Sài G̣n Muôn Thuở
Để kỷ niệm Ba Mươi Năm Sài G̣n Mất Tên
Nguyễn Phúc

Tuy không phải là người sinh trưởng ở Sài G̣n nhưng tôi đă cư ngụ lâu năm tại thành phố này. Không bao lâu sau khi di chuyển vào Sài G̣n, tôi đă thích nghi được với cuộc sống rộn ră nơi đây và đă biết ḥa hợp với những người xung quanh. Về sau, mến cảnh mến người, tôi không c̣n nghĩ đến chuyện dời đi đâu nữa, ngay đến chuyện về quê dưỡng già khi đến tuổi hưu trí cũng không c̣n tơ tưởng đến. Tôi tự cho ḿnh là dân Sài G̣n, vui buồn với vui buồn của người Sài G̣n và cùng nhau chia sẻ những ưu tư hay hi vo.ng. Khi Sài G̣n mất tên và bị buộc phải mang tên của một kẻ chưa từng có liên hệ hoặc công lao ǵ với thành phố này th́, cũng như những người khác từng yêu mến Sài G̣n, tôi không khỏi cảm thấy phẫn uất và xót xa về sự tước đoạt này. Thật ra, danh xưng Sài G̣n tuy bị khai tử nhưng Sài G̣n vẫn sống trong tâm khảm của mọi người; hai chữ "Sài G̣n" vẫn thường được nhắc đến môt cách tự nhiên và công khai lúc chuyện tṛ, được kẻ trên các bảng hiệu và đề cập đến trong thư từ trao đổi giữa bạn bè và những người thân thuộc, c̣n tên mới chỉ được sử dụng để đề b́ thư.

Sài G̣n mà chúng ta thường nhớ đến là nơi mà dân chúng được sống tự do, hạnh phúc trong quang cảnh náo nhiệt của một thị thành vừa là một chốn phồn hoa đô hội vừa là một giang cảng rộn rịp tàu bè tứ xứ. Chứ không phải là cái Sài G̣n tiêu điều, xơ xác nơi đó người dân luôn luôn phấp phỏng lo sợ cho an ninh bản thân và gia đ́nh ḿnh suốt hơn mười năm sau ngày "giải phóng". Cũng không phải là Sài G̣n sau "Đổi Mới" khi mà người dân đươc "tự do làm ăn" nhưng không có "tự do làm người" như giáo sư Nguyễn Ngọc Lan đă viết trong cuốn Hẹn Thắp Lên (1).

Một chút lịch sử.

Trước khi gợi lại một vài nét đặc thù, dễ mến trong cuộc sống của người dân Sài G̣n thời đó, tưởng cũng nên nhắc lại tí chút về nguồn gốc và ư nghĩa của hai chữ Sài G̣n. Đăcó nhiều học giả Việt cũng như ngoại quốc nghiên cứu về vấn đề này: chẳng hạn, Việt có các ông Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Kư, Lê Văn Phát, Vương Hồng Sển … Pháp th́ có các ông Louis Malleret, Etienne Aymonier, Maurice Verdeille… mỗi vị đưa ra một giả thuyết. Tóm lại, có ba thuyết chính:

1. Thuyết của các ông Trương Vĩnh Kư: Sài G̣n do tiếng Khmer Prei Kor mà ra và có nghĩa là củi g̣n;

2. Thuyết của ông Louis Malleret: Sài G̣n do tiếng Tây Ng̣n, tức là Tây Cống phát âm theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là cống phẩm của phía tây (tức là: cống phẩm của các vua Cao miên dâng lên vua Việt Nam);

3. Thuyết của ông Vương Hồng Sển: Sài G̣n do tiếng Thầy Nguồn tức là Đề Ngạn phát âm theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là bờ sông cao trên có đê ngăn nước (đây là cái bờ gạch cao xây dọc theo kinh Tàu Hủ ở Chợ Lớn).

Theo cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy th́ tuy ba thuyết trên đây cái nào nghe cũng có cái lư của nó, nhưng không có cái nào có thể làm cho chúng ta thật thỏa măn. Theo ông, có lẽ các tác giả của những giả thuyết trên đây không để ư đến cách đặt địa danh tại Nam Kỳ của người Việt b́nh dân đời xưa; đó là hoặc phiên âm một địa danh Khmer rồi "bỏ dấu" cho thành tiếng Việt, hoặc dịch nghĩa một địa danh Khmer sẵn có. Khi triều đ́nh Việt Nam đặt ra các đơn vị hành chánh th́ tiếng Hán Việt được sử dụng để đặt địa danh hoặc dịch môt tên nôm đă có của người b́nh dân. Mặt khác, các cụ ngày xưa không bao giờ ghép một tiếng Hán Việt như chữ Sài (củi) với một tiếng nôm là G̣n. Bằng vào một số sử liệu, giáo sư Huy đă sử dụng ư kiến của ông Lê Văn Phát theo đó người Thái gọi vùng Chợ Lớn ngày nay là Cái Ngon tức là Rừng Chổi Cây G̣n để cho rằng tên Sài G̣n là do ông bà ta phiên âm từ tiếng Thài Cai Ngon và "bỏ dấu" theo giọng Việt như thông lệ. Tuy nhiên, giải đáp của giáo sư Huy lại vấp phải nghi vấn là vùng đất đó nguyên là đất Chân Lạp vậy mọi địa danh phải dùng tiếng Khmer mới phải, cớ sao lại có chữ Thái lọt vào đây. Thành thử, lai lịch của hai chữ Sài G̣n vẫn chưa được xác định rơ ràng. Tuy vậy, có một điều có thể xác định được là vùng đất xưa có tên Sài G̣n chính là vùng Chợ Lớn ngày nay và Sài G̣n bây giờ lại là Bến Nghé (Ngưu Chữ) ngày xưa.

Theo lịch sử của cuộc Nam Tiến, vào năm 1620, nhân chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái là công chúa Ngọc Vạn cho vua Cao Miên Chey Chetta II th́ đến năm 1623 vua Cao Miên nhượng lại cho Việt Nam thêm một dinh điền ở Mô Xoài gần Bà Rịa ngày nay và thuận để chúa Nguyễn đặt những cơ sở thu thuế tại vùng Sài G̣n, Chợ Lớn ngày nay; lúc đó vùng này dân cư thưa thớt và chưa có mua bán ǵ nhiều. Người Việt chỉ di cư nhiều vào Nam Kỳ kể từ năm 1680 khi có lực lượng của ông Trần Thượng Xuyên đóng thường trực ở đó để bảo vệ cho họ. Nhưng măi tới năm 1788 vùng này mới trở thành một nơi buôn bán sầm uất với khối người Hoa kiều tụ tập về đó sau khi Cù Lao Phố (Biên Ḥa) bị quân Tây Sơn phá hủy. Vào hậu bán thế kỷ 19, Sài G̣n bắt đầu thực hiện công cuộc thành-thi.-hóa (urbaniser) và đến thế kỷ 20 đă trở thành một đô thị lớn nhất nh́ ở Đông Nam A, nổi danh là "Ḥn Ngọc Viễn Đông".

Một văn hóa b́nh dân.

Theo lời một nhà khảo cứu về thành phố Sài G̣n th́ hầu hết dân Sài G̣n đều thích sinh hoạt ở đường phố, nhất là trên lề đường, ngày cũng như đêm, trong lúc giữa đường xe cộ đủ loại, nào xe đạp, xe mô-tô, xe xích-lô, nào xe ngựa, xe hơi đủ kiểu qua lại không ngừng, ào ào như thác đổ. Đôi lúc, đèn xanh đèn đỏ ở các ngă ba, ngă tư bị mất điện, người đi băng qua đường vào những lúc đó thường gây trở ngại không ít cho sự lưu thông, nhất là khi người đó cứ xăm xăm đi tới, xe chạy mặc xe, nên thỉnh thoảng cũng có lúc xe húc phải người gây ít nhiều thương tích hoặc những vụ đấu khẩu kịch liệt giữa đôi bên. Để đề pḥng tai nạn, ṭa đô sảnh Sài G̣n đă thiết lập một cầu chui (overpass) dành cho người đi bộ ở phía trước chợ Bến Thành nhưng rất ít người bộ hành chịu đi qua cầu, hoặc v́ vội vàng hoặc v́ không muốn mất công hay th́ giờ qua cầu, thành ra tiện ích này trở nên vô dụng. Rút cục cầu đă được tháo gỡ và có lẽ được mang đi bán đổ bán tháo cho những người buôn sắt vụn ở Chợ Lớn.

Sự ẩm thực của người Sài G̣n.

Khác với Hà Nội hay Huế, Sài G̣n có rất ít người bán hàng rong dọc đường. Người bán hàng phần đông đă có nơi làm ăn riêng mà họ đă chọn và được phép sử dụng; tiền thuế phải trả sẽ rất phải chăng nếu người bán hàng tỏ ra "biết điều" đối với nhân viên thu thuế; họ bày hàng trên một cái bàn nhỏ hoặc một miếng ván kê trên hai ngựa gỗ hoặc xếp trong những rổ, rá đặt trên tấm bạt hay vải nhựa trải ngay trên lề đường.

Với bản chất giản dị và cởi mở, nóng tính nhưng rộng răi, người Sài G̣n rất thích ăn những món ăn b́nh dân được bày ê hề ở góc phố hoặc ngay trên lề đường. Họ không c̣n nhớ đến những câu châm ngôn cổ truyền khuyên chúng ta nên ăn uống như thế nào để có thể bảo vệ sức khỏe của ḿnh. Chẳng hạn, có những câu b́nh dân như:

Cơm với cá như mạ với con (mạ=mẹ)
hoặc văn vẻ, bóng bẩy hơn:
Bệnh ṭng khẩu nhập
[Ắn uống (không điều độ) dễ sinh bệnh tật]
[Ghi chú : Châm ngôn này có hai về; vế thứ hai `Họa ṭng khẩu xuất' đại ư nói về sự việc được gọi là "vạ miệng"]
hoặc là một bài thơ ngắn, dễ nhớ:
Bán dạ tam bôi tửu
B́nh minh nhất trản trà
Mỗi nhật cứ như thử
Lương y bất đáo gia
(Nửa khuya ba chén rươu
Sáng sớm một tách trà
Mỗi ngày cứ như thế
Thầy thuốc không lại nhà)

Đối với họ, những ǵ giúp làm cho ta vui sống là quan trọng hơn hết, thế cho nên những thức ăn hợp khẩu vị cần cho họ hơn là món ăn bổ dưỡng. Chữ "nhậu" (có lẽ do hai chữ "ẩm tửu", phát âm theo tiếng Quảng Đông là "dâ.m/nhậm chẩu", rút gọn lại) trở thành khẩu hiệu ẩm thực của những người thích nhắm rượu với thức ăn khoái khẩu, đến độ quên luôn cả buổi ăn thường nhật.

Cụ Nguyễn Khuyến ngày xưa uống rượu phải có bạn tri âm đối ẩm, không có bạn không thiết ǵ đến rượu:

Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua

Dân "nhậu" ngày nay cũng cần có "bạn rượu" nhưng không nhất thiết phải là bạn tri âm. Mỗi khi nghe hàng quán nào có rượu ngon, đồ nhắm tốt là rủ nhau dăm ba người t́m đến để chén chú chén anh và tṛ chuyện cho thỏa thích. Người Sài G̣n, giống như những người Nam khác, vốn không thích tù túng; họ thường ngồi ngoài trời mà đánh chén, trên ḿnh vỏn vẹn chiếc áo may-ô và cái quần cụt (quần đùi) nếu gặp thời tiết nóng nực. Ngồi trên chiếc ghế đẩu trong tư thế thoải mái, họ bắt đầu nhập tiệc; không khí quanh bàn rượu mỗi lúc mỗi náo nhiệt hơn với những câu chuyện hài hước hay giật gân mà mọi người tranh nhau kể, xen lẫn với những tiếng "dô"và "uống đi" vô cùng hào hứng. Khi mỗi người đă "dô" chừng nửa tá bia BGI hay gần cả tá bia 33 là đă đến giai đoạn in vino veritas (tửu nhập ngôn xuất): một trong các tửu đồ, đột nhiên có ư nghĩ ḿnh không thua kém ǵ các tài tử cải lương, bèn cất cao giọng hát mấy câu vọng cổ, tay chân múa may xem chiều rối loạn. Trước cảnh đó, điều cần thiết là phải có một bạn nhậu, ít say hơn, t́nh nguyện d́u anh tửu đồ quá chén đưa về nhà an toàn, đồng thời tránh con mắt ṭ ṃ của những người hàng xóm lắm chuyện..

Để được thưởng thức những món ngon vật lạ thường được nghe nhiều người tán dương, họ không tiếc công t́m ṭi khắp các chợ, các quán xa gần. Như vậy, thế nào các vị đệ tử Lưu Linh cũng sẽ "ṃ" đến Ngă Tư Quốc Tế, gần đường Bùi Viện cũ, để có cơ hội nhắm nhí những món lạ như môi cá tràu (cá lóc, cá quả), má cá trê, gan cá bống. Họ cũng sẽ qua miệt Nhà Bè, vào các nhà hàng nổi ở ngă ba sông Sài G̣n và sông Đồng Nai, để nhắm rượu với món đuông; con đuông thường sống ở cổ hũ (cổ, chỗ bạnh ra chứa mầm non của buồng trái) cây dừa nước hay cây chà là; trước khi chiên xào, phải ngâm đuông trong nước mắm mới đúng điệu. Hoặc họ đến phía sau chợ Tân Định nếm gỏi cá, một đặc sản miền Bắc đă được du nhập vào Nam theo bước chân của những người Bắc di cư sau ngày kư kết Hiệp Định Genève 1954. Khi nào muốn nhậu đồ biển tươi, họ sẽ t́m đến Cột Cờ Thủ Ngữ (ngày trước, người Pháp gọi là Pointe des Blagueurs) hay đến Tân Thuận (Pointe des Flâneurs); ở đó, họ sẽ được ăn những con ṣ, con hào tươi rói, những con cua và tôm càng mới lấy trong bồn nước ra đem nuớng than củi. Đối với những người ít tiền, họ không v́ thế mà nhịn uống rượu. Lúc hứng, họ vẫn có thể say sưa với một đĩa thịt ḅ khô, mấy khô mực nướng, một ít tôm khô củ kiệu hay cùng lắm, một đĩa đậu phụng (lạc) rang.

Không phải chỉ có đàn ông mới thích món ăn b́nh dân. Các bà, các cô cũng thường đến viếng những chỗ bán món ăn đó và không ngần ngại ngồi vào chiếc ghế đẩu hay, đôi khi, ngồi xổm ngay trên lề đường bên cạnh người bán hàng để thưởng thức những món ăn họ ưa thích. Việc ăn uống ở đường phố biểu lộ tính cách b́nh đẳng trong việc đối xử giữa khách hàng với nhau và cung cách tiếp khách của người bán hàng: khách ngồi, đứng cạnh nhau, không phân biệt sang hèn, già trẻ và đều được người bán hàng phục vụ tận t́nh như nhau. Những bà, những cô đi xe hơi có tài xế lái, ví như muốn ăn những món quà ngon có tiếng của bà Ba Bủng th́ phải xuống xe "lội bộ" như những người khác vào bên trong chợ Bến Thành để thưởng thức tô (bát) bún riêu nóng hổi, nêm nấu vừa miệng, kèm rau ăn ghém và thỉnh thoảng, nếu cần, gọi thêm chút chanh ớt hay tí nước dùng (nước lèo); và nếu cảm thấy bụng vẫn c̣n lỏng lẻo th́ gọi thêm món bún thịt nướng thơm lừng ăn không biết chán. Sau những bữa điểm tâm kiêm ăn trưa (brunch) như vậy, hai bên đều hài ḷng và hẹn nhau tái ngộ. Trẻ con ít thích ăn những món ăn của người lớn, chúng thường xin tiền cha mẹ mua bánh kẹo nhưng đôi lúc, chúng cũng mua những quà chúng ưa thích như ốc gạo, ốc hương. Tụi nhỏ thường chụm năm chụm ba ở một góc đường hay một gốc cây, hí hoáy dùng gai bưởi moi mấy con ốc - ốc sông hay biển tùy mùa - ăn một cách ngon lành; đây là những con ốc đă được luộc chín với lá tía tô nhằm đề pḥng chứng mề đay do các động vật nhuyễn thể (ốc, ṣ, mực) gây ra.

Ngoài những thức ăn cần phải nấu nướng, c̣n có vô số trái cây đủ loại để ăn ngoài bữa ăn, ăn tráng miệng, nấu chè, làm mứt và thức uống. Sài G̣n là thủ phủ của một vùng đất được thiên nhiên ưu dăi, đất đai màu mỡ, cây ăn trái sai quả, rau đậu tươi tốt sum suê. Ta chỉ cần đến Chợ Cầu Ông Lănh là có thể ư niệm được số lượng rau quả mà Lục Tỉnh cung cấp cho Sài G̣n: dưa hấu, dừa, mít, sầu riêng (tùy mùa), cam, quít, vải, bưởi ḅng, măng cụt, vú sữa, chôm chôm… chất lên như núi hoặc xếp trong hàng trăm cần xé. Đó là chưa kể số lượng khổng lồ rau đậu, thịt heo thịt ḅ, cá, tôm, gà vịt… cần thiết cho các cửa hàng ăn, các quán ăn và những nơi bán thức ăn b́nh dân. Mà Chợ Cầu Ong Lănh chỉ là một trong bao nhiêu chợ cỡ lớn, cỡ nhỏ rải rác khắp vùng Sài G̣n-Chợ Lớn.

Cuộc sống tự do, vô tư lự của người Sài G̣n ưa t́m vui thích trong việc phục vụ thần khẩu cứ thế diễn ra trên khắp các phố phựng, trong các đường nhỏ, từ sáng đến khuya với hai cao điểm là buổi chiều vào lúc tan sở và sáng sớm tinh sương vào lúc đa số dân thành phố bắt đầu thức giấc.
Buổi chiều vào lúc các công, tư sở, các xí nghiệp, nhà máy, công trường… hết giờ làm việc, hàng ngh́n thầy thợ đổ xô nhau đến các quán, các quầy rượu đề "làm" một vài cốc bia khai vị trước khi trở về nhà ăn cơm tối. Đôi khi, vui anh vui em, giờ khai vị trở thành một tiệc vui thực sự, với sự tham dự của nhiều bằng hữu và nếu "khổ chủ" không đủ tiền thanh toán th́ chỉ đến "biên bông" cuối tháng trả là cùng! Khổ nỗi, phiếu tính tiền của chủ quán thường khi lại vượt quá dự liệu chi tiêu trong gia đ́nh. Nhưng không hề chi! Với tính dễ dăi và hào phóng của người Sài G̣n, thế nào rồi cũng có một Mạnh Thường Quân trong số các thân hữu giúp đỡ gỡ rối cho.

Vào sáng sớm tinh sương, dân đi làm lục đục thức dậy. Vào thời c̣n Đại Thế Giới ở Chợ Lớn, giờ đó cũng là giờ các ṣng bạc đóng cửa để nghỉ ngơi; hàng ngh́n con bạc, vừa mệt vừa đói, túa ra đường t́m cái ăn cho đỡ đói và hồi phục sức khoẻ hầu thử thời vận phen nữa trong canh bạc đêm tới. Sau khi Đại Thế Giới bị cấm hoạt động, trong số người ăn điểm tâm ngoài đường vào sáng sớm tuy không c̣n những con bạc ở Chợ Lớn nhưng trên toàn vùng Sài G̣n-Chợ Lớn th́ lại có thêm số người Bắc di cư; họ phần lớn là những người lao động phải đến sở làm đúng giờ nên cần ăn vội ăn vàng, nhưng phải ăn cái ǵ thật bổ dưỡng cho có đủ sức để c̣n phải lo làm việc suốt một ngày dài. Phần đông hoặc ăn hủ tiếu hoặc phở, một số nhỏ chọn ḿ nước. Hủ tiếu (nguồn gốc danh từ này là "quả điều" phát âm theo tiếng Quảng Đông là "cổ thiều") nguyên là món ăn của người Hoa được "Miên hóa" thành hủ tiếu Nam Vang và "Việt hóa" thành hủ tiếu Mỹ Tho. Phở trước gọi là "Phở Bắc" v́ du nhập từ miền Bắc vào, sau được gọi ngắn là phở; từ khi có hơn một triệu người Bắc di cư vào Nam, phở đă chiếm địa vị của hủ tiếu như là món ăn được nhiều người thích ăn hơn. Phở không những là món ăn sáng mà c̣n được chuộng như món ăn trưa hay ăn khuya sau giờ xem hát cải lương hay chiếu bóng. Phở được bán ở ngoài đường và tại các tiệm phở. Trong các tiệm phở nổi tiếng phải kể đến Phở Ḥa, Phở Lư Thái Tổ, Phở Bảy Chín, Phở Tàu Bay Trương Minh Giảng, Phở Gà Hiền Vương….

Phở bán ngoài đường cũng chỉ kém phở tiệm đôi chút; được như vậy là v́ người bán có một cái xe đẩy trang bị đầy đủ dụng cụ, chén bát, bánh phở, thịt, rau, đồ gia vị v.v... và đặc biệt, một cái nồi súpde để hâm nóng nước dùng. Những người bán hủ tiếu, ḿ nước…cũng cần có cái xe như vậy. Khách cần ăn trưa hay ăn tối ở ngoài đường mà không muốn ăn phở, hủ tiếu, ḿ nước th́ có thể dùng ḅ lụi, chạo tôm, nem nướng… bày bán khắp nơi; có những phố chỉ chuyên bày bán những thức đó, mùi thơm tỏa ra ngào ngạt. Giữa những buổi ăn chính, khách đi đường có thể ghé lại các xe bán chè, bán cháo, nước giải khát để thưởng thức chè sâm-bồ-lường, chi-mă-phù, chè đậu, chè trôi nước…, cháo gà, cháo vịt, cháo ḷng…; nước giải khát th́ có nước ngọt, nước dừa tươi, nước mía, nước rau má, nước trái cây, v.v…

Sài G̣n là một thành phố có nhiều bóng mát nhất vùng nhờ số cây trồng dọc đường và ở những nơi công cộng. Những người bán hàng thường chọn những cây to rợp bóng để làm "đất chiếm hưởng", vừa tiện cho ḿnh vừa tiện cho khách hàng. Ngày trước, vào những thời kỳ kinh tế phồn thịnh, công ăn việc làm không khó t́m, đồng tiền dễ kiếm, người ta cũng thường thấy những người đạp xích-lô gác xe dưới bóng cây để nghỉ trưa, chờ đến lúc mát trời mới lại bắt đầu đạp xe đi kiếm khách.

Việc mua bán đồ ăn b́nh dân dọc đường phố, ngơ hẻm... là những hoạt động kinh tế biên tế (marginal) nhưng rất quan trọng đối với dân Sài G̣n vốn ưa sinh hoạt tự do ngoài trời, giữa những đám đông trong đó không thiếu ǵ bạn bè hay người quen để cùng nhau tṛ chuyện hay đối ẩm.

Nhà khảo cứu nói trên, trong một bài viết bằng Pháp ngữ, cho rằng lối sinh hoạt của người dân Sài G̣n biểu hiệu "une culture de rue"; "rue" có nghĩa là đường phố; "rue" cũng biểu trưng cho giới b́nh dân (2). Vậy, thay v́ lư giải "une culture de rue" thật sát nghĩa, ta có thể tạm hiểu rằng tác giả muốn nói đến một văn hóa đậm nét b́nh dân. Sắc thái b́nh dân cũng thể hiện trong sinh hoạt tâm linh, trong các thú tiêu khiển và cách chữa bệnh của người Sài G̣n. Việc cúng bái, cách giải trí của dân Sài G̣n – Phép trị bệnh cổ truyền

Tại cửa Nam vườn Tao Đàn (xưa gọi là vườn Pờ Rô) có một miếu thờ mà đông đảo các bà, các cô thường đến cúng bái với tất cả ḷng thành; trên bàn thờ đặt năm thứ trái cây (ngũ quả) là: "măng cầu, sung, dừa, đu đủ và xoài"; gọi gon lại là: "cầu, sung, dừa, đủ, xoài"; đọc trại đôi chút th́ thành ra: "cầu xin vừa đủ xài". Vốn tính b́nh dị và thực tiễn, người Sài G̣n tin có sự cảm thông giữa giới vô h́nh và người trần thế; họ hi vọng là nếu có ḷng thành thần thánh sẽ vui ḷng giúp cho miễn là ước mong hay nguyện vọng của họ không quá đáng (ví dụ: "cầu xin vừa đủ xài"). Cũng với cung cách này, họ đến trước bàn thờ tổ tiên thắp hương và thành khẩn khấn vái cầu xin ông bà độ tŕ cho con cháu mỗi khi họ gặp khó khăn không khắc phục được.

Dân chúng Sài G̣n nói riêng và dân chúng miền Nam nói chung là một bộ phận của nhân dân Việt Nam thành h́nh trong cuộc Nam Tiến, trong thời gian khoảng bốn thế kỷ qua, và như thế được coi là tương đối mới so với nhân dân miền Bắc và miền Trung. Thành phần trước tiên gồm có số dân, phần đông sống ở lănh địa các chúa Nguyễn, đă di cư từ miền Trung vào những vùng đất của Chiêm Thành và Chân Lạp bị ta chiếm đóng hoặc được nhượng lại; họ là những người có chí mạo hiểm, không sợ gian khổ và lam sơn chướng khí. Họ đă khai hoang, lập ấp và biến những vùng hoang vu, bùn lầy hay khô cằn thành vùng đất đai màu mỡ. Con cháu của những người khai phá này đă thừa huởng những đức tính của tổ tiên như tính quả cảm, cần cù và khả năng thích ứng với môi trường mới. Trong thời gian định cư ở đất mới, họ đă đồng hóa hoặc chung sống ḥa b́nh với các sắc dân địa phương gồm dân Chàm, Miên v.v... và với người Hoa, người Ấn… và nhờ đó đă tạo thành một tập hợp dân chúng đa dạng, năng động và đầy sinh lực trong đó dân Việt dĩ nhiên là thành phần tiền phong và tháo vát hơn hết. Trong sự tiếp xúc giữa nhiều sắc dân có văn hóa khác nhau, mỗi sắc dân có lối tế tự riêng của ḿnh, kết quả là có rất nhiều am miếu, đền đài với lễ nghi cúng bái khác nhau. Dọc theo vài con đường phụ, hiện c̣n những cái am nhỏ thờ những vị thần vô danh hay đă bị quên lăng, giống như trường hợp những b́nh vôi đặt ở gốc những cây đa cổ thụ trong các làng miền Bắc; đó là vết tích của những nơi thờ phụng xưa mà những người tế tự nay không c̣n hoặc đă thiên cư tới nơi khác.
Hai tôn giáo lớn được thành lập vào tiền bán thế kỷ 20 ở Miền Nam là Cao Đài giáo và Phật giáo Ḥa Hảo. Tín đồ phần đông là người Nam, phần nhiều là người b́nh dân ở các tỉnh mà người trí thức ở thành thị cũng không ít.

Cao Đài giáo - cũng gọi là Đại đạo Tam kỳ phổ độ - là một tôn giáo ra đời ở Việt Nam từ năm 1926 do một nhóm trí thức ở Sài G̣n nhân thường cầu cơ nên được tiếp xúc nhiều với các Tiên Thánh mà lập ra nên không có Giáo chủ. Đạo có tính chất Đại đồng, lấy Tam Giáo quy nguyên (3 tôn giáo lớn ở Á Đông là Khổng giáo, Lăo giáo và Phật giáo đồng quy về nguồn gốc là cái Lư duy nhất bổn sơ) và Ngũ chi phục nhất (Nhân đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo đều trở về cái Lư duy nhật bổn sơ) làm tiêu ngữ. Đạo thờ đấng Chí tôn là Huyền khung Cao Thượng đế Ngọc Hoàng Đại Thiên tôn (tức Trời), lấy "CON MẮT" tiêu biểu sự sáng suốt của đấng Chí tôn và dùng Cơ bút để lănh ư đấng Chí tôn cùng các Tiên Thánh trong việc hành đa.o. Đạo chia nhiều phái và có chi phái khắp Việt Nam; hai phái lớn nhất có thánh thất ở Tây Ninh và Bến Tre (theo Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức).

Vị giáo chủ Phật giáo Ḥa Hảo danh xưng là Huỳnh Phú Sổ; sinh tại làng Ḥa Hảo, tổng An Lạc, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Theo sách của Đạo, từ nhỏ Ngài là một người bệnh hoạn, luôn luôn đau yếu nên không theo đuổi việc học quá ban tiểu học; nhưng một hôm có một đạo từ quang chiếu vào ḿnh Ngài, làm cho Ngài bất tỉnh, khi tỉnh ra th́ hoàn toàn biến đổi từ thể xác đến tinh thần. Đứng ra làm thầy trị bệnh với nước lă, giấy báo, dây chuối, dây bố v.v... mà bệnh nào cũng lành; thêm có óc thông minh khác thường, quán thông vạn vật. Được tôn xưng là Phật Sống, Ngài bắt đầu truyền đạo ngày 18 tháng 5 năm kỷ măo (1939) thu hút rất nhiều tín đồ ở Hậu Giang và mất vào cuối năm Ất Dậu (1945). Khác với đạo Cao Đài, Phật giáo Ḥa Hảo không chuộng lễ lạc huy hoàng và phức tạp; trái lại, chủ trương trở về với bản chất đơn thuần và tinh khiết của Phật giáo nguyên thủy bằng việc tụng niệm, tham thiền và chay ti.nh. Đạo không xây cất chùa chiền, tăng chúng không phân định đẳng cấp.

Các tín đồ Cao Đài, Ḥa Hảo sống hiền ḥa, chỉ lo cúng bái, cầu nguyện cho quốc thái dân an, cầu xin phước trạch cho gia đ́nh, cho xóm giềng. Những bài kinh cầu nguyện của họ nghe như bài vè, b́nh dị và chất phác. Các địa phận Cao Đài, Ḥa Hảo là những nơi yên ổn, người dân chăm lo làm ăn, cuộc sống thật an b́nh.

Trong số những người b́nh dân, cũng có những người theo đạo Phật hay Thiên Chúa giáo; những người này vẫn đến chùa và nhà thờ vào những ngày lễ của tôn giáo ḿnh như những phật tử và con chiên thuộc các giới khác.

Song song vời sự sinh hoạt tâm linh ấy, có rất nhiều tṛ vui, nhiều tṛ giải tri diễn ra thường xuyên ở những địa điểm khác nhau, khi th́ bên vệ đường, khi tại một công viên. Các tṛ vui hay tṛ giải trí đem lại những trận cười, những giờ phút thoải mái sau những ngày làm việc mệt nhọc; các tṛ chơi khác phần nhiều có ăn thua bằng tiền; nhưng cái đó không hề chi; nếu có thua th́ cũng có ăn; ngoài ra, thỉnh thoảng cũng cần có chút ít cảm xúc mạnh như hồi hộp khi chờ đợi, phấn chấn khi được, thất vọng khi thua, đó là những điều làm cho cuộc đời bớt tẻ nha.t. Vả lại, muốn ăn thua to th́ phải vào các ṣng bạc (casino) hoặc đến tư gia hay dinh thự của các ông lớn, bà lớn; c̣n bài bạc ngoài đường chỉ có ăn thua nhỏ mà thôi. Những tṛ chơi có đánh cuộc như tṛ chọi cá thia thia hay chọi (đá) gà chẳng hạn, được khá đông người tham dự người lớn có, trẻ con có; địa điểm được chọn thường là một con đường nhỏ trong một khu dân cư xá trung tâm thành phố hoặc một chỗ thoáng, dưới bóng cây, với sự chấp thuận mặc nhiên của cảnh sát. Một tṛ chơi khác, diễn ra ở lề đường, là tṛ bầu cua cá cọp; trẻ con rất thích; đặc biệt, các học sinh sau khi tan trường thường ghé lại đánh chơi. Cách chơi dụng xảo th́ có bài ba con (ba lá); đây là lối cờ bạc do một người cái cầm ba lá bài cào, tráo qua tráo lại một vài lần rồi úp xuống cho người chơi đặt tiền; người chơi ít khi nào ăn mà phần lớn là thua sạch túi v́ người cái dùng xảo thuật gạt người chơi với sự tiếp tay của người a ṭng. Nói cho đúng, cũng có bài bạc thật sự ngoài các ṣng bạc và môn cờ bạc được nhiều người biết đến là chơi đề. Cách chơi là dùng trí đoán con bài mà nhà cái sẽ xổ ra để đặt tiền. Có loại đề 12 con, đề 36 con và đề 40 con. Đây là môn cờ bạc do người Hoa bày ra và hầu như người Sài G̣n nào cũng thích chơi v́ tiền chung lớn gấp bội tiền đặt; ví dụ như với đề 36 con, người trúng đề sẽ được chung một số tiền lớn bằng 30 lần tiền đặt.

Ngoài những tṛ chơi trên, có một tṛ chơi khác kín đáo hơn, không dùng đến lá bài, và người chơi phần lớn là các bà. Đó là chơi hụi: mươi, mười hai người họp nhau đóng hằng kỳ (thường thường là mỗi tháng) một số tiền cho người chịu trách nhiệm (người cái) để người này trao lại cho người đă bắt thăm trúng hoặc đă bỏ thăm t́nh nguyện chịu lời cao hơn hết. Nh́n từ một góc độ khác, chơi hụi không phải là đánh bạc có ăn thua mà thường thường chỉ là một cách để có được một số tiền lớn hầu dùng vào việc cần như làm vốn buôn bán chẳng hạn. Tại các làng ngoài Bắc, nhóm người chơi họ để gây vốn được gọi là hội tư cấp.

Mỗi khi Tết đến lại có hội hè và nhiều tṛ giải trí khác, như múa lân, đốt pháo, v.v… Các tiệm ăn, quán nhậu không ngớt thực khách ra vào; các rạp chiếu bóng, rạp hát đông nghẹt người xem. Những ngày trước Tết là thời gian rất nhộn nhịp; chợ búa đầy ứ thịt thà, gà vịt, trái cây đủ loại, người mua tha hồ mà chọn lựa, phố xá náo nhiệt hẳn lên do sự hiện diện đông đảo của những người đi sắm Tết. Khu chợ hoa dọc đại lộ Nguyễn Huệ là cả một rừng hoa, nổi bật nhất là hoa mai (3), hay hoàng mai, cánh vàng rực rỡ; đó là chưa kể hàng trăm cây quất, cây cảnh, cây bonsai, những ḥn non bộ. Người đến ngắm hoa chen chúc với người mua hoa. Mua ǵ th́ mua nhưng cũng phải có một đôi cành mai trưng bày ở pḥng khách nhà mới có không khí Tết và nếu có thêm một vài gị thủy tiên th́ lại càng tốt. 

Một địa điểm được nhiều người thường đến thăm viếng là Lăng Ông, nơi để mộ và cất điện thờ Tả Quân Lê Văn Duyê.t. Đây là nơi tập trung của các thầy lang chuyên trị liệu bằng phương pháp cổ truyền như bầu giác, chích lể, cạo gió, đấm bóp. Nơi đây c̣n có những bà thầy bói bài, xem chỉ tay, những ông thầy đoán số tử vi, xem tướng tay, chiết tự, bói sách…lại cũng có những thầy mà tài năng cao siêu đến độ bảo với người xem bói, chắc nịch như đinh đóng cột, những câu đại khái như:

"Số cô không giàu th́ nghèo,
Sinh con đầu ḷng không gái th́ trai"

Trong khi đó trong điện thờ, các bà các cô đến trước bàn thờ đức Tả Quân thắp hương khấn vái rất thành khẩn trước khi xin xăm gia đạo, số mệnh hay thời vận.

Đến đây, sau nhiều cố gắng nhằm gợi lại h́nh ảnh của Sài G̣n ngày trước, tôi vẫn do dự, không muốn nói dứt khoát "Sài G̣n của chúng ta là thế đó". Bởi v́ tôi thấy vẫn chưa nói được lư do tại sao Sài G̣n lại chiếm một vị trí đặc biệt trong tâm hồn của chúng ta. Phải chăng v́ ở đó chúng ta đă có một cuộc sống thoải mái, dư dật? Chắc là không phải v́, ngoại trừ một thiểu số, chúng ta phần đông đều "lương ba cọc ba đồng", phải "thắt lưng buộc bụng" mới khỏi nợ nần; đó là chưa kể một số quân nhân trong chúng ta phải chiến đấu ở mặt trận, trải qua bao nhiêu gian khổ nhưng không bao giờ phàn nàn v́ ư thức được chúng ta có bổn phận bảo vệ mảnh đất tự do c̣n lại của đất nước. Hay, phải chăng chúng ta được tự do ăn nói, đi lại, tự do cư trú, v.v…? Th́ tại nơi nào ở Miền Nam, chúng ta đều có những quyền đó chứ không riêng ǵ ở Sài G̣n. Hay là v́ khí hậu ở Sài G̣n ôn ḥa hơn các nơi khác, ban ngày dù nóng nực đến bao nhiêu ban đêm vẫn mát mẻ, dễ chịu? Hoặc là v́ Sài G̣n có thể cung cấp đầy đủ những ǵ đáp ứng được nhu cầu vật chất và tinh thần của chúng ta? Hay là v́ ở Sài G̣n chúng ta có nhiều bạn bè, người thân luôn luôn gần gũi chúng ta để chia sẻ vui buồn cùng chúng ta, an ủi chúng ta khi sa cơ lỡ vận, khuyên can khi chúng ta ngă ḷng và có ư định buông xuôi? Quả có thế thật. Thế th́ hăy thêm vào đó thái độ hiếu khách, thân thiện, dễ dăi của người dân Sài G̣n đối với những người từ miền Bắc hay miền Trung. đến định cư tại Sài G̣n. Ngoại trừ chuyện người Sài G̣n gọi đùa người Bắc là "dân rau muống" và người Bắc "trả đũa" bằng cách gọi dân Sài G̣n là "dân giá sống", nhưng v́ cả hai bên đều không có ác ư, không kỳ thị nên tuyệt nhiên không có sự chia rẽ Nam Bắc và hàng trăm ngh́n người Bắc, người Trung đă thích ứng dễ dàng với cuộc sống ở nơi mà họ coi là quê hương thứ hai của họ. Có thể là tất cả các yếu tố đó hợp lại đă làm cho chúng ta coi Sài G̣n như một người thân, khi gặp mặt th́ tay bắt mặt mừng khi xa cách th́ mong ngóng nhớ nhung. Ngoài ra, nếu có yếu tố vô h́nh sắc hay tế nhị nào khác nữa th́ đó là một điều ngoài cảm nhận của tôi.

Sài G̣n sau "Giải Phóng" và "Đổi Mới"

Sài G̣n sau ngày "giải phóng"

Hầu hết chúng ta, ngoại trừ những bạn có may mắn ra đi vào ngày 30.4.75 hoặc trước hay ngay sau ngày đó, đă lưu lại Việt Nam một thời gian và chứng kiến những ǵ xảy ra cho dân chúng và thành phố Sài G̣n, thế nên chúng ta không cần phải nói dài ḍng về những chuyện đau ḷng đó. Điểm thứ nhất cần nhớ lại là ngay sau ngày 30.4.75 chế độ quân quản đă được áp dụng cho toàn miền Nam; ai cũng biết là chế độ quân quản là chế độ áp dụng cho một nước thù địch bị chiến bại; nói khác đi, Hà Nội coi miền Nam như kẻ thù, nhưng đă trắng trợn tuyên bố là miền Nam đă được giải phóng. Thật là khôi hài! Để giữ tính cách khách quan, hăy nghe một người cộng sản đă phản tỉnh là Bùi Tín viết về tṛ hề này: "30 năm trước, miền Nam được giải phóng ư? Đó chỉ là hiện tượng hời hợt bên ngoài; thật ra, sau khi đảng CS áp dụng các chính sách cải tạo sĩ quan, viên chức, các đảng phái chính trị miền Nam, thật ra là bỏ tù họ không xét xử, rồi cải tạo thương nghiệp, bắt đi kinh tế mới, phân biệt đối xử đối với gia đ́nh 'ngụy quân, ngụy quyền', tạo nên hàng triệu `thuyền nhân', đày đọa đồng bào nửa nước trong cảnh lầm than cơ cực, th́ phải nói thật ra đó là sự chiếm đóng tàn ác nhất! Danh từ giải phóng trở nên mỉa mai, trâng tráo, vô liêm sỉ. Những người Việt Nam lương thiện, biết tự trọng, trung thực với chính ḿnh - kể cả những người CS có lương tâm trong sáng - không thể không nhận ra sự thực ấỵ"

Chắc hẳn chúng ta hăy c̣n nhớ nỗi kinh hoàng của dân chúng Sài G̣n, không khí ảm đạm bao trùm cả thành phố trong những ngày tàn của miền Nam tự do. Những tin dồn dập về các thắng lợi "bất chiến tự nhiên thành" của quân đội miền Bắc, về cuộc tiến quân nhanh chóng của họ mỗi ngày mỗi gần thủ đô làm cho dân Sài G̣n hốt hoảng, kẻ th́ đưa vợ con về quê lánh nạn, người th́ cùng gia đ́nh t́m cách rời khỏi nước mà không biết sẽ đi về đâu, tương lai ra sao, "rủi may âu cũng sự Trời"! Không bao lâu sau là những đợt hàng trăm ngh́n người bị buộc tội "mang nợ máu với nhân dân" phải đi "học tập cải tạo"; tưởng là đi một vài ba tháng, ai ngờ đi "mút mùa"; kẻ th́ 2,3 năm, kẻ 5,7, 10, 12 năm, có kẻ không bao giờ trở về. Vợ và đàn con nheo nhóc không biết trông cậy vào ai, sinh sống như thế nào v́ trước nay vẫn nhờ vào đồng lương ít ỏi của chồng; các bà vợ phải rút dần rút ṃn chút tiền để dành (nếu có) hoặc bán dần đồ đạc, áo quần trong nhà để ăn và vẫn can đảm chịu đựng, vẫn thu vén được chút ít thực phẩm, thuốc men để thỉnh thoảng lặn lội đi thăm nuôi chồng. Con cái có nhiều em phải thôi học để giúp mẹ kiếm thêm chút ít tiền gia dụng hoặc v́ bị chúng bạn châm chọc, kỳ thị là con "ngụy". Rồi đến những đợt đánh tư sản, đẩy hàng ngh́n người lên vùng kinh tế mới, những đợt đổi tiền - đổi 500 đồng miền Nam lấy 1 đồng tiền Hồ Chí Minh -với mục tiêu giảm khả năng kinh tế trong dân chúng. Trong lúc đó người dân Sài G̣n vẫn tiếp tục "vượt biên" t́m tự do, măi cho đến đầu thập niên 80 th́ các nước tây phương bị nhiễm hội chứng "compassion fatigue" bèn lấy cớ những người đi sau là tỵ nạn kinh tế để từ chối không tiếp nhận thêm người tỵ nạn nữa.

Vài năm sau ngày "giải phóng" một số người "học tập cải tạo" được ra tù; v́ không t́m được việc làm để nuôi thân và gia đ́nh, họ đành phải làm những công việc lao động chân tay, như đạp xe xích-lô chẳng hạn, mặc dù sức khỏe đă giảm sút đi nhiều. Con cái nhiều đứa đă đến tuổi phải làm nghĩa vụ quân sự: chúng là mục tiêu được chọn, gọi là đi chiến đấu ở biên giới Viê.t-Miên nhưng thật ra là để làm bia đỡ đạn (cannon-fođer); chẳng bao lâu gia đ́nh nhận được tin là con em họ đă "anh dũng hi sinh" tại chiến trường. Cũng trong thời gian đó, những gia đ́nh đi vùng kinh tế mới, để khỏi chết đói, đă trở về thành phố sống lúc nhúc ở vỉa hè hay tại các băi tha ma mà chính quyền "cách mạng" đành phải thúc thủ không biết xử trí làm thế nào để giải quyết cho xong.

Những nỗi thống khổ ấy chính là do ḷng thù nghịch của CSVN gây ra cho người dân miền Nam nói chung và dân Sài g̣n nói riêng, nhưng cũng là hậu quả của chính sách kinh tế của đảng CS trong thời gian này. Trong giai đoạn đầu (1975-79) những biện pháp như cải tạo công thương nghiệp, trước ở Sài G̣n sau tại cả miền Nam, nhằm đánh tư sản, việc đổi tiền (làm song song với việc đánh tư sản), việc hợp tác hóa nông nghiệp và đưa nông dân tham gia các hợp tác xă nông nghiệp là những biện pháp thất nhân tâm; riêng các biện pháp về nông nhiệp đă bị nông dân chống đối kịch liệt. Kết quả là chính sách kinh tế được thực hiện trong giai đoạn này đă đưa đến một sự suy thoái trầm trọng trong nền kinh tế tại miền Nam. Về nông nghiệp, sản lượng cũng như năng xuất lúa tụt hẳn xuống, nhất là vào những năm 1978-1979, những năm trọng điểm của chính sách tập thể hóa. Về công nghiệp, các sản phẩm tiêu dùng hầu hết tại miền Nam cũng theo nông nghiệp mà đi xuống. Trước t́nh trạng suy thoái trông thấy của nền kinh tế, và nhất là sau vụ mất mùa năm 1979 khiến cả miền Nam lẫn miền Bắc lâm vào nạn đói, đảng và nhà nước CS bắt buộc phải thực hiện một buớc lùi chiến thuật.

Kinh tế suy thoái, thêm với những biến động chính trị bên ngoài (chiến tranh với Cao Miên, xung đột biên giới phía Bắc với Trung Quốc trong những năm 1978 -1979), đă buộc lănh đạo CSVN phải ngưng các chính sách trói buộc trong nước. Tháng 9 năm 1979, hội nghị trung ương đảng CS đưa ra Nghị Quyết sửa sai gồm có việc công nhận 5 thành phần kinh tế và cho khoán sản phẩm. Đối với nông nghiệp, sự thay đổi quan trọng nhất là việc tạm ngưng tập thể hóa nông nghiệp vàcho áp dụng chế độ "khoán hộ".

Việc sửa sai đă đem lại kết quả là sản xuất các mặt gia tăng tương đối trong các năm 1979 và 1980; mặt khác, một số xí nghiệp hợp doanh giữa Hoa Kiều tại Sài G̣n và nhà nước CS, nhờ sự liên hệ giữa Hoa Kiều ở VN với người Hoa ở Hong Kong và Singapore, đă góp phần giải quyết phần nào sự thiếu hụt ngoại tệ.

Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách cởi mở kinh tế trong các năm 1979-1982 chỉ có tính cách giai đoa.n. Mục tiêu chính vẫn là tiếp tục tiến lên xă hội chủ nghĩa với nhiệm vụ trung tâm là công nghiệp hóa. Tháng 1 năm 1982, đảng CS ra nghị quyết về việc cải tạo công thương nghiệp tại thành phố Sài G̣n. Chính sách này được thực hiện bằng cách tịch thu hàng loạt các cơ sở nhập cảng của người Hoa kiều; các cơ sở tiểu thủ công nghiệp được "khuyến khích" trở thành hợp tác xă hoặc tổ hợp sản xuất. Hậu quả của chính sách này là một cuộc khủng hoảng kinh tế khác. Đồng thời, CSVN bắt đầu gặp một số khó khăn trong việc xin viện trợ của Liên Xô. Năm 1985, ông Gorbachev lên nắm chức tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô, đưa ra chính sách Glasnost (cởi mở) và Perestroika (tái phối trí). Trong các vấn đề được ông Gorbachev xét lại có cả vấn đề viện trợ cho Việt Nam. Bước vào năm 1986, t́nh h́nh kinh tế chính trị tại Việt Nam trở nên nguy ngập: Việt Nam bị dồn vào thế cùng (4).

Sài G̣n sau "Đổi Mới"

"Cùng tắc biến" (5) như trong Kinh Dịch, đó là lối thoát; nhưng "biến tắc thông" th́ đến nay vẫn chưa thành hiện thực; giả đ̣ là cách "biến". Tại đại hội 6 của đảng CS vào tháng 12 năm 1986, Nguyễn văn Linh đưa ra chủ trương "đổi mới" và "cải tổ cơ cấu" làm chủ đề cho chính sách kinh tế chính trị; nhưng "đổi mới" không có nghĩa là từ bỏ xă hội chủ nghĩa, từ bỏ chế độ toàn trị. Do đó, khẩu hiệu "kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa" được dùng làm kim chỉ nam cho chính sách kinh tế mới. Nhóm chữ "định hướng xă hội chủ nghĩa" khiến dư luận hoang mang, có nhiều người tưởng là chính quyền sẽ có chính sách thích ứng về sự phân bố lợi tức hoặc những sản phẩm xă hội không thể điều chỉnh bằng giá, nhưng thật ra chính quyền chỉ có mục đích duy tŕ khâu xí nghiệp quốc doanh bất chấp nó có hiệu năng kinh tế hay không (6). V́ vậy, cho tới nay những cải cách kinh tế chỉ có tính cách nửa vời và trên thực tế, đă phát sinh ra một nền kinh tế thị trường "hoang dại" trong đó người ta thấy xuất hiện ngày càng đông những kẻ mới phất (nouveaux riches) làm giàu bằng những thủ đoạn phi pháp như tham nhũng, ăn cắp tài sản công, hối lộ, trốn thuế, buôn lậu, v.v… Một cán bộ cộng sản cao cấp đă phải thừa nhân rằng "những thủ đoạn phi kinh tế…làm cạn kiệt tài nguyên, hủy hoại môi sinh, làm rối loạn xă hội và xâm phạm đạo đức, nhân phẩm con người"(7). Đại đa số những kẻ mới phất nói trên là đảng viên có chức, có quyền; một giai cấp mới, giai cấp tài phiệt đỏ, đă được h́nh thành. Trong cái nền kinh tế ấy, những vấn đề liên hệ như bảo vệ môi trường, giáo dục, xă hội, v.v…đều bị coi nhẹ; hậu quả là môi trường bị ô nhiễm trầm trọng, những tệ nạn xă hội như ăn cắp, đĩ điếm, x́ ke ma túy… không thể giải trừ được, bệnh AID, HIV lan tràn mà thuốc men, bệnh viện, y sĩ và y tá không đủ để chữa trị. V́ "biến" không "thông" nên hiện nay nước Việt Nam của chúng ta là một trong những nước có thu nhập b́nh quân thấp nhất châu Á, nạn tham nhũng được thế giới nhận dạng là loại "siêu", được tổ chức Transparency International (Minh bạch Quốc tế) cho là một nước tù mù, dối trá, bất khả tín.

Sài G̣n hiện nay cũng bị nhiễm những thứ "bệnh" như trên, có khi c̣n nặng hơn các nơi khác. V́ ở đó có nhiều xí nghiệp quốc doanh hơn nên có nhiều nhà tư bản đỏ hơn. V́ Sài G̣n và vùng phụ cận có nhiều nhà máy nên ô nhiễm nặng hơn. Dân đông hơn, mật độ cao hơn nên tệ nạn xă hội trầm trọng hơn. Mà thôi, kể nữa làm ǵ cho thêm buồn ḷng. Có người sẽ bảo: "Tôi vừa đi Sài G̣n về. Đời sống bây giờ thoải mái hơn trước nhiều. Nhà lầu, cao ốc, khách sạn bốn năm sao mọc lên như nấm. Đường sá, phố xá đông nghịt người. Tiệm ăn, quán nhậu chật ních khách ăn. Hội hè quanh năm chẳng phải là dịp để cho dân vui chơi đó sao? Báo chí bên này cứ chỉ trích, chê bai hoài; phải chăng là chúng ta thiếu tinh thần khách quan?" Xin trả lời: "Cuộc sống thoải mái ư? Thoải mái là đối với người có tiền, kể cả những người đem đô la, euro về tiêu xài, c̣n những người kiếm sống chật vật vẫn là đa số. Tiệm ăn đông khách ư? Ăn nhậu bây giờ là một thú vui hiếm hoi dành cho những người dân may mắn có chút ít tiền dư mà không biết tiêu vào việc ǵ khác; vả lại chúng ta nên nhớ rằng các nhà độc tài, bắt đầu từ những vị hoàng đế La Mă, đều biết cách ru ngủ quần chúng bằng cách khuyến khích cho họ ăn chơi thỏa thích đặng quên đi những đ̣i hỏi khác như quyền tự do ăn nói, tự do tín ngưỡng, v.v… C̣n nhà lầu, khách sạn sang trọng? Đó là dinh thự của những nhà tư bản đỏ, dân chúng mấy ai có nhiều tiền để xây nhà lầu, biệt thự! Khách sạn năm bảy tầng toàn là dành cho du khách. Hội hè linh đ́nh tất cả đều nhằm mục đích câu khách, người thường dân, nếu được nghĩ đến, cũng chỉ là mục tiêu thứ yếu"

Muốn t́m một lời phê b́nh khách quan, xin đọc đoạn viết về chợ hoa xuân (chợ triển lăm hoa mùa xuân – xuân Ât Dậu) dưới đây của một người dân Sài G̣n:

"… bây giờ th́ dù đi chợ hoa xuân nào cũng chỉ gặpnhững người lạ hoắc, không c̣n cho được cái cảm giác nào của thời thơ ấu và những phiên chợ Tết ngày xưa được nữa. Nhất là con đường Nguyễn Huệ hôm nay th́ xa lạ hẳn đi. Những hàng đèn chạy dài, những dây dợ tua tủa, những bồn hoa được xếp đặt cầu kỳ và có phần máy móc. Phải công nhận là nó đẹp thật, và đẹp nhất là về đêm, nhưng tôi vẫn cứ thấy nó không có hồn. Nó chỉ là một cái áo choàng của thời đại điện tử và người ta cần màu xanh màu đỏ nhấp nháy, quảng bá cho du lịch, quảng bá cho thành phố `rực rỡ hoa đèn' đúng nghĩa chứ nó không có cái hồn của mùa xuân Việt Nam. Những chiếc xích lô chở đầy hoa, những chiếc thuyền nằm im ĺm dưới một hàng cây chưa đủ thổi vào đó một tâm hồn đất Việt mà nó chỉ giống như một bức tranh thêu bắt mắt. Dù sao nó cũng được du khách `chiếu cố' như một cái ǵ lạ mắt và h́nh như người nào cũng muốn chụp h́nh với nó để có một chút kỷ niê.m. Làm được như thế cũng là một điểm đáng ghi nhận cho du lịch Việt Nam rồi. Tôi chỉ tiếc là chợ hoa xuân Nguyễn Huệ không c̣n nữa, cái hồn Tết của Sài G̣n xa xưa cứ ngày một mất đi dần. Có lẽ cái tinh thần `tồn cổ' c̣n đọng lại quá nhiều trong những con người như tôi chăng?" (8)

Ừ phải! Cái hồn Tết của Sài G̣n mất đi dần. Linh hồn của Sài G̣n mất đi dần. Chỉ c̣n thể xác, một thể xác điểm trang không hợp khuôn mặt, y phục không xứng khổ người. Muốn cho Sài G̣n sống lại, cần phải phục hồi nếp sống cũ của Sài G̣n, phải trả lại Sài G̣n lại cho dân Sài G̣n, phải trả lại tên Sài G̣n cho Sài G̣n. "Phải trả lại tên Sài G̣n cho Sài G̣n" đó là mục tiêu của cuộc vận động do Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, Quản nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Giáo phận Auckland, Tân Tây Lan khởi xướng (9); cuộc vận động này được rất nhiều đồng bào trong cũng như ngoài nước hưởng ứng và càng lúc càng lan rộng.

Có điều là mọi người đều biết rằng lănh đạo CSVN vốn rất ngoan cố, đă có những vụ tai tiếng (scandal) rất lớn có thể làm đổ một chính phủ hay cả một chế độ, nhưng họ vẫn ù ĺ, làm như không hay không biết, chờ cho đến khi gió im sóng lă.ng. Họ không chịu sửa đổi, trừ phi bị dồn vào thế bí. Tuy nhiên, nếu cuộc vận động của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ có hiệu quả của một áp lực đối với CSVN, đó không phải là cái áp lực duy nhất mà họ đang gặp phải; hiện họ c̣n phải đương đầu với nhiều áp lực, nhiều khó khăn khác và giống như trong thành ngữ "góp gió thành băo", toàn bộ các áp lực đối với đảng CSVN và những khó khăn hiện hữu của họ có thể hợp thành một cơn sóng gió đe dọa chế độ CS với khả năng đẩy chế độ tới hồi kết thúc. Sau đây là những áp lực và khó khăn chính yếu:

Trước nhất, áp lực quốc tế ngày càng mạnh đ̣i hỏi cải tổ sâu rộng từ căn bản: để được gia nhập WTO, hệ thống luật lệ phải hoàn thiện; các công ty quốc doanh phải giải thể, độc quyền của nhà nước CS trong một số lĩnh vực kinh tế phải được băi bỏ; đ̣i hỏi của quốc tề về các vấn đề tự do, dân chủ phải được tôn trọng.

Thứ đến, t́nh trạng chia rẽ nội bộ đă tới mức trầm trọng: các vụ TC2, T4 là thí dụ. Sự chia rẽ, đấu đá nhau trở thành công khai; những tố cáo trong các bài viết, hồi kư… của một số đảng viên cao cấp đă và đang làm cho đầu năo đảng CS lung laỵ

Thứ ba, xă hội dân sự (10) đă trưởng thành và đang gây áp lư.c. Rất nhiều nhóm và cá nhân nêu ra những đ̣i hỏi về dân sinh, dân quyền đ̣i đảng phải giải quyết. Các vấn đề chiếm đoạt đất đai, hối mại quyền thế, tham nhũng, dâng hiến đất cho ngoại bang…được nêu công khai và đang dồn đảng vào thế bị động. Cả ngh́n việc khác, từ việc phải có ngưồn nước sạch để uống, vấn đề môi sinh, buôn bán gái vị thành niên cho tới việc công ty ngoại quốc đánh đập công nhân Việt làm cho đảng lúng túng, t́m cách bào chữa. Tất cả các đ̣i hỏi từ mọi phía làm cho đảng CS không c̣n các nào khác là phải t́m cách thỏa măn những đ̣i hỏi ấỵ

Sau hết nhưng không kém quan trọng, giai cấp trung lưu đă xuất hiện với tiếng nói có trọng lực. Các thành viên của giai cấp đó thoát thai từ đảng CS; họ dựa vào gốc đảng để bảo vể quyền lợi và tài sản của họ. Chính họ lại quay ra chống lại đảng.Với thời gian, giai cấp trung lưu sẽ có bề thế hơn, có học thức và ư thức về khả năng đóng góp của họ, có đầu óc cởi mở để tiếp thu những tư tưởng tự do dân chủ để tự động khai triển và biến những tư tưởng ấy thành hành động, hoặc sẵn sàng hậu thuẫn cho các cuộc vận động dân chủ do các giới khác trong và ngoài nước chủ xướng. Giai cấp trung lưu đă từng giữ vai tṛ then chốt trong các biến cố lịch sử; chẳng hạn, chính giai cấp trung lưu đă khởi xướng và chỉ đạo cuộc "cách mạng nhung" tại Tiệp Khắc vào cuối năm 1989 và cách mạng ôn ḥa tại Đức vào đầu năm 1990.

Những áp lực, khó khăn và sự việc bất lợi cho CSVN mói ở trên đây đều là sự thật, không thêm bớt, không thổi phồng. Diễn biến nói trên cũng chẳng phải là không tưởng, nó sẽ xảy ra không sớm th́ muộn. Ư thức được lẽ tất nhiên ấy, các tổ chức người Mỹ, Pháp, Úc…gốc Việt đă và đang cố gắng cung cấp đầy đủ tài liệu để các chính khách và chính phủ bản quốc có đủ dữ kiện về những vụ vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo, giam giữ người trái phép v.v... hầu làm áp lực mạnh mẽ hơn đối với đảng và nhà nước CSVN buộc họ phải có những cải tổ nhằm dân chủ hóa đất nước. Các tổ chức này c̣n tích cực giúp đỡ các cá nhân, các nhóm ở quốc nội đang vận động đ̣i tự do dân chủ cho VN để họ có thể tranh đấu hữu hiệu hơn. Thêm vào đó, với sự phát triển của mạng internet, sự liên lạc và thông tin hai chiều giữa hải ngoại và quốc nội ngày càng nhanh chóng và hữu hiệu hơn, mặc dù nhà nước CSVN đă t́m mọi cách để ngăn cản, đặc biệt là những thông tin nhằm vạch trần mặt thật của CSVN; theo nhà báo Pháp kỳ cựu là Jean Lacouture, CSVN đă thực hiện một chế độ thực dân đối với dân ḿnh và ông đă đặt ra chữ "autocolonisation" để nói về cái chế độ kỳ quặc này. Với những áp lực quốc tế và quốc nội, với những khó khăn ngày càng nhiều, với t́nh h́nh người dân ngày càng mạnh dạn hơn trong việc đ̣i hỏi những cải cách cần thiết, chế độ CSVN tất bị dồn vào thế thụ động đến mức sẽ phải tự giải thể hoặc sẽ bị bắt buộc phải giải thể.

Để chứng tỏ rằng sự suy luận này không phải là "lấy mộng làm thực" (wishful thinking), xin trích dẫn lời phát biểu sau đây của anh Phương Nam Đỗ Nam Hải - một thanh niên tranh đấu cho tự do dân chủ tại VN - trong cuộc phỏng vấn của Mạng Lưới Lên Đường (Úc Châu) vào ngày 17/11/2005: "…chúng ta hoàn toàn tin tưởng rẳng trong xă hội Việt Nam hôm nay đang có một sự thay đổi lớn về nhận thức. Sự thay đổi này là rất sâu sắc à một khi xă hội đă có sự thay đổi trong nhận thức th́ ắt sẽ có sự thay đổi trong hành động. Đó là quy luật tất yếu. Tiến tŕnh "Diễn Biến Ḥa B́nh" mà những người bảo thủ trong đảng cộng sản Việt nam đă và đang lo ngày lo đêm, đă diễn ra thành công ở các nước Đông Ấu, Liên Xô, Indonesia… th́ nhất định nó cũng diễn ra thành công ở Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba, Bắc Hàn trong thời gian tới. Sở dĩ hôm nay chưa có nhiều người dám công khai lên tiếng đ̣i tự do, dân chủ ở các nước này là bởi v́ họ đang sống dưới bộ máy tuyên truyền và đàn áp quá đồ sộ khi th́ lộ liễu, lúc lại rất tinh vi. Nhưng theo tôi, ở cả 4 nước trên, nỗi sợ hăi với bộ máy ấy đă dần mất đi. Và khi mà đa số nhân dân không c̣n sợ nữa, th́ đó chính là dấu hiệu của một cuộc cách mạng dân chủ sắp diễn ra. T́nh h́nh của các nước Đông Âu, Liên Xô, Indonesia…cũng đều là như vậỵ"

Với sự sụp đổ của CSVN, cũng giống như trường hợp thành phố St Petersburg đă được trả lại tên khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ, tên Sài G̣n sẽ phải trả lại cho Sài G̣n. Chừng đó, chúng ta sẽ được gặp lại thành phố Sài G̣n thân yêu trong niềm hân hoan của dân tộc. Sài g̣n sẽ mau chóng phục hồi phong độ để trở lại với nhiệm vụ lịch sử của ḿnh đặng măi măi tồn tại cùng với non sông đất nước và măi măi vẫn là Sài G̣n của chúng ta - một Sài G̣n Muôn Thuở.

Nguyễn Phúc
London, Mạnh Đông, năm Ất Dậu
Cước chú:
(1) Nguyễn Ngọc Lan, Hẹn Thắp Lên (Lời chưng hai mươi la(m năm 1975-2000), xb Tŕnh Bày Strasbourg-Salt Lake Citỵ
(2) Thái Văn Kiểm, Saigon De Toujours: Une Culture De Rue, tài liệu đánh máy
(3) Về hoa mai: Bên Trung Hoa, có một loại hoa gọi là "mei" theo phát âm tiếng quan thoại; phát âm theo chữ Hán-Việt là "mai"; thật ra, đó là hoa mơ (plum). Cây có hoa bày bán ở các chợ Tết mới là cây mai, cây bản địa. Các nhà khoa học gọi hoa mai hay hoàng mai là Ochna Harmandii, theo tên của nhà bác học Harmand (1845-1921), người đầu tiên đă nhận dạng hoa mai tại cao nguyên Bolovens ở Ai Laọ
(4) Lê Mạnh Hùng, Chính sách kinh tế của Cộng Sản Việt Nam từ 1975 dến1992, Đặc San Kinh Tế, Hội Chuyên Gia Việt Nam, San Jose, tháng 1/1933, tr 11-33.
(5) "Cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu" (Cùng th́ biến, biến th́ thông, thông th́ lâu), Kinh Dịch.
(6) Nam Dao, `Việt Nam, con người từ những bóng má, Văn Học số 225 tháng 5&6 – 2005
(7) Đỗ Nguyên Phương, Tạp Chí Cộng Sản, Hà Nội, số 5, 1944, tr 33.
(8) Văn Quang, Trẩy Hội Hoa Xuân Sài G̣n, VNN, tháng 1/2005.
(9) Nguyễn Hữu Lễ, Hăy Trả Lại Tên Sài G̣n Cho Sài G̣n, P.O. Box 17-516, Green Lane, Auckland, New Zealand, website: www.saigonforsaigon.org.
(10) xă hội công dân (civil society) là một tập hợp gồm nhiều định chế phi-chính-phủ (non-governmental institutions) khác nhau, đủ mạnh để làm đối lực (counterbalance) đối với nhà nước và, trong khi không cản trở nhà nước thi hành nhiệm vụ của họ trong việc ǵn giữ ḥa b́nh và phân xử những vụ tranh chấp lợi quyền quan trọng, vẫn có thể ngăn cản không cho nhà nước chi phối và phân hóa cùng cực phần c̣n lại của xă hội (xem Ernest Gellner, Conditions of Liberty – Civil Society and its Rivals, Penguin Books, London).
Nhận xét :

Có hai loại người Việt Nam : loại người đă biết Sàigon, và loại người khác.
Là tại v́ chữ hạnh phúc trong ư nghĩa đon thuần của nó, qua lịch sữ VN, thực sự được thể hiện rơ rệt nhất nơi người Sàig̣n và người Miển Nam. Hạnh phúc là hạnh phúc, biết nói thế nào. Được trông thấy Sàig̣n, nói chi đă được sống ở Sàig̣n, là đă biết một h́nh ảnh hạnh phúc đích thực của cả một miền.
Các văn sĩ hăy nói lên những t́nh cảm tha thiết nhất đối với Sàigon. Làm cho quá khứ sống lại, thu hút, thúc đẩy các thế hệ trẻ, để họ lấy lại cái danh dự của họ. Đó thực là một nhu cầu của con người đă nếm niềm hạnh phúc và tự do trên đời này một lần, dù chỉ trong chốc lát.
Rất nhiểu người cho dân Sàig̣n chỉ biết ăn nhậu, đâu có thiết tha  đến chính trị. Nhưng thời nay cái ǵ cũng biến chuyển, kể cả cải vẻ vô tư của người Săig̣n.

Sàig̣n muôn năm !
Đinh Vinh Phúc