳ Quốc Gia VN có xu hướng
đế chế, qua thời kỳ Đệ Nhất Cộng
Ḥa và có xu hướng Tổng Thống chế giành ưu
thế cho Hành Pháp, đến thời kỳ Đệ Nhị
Cộng Hoà với những ảnh hưởng của
thể chế Hoa Kỳ. Cờ ấy đă tập hợp
những người bảo thủ và những
người tiến bộ, dân lương và dân giáo,
giới ưa độc lập cực đoan với
những xu hướng về nước nầy hay
nước khác ở Tây Phương…lá cờ ấy khác
với lá cờ biểu hiệu rỏ rang mầu sắc,
h́nh tượng của một đảng nhất
định.
Quốc kỳ không phải là không thể là một sáng tác
cá nhân, một công tŕnh trừu tượng. Một lá
cờ chỉ trở thành quốc kỳ sau khi đă
trải qua một quá tŕnh lịch sử, đă tập
họp và thể hiện được những
ước vọng, những tin cậy và những lo âu chung của đông đảo nhân dân, đă
có nhiều người thề thốt trên đó, tác
động v́ đó và hy sinh trong đó. Một
lá cờ không được chọn làm quốc kỳ
chỉ v́ màu sắc tươi, h́nh thức đẹp hay ư
nghĩa sâu xa. Quốc Kỳ không phải chỉ là
sáng tạo của tinh thần, công tŕnh của nghệ
thuật: nó là sản phẩm của lịch sử.
Cũng v́ có tánh cách quốc gia dân tộc như trên nên lá
cờ vàng ba sọc đỏ đă tồn tại qua
nhiều biến động lịch sử: Đệ Nhất
cộng Ḥa phế bỏ Bảo Đại. Đệ
Nhị Cộng Ḥa huỷ chế độ Ngô Đ́nh Diệm,
thất trận năm 1975.
Nhưng cờ vàng ba sọc đỏ ngày nay tung
bay tràn lan khắp năm châu, mọi nơi có dấu chân
người Việt và kỳ lạ thay đă
được trân quí hơn trước kia. Sau
năm 1975, ng̣ai biểu tượng tinh thần Quốc Gia
Việt
Nguyễn Tường Bá
Thang 5/2001
(1) Công thức năng lượng của Einstein
(2) Việt Chi Nguyễn Hữu Quang-Kinh Dịch trong xă
hội Việt Nam và Khoa Học
Văn bút VN Ontario 1997 trang 224, 225, Làng Văn tổng phát hành