Bùi Tín
Tôi đang có một
số băn khoăn khi nghiên cứu về t́nh h́nh văn
hoá–chính trị nước ta.
Đó là ở
nước ta đă hoàn thành cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ (CMDTDC) hay chưa?
Nếu đă hoàn thành th́ đă hoàn thành ra sao? Và từ bao
giờ? Hiện nay nước ta đă chuyển lên cách
mạng xă hội chủ nghĩa hay chưa? Kinh tế
thị trường theo định hướng xă hội
chủ nghĩa là đă thuộc phạm trù cách mạng nào ?
đă là cách mạng xă hội chủ nghĩa hay chưa?
và theo mô h́nh cách mạng
xă hội chủ nghĩa nào ?
Theo tôi
nghĩ, cuộc CMDTDC ở nước ta vẫn c̣n dở
dang, chưa hoàn thành, thậm chí vẫn c̣n ở thời
kỳ sơ khai, mở đầu, do đó cần
được xác định nội dung c̣n tồn tại
để toàn xă hội, gồm các lực lượng công
dân, các tổ chức chính trị, các cơ quan nhà
nước, các cơ quan truyền thông, văn hoá, giáo
dục… cùng nhau thực hiện.
CMDTDC có hai vế, mang hai nội dung
cơ bản:
1. Cách mạng dân tộc (CMDT) là
giành lại nền độc lập dân tộc,
đánh đuổi đế quốc thực dân, cả dân
tộc được tự do với nghĩa không c̣n
bị ách đế quốc thực dân nước ngoài
thống trị,
2. Cách mạng dân chủ (CMDC) là
giành lại quyền sống tự do của
người dân thoát khỏi ách áp bức thống trị
của hệ thống vua quan phong kiến, thiết lập
nên chế độ dân chủ cộng hoà. Trong chế độ
dân chủ, người dân có mọi quyền lợi và
nghĩa vụ của một công dân tự do (citoyen
libre/free citizen), trong đó các quyến cơ bản nhất
là:
-
Quyền lập hội (từ các
hội chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá,
từ thiện, tôn giáo, thể thao, giải trí đến
các đảng phái chính trị)
-
Quyền tự do tư tưởng, trong đó tự do báo
chí và tự do tôn giáo là quan trọng nhất
-
Quyền tự do ứng cử và
bầu cử để bầu ra những người đại
diện trong bộ máy cầm quyền các cấp từ
địa phương đến trung ương.
Ngoài những quyền tự do nói trên
phải kể đến quyền tư hữu là
quyền sở hữu cá nhân về tài sản gồm
bất động sản (nhà đất, ruộng
vườn) cùng với các tài sản riêng khác như
tiền bạc, tài khoản gửi ngân hàng, trâu ḅ, súc
vật và gia cầm, xe cộ và vật dụng khác; đi
cùng với quyền tư hữu là quyền tự do kinh
doanh, bao gồm quyền trao đổi, mở cửa
hàng hay tham gia lập công ty buôn bán để sinh lợi, làm
các nghề thủ công nghiệp, các nghề tự do khác
như mở trường, dạy học, pḥng khám
bệnh, văn pḥng luật sư tư…
Đây là một cuộc cách mạng v́ khi
được thực hiện, t́nh h́nh trong xă hội và
thân phận mỗi con người trong xă hội
nước ta thay đổi rơ rệt. Hệ thống cai
trị của thực dân nước ngoài bị xoá bỏ
hoàn toàn. Hệ thống cai trị của vua quan phong
kiến từ trung ương đến thôn xă cũng
bị xoá bỏ triệt để.
Trên thực tế, ở
nước ta Hiến pháp mới năm 1946 được
thảo ra tháng 11-1946. Quốc hội mới
được thành lập trước đó qua tổng
tuyển cử (tháng 1 năm 1946). Chính phủ Lâm thời
rồi Chính phủ Kháng chiến được thành
lập. Mặt trận Việt Minh đổi tên là Mặt
trận Liên Việt, sau nữa là Mặt trận Tổ
quốc cho đến nay; Đảng Cộng sản
Đông Dương - thành lập tại Trung Quốc từ
năm 1930, lănh đạo cuộc Cách mạng tháng Tám 1945
thắng lợi, rút vào hoạt động bí mật từ
cuối năm 1946, rồi công khai lấy tên là Đảng
Lao động Việt Nam đầu năm 1951, để
đổi lại tên là Đảng Cộng sản Việt
Nam từ tháng 12 năm 1976 tại Đại hội IV -,
luôn tự nhận là lực lượng lănh đạo cách
mạng Việt Nam. Từ năm 1945, bên cạnh
Đảng Cộng sản c̣n có Đảng Dân chủ và
Đảng Xă hội cũng do Đảng Cộng sản
chủ trương để thu hút trí thức, nhân sĩ
và các nhà tư sản dân tộc có cảm t́nh với
Đảng Cộng sản, đồng thời cũng
để trưng ra với xă hội và thế giới một h́nh
thức đa nguyên đa đảng, che giấu và làm
mờ nhạt bản chất độc đoán
độc đảng; đến cuối năm 1988 hai
Đảng Dân chủ và Xă hội "tự giải
thể" theo quyết định của Đảng
Cộng sản, đất nước lại trở lại
cả về h́nh thực và thực chất cai trị bởi
chế độ độc đảng, với độc
quyền đảng trị của đảng cộng sản.
Một đặc điểm nổi
bật của CMDTCD ở nước ta là nó diễn ra trong
hoàn cảnh rất phức tạp của khởi
nghĩa và chiến tranh. Chiến tranh Thế giới
lần thứ Hai khởi đầu từ năm 1939
đến tháng 8/1945, nội chiến Quốc-Cộng
ở Trung Quốc nổ ra lại từ 1945 đến
tháng 10/1949, chiến tranh Triều Tiên diễn ra từ 1950
đến 1952, đặc biệt ở Việt Nam và
Đông Dương chiến tranh chống thực dân giành
độc lập xen lẫn với nội chiến, xoắn
chặt với cuộc chiến tranh lạnh quyết liệt
giữa hai phe cộng sản và dân chủ, chiến
lược bành trướng ra toàn thế giới của
phe cộng sản và chiến lược ngăn chặn
(endiguement/containment) của phe dân chủ. Môi trường căng thẳng
quyết liệt thời chiến đă bao trùm đất
nước ta suốt từ năm 1939 đến tận
năm 1989, sau khi bộ đội Việt Nam rút khỏi
Cam-bốt, cũng có thể tính đến tận năm
1991 khi b́nh thường hoá quan hệ Việt–Trung, hoặc
đến năm 1995 khi việc b́nh thường hoá quan
hệ Việt–Mỹ được thực hiện,
nghĩa là trong đúng 50 năm (nửa thế kỷ),
cũng có thể tính là trong 56 năm. Chính trong môi
trường chiến tranh kéo dài như thế mà đất
nước bị chia cắt và chính quyền hai miền
chống đối nhau trong 21 năm, từ giữa
năm 1954 đến 30/4/1975.
Đại hội Đảng Cộng
sản lần thứ III năm 1960 quyết định
bắt đầu cuộc cách mạng xă hội chủ
nghĩa ở miền Bắc với một loạt chính
sách: hợp tác hoá nông ngiệp từ bước thấp
lên bước cao, xây dựng xí nghiệp quốc doanh
rộng khắp, công nghiệp hoá lấy công nghiệp
nặng làm trọng tâm, mở rộng thương
nghiệp quốc doanh với những cửa hàng mậu
dịch quốc doanh rộng khắp, xoá bỏ thương
nghiệp tư nhân, hạn chế tiểu thủ công
nghiệp tư nhân… Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc
đi nhắc lại đường lối chung về chính
trị kinh tế văn hoá của miền Bắc là “bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa
để tiến thẳng lên chủ nghĩa xă hội’’.
Các nhà chính trị và lư luận của chế độ
một mặt phê phán nghiêm khắc và nặng nề con
đường tư bản, con đường thị
trường tự do, coi đó là con đường
của bóc lột, bất công, lạc hậu và tội ác,
mặt khác ca ngợi con đường đi thẳng lên
chủ nghĩa xă hội là con đường đúng
đắn, khoa học và tiên tiến nhằm đưa
"miền Bắc tiến
nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên xă hội
chủ nghĩa, làm cơ sở hậu phương lớn
để giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước".
Sau 30/4/1975 Đảng Cộng sản
quyết định đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xă hội,
nhanh chóng hợp tác hoá nông ngiệp, xoá bỏ thương
nghiệp tư nhân, quốc doanh hoá các cơ sở công
nghiệp ở miền Nam, nhằm "đưa miền Nam tiến kịp miền Bắc
trên con đường cách mạng xă hội chủ
nghĩa, thống nhất hoàn toàn đất nước
về mọi mặt chính trị, hành chính, kinh tế,
văn hoá và tŕnh độ phát triển".
*
Với t́nh h́nh diễn biến và
những đặc điểm trên đây, cuộc CMDTDC
ở nước ta đă diễn ra trong hoàn cảnh
rất không b́nh thường và do đó phải chăng có
nhiều khiếm khuyết cần bổ cứu?
Nếu quả
vậy đâu là những điều không b́nh thường?
Những
khiếm khuyết
ấy là ǵ?
Nên
bổ cứu những
khiếm khuyết ấy ra sao?
Từ sau 30/4/1975 tôi
đă lờ mờ cảm thấy những nét phát triển
không b́nh thường của cuộc CMDTDC ở
nước ta. Sau đó ở ba năm tại miền Nam,
lại được thỉnh thoảng đi công tác
ở nước ngoài, từ các nước xă hội
chủ nghĩa đến các nước dân tộc chủ
nghĩa ở châu Á, châu Phi, rồi các nước dân
chủ phát triển cao ở châu Âu, châu Mỹ và châu Úc, có
nhiều điều kiện để quan sát và so sánh, tôi
ngày càng nhận ra rơ ràng hơn những nét phát triển không b́nh
thường và những khiếm khuyết
của cuộc CMDTDC ở nước ta.
Từ tháng 9 năm
1990 tôi sống ở nước ngoài, được đi
đến thêm hơn 20 nước nữa, bao gồm Tây Âu
và Bắc Âu, 8 bang của Hoa Kỳ và Canada, Trung Đông và
Mỹ Latinh, lại luôn theo dơi t́nh h́nh nước ta qua 4
kỳ Đại hội VII, VIII, IX, X của Đảng
Cộng sản, tôi càng thấy sâu sắc, rơ ràng hơn
những khiếm
khuyết nguy hiểm nói trên và tác hại vô kể của
chúng nếu không kịp thời sửa chữa và khắc
phục.
Trong nhiều
cuốn sách và bài viết, tôi đă nói lên những băn
khoăn lo ngại của ḿnh về t́nh h́nh đất
nước liên quan đến những vấn đề
trên đây và tuy có được ít nhiều tiếng vang
thuận lợi trong và ngoài nước, nhưng vẫn
không tác động được đến đường
lối và chính sách hiện hành. Chính do vậy mà có bài
báo này.
Với bài báo này, tôi
xin được đặt một vấn đề
cực kỳ hệ trọng của cách mạng
nước ta ra trước công luận rộng răi trong và
ngoài nước, mời tất cả các vị
thức giả, các nhà nghiên cứu lư luận, các nhà sử
học, chính trị học, luật học, các vị thày
giáo, các bạn sinh viên học sinh cùng suy nghĩ và phát
biểu, tạo nên một cuộc đối thoại sôi nổi, lư thú,
sinh động và bổ ích. Tôi nghĩ đây là
vấn đề lư luận và thực tiễn hệ
trọng nhất trong cách mạng nước ta, liên quan
đến việc đánh giá đúng quá khứ, nh́n đúng
hiện tại và xác định đúng con đường
và chính sách cho tương lai nước ta.
Dưới đây
tôi chỉ xin đặt ra một số vấn đề,
một số chủ đề, giả thuyết, một
số ư kiến khêu gợi quan trọng nhất. Tôi có thể viết
một bài báo dài, hay một cuốn sách tŕnh bày tỷ
mỷ về vấn đề lớn này, nhưng tôi
quyết định một cách làm khác. Đó là chỉ xin đặt
ra vấn đề và nói lên nhận định sơ
bộ để đông đảo các vị thức
giả cùng suy nghĩ và phát biểu, tránh sai lầm chủ
quan phiến diện, vội vă, dễ vấp ngă.
1. Cuộc CMDTDC
ở nước ta đă hoàn thành hay chưa? Thật
sự là chưa. Mới hoàn thành cách mạng CMDT c̣n CMDC nói
đă hoàn thành rồi là một ngộ nhận. CMDC
ở nước ta c̣n nhiều khiếm khuyết, dở
dang, do điều kiện đặc biệt của
chiến tranh, c̣n nhiều lỗ hổng lớn cần
được lấp kín, hoàn thiện. Không nên và không
thể đốt cháy giai đoạn, chưa hoàn thành CMDTDC
đă tiến lên cách mạng xă hội chủ nghĩa
(CMXHCN).
2. Tiến lên CMXHCN cần
được xác định lại, đó là một
bước tiến hay
một bước lùi? Theo
tôi, về lư luận kinh điển th́ là một
bước tiến, v́ tiến lên nền sản xuất
quy mô lớn, với sở hữu toàn dân và tập thể,
về nguyên tắc không c̣n giai cấp bóc lột và bị
trị, nhưng trong thực tế, tại các chế
độ XHCN được h́nh thành ở Liên Xô, Đông
Âu và châu Á trong đó có Việt Nam, CNXH thực tế đă
không cao hơn chủ nghĩa tư bản mà c̣n thấp hơn một
tầng văn minh/chinh trị v́ sự cai trị
độc quyền của đảng cộng sản, v́
nền dân chủ XHCN không hề có trên thực tế, nó
chỉ là vỏ bọc cho sự cai trị độc tài
của một chính đảng chuyên chế, nhân dân trên
thực tế không có quyền tự do cơ bản,
vẫn là một thực thể bị trị. Cần nói
thẳng nói thật như thế. Nói "nhân dân làm chủ" tại đó là một ngoa
ngôn, một lạm ngôn, hoặc là một ngộ
nhận.
3. Cắt
nghĩa ra sao về sự lầm lẫn này? Theo tôi, do
thắng lợi vang dội trong chiến tranh chống
phát-xít của Liên Xô, do thắng lợi to lớn của
Đảng Cộng sản Trung Quốc trong chiến tranh
Quốc-Cộng, do thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp [do đảng
Cộng Sản VN cầm đầu, dưới danh
nghĩa là "đảng Lao Động"] dẫn
đến việc miền Bắc gia nhập phe XHCN…
Những chiến thắng trong chiến tranh do các đảng cộng
sản lănh đạo hoặc tham gia, cộng với
sự tuyên truyền khuếch trương chiến
thắng đă tạo nên trước công luận chung tính
chính thống, tính chính đáng của các chế
độ độc đảng độc đoán ấy
trước mắt nhân dân và trên trường quốc
tế. Thật ra tính chính thống
và tính chính đáng của các chế độ cộng sản
toàn trị đă từng bị thế giới dân chủ
phủ nhận một thời gian dài, và hiện vẫn là
một vấn đề tồn tại ở những mức
độ khác nhau trong quan hệ quốc tế cũng như
trước công luận.
Ngay từ những
năm 1945-1946, sau khi Chiến tranh Thế giới lần
thứ Hai kết thúc, Staline cùng với nhà lư luận chính
của Đệ tam Quốc tế Cộng sản là A.
Jdanov đă "sáng tạo" ra cái tên "Dân chủ Nhân dân" (Démocratie
populaire/people Democracy) cho các chế độ độc
đảng do các đảng cộng sản thuộc
Đệ tam Quốc tế dựng lên từ Đông sang
Tây, từ Cộng hoà DCND Trung Hoa, Cộng hoà DCND Triều
Tiên đến Cộng hoà DCND Đức (Đông
Đức), Cộng hoà DCND Ba Lan, Hungari, Rumani, Bungari…
Tạp chí lư luận chung cho các nước trên là nguyệt
san Dân chủ Nhân dân, mặc
cho ngay từ hồi ấy một số nhà báo
phương Tây (như Le Monde ở
Pháp) đă nhận định là các chế độ
ấy bị đặt nhầm tên, v́ không có một chút
chất ǵ là "dân chủ", cũng không có tư ǵ là "nhân dân"
cả !
Thế nhưng cái
tên gọi "Dân chủ Nhân dân" vẫn có tác dụng mê hoặc
hàng tỉ con người trên trái đất, nhất là
những người sống dưới các chế
độ ấy, cho phép họ yên ḷng v́ yên trí rằng
nước ḿnh đă - theo tuyên truyền áp đặt - đă
có một nền dân chủ đích thật, một nền
dân chủ c̣n cao hơn, có giá trị hơn nền dân
chủ phương Tây (!).
Sự ngộ
nhận ấy bắt rễ khá sâu ở nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với chế độ “Dân
chủ Nhân dân’’ được mặc nhiên áp đặt, v́
người dân do nhận thức c̣n hời hợt, cũng
cảm thấy rằng nó có vẻ hơn chế độ
thực dân và phong kiến, rằng quả thật sự
cai trị của hệ thống toàn quyền, khâm sứ,
thống sứ, công sứ, viên chức người Pháp
với quân đội thực dân Pháp đă biến mất,
hệ thống từ lư trưởng, kỳ hào đến
vua quan các cấp người Việt cũng đều tan
biến để nhường chỗ cho các uỷ ban nhân
dân và hội đồng nhân dân, khi báo và đài không ngớt
ca ngợi nền « dân chủ nhân dân » ưu
việt, ca ngợi nhân dân đă « làm chủ tập
thể » và cán bộ mọi cấp đều là « đầy
tớ của dân » (!), Đảng Cộng sản không
quên che giấu bản chất dữ dội của học
thuyết cộng sản bằng cách cho nó mang cái tên
hiền lành và b́nh dân: Đảng Lao động Việt Nam.
Thật ra không phải không có người sớm nhận
ra rằng có những mặt chế độ này c̣n kém hơn
chế độ thuộc địa hay bảo hộ của
Pháp, v́ không có tự do báo chí, tự do xuất bản, tự
do tôn giáo, không có tư pháp độc lập, ṭa án bất công,
xử không theo luật, không có luật sư … [Không có tự do cư trú, tự do đi
lại, tự do kinh doanh, tự do sử dụng
đất đai nhà cửa, v́ có chế độ bao
cấp và phân biệt giai cấp xă hội, tạo nên
những bất công thường trực, và những
sự bắt bớ tùy tiện tạo nên một tâm lư
sợ sệt khủng hoảng cho toàn xă hội kể
cả những đảng viên, những điều này
khiến cuộc sống tại miền Bắc sau 1954 và cả
2 miền sau 1975 đều thua kém chế độ Bảo
hộ hoặc thuộc địa của Pháp tại
Việt Nam trước 1954 về phương diện tự
do (AD)]
Một chế độ dân chủ b́nh
thường, chân thật và ngiêm chỉnh là thế nào?
Đây là một vấn đề mới mẻ đối
với người Việt chúng ta. Cũng là vấn
đề lư thú, rộng lớn và hấp dẫn.
Người châu Âu
và Bắc Mỹ biết về chế độ dân chủ
từ thế kỷ 18, mở đầu cho cuộc cách
mạng tư sản dân quyền trên thế giới. Cuộc
cách mạng công nghiệp ở Châu Âu trước và trong
thế kỷ 16, 17, với công nghiệp khai thác than, máy
hơi nước, máy dệt, nghề in… tạo
điều kiện cho cuộc cách mạng chính trị.
Các bản Hiến
pháp dân chủ năm 1787 ở Mỹ và năm 1789 ở Pháp
được coi là những bản hiến pháp tiêu
biểu mở đầu cho kỷ nguyên dân chủ trên
thế giới. Các bản Hiến pháp này được
phổ biến tỉ mỉ, rộng răi, lắp đi
lắp lại đến mức gần như thuộc
ḷng từ tuổi ấu thơ đến tuổi
trưởng thành cho đến cuối đời mỗi
người công dân làm cơ sở cho cuộc sống xă
hội hằng ngày, chi phối suốt cuộc đời
của họ.
Ở phương
Tây, học sinh, sinh viên và công dân c̣n được phổ
biến nhiều lần Tuyên ngôn về những quyền
con người và công dân,
được Quốc dân Đại hội Pháp thông qua
ngày 26-8-1789, gồm có 17 điều, trong đó nhấn
mạnh những điểm:
-
mỗi người từ khi sinh ra
đă tự do và b́nh đẳng;
-
các quyền tự nhiên của mỗi
người là: quyền tự do, quyền tư hữu,
quyền có an ninh và
quyền chống lại áp
bức;
-
quyền tự do lập hội,
lập chính đảng dẫn đến thể chế đa
nguyên đa đảng, cạnh tranh nhau b́nh
đẳng qua các cuộc bầu cử định kỳ;
-
luật và chỉ có luật mới có quyền hạn
chế tự do của công dân để bảo vệ
những quyền tự do của các thành viên khác trong xă
hội, ngăn cấm những hành động có hại
cho xă hội,
-
luật biểu thị ư
chí của toàn xă hội được các công dân và
người đại diện của họ [do dân bầu ra một cách dân chủ
thực sự, (AD)] thảo ra; luật đối
xử mọi công dân như nhau;
-
mọi công dân bị truy tố phải
được coi là vô tội cho
đến khi bị tuyên án;
-
không công dân nào phải lo ngại
chỉ v́ quan điểm chính trị;
-
quyền sở hữu là quyền bất
khả xâm phạm và thiêng liêng.
Bản Tuyên ngôn
trên đây viết gọn, chỉ có hơn 600 từ -
một trang nhỏ - cô đọng những nguyên tắc
nền tảng cho chế độ dân chủ hiện
đại, được dùng làm "Phần mở
đầu" (Préambule) của bản Hiến pháp 1789 của
nước Pháp, có giá trị đến tận ngày nay, trải
qua 5 nền Cộng hoà: thứ nhất từ năm 1789,
thứ hai từ năm 1848, thứ ba từ năm 1870,
thứ tư từ năm 1946, và thứ năm từ
năm 1958 đến nay.
Muốn hiểu sâu
sắc những nguyên tắc nền tảng của nền
dân chủ hiện đại (c̣n gọi là nền dân
chủ tư sản dân quyền, hay nền dân chủ dân
quyền), học sinh và sinh viên cũng như các nhà chính
trị không thể không nghiên cứu những tác phẩm
chính trị, triết học của những nhà tư
tưởng–văn hoá kiệt xuất đă sáng
tạo ra những khái niệm, quan điểm, nguyên
tắc mới mẻ, khai phá sáng tạo ra mô h́nh của
một chế độ chính trị hoàn toàn mới,
đưa xă hội loài người lên hẳn một
tầng cao mới.
Đó là triết gia
và luật gia Charles de Montesquieu (1689-1755)
với tác phẩm Tinh
thần luật pháp, nhà tư tưởng và lư
luận Jean Jacques Rousseau
(1712–1778) với tác phẩm Khế
ước Xă hội, là Voltaire
(1694–1778) và Diderot (1713–1784), được coi là những ngôi sao
dẫn đường của Thời
đại Ánh sáng của thế kỷ 18,
đặt nền móng vững bền cho tư tưởng
dân chủ tiên tiến, c̣n nguyên giá trị cho đến
hiện nay.
Những tư
tưởng dân chủ cơ bản đó là:
-
Con người mới tự nhận
sinh ra
đă tự do và b́nh đẳng, không chịu
sự thống trị, cai quản, ràng buộc của
bất kỳ tổ chức, vương quyền, thần
quyền, giáo quyền hay quyền uy cá nhân nào trong xă
hội, ḍng họ hay gia đ́nh. Ngay bố mẹ có trách
nhiệm dạy dỗ con cái cũng chỉ là giáo dục
hướng dẫn quyền tự do của chúng mà không
được xỉ vả và cưỡng bức, khi
trưởng thành 18 tuổi th́ chúng hoàn toàn tự do. Riêng quan
điểm này đă lật nhào vương quyền, quan
quyền, thần quyền, phụ quyền; lên án, loại
bỏ nạn buôn bán nô lệ, buôn bán phụ nữ, trẻ
em; tệ phân biệt màu da, phân biệt giới tính, giai
cấp, tài sản; những tập quán phong tục cổ
hủ bất công như cha mẹ chửi bới đánh
đập hành hạ con cái, cưỡng bức hôn nhân cha
mẹ đặt đâu phải ngồi đấy,
chồng bảo ǵ vợ phải nghe (phu xướng
phụ tuỳ), con trai hơn con gái (nhất nam viết
hữu thập nữ viết vô); thày giáo coi học sinh
như con cháu trong nhà để sai bảo; viên chức gây
phiền hà, nhũng nhiễu, khinh thị người dân
với tinh thần ban ơn và bố thí cho thứ dân;
-
Trong xă hội, mọi công dân
đều b́nh đẳng và nắm chung chủ
quyền quốc gia. Chủ
quyền quốc gia thuộc về toàn bộ các công dân b́nh
đẳng trong xă hội ấy, được
biểu hiện thành luật,
được toàn bộ công dân hoặc người
đại diện do công dân toàn quốc cử ra để
thảo, thông qua và ban bố. Luật nhằm bảo vệ
tự do của công dân, tự do toàn xă hội, điều
chỉnh hành vi công dân để không làm hại đến
tự do của những công dân khác, xử lư những
trường hợp phạm luật v́ an toàn của xă
hội. Mọi công dân có quyền
làm mọi việc trừ những điều luật
cấm. Luật định ra các mức độ
trừng phạt tuỳ theo mức độ vi phạm và
có giá trị ngang nhau cho mọi công dân.
-
Nhà nước và
mọi tôn giáo tách bạch với nhau là một nguyên
tắc cơ bản; không tôn giáo nào can thiệp vào công
việc chính quyền, ngược lại chính quyền
cũng không can thiệp vào công việc nội bộ
của các tôn giáo;
-
Điều hành chính quyền quốc
gia có ba mảng, hay cơ quan quyền lực là: quyền
lập pháp (làm ra luật),
quyền hành pháp (thi hành luật) và quyền tư
pháp (xử lư các vụ vi phạm luật). Theo nguyên
tắc phân quyền, cũng là nguyên tắc cân bằng
quyền lực, đề pḥng lạm quyền và bất
công, ba quyền trên đây quan hệ chặt chẽ với
nhau, vừa phối hợp vừa giám sát và kiểm tra nhau.
Nói chung Quốc hội lo quyền lập pháp, thường
xuyên xem xét việc thi hành luật và bổ sung sửa
chữa, thảo ra luật mới. Chính phủ lo quyền
hành pháp, điều hành để luật được
thực hiện tốt. Hệ thống toà án các loại các
cấp đảm nhận quyền tư pháp, xét
xử các vụ vi phạm. Cả ba ngành đều làm theo
luật, tuân
theo luật và chỉ tuân theo luật, nghĩa là tuân
theo ư chí của toàn thể xă hội.
-
Hiến
pháp là luật cơ bản của
quốc gia do toàn thể công dân hay đại diện
của công dân trong cả nước thảo ra. Hiến
pháp là luật mẹ, luật
gốc, cao nhất, có giá trị lâu dài. Các đạo
luật khác (luật con) không được trái với
Hiến pháp, nếu trái th́ bị coi là vi hiến, không có giá
trị.
Trên đây là những quan điểm
cơ bản nhất của một nền dân chủ chân
thực, tiên tiến, được h́nh thành, thực
nghiệm, thử thách trong hơn 200 năm qua tại
hơn một trăm quốc gia khác nhau, nơi nào áp
dụng càng đầy đủ, sâu sắc th́ càng trở
nên giàu mạnh, xă hội an b́nh hạnh phúc.
Mặt khác về h́nh thức thể
hiện th́ có nhiều kiểu cách khác nhau, do truyền
thống, khác biệt về dân tộc văn hoá, như dân
chủ có thể theo h́nh thức quân chủ lập hiến
(nhà
vua chỉ có giá trị tượng trưng); quốc
hội có một hay hai viện, hoặc có thêm Viện
Bảo hiến (bảo vệ hiến pháp); có Tổng
thống hoặc Thủ tướng, hay có cả hai;
nhiệm kỳ là 3, 4 hay 5, hay là 7 năm…; Tổng thống
được làm nhiều nhiệm kỳ hay chỉ
được hai nhiệm kỳ là nhiều nhất
như ở Hoa kỳ.
Sau Chiến tranh Thế giới lần
thứ Hai (1939–1945), nhiều biến động lớn
diễn ra: trục phát xít Đức Ư Nhật tan ră, hàng
loạt nước thuộc địa giành lại
độc lập, phe xă hội chủ nghĩa do Liên Xô và
Trung Quốc cầm đầu ra đời; cuộc chiến tranh
lạnh bắt đầu giữa hai phe, một bên là
phe xă hội chủ nghĩa cùng phong trào cộng sản
quốc tế mang ư định chiến lược
cộng sản hoá toàn thế giới chống lại bên
kia là phe dân chủ toàn thế giới do Hoa Kỳ cầm
đầu với sứ mạng chiến lược công
khai là ngăn
chặn sự bành trướng của chế
độ cộng sản, với lập luận rằng:
những chế độ cộng sản mang danh dân chủ nhân dân trá h́nh hay xă hội chủ nghĩa trá
h́nh thực chất là những nước độc tài
đảng trị phản dân chủ, lạc hậu về mọi
mặt, thua kém các nước dân chủ hẳn một
tầng văn hoá, văn minh-chính trị.
Cuộc chiến
tranh lạnh căn bản kết thúc vào năm 1991, sau khi
bức tường Berlin sập đổ(1989), Liên bang
Xôviết và Đảng Cộng sản Liên Xô tan ră, phe xă
hội chủ nghĩa biến mất, với bốn
vết tích tàn dư lớn nhỏ đang cố gắng đổi mới cầm
chừng để tồn tại.
Sau Chiến tranh
Thế giới lần thứ Hai, một sự kiện
lớn xuất hiện chi phối t́nh h́nh toàn thế
giới: Tổ chức Liên Hợp Quốc (LHQ)
được thành lập, với 51 nước năm
1945, 104 nước năm 1961, 192 nước năm 2006 cho
đến nay (2007). Việt Nam vào LHQ ngày 20-9-1977, là
nước thứ 149 gia nhập tổ chức này. Trong
không khí hứng khởi trên toàn thế giới do toàn
thắng phát xít, giải phóng các nước thuộc
địa, giải trừ phân biệt chủng tộc, làn
sóng dân chủ mở rộng, LHQ có nhiều cuộc
thảo luận sôi nổi về dân chủ và nhân quyền,
nhận trách nhiệm thúc đẩy mạnh mẽ hơn
nữa các trào lưu này để thúc đẩy toàn
thế giới tiến lên văn minh và phát triển.
Ngày 10-12-1948
Đại hội đồng LHQ thông qua Tuyên ngôn Quốc tế
về Nhân quyền gồm 30
điều, khẳng định những thành tựu
lịch sử về nhân quyền, đề cao những
nguyên tắc cơ bản của nội dung quyền con
người, cam kết thực hiện đầy
đủ nội dung ấy trên toàn thế giới với
trách nhiệm của mỗi thành viên LHQ cũng như
của tổ chức quốc tế lớn lao này. Ngày 10-12
mỗi năm trở thành Ngày Nhân quyền Quốc tế.
LHQ tổ chức cơ quan chuyên trách nhân quyền của
ḿnh để quảng bá, giám sát và giải quyết
những vấn đề liên quan.
18 năm sau, năm
1966, Đại hội đồng LHQ thông qua Công
ước Quốc tế về những Quyền dân
sự và chính trị gồm 27 điều và Công
ước Quốc tế về những Quyền kinh
tế, xă hội và văn hoá gồm 15 điều, phát triển,
cụ thể hoá các quyền con người trên
mọi lĩnh vực, nhằm mở rộng quyền con
người ra mọi mặt cuộc sống hàng ngày
của đông đảo công dân trên thế giới. Các
nước thành viên cam kết phổ biến chu đáo
nội dung các văn kiện này thật rộng răi
đến mọi công dân nước ḿnh qua các phương
tiện truyền thông đại chúng để ai cũng
hiểu tường tận và được hưởng
đầy đủ các quyền đă minh định.
Cứ như thế,
mọi mặt cuộc sống con người từ
khi sinh ra, lớn lên, đi học, vào nghề, đi làm,
nghỉ việc, về hưu, kinh doanh, đi lại, du
lịch, lấy vợ lấy chồng, sinh con, hoạt
động chính trị, nghề nghiệp, văn hoá, mua
nhà, chọn và đổi quốc tịch, cuộc sống
riêng (tài sản, thư từ, điện thoại, quan
hệ t́nh cảm, tôn giáo), gặp khi đau ốm, thất
nghiệp, bị tai nạn, thiên tai, cho cả đến
khi phạm pháp, bị truy tố, bị xét xử, bị
phạt giam, đi thưa kiện hay bị kiện cáo…
đều nhất nhất được pháp luật
từng nước và pháp luật quốc tế
bảo vệ chống mọi bất công, độc
đoán và sơ xuất.
Mỗi
mặt hoạt động trên, các văn kiện kể ra
nhiều trường hợp, có khi hàng chục
trường hợp cụ thể khác nhau để xác
định quyền của người công dân trong một
xă hội dân chủ đích thật. Các văn kiện trên
họp thành cẩm nang, sách gối đầu giường
cho mọi người để t́m hiểu cặn kẽ
nhằm hiểu mọi quyền lợi để tận
hưởng một cuộc sống an toàn, phong phú, công
bằng và hạnh phúc.
Ví dụ chỉ nói
riêng về tự do thân thể của con người,
các văn kiện trên khẳng định rất nhiều
nội dung như: quyền sống (bảo vệ thai nhi,
hạn chế hoặc băi bỏ án tử h́nh, không tuyên án
tử h́nh người dưới 18 tuổi và
người đang mang thai, chống nạn diệt
chủng tập thể), quyền không bị tra tấn
(cả tra tấn hành hạ trên thân thể, cả hành
hạ về tinh thần và tâm trí cũng như làm tổn
thương đến nhân phẩm; bị cáo chờ xét
xử phải được đối xử như
người chưa can án), quyền không bị nô dịch
hay bị coi như nô lệ (cấm buôn bán phụ nữ,
gái vị thành niên, trẻ em), quyền nhân thân và an toàn thân
thể (không bị bắt giữ và giam cầm độc
đoán, phải được thông báo lư do bị bắt
giữ để điều tra, phải được dẫn
giải không chậm trễ đến toà án để xét
xử theo luật, phải được bồi
thường thiệt hại khi bị bắt giữ và
giam cầm trái phép), quyền không bị câu thúc thân thể
v́ thiếu nợ; quyền được xét xử công
bằng (xét xử đúng tội, đúng luật, công khai,
có mặt công chúng và báo chí; phải được coi là vô
tội cho đến khi bị chứng minh là có tội);
được thông báo rơ tội trạng với mọi chi
tiết có được, có đủ phương
tiện và thời gian để tự biện hộ
hoặc chọn luật sư biện hộ và tự do
tiếp xúc với luật sư; được
đối chất với nhân chứng trước toà;
không bị cưỡng bức hăm doạ phải
nhận tội); quyền được đối xử
b́nh đẳng với mọi công dân khác (dù có những quan
điểm chính trị xă hội tôn giáo khác với nhà
cầm quyền; chống lại nền tư pháp có hai
cấp độ, nặng với loại người này,
nhẹ với loại người khác).
Khoảng cách và
những lỗ hổng: Có thể dễ
dàng thấy về cách mạng dân tộc-dân chủ,
đặc biệt là về dân chủ và nhân quyền,
thực tiễn t́nh h́nh Việt Nam so với thế
giới ngày nay có một khoảng cách khá lớn,
trước hết là về nhận thức, lư luận,
quan điểm, truyền thống và pháp lư.
Sự
thiệt tḥi, thiệt
hại, tổn thất và đau khổ mà toàn xă hội, mỗi
người dân phải chịu đựng do sự chênh lệch,
khiếm khuyết, chậm trễ trên đây là không sao
kể hết. Có thể có cả một luận văn khoa
học rất dài và giá trị về tác hại do khoảng
cách ấy, do sự lạc hậu ấy gây nên.
Do
đâu mà có khoảng cách đáng tiếc tệ hại
như thế? Có thể lúc này chưa cần nghiên cứu sâu
về nguyên nhân, về
những ai chịu trách nhiệm cho sự lạc
hậu nguy hiểm này. Do hoàn cảnh chiến tranh kéo dài, do
cuộc đấu tranh giành độc lập thu hút
hết tinh lực của dân tộc, che lấp và lấn át
cuộc đấu tranh cho dân chủ; do truyền thống
dân chủ, khát vọng dân chủ của dân ta c̣n rất
yếu và mờ nhạt dù có lúc ta tự hào hơi quá
đáng rằng ư thức dân chủ ta khá sâu và khá sớm
với nếp xưa "phép vua thua lệ làng" (!).
Cũng c̣n do tật bảo thủ, tự hào quá lố
về những giá trị châu
Á (!), trong khi các nhà tư tưởng tiến bộ
ở châu Á và nước ta như một số học
giả người Nhật thời vua Minh Trị, như
Lương Khải Siêu bên Tàu, như Nguyễn
Trường Tộ, rồi Nguyễn Văn Vĩnh,
Trương Vĩnh Kư và về sau là Phan Chu Trinh đă
sớm kết luận là từ sau thế kỷ Ánh sáng
(thế kỷ 18), sau cách mạng tư sản dân quyền
Mỹ và Pháp cuối thế kỷ 18, phương Tây đă mở đường cho nền
văn minh nhân loại cả về công nghiệp, chính trị
và văn hoá nghệ thuật. Đây là sự thật
hiển nhiên, cần nhận ra để tiến lên
bằng người.
Giữa châu Á và phương Tây có một
khoảng cách lớn về nhận thức và thực
tiễn giá trị của cá nhân. Ở châu Á, vai tṛ cá nhân c̣n
bị lu mờ với nhiều ràng buộc. Thời phong
kiến, con người bị các mối quan hệ vua tôi,
vua quan (quân thần), thày tṛ, quan dân, cha con, chồng vợ,
anh em, họ hàng với trật tự theo lễ giáo,
đẳng cấp, ngôi thứ, chức tước,
tuổi tác, trên dưới chi phối chặt chẽ. Trong
xưng hô tồn tại nhiều thứ bậc: Đức
Vua, cụ lớn, quan lớn, quan một, ông quản, bác
đội, chú cai, anh lính, thằng mơ, con sen, tên
cướp… Phụ nữ bị coi là thấp hèn so với
nam giới. Nền văn hoá cổ truyền châu Á với
nền Khổng học và Nho giáo đặc trưng đă
một mặt làm cho xă hội
ổn định và phát triển trên các mặt học
thuật và tôn giáo (đạo Phật và Ấn Độ
giáo), mặt khác lại kềm hăm mạnh mẽ sự phát
triển của con người cá thể (Individu) như
một chủ thể của tồn tại nhân sinh trong xă
hội.
Khẳng
định vị trí, quyền sống tự do b́nh đẳng của con người cá
thể, với những quyền lợi và trách nhiệm
như nhau trong xă hội, không tính đến giàu hay nghèo,
trai hay gái, theo tôn giáo nào hay không tín ngưỡng, không kể
màu da hay chủng tộc, với đủ mọi quyền
ghi trong Hiến pháp và luật pháp, như quyền tư
hữu, sở hữu tài sản và tự do kinh doanh hợp
pháp thiêng liêng, tư do tư tưởng, báo chí, đi
lại, xuất nhập cảnh… là nội dung cơ
bản của cuộc cách mạng tư sản dân
quyền, là một bước nhảy vọt trong quá tŕnh
giải phóng con người. Một số nước châu Á, châu Phi, châu
Mỹ Latinh đến nay vẫn chưa thực hiện
được trọn vẹn cuộc cách mạng dân chủ,
v́ bị ràng buộc bởi những định kiến
về xă hội, tôn giáo, chủng tộc, bộ lạc,
bộ tộc, v́ những ngộ nhận, lầm lẫn về
chính trị và cả v́ những sự dối trá cố t́nh
v́ những lợi ích bè đảng bất chính…
Liên bang Xôviết từ năm 1917
thực hiện cái gọi là cách mạng vô sản, tự
cho cao hơn cách mạng tư sản; xây dựng chế
độ xă hội chủ nghĩa, tự cho là cao hơn
chế độ tư bản;
nhưng thực tế chế độ toàn trị
c̣n tệ hơn chế độ độc đoán
độc tài; nó thủ tiêu chế độ dân chủ
đa đảng và quyền tự do của công dân, làm cho
người dân chỉ là kiểu nông nô mới. Nên "dân
chủ Xôviết" chỉ là nền “dân chủ’’
độc đảng, nền “dân chủ’’ cưỡng
bức, toàn trị, thực chất là chế độ phản
dân chủ. Nó sụp đổ là tất
yếu.
Các
nước xă hội chủ
nghĩa Đông Âu cũng vậy, thực chất
cũng là chế độ độc quyền đảng
trị, phản dân chủ, cai trị bằng bạo
quyền cảnh sát và bằng tuyên truyền dối trá,
mị dân. Tự cho chế độ XHCN là cao hơn
chế độ tư bản, nhưng trên thực tế
nó thấp hơn hẳn
một tầng văn minh–chính trị, là sự
phủ định mọi quyền tự do cá nhân, là
sự đày đoạ con người cá thể, chà
đạp nhân cách con người.
Ở ba nước
xă hội
chủ nghĩa châu Á – Trung Quốc, Việt Nam và Bắc
Triều Tiên (Bắc Hàn) - t́nh h́nh c̣n tồi tệ hơn,
v́ cộng với chế độ độc quyền độc
đảng phản dân chủ c̣n có sự tŕ trệ
đến hủ lậu về văn hoá do tàn tích của
Khổng học và Nho giáo, với tệ phân chia ngôi thứ,
tàn dư khinh thị phụ nữ, coi khinh tự do và b́nh
đẳng cá nhân, coi tự do cá nhân là không cần
thiết, thậm chí coi đó là chủ nghĩa cá nhân
xấu xa, nguồn gốc của muôn vàn tội ác. Các
nước này thờ ơ, quay lưng lại với
cuộc cách mạng chính trị-văn hoá ở phương
Tây từ thế kỷ 18 đă giải phóng triệt
để con người cá thể khỏi mọi áp
bức bất công, nâng cao phẩm giá, nhân cách, thân phận
con người cá thể lên tầm cao mới.
Cần nhận
định ngay thẳng rằng thật đáng tiếc
đây là một lỗ hổng chính trị-văn hoá toang
hoác trong xă hội nước ta suốt một thời gian
dài. Cho nên đến nay [người dân]
ta vẫn chưa có tư thế của người công dân dân chủ theo đúng nghĩa, đứng thẳng, đầu
đội trời chân đạp đất, không sợ
một ai, dám nói to điều ḿnh nghĩ, yên tâm không
một ai dám động đến ḿnh - từ thân thể
và nhân cách đến bất cứ tài sản lớn
nhỏ nào của ḿnh, tự do hoàn toàn đi bất cứ
đâu, quan hệ với ai, làm điều ǵ ḿnh muốn và
luật không cấm, đàng hoàng chững chạc, ăn
ngon ngủ yên, tự do chọn người đại
diện bằng lá phiếu thật sự tự do của
chính ḿnh.
Xă hội công dân
theo đúng nghĩa là xă hội đẹp, ổn
định, hài hoà, gồm toàn bộ những công dân
hiểu rơ quyền hạn và nghĩa vụ theo luật
định, lấy luật
do ư chí chung của xă hội thảo nên bởi những
đại biểu được cử ra qua bầu
cử dân chủ làm chuẩn mực, gắn bó với nhau
bằng t́nh thương anh chị em (Fraternité - c̣n gọi
là t́nh hay ḷng bác ái). Trong xă hội công dân không một ai có
thể làm ngơ, bàng quan khi một công dân khác bị
đối xử bất công, v́ hôm nay bất công với
công dân này th́ ngày mai có thể bất công với chính ḿnh,
với người thân của ḿnh hay với bất cứ
công dân nào khác. Trong xă hội công dân, báo chí của công dân
tự do đua nhau phục vụ xă hội để
nói lên sự thật, h́nh thành công luận, bảo vệ
công lư, được gọi là đệ tứ
quyền - quyền lực thứ tư -
để nói lên tầm quan trọng và
hiệu quả xă hội của nền báo chí tự do. Nét
phong phú nữa của xă hội công dân là công dân tự do
thực hiện quyền lập hội, tổ
chức ra vô vàn hội, nảy nở như hoa xuân, từ
hội, câu lạc bộ giải trí (như đánh cá,
đánh cờ, bắn chim, chơi tem, hoà nhạc, múa hát, du
lịch…), thể thao (đánh vơ, đánh vật, bơi
lội, quần vợt, đá bóng, chèo thuyền…), từ
thiện (cứu đói, cứu băo lụt, giúp trẻ
mồ côi, người già, người bệnh…), bảo
vệ môi trường, thiên nhiên, động vật
hiếm, cũng như những hội lâm thời ngắn
hạn nhằm một mục tiêu cụ thể trong
một sự kiện cụ thể, khi cần hợp
sức của nhiều công dân có chung mối quan tâm…
Trên đây đă
tŕnh bày một số vấn đề về cuộc cách
mạng dân tộc–dân chủ, đặc biệt là về
cách mạng dân chủ, về lư luận cũng như
về thực tiễn, và đặt ra một số
vấn đề để cùng nhau trao đổi.
Phải chăng
ở Việt Nam vấn đề này chưa
được nghiên cứu đến nơi đến
chốn và đă có một số ngộ nhận?
Phải chăng
ở nước ta vẫn chưa thật sự hoàn thành
cuộc cách mạng dân chủ? Đă có nhiều khoảng
cách, nhiều lỗ hổng trong lư luận và thực
tiễn cần được xác định, bổ
cứu. Lấp đầy những lỗ hổng khá
lớn c̣n tồn tại mới có thể nói là hoàn thành cách
mạng dân chủ.
Phải
chăng ở nước ta, nói đă chuyển lên cách
mạng XHCN là khiên cưỡng, vội vàng, thậm chí không
xác đáng, v́ XHCN với chuyên chính một đảng,
bỏ qua thực hiện một xă hội công dân là
đốt cháy giai đoạn, lầm lẫn và nguy
hiểm; cũng như chủ trương kinh tế
thị trường với định hướng XHCN -
với nội hàm XHCN gắn với kinh tế quốc
doanh, với kế hoạch tập trung, chỉ huy bao
cấp, - là không thực
tế và khoa học?
Nếu vậy th́
cuộc cách mạng ở nước ta có cần xác
định lại cho chính xác, khoa học và vững
chắc hay không? Nhất là khi ta đă hoà nhập với
thế giới hiện tại sau khi nước ta vào WTO,
khi các nước dân chủ tiên tiến hiện nay vẫn
chỉ xác định là đang ở thời kỳ hoàn thiện
cuộc cách mạng dân chủ (như ở Pháp qua 5
nền cộng hoà) - hoàn thiện xă hội công dân, với
nhiều mô h́nh, mà mô h́nh Bắc Âu ở Đan Mạch, Na
Uy, Thuỵ Điển do các đảng xă hội dân
chủ lănh đạo là những điển h́nh hấp
dẫn nhất, với tên gọi là nhà nước phúc
lợi (năng
suất cao, giá trị sản phẩm theo đầu
người cao, tham nhũng gần bằng không, môi
trường được bảo vệ tốt nhất,
ít bất trắc cho đầu tư, sự nghiệp giáo
dục y tế có chất lượng cao, phúc lợi xă
hội đứng hàng đầu thế giới… Tôi
sẽ có dịp trở lại đề tài lư thú này).
Nhiều nhà lư
luận kinh điển và các nghệ sĩ viết sách và
làm thơ cho rằng cuộc cách mạng dân chủ ở
phương Tây đă chặt đứt hết mọi gông
cùm và xiềng xích – theo cả nghĩa bóng và
nghĩa đen - từng nô lệ hoá, tha hoá, chà đạp
phẩm giá con người, và trong xă hội công dân sẽ
không c̣n có thể tồn tại bất cứ một
thứ gông cùm xiềng xích nào nữa. Điều này h́nh
như trên đất nước ta chưa được
thành sự thật, kể cả từ 1945, hay từ 1975
cho đến nay, khi mà những chữ "cách
mạng" và "giải phóng" được
nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần.
Tôi suy nghĩ để chuẩn
bị viết bài này từ ba năm nay (đầu 2004)
rồi bắt đầu viết từ đầu năm
2006. Gần đây tôi mừng khi thấy nhiều bạn
trong nước nhắc đến nhà chí sĩ Phan
Chu Trinh (1872- 1926). Nhà văn Nguyên Ngọc, nhà nghiên
cứu Phạm Xuân Nguyên, giáo sư Nguyễn Huệ Chi, nhà
báo Phạm Ngọc Uyển, nhà nghiên cứu sử Trần
Gia Phụng.… đều nhắc đến Cụ Tây
Hồ một cách trân trọng và hào sảng. Cụ là
người Việt Nam sớm đọc Voltaire, Rousseau và
Montesquieu qua bản dịch sang Hán văn, rồi
đọc thẳng tiếng Pháp, c̣n tắm ḿnh trong không khí
chính trị, văn hoá của nước Pháp của
thời Cộng hoà thứ III. Phải mê say tư
tưởng Khai sáng của các nhà tư tưởng
thời đại Khai sáng cuối thế kỷ 18 ở
châu Âu và phải đau ḷng lắm lắm về những
gông cùm xiềng xích mà dân ta phải chịu do ách thống
trị của thực dân Pháp cùng vua quan phong kiến
bản xứ cũng như do những tập tục
cổ hủ bảo thủ của xă hội theo
đạo Khổng và Nho giáo, Cụ Phan mới sáng tác nên
những áng thơ văn bất hủ, tiêu biểu là
gần ngh́n câu thơ trong tập Tỉnh
quốc hồn ca. Đây là tiếng thét căm
giận, là hàng nước mắt đau thương, là
ngọn đuốc chỉ đường, là lời
hịch toàn dân thức tỉnh làm cách mạng dân chủ
thứ thật. Xin t́m đọc lời chân t́nh Cụ
khuyên anh thanh niên Nguyễn Tất Thành đừng có hăng
máu bạo động - ngựa non háu đá - mà nên theo phương hướng
khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.
Ai sẽ
đứng lên cùng toàn dân ta bổ cứu những khiếm
khuyết, những lỗ hổng tồn tại trong
cuộc cách mạng dân chủ c̣n dở dang, để
Việt Nam khơi dậy sức mạnh hùng hậu vô
tận tiến kịp năm châu, cất ḿnh bay bổng
trên đôi cánh tự do và nhân quyền, phóng con tàu ra biển
lớn bằng động lực tự do và la bàn dân
chủ, giải phóng thật sự nhân dân yêu quư khỏi
mọi gông cùm xiềng xích của lầm lẫn và ngộ
nhận?
Gần đây,
nhân bầu Quốc hội khóa 12 đă có một số ư kiến
về ứng cử bầu cử, tỷ lệ và cơ cấu…Bên
Trung quốc cũng vừa có quyết định về sở
hữu tư nhân. Nhưng đó chỉ là những chắp
vá bộ phận, chỉ lấp được vài lỗ hổng
và khiếm khuyết trong khi cần lấp cả một loạt
hố sâu rộng lớn liên hoàn; sao không bỏ công sức
lấp hết một lần để xây một mặt bằng
kiên cố của nền văn minh chính trị mới, trên
đó sẽ là công tŕnh dân chủ của thời đại.
Vậy bằng cách thức nào đây,
đường đi nước bước nào đây?
Đây là chuyện khó khăn, lại là then chốt
nhất, rất cần đến cao kiến của các
vị, các bạn có ḷng và có trí tuệ đang lo âu trước hiện t́nh
đất nước và nhân dân ta.
Xin được
các anh chị em và đồng bào suy nghĩ và cho ư kiến. [Ánh Dương: Nước ta cần có
thêm một cuộc cách mạng nữa, giống như
cuộc "cách mang nhung" bên Đông Âu, để
thiết lập một chế độ đa nguyên đa
đảng, th́ họa may mới lấp đầy
những lỗ hổng về tự do dân chủ và phúc
lợi cho người dân]
Xin các vị trí
thức, nhà nghiên cứu, giáo sư, nhà báo, nhà hoạt
động chính trị, các bạn sinh viên, tuổi
trẻ trong và ngoài nước
cho ư kiến.
Xin kính mời đích danh các vị và
các bạn: Phan Đ́nh Diệu, Dương Trung Quốc,
Nguyễn Huệ Chi, Lại Nguyên Ân, Nguyên Ngọc, Hoàng
Hưng, Dương Tường, Trần Quốc Thuận,
Phạm Ngọc Uyển, Đặng Phong, Nguyễn Trung,
Nguyễn Lân Dũng, Phan Huy Lê, Hoàng Tuỵ… (trật tự
theo ngẫu nhiên của trí nhớ). Tôi đặc biệt mời
quư vị giáo sư và các bạn sinh viên ngành Sử và Thông
tin Báo chí nữa. Tôi cũng
mong được sự góp ư của nhà lư luận/nhà báo kỳ
cựu Hoàng Tùng, ông bạn cũ Mười Hương và
Cụ Cao Hồng Lĩnh.
Với anh chị em
đang đấu tranh cho dân chủ ở trong nước,
xin có lời mời các vị và các bạn: Hà Sĩ Phu, Bùi
Minh Quốc, Phạm Quế Dương, Nguyễn Thanh
Giang, Trần Khải Thanh Thuỷ, Vũ Cao Quận,
Nguyễn Khắc Toàn… Với các vị, các bạn ở
ngoài nước tôi sẽ có liên lạc với từng
người.
Để có
diễn đàn trao đổi, tôi mong mạng talawas sẽ vui ḷng yểm
trợ cho cuộc trao đổi ư kiến mà tôi mong là
sẽ sôi nổi và bổ ích này. Xin đa tạ.
Ghi chú:
Những chữ trong ngoặc vuông [...] và được tô
màu nâu là do Ánh Dương thêm vào cho rơ nghĩa .