Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam
Điện Thư - Số 56
Tháng 3 năm 2006

 

Điện Thư Câu Lạc Bộ Dân Chủ xin trân trọng kính chuyển đến các Diễn Đàn Điện Tử, Cơ Quan Ngôn Luận, Độc Giả trong và ngoài nước các tin tức, sự kiện và bài vở liên quan đến t́nh h́nh dân chủ Việt Nam. Điện thư gửi thẳng đến bạn đọc. Nếu bạn cần nhận điện thư hoặc góy ư, yễm trợ xin liên lạc: caulacbodanchuvietnam@yahoo.com 

Tin Ghi Nhận: 

+ Trong lá thư lần 2 gửi ông Nguyễn Thành Tài, Phó chủ tịch UBNDTP, anh Đỗ Nam Hải, tức Phương Nam đă kịch liệt phản đối cung cách cử xử thiếu văn hoá và thô bạo của công an Q. Phú Nhuận đă thẩm vấn và giam giữ anh trái với qui định pháp luật. Cụ thể anh đ̣i hỏi ông Tài trong bức thư này:

-Huỷ bỏ ngay tức khắc và vô điều kiện QĐ 199/QĐ – UBND do chính ông kư ngày 16/01/2006. V́ đó là một quyết định trái pháp luật, như tôi đă tŕnh bày trong thư ngỏ số 1 và trả lại toàn bộ tài sản bị công an thu giữ trái phép cho tôi.

-Làm rơ trách nhiệm của từng thành viên trong tổ công tác của công an Q.Phú Nhuận, đă trực tiếp hành hung tôi sáng ngày 23/3/2006.

-Ra lệnh cho công an Tp. HCM, là đơn vị dưới quyền ông huỷ bỏ ngay việc cho công an theo dơi tôi, xung quanh nhà tôi suốt ngày đêm.

+ Trong buổi làm việc với giới chức cao cấp quân đội Trung Quốc ngày 11/3/2006, ông Hồ Cẩm Đào phát biểu rằng, hiện đại hóa quân đội là nhiệm vụ trọng yếu trong kế hoạch 5 năm tới 2006-2010 của Trung Quốc.  Động thái này của ông Hồ Cẩm Đào không chỉ cho thấy kế hoạch đoàn kết với nhóm Thượng Hải vốn là phe cánh của ông Giang Trạch Dân, mà c̣n cho thấy một cách nhất quán ư đồ vươn đến siêu cường của Trung Quốc. Được biết, trong thời gian qua, Trung Quốc đă liên tục đẩy mạnh hợp tác trên lĩnh vực năng lượng, vũ khí và hạt nhân với các nước Ấn Độ, Pakistan, Iran, Nga.

+Ngày 27/3 Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải Đào Đ́nh B́nh và 3 Thứ trưởng là các ông Nguyễn Việt Tiến, Ngô Thịnh Đức và  Phạm Duy Anh đă viết bản  “kiểm điểm trách nhiệm” theo yêu cầu của Thủ tướng Phan Văn Khải. Đây là một biện pháp nửa vời nhằm  xoa dịu sự bất b́nh của dân chúng. Được biết trong những ngày tới, Thứ trưởng thường trực Nguyễn Việt Tiến phải tiếp tục có mặt tại cơ quan điều tra Bộ công an để làm rơ về những khuất tất tại PMU18. Những ngày cuối tháng 3, dư luận phẫn nộ về việc côn đồ hành hung và đe doạ các phóng viên báo chí tác nghiệp về vụ bê bối PMU18 Bộ giao thông vận tải. Điều đáng nói là trong số những kẻ tham gia hành hung phóng viên có cả công an  địa phương mặc thường phục.

+Hiện nay, đánh bạc online đang là một vấn nạn ở Việt Nam. Ước tính mỗi ngày lượng tiền từ Việt Nam chảy ra nước ngoài theo con đường đánh bạc và cá độ trên mạng Internet lên tới hàng chục triệu USD. Thông qua vụ  Bùi Tiến Dũng, người ta c̣n phát hiện thêm nhiều “con bạc triệu đô la” là các quan chức nhà nước.

+Ngày 8/3/2006, Cục Dân chủ- nhân quyền và Lao động thuộc Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đă phát hành bản báo cáo về t́nh h́nh nhân quyền ở các nước năm 2005. Phần nói về Việt Nam được bản báo cáo phân tích tương đối chi tiết và đầy đủ về t́nh trạng nhân quyền tại Việt Nam trong thời gian qua. Văn bản này được đăng tải đầy đủ tại trang: http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov/hrreport2005_ii.html

 

----- O -----

 

DOANH NGHIỆP, DOANH NHÂN VÀ VĂN HÓA

                                                                                             TS. Lê Đăng Doanh

 

Ngày nay, ở nước ta, khởi sự doanh nghiệp tư nhân vẫn đ̣i hỏi sự dũng cảm, dấn thân và chịu đựng.

 

Dũng cảm v́, ngoài bất trắc vốn có của bất kỳ nền kinh tế thị trường nào, ngoài sự cạnh tranh gay gắt trên thương trường, doanh nghiệp tư nhân phải đối mặt với quá nhiều khó khăn, trở ngại, hiểm nguy từ rất nhiều phía trong kinh doanh: như gom vốn, t́m mặt bằng kinh doanh, vượt qua mê hồn trận văn bản pháp quy vừa mù mờ và vừa rối rắm, thiếu ăn khớp với nhau. Dấn thân và chịu đựng v́ – mặc dù đă có nghị quyết và luật – phải vượt lên bao thành kiến, cách làm tư lợi và tắc trách của không ít viên chức ở các cơ quan nhà nước có quyền “sinh,sát” đối với doanh nghiệp. Mặc dù tạo ra việc làm, đem lại thu nhập chính đáng cho người lao động, nộp thuế, tham gia các hoạt động từ thiện và bảo trợ xă hội, doanh nhân vẫn bị coi là “kẻ ích kỷ”, “chỉ làm giàu cho cá nhân ḿnh” một cách vô căn cứ. Thành kiến phổ biến đến mức phim ảnh trên truyền h́nh hay tác phẩm văn học nếu có vai  “giám đốc doanh nghiệp tư nhân” th́ đó phải là một kẻ lưu manh, làm ăn liều lĩnh và lừa đảo, đồi bại về đạo đức, sống buông thả, táng tận lương tâm, vi phạm pháp luật. Nếu như trên ti vi, báo, đài nói đến tăng, giảm giá th́ thường quy cho là tại “bọn tư thương ép giá” hoặc “tư thương đầu cơ” mặc dù không bao giờ chứng minh được hành vi đầu cơ đó như thế nào, cụ thể ai đầu cơ thế nào.

 

Và cho đến nay cũng chưa có quy định hướng dẫn về khen thưởng doanh nghiệp tư nhân được thưởng huân chương về đóng góp của ḿnh cho xă hội. Sự nhẫn nhục chịu đựng, kiên tŕ, bền gan kinh doanh phải được coi là một đức tính quan trọng của doanh nhân ngày nay. Nếu nói đến văn hóa th́ đó cũng là một giá trị văn hóa của sự chịu đựng và thích nghi.

 

Doanh nghiệp là một loại tế bào của xă hội, doanh nghiệp không chỉ là một đơn vị kinh doanh, doanh nghiệp là một cơ sở văn hóa và mỗi doanh nghiệp có văn hóa kinh doanh của ḿnh. Văn hóa của doanh nghiệp không tách rời với văn hóa của xă hội là hệ thống lớn bao gồm doanh nghiệp. Văn hóa trước hết của doanh nghiệp là tuân thủ pháp luật, là bảo đảm có lăi, không những nuôi được người lao động mà c̣n phát triển. Trên thế giới, từ Microsoft đến Honda, Sony đă sáng tạo ra bao nhiêu giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, góp phần phát triển văn hóa của loài người.

 

Một doanh nghiệp độc quyền, rất sang trọng về vật chất nhưng chính họ lại rất thiếu văn hóa và nhẫn tâm v́ họ đă áp đặt phi lư gánh nặng chi phí kinh doanh lên bao nhiêu người dân. Thử hỏi quy định bắt người tiêu dùng điện thoại di động gọi có 1 giây nhưng phải trả tiền cho 60 giây là có văn hóa hay vô văn hóa? Phải chăng đó là văn hóa tước đoạt hàng ngày, hàng giờ tiền bạc của người tiêu dùng lại được áp đặt bằng quyền lực hành chính?

 

Từ Biti’s đến Thái Tuấn, gạch Đồng Tâm,v.v...mỗi doanh nghiệp đều xây dựng văn hóa và nền nếp kinh doanh của riêng ḿnh. Trong kinh doanh, doanh nghiệp, doanh nhân có quan hệ kinh tế, xă hội với rất nhiều người trong xă hội, trong mỗi quan hệ đó đều thể hiện văn hóa kinh doanh. Trong quan hệ tín dụng với ngân hàng, từ việc cung cấp trung thực các thông tin về thực trạng tài chính của doanh nghiệp, bảo đảm đúng các cam kết với chủ nợ dẫu việc kinh doanh của ḿnh có khó khăn. Với các đối tác kinh doanh, chữ tín là văn hóa, là phẩm chất của doanh nhân, là kỷ luật và bản lĩnh kinh doanh. Với khách hàng, bảo đảm chất lượng, không lợi dụng sự thiếu hiểu biết của khách hàng để lừa họ - mà trong khoa học kinh tế được xác định là sự bất đối xứng thông tin giữa người bán hàng và người mua hàng - để bán hàng kém phẩm chất, hàng dởm. Như thế là văn hóa, là có ḷng tự trọng và tôn trọng các giá trị tinh thần. Trong kinh tế thị trường, khách hàng được coi là tài sản của doanh nghiệp, khách hàng càng được trân trọng trong những doanh nghiệp làm ăn chân chính, có uy tín. Có thể kể đến người bán hàng, tiệm ăn rất chiều khách, lấy công làm lăi, chăm sóc khách hàng rất chu đáo. Phải coi người doanh nhân biết xuất khẩu lá chuối tươi, rau muống xào tỏi đông lạnh ở Nhà Bè, xơ dừa ở Bến Tre, rơm sạch ở Ninh B́nh, tượng đá ở Đà Nẵng v.v…là những người có văn hóa. Họ đă đem lại cho những cái được coi là không có giá trị những giá trị sử dụng và thẩm mỹ mà trước đó chưa hề được phát hiện.

 

Điều này lại càng đúng đối với những nghề dịch vụ mà khách hàng không có khả năng kiểm nghiệm chất lượng như thiết kế xây dựng, khám-chữa bệnh, giải phẫu thẩm mỹ hay tư vấn luật pháp, kế toán…Xă hội cần đề cao những doanh nhân trung thực, nêu cao trách nhiệm và các giá trị tinh thần trong kinh doanh. Muốn vậy, doanh nghiệp và doanh nhân không chỉ coi trọng lợi nhuận mà c̣n rất coi trọng sự đóng góp cho xă hội từ đóng thuế đến tạo ra việc làm hay cả niềm vui của khách hàng nhờ được thỏa măn với sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp. Sản phẩm ở đây hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là sản phẩm vật chất (may mặc, xe máy hay đồ chơi trẻ em), tinh thần như tư vấn, sức khỏe, sự hài ḷng của khách hàng mà bao gồm cả con người đối với các cơ sở đào tạo. Không thể nào coi là có văn hóa nếu như các trường sản xuất ra những “người dỏm”, bằng cấp thật nhưng kiến thức, nhân cách, tinh thần làm việc, tinh thần trách nhiệm đều rất kém cỏi. Văn hóa ở đây vượt lên trên sự hào nhoáng của xe cộ, hội sở, quần áo hay các nữ thư kư ăn mặc sành điệu. Văn hóa ở đây nằm trong sản phẩm kinh doanh, mỗi hành vi kinh doanh, mỗi hợp đồng, mỗi cam kết của doanh nhân.

 

Trong nội bộ doanh nghiệp, hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả các trường học, viện nghiên cứu, văn hóa thấm sâu trong từng mối quan hệ trong doanh nghiệp giữa giám đốc với công nhân, giữa doanh nghiệp với khách hàng v.v…Vừa qua chúng ta đă phải chứng kiến những hành vi rất vô văn hóa của chuyên gia đánh công nhân, đối xử tàn tệ với người lao động ở một số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. May mắn thay những việc đó chưa phát hiện thấy ở doanh nghiệp tư nhân trong nước, nếu không sự lên án và thành kiến chưa biết đến mức nào.

 

Đương nhiên, trong doanh nghiệp tư nhân c̣n không ít hành vi vô văn hóa và phản văn hóa, làm ăn chụp giật. Song, số ít đó không phải là đặc quyền cố hữu của doanh nghiệp tư nhân. Vơ đũa cả nắm, thành kiến c̣n tệ hại hơn sự ngu dốt v́ nó bất chấp sự thật và dẫn đến những thái độ sai lầm.

Và để cho kinh doanh có văn hóa, doanh nghiệp có văn hóa th́ công sở, cơ quan nhà nước các cấp cũng phải có văn hóa, viên chức phải hành xử đúng pháp luật, có trách nhiệm và có văn hóa. Không thể đ̣i hỏi doanh nghiệp trong sạch nếu bộ máy nhà nước tham nhũng; doanh nghiệp phải có văn hóa trong khi viên chức nhà nước ứng xử tư lợi và thiếu văn hóa. Muốn có văn hóa doanh nghiệp th́ trước hết các công sở phải có văn hóa trong cách đối xử với công dân và doanh nghiệp. Viên chức nhà nước tự ư lạm dụng quyền hạn, hành động vượt quá quy định pháp luật, bắt chẹt, làm khó cho doanh nghiệp không thể coi là có văn hóa.

 

V́ vậy, toàn xă hội và mỗi một doanh nghiệp hăy cùng phấn đấu để doanh nghiệp và công sở đều hoạt động đúng pháp luật và đúng văn hóa. Hăy tôn vinh những doanh nghiệp làm ăn chân chính, có năng lực cạnh tranh, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế và cho tiến bộ xă hội. Và phải lên án những hành vi vô văn hóa hay phản văn hóa khi chúng xuất hiện ở bất cứ đâu để cho cái tốt, cái thiện được phát triển. Đất Việt Nam chúng ta từ ngàn xưa đă là đất văn hiến. Chấn hưng nền văn hiến đó, đạt được thịnh vượng và phồn vinh trong thế kỷ thứ XXI này, đó phải là sự nghiệp của tất cả chúng ta.

 

----- O -----

 

Hai vấn đề về xây dựng nhà nước pháp quyền

 

GS.TSKH Nguyễn Mại

(Thành viên Tổ nghiên cứu Kinh tế đối ngoại của Thủ tướng Phan Văn Khải).

 

I.Cần phải khách quan nhận định rằng, t́nh trạng do dự, chậm chạp trong việc đổi mới thể chế chính trị theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền là một khuyết điểm lớn, đă trở thành lực cản cho toàn bộ quá tŕnh “đổi mới và mở cửa” ở nước ta. Đổi mới về kinh tế đến khoảng giữa thập kỷ 90 của thế kỷ trước đă xuất hiện hàng loạt vấn đề mà bản thân cơ chế kinh tế mới không thể giải quyết được, đ̣i hỏi phải đổi mới toàn diện thể chế chính trị để đáp ứng nhu cầu của đời sống kinh tế - xă hội của đất nước.

 

*

 Hai vấn đề nổi bật nhất là nhà nước trong kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; và dân chủ trong kinh tế, chính trị và xă hội. T́nh trạng quan liêu, lạm quyền, tham nhũng trong bộ máy nhà nước, cũng như những quyền cơ bản của người dân trong chế độ dân chủ chưa thật sự được tôn trọng, được bảo đảm bằng luật pháp là hệ quả tất yếu của việc chậm đổi mới thể chế chính trị. Trong kinh tế vẫn c̣n kéo dài t́nh trạng “người dân muốn kinh doanh phải được phép của nhà nước”, măi đến năm 2000, khi ban hành Luật Doanh nghiệp mới trả lại cho công dân quyền “được kinh doanh những lĩnh vực, ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Chỉ chừng ấy thôi, mà mất hàng chục năm và cũng chỉ cần trả lại quyền cho chính chủ của nó – người dân – th́ hàng chục vạn doanh nghiệp tư nhân ra đời, nhiều ngh́n tỉ đồng vốn trong túi người dân được bỏ vào kinh doanh, mấy triệu người lao động có việc làm…

 

Đáng tiếc, cái quyền đương nhiên đó của người dân đă được luật pháp quy định rơ ràng như vậy lại bị giảm thiểu bởi một bộ phận không nhỏ công chức nhà nước lạm quyền thông qua các thủ tục hành chính phiền hà với hàng trăm giấy phép con (!). Trong các doanh nghiệp nhà nước, khi chuyển sang cơ chế thị trường, th́ t́nh trạng thiếu dân chủ cũng trở nên trầm trọng hơn trước, “bộ tứ - tự bố”, giám đốc có quyền không bị giới hạn, kể cả quyền làm phá sản doanh nghiệp. Chỉ cần nhắc lại vụ án có liên quan đến nguyên Tổng giám đốc PMU 18 mà có người đă đánh giá tính chất nghiêm trọng đến mức “thóa mạ cả một dân tộc”, th́ có thể h́nh dung được t́nh trạng lộng quyền của không ít vị  đứng đầu doanh nghiệp nhà nước.

 

Trong quan hệ xă hội, mặc dù Đảng đă mở cuộc vận động dân chủ ở cơ sở, nhưng t́nh trạng người dân sợ “quan xă, quan huyện” như chế độ cũ không phải là hiện tượng cá biệt. Nguyên nhân chính là những cơ chế dân chủ đă được quy định không c̣n phù hợp với hoàn cảnh mới của xă hội Việt Nam; c̣n những người chỉ đạo cuộc vận động quan trọng đó th́ h́nh như vẫn “ngủ yên trên cái giường cũ”. Để người dân có thể thực hiện quyền công dân về chính trị và xă hội, th́ cần nghiên cứu từ thực tế xă hội hiện nay của nước ta và kinh nghiệm của nhiều nước để xây dựng hệ thống thiết chế dân chủ, đủ bảo đảm mọi cá nhân công dân được b́nh đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với đất nước. Có lẽ, rất đúng chỗ khi nhắc lại lư tưởng của nhà bác học vĩ đại, một bộ óc được xem là xuất sắc nhất của loài người, Albert Einstein : “Lư tưởng chính trị của tôi là lư tưởng dân chủ. Mỗi người cần được tôn trọng như một nhân cách và không ai được thần thánh hóa”.

 

*

II. Dự thảo Văn kiện đề cập việc “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội…” xin được góp thêm một số ư kiến sau đây:

 

Một là, trong những năm gần đây, chức năng lập pháp, giám sát pháp luật của Quốc hội đă được thực hiện tốt hơn trước. Tuy vậy, nếu căn cứ vào nội dung của các luật và pháp lệnh đă được ban hành, có thể nhận định rằng, Quốc hội nước ta chưa thực hiện đúng chức năng lập pháp, theo đúng nghĩa của lập pháp. Quốc hội chỉ quy định những nguyên tắc, nội dung chưa đủ chi tiết để điều chỉnh mọi hành vi của công dân trong hoạt động chính trị, kinh tế, xă hội. Do vậy, một phần đáng kể chức năng lập pháp của Quốc hội do cơ quan hành pháp thực hiện, làm cho cơ quan này “vừa đá bóng, vừa thổi c̣i”. Luật quy định chung chung th́ nghị định và thông tư với những nội dung chi tiết, có khi trái luật là công cụ chủ yếu điều chỉnh hành vi của công dân. T́nh trạng đó đă được phát hiện từ nhiều năm nay, nhưng vẫn không được sửa đổi.

Tôi cho rằng, không nên kéo dài hơn nữa, bởi đây không phải chỉ là vấn đề quy tŕnh xây dựng pháp luật, mà đụng đến vấn đề cốt lơi của nhà nước pháp quyền: phân biệt giữa chức năng lập pháp của Quốc hội , chức năng hành pháp của Chính phủ và chức năng tư pháp của Ṭa án. Mọi chuyện cần phải được khởi đầu và để Quốc hội  thực hiện trọn vẹn chức năng lập pháp th́ trong chương tŕnh xây dựng luật năm nay cần chọn một hoặc hai dự án Luật, tiến hành xây dựng đủ chi tiết đến mức nghị định của Chính phủ để hướng dẫn cho công chức nhà nước trách nhiệm và quyền lực của họ trong việc thực thi luật. Tốt nhất là không c̣n thông tư của các bộ. Tôi cho rằng, hiện đă đủ điều kiện về chuyên gia am hiểu từng lĩnh vực phối hợp với chuyên gia luật pháp để giúp Quốc hội  thực hiện.

 

Hai là, cần đổi mới không chỉ cấu trúc hiện hành của Quốc hội , như tăng số đại biểu chuyên trách, nâng cao chất lượng hoạt động…, mà cần suy nghĩ rộng hơn để làm cho Quốc hội  thực sự trở thành cơ quan quyền lực cao nhất, đại biểu được ư chí và nguyện vọng của người dân. Quốc hội như bất kỳ tổ chức nào cũng được cấu trúc bởi các cá nhân, mà mỗi người đều có lợi ích riêng. Nếu một bộ trưởng , một chủ tịch tỉnh, hai người đứng đầu hai nấc thang trong hành pháp là đại biểu Quốc hội, th́ không những thiếu thời gian thực hiện nghĩa vụ đối với cử tri đă bầu ra họ, mà nhược điểm chính là v́ họ đại diện cho lợi ích của bộ máy hành pháp, nên không thể làm đúng chức năng là đại diện của cử tri. Cần xem đây là nhược điểm lớn nhất trong cấu trúc của Quốc hội hiện nay, mà việc khắc phục nó có lẽ phụ thuộc chủ yếu ở quan điểm, nhận thức của các nhà lănh đạo cấp cao về sự lănh đạo của Đảng, về tạo điều kiện để các tổ chức lập pháp, hành pháp, tư pháp hoạt động phối hợp, nhưng có tính độc lập và giám sát lẫn nhau. Nếu đạt được sự thống nhất về quan điểm, th́ trong kỳ bầu Quốc hội  2007 cần khắc phục về cơ bản nhược điểm đó.

 

Ba là, Quốc hội  thực hiện chức năng giám sát thực hiện luật pháp, vậy ai giám sát Quốc hội (?). Tôi cho rằng, chúng ta vẫn phải tiếp tục suy nghĩ về vấn đề này bằng cách nghiên cứu cấu trúc các cơ quan quyền lực của các nước. Tại sao người ta thực hiện chế độ lưỡng viện, thượng viện và hạ viện (?). Một lư do chủ yếu là để phân chia quyền lực và để giám sát lẫn nhau, do vậy không có t́nh trạng tập trung quyền lực vào một tổ chức, sẽ sinh ra t́nh trạng lạm quyền. Tại sao có nhiều nước lập Ṭa án hiến pháp độc lập với cả Quốc hội , Tổng thống và Chính phủ (?). Tại sao Thủ tướng Nhật Bản và Thủ tướng Thái Lan vừa qua đă sử dụng quyền giải tán Quốc hội (?). Rơ ràng là, ở các nước ấy, không có một người nào, kể cả người đứng đầu nhà nước và người đại diện cho cử tri lại không chịu sự giám sát của người khác.

Cơ chế nào cũng có nhược điểm, nhưng cái chung nhất là phải chịu sự giám sát, có như vậy mới giảm thiểu t́nh trạng lạm dụng quyền lực. Tôi nghĩ rằng, chúng ta hay nói đến các đại biểu Quốc hội chịu sự giám sát của cử tri là để mà nói, trên thực tế, hàng vạn cử tri bầu ra mỗi đại biểu Quốc hội , chỉ biết tên  người đó lúc đi bầu, làm sao có thể giám sát được các hành vi của họ; c̣n thông qua Mặt trận Tổ quốc cũng chỉ để có  một tổ chức của quần chúng mà thôi, Mặt trận làm ǵ có điều kiện để thực hiện việc đó. Do vậy, cần nghiên cứu kinh nghiệm của nhiều nước để chắt lọc những ǵ thích hợp với nước ta, nhằm t́m được cấu trúc thích hợp của Nhà nước.

Hy vọng Đại hội Đảng lần này sẽ đánh dấu một bước tiến mới trên con đường hoàn thiện thể chế chính trị của đất nước.

----- O -----

 

BÀN  VỀ  DÂN  CHỦ

TS. Nguyễn Thanh Giang

 

TÓM LƯỢC NỘI DUNG : Dân chủ trở thành lư tưởng của nhân loại v́ nó là một học thuyết nhân danh con người và phụng sự con người. Dân chủ và phát triển vừa là nhân, vừa là quả của nhau, nương tựa nhau, bồi bổ cho nhau đưa lịch sử tiến tới.

 

Sở dĩ Tây Đức phát triển hơn Đông Đức, Đài Loan và Hồng Kông  giầu có hơn Trung Quốc, Nam Hàn phồn vinh hơn Bắc Triều Tiên v́ Tây Đức, Nam Hàn, Đài Loan, Hồng Kông đều dân chủ hơn Trung Quốc, Đông Đức, Bắc Triều Tiên.

 

Chẳng những dân chủ không gây mất ổn định mà thiếu dân chủ th́ không thể phát triển bền vững. Lịch sử Trung Quốc cho thấy, nhà Tần chỉ tồn tại 14 năm, trong khi nhà Hán 426 năm, nhà Đường 289 năm … Liên bang cộng hoà xă hội chủ nghĩa xô viết Nga chỉ tồn tại 72 năm trong khi Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ bền vững đă hơn 200 năm.

 

Chỉ có dân chủ mới mở đường và bảo đảm cho phát triển lành mạnh. Sau khi dổi mới, kinh tế Việt Nam tiến vọt hẳn lên so với những năm u ám trước đó để đạt tốc độ tăng trưởng vào loại cao nhất thế giới. Nhưng, xét trong tổng thể, không thể nói Việt Nam đang phát triển lành mạnh. Việt Nam hiện là một trong những nước tham nhũng nhất thế giới ( xếp hạng 94/143 nước ), Việt Nam hiện vẫn c̣n được xếp hạng kém nhất thế giới về chỉ số phát triển con người ( xếp hạng 112/177 nước ), Việt Nam hiện là một trong những nước có chỉ số tự do báo chí tồi tệ nhất thế giới ( xếp hạng 135/143 nước ) …

 

Nước ta có truyền thống dân chủ tự ngàn xưa. Các h́nh thái dân chủ, các sinh hoạt dân chủ đă xuất hiện trong lịch sử nước ta c̣n sớm hơn cả ở rất nhiều nước Phương Tây. Tư tưởng dân chủ, tinh thần thượng tôn pháp luật đă nẩy nở khá sớm và phát triển ngày một cao từ cổ đại, qua thời Bắc thuộc đến thời Pháp thuộc. Tiếc rằng, tất cả đă chựng lại sau Cách mạng Tháng Tám và ngày càng suy thoái trong chế độ Cộng hoà Xă hội Chủ nghiă Việt Nam.

 

Đấu tranh v́ sự nghiệp đẩy mạnh công cuộc dân chủ hóa đất nước tất gian khó, thậm chí phải hy sinh nhưng đấy là nghĩa vụ không thể thoái thác đối với tổ quốc, với nhân dân. Chúng ta đă từng xả thân v́ cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cuộc cách mạng dân chủ này c̣n thiêng liêng, cao cả hơn. Nụ cười rạng rỡ của tổ quốc Việt Nam dưới ánh ngời dân chủ sẽ là vinh quang, là phần thưởng vô giá cho tất cả những ai đang vững bước tiến lên trong ngọn trào dân chủ.

 

*

Nước Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam được cương lĩnh của đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định xây dựng tại đây một thiết chế dân chủ xă hội chủ nghĩa triệu lần dân chủ hơn dân chủ tư sản.

 

Nhưng, Phạm Hồng Sơn vào tù v́ dịch và phổ biến tài liệu “ Thế nào là Dân chủ ” của Hoa Kỳ, Nguyễn Vũ B́nh vào tù v́ đệ đơn xin thành lập đảng Tự do - Dân chủ, Nguyễn Khắc Toàn vào tù v́ giúp bà con đưa đơn thỉnh nguyện lên cấp trên, Lê Chí Quang vào tù v́ dám sử dụng quyền tự do thông tin ở cửa hàng internet   …

 

Dự thảo báo cáo chính trị đại hội X của ĐCSVN quy định nội dung thiết chế dân chủ xă hội chủ nghĩa ở Việt Nam gồm :

 

         “ -  Lấy việc xây dựng một bộ máy, một đội ngũ cán bộ, công chức thật sự của nhân dân, do nhân dân và v́ nhân dân làm tiền đề để phát huy dân chủ XHCN. Mọi chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều thể hiện ư chí, lợi ích chính đáng của nhân dân.

         Trong điều kiện cơ cấu giai cấp-xă hội đang có sự thay đổi sâu sắc, cần có các tổ chức thích hợp để thu hút và tạo điều kiện cho mọi người, mọi tầng lớp nhân dân tham gia các công việc chung của Đảng, Nhà nước và xă hội.

         Xây dựng và hoàn thiện các cơ chế nhằm tổ chức, thu hút và tạo điều kiện để nhân dân thụ hưởng, thực hiện các quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xă hội … trong trật tự, kỷ cương và bằng pháp luật, đề cao trách nhiệm pháp lư giữa Nhà nước với công dân và công dân với Nhà nước.

         Thực hiện dân chủ hoá sinh họat và phong cách lănh đạo ngay trong Đảng và trở thành tấm gương thực hiện dân chủ cho toàn xă hội ”

 

Từ điển Triết học của Liên Xô do nhà xuất bản Tiến bộ tại Moskva năm 1975 th́ quan niệm: “Dân chủ là một trong những h́nh thức chính quyền mà điều đặc trưng là việc tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số và thừa nhận quyền tự do và b́nh đẳng của công dân … Trên thực tế, bất cứ nền dân chủ nào với tính cách là một h́nh thức tổ chức chính trị của xă hội, xét đến cùng, đều do các quan hệ sản xuất trong một xă hội nhất định quyết định … Trong những h́nh thái giai cấp đối kháng, nền dân chủ chỉ tồn tại một cách thực tế đối với những đại diện của giai cấp thống trị ” 

 

Trong khi đó, tài liệu “ Thế nào là dân chủ ” của Mỹ lại ghi nhận rằng hiện thực dân chủ “phụ thuộc vào sự quyết tâm cống hiến và sự khôn ngoan tập thể của chính bản thân người dân chứ không phải dựa trên bất kỳ quy luật nào của lịch sử và chắc chắn cũng không dựa trên ḷng nhân từ được mong mỏi từ các nhà lănh đạo độc đoán.

 

         Khác với một số nhận thức, một xă hội dân chủ lành mạnh không chỉ đơn giản là một đấu trường cho các cá nhân theo đuổi các mục đích của cá nhân họ. Dân chủ chỉ được thực hiện khi dân chủ là mong muốn của các công dân có quyết tâm sử dụng quyền tự do mà họ vất vả mới giành được để tham gia vào đời sống của xă hội – góp tiếng nói của họ vào các tranh luận tập thể, bầu ra các vị đại diện có trách nhiệm đối với các hành động của họ và chấp nhận đ̣i hỏi sự dung hoà và thoả hiệp trong đời sống công cộng …  ”.

 

Th́ ra, hoạt động dân chủ tuy đă được khởi nguyên từ Athens cổ đại nhưng cho đến nay những ư niệm về dân chủ vẫn c̣n khác biệt nhau nhiều lắm. Những khác biệt đó đă và sẽ c̣n tồn tại trong thời gian, giữa các xă hội khác nhau, với những ước muốn của các cá thể khác nhau. Cho nên t́m hiểu về dân chủ, phát biểu về dân chủ, bàn luận về dân chủ là chuyện không bao giờ dứt và không chỉ là nhiệm vụ của các học giả uyên thâm.

 

  I -  Những ư niệm về dân chủ -

 

  1 -  Một cách thông thường và đơn giản, người ta thường hiểu dân chủ theo định nghĩa của J.J. Rudent : “ dân chủ là quyền lực của nhân dân”. Định nghĩa này xuất phát từ các từ nguyên cổ Hy Lạp : Démos là nhân dân, Krátos là sức mạnh, là quyền lực.

 

Định nghĩa này quá sơ giản và ngày càng trở nên khiếm khuyết so với yêu cầu của xă hội hiên đại.Trước hết v́ nó chỉ tập trú dân chủ vào vấn đề quyền lực, quyền lực áp đảo, quyền lực khống chế, quyền lực cai trị, dù là quyền lực đó được gọi là của nhân dân.V́ từ nhân dân không đơn nghĩa nên rất dễ và đă từng bị lợi dụng quy cho một số đông, một tầng lớp, một thành phần xă hội nào đó … Dẫn chứng nghịch cảnh dễ thấy nhất khi ta được nghe tô vẽ rằng  chuyên chính vô sản mang bản chất dân chủ tuyệt vời ! Nhà tư tưỏng cổ đại Plato cũng từng định nghĩa “ Dân chủ đến sau khi những người nghèo lật đổ những người giầu, tàn sát một số và giữ lại một số khác. Đó là chính quyền của người nghèo ”

 

Quyền lực phải được quy định bởi ba yếu tố : quyền lực của ai, thuộc về ai, xuất phát từ ai ?, quyền lực do ai kiểm soát ? và quyền lực được sử dụng cho ai, v́ ai ? Do không được ràng buộc chặt chẽ bởi ba yếu tố trên nên Plato đă phán xét được rằng démocratie ở Athens là “Thế lực tự phát của thói hèn hạ vô chính phủ ”. Plato và Aristotle th́ phân biệt dân chủ có luật pháp và dân chủ không bị luật pháp hạn chế.

 

Dân chủ không chỉ chứa đựng những nội hàm chính trị, mà c̣n xă hội nữa. Định nghĩa trên không bao hàm được những thành tố xă hội phi chính quyền như giữa người với người, giữa các thành viên trong gia đ́nh ( vợ chồng, cha con, ông cháu … ), trong học đường ( thầy, tṛ … ), giữa các sắc dân, giữa các tín ngưỡng …

 

Trong xă hội thông tin như ngày nay dân chủ không chỉ nhằm điều tiết những quan hệ trên dưới, giữa cai trị và bị trị, không chỉ có quan hệ phụ thuộc mà c̣n có quan hệ hoà hợp, quan hệ dưới lên, quan hệ phổ biến toàn xă hội …Người quản lư cũng như người bị quản lư, người chủ cũng như người trực tiếp sản xuất … đều phải được thông tin để bảo đảm cho xă hội hoạt động b́nh thường và cho sản xuất phát triển.

 

Ư niệm dân chủ này đă được quán triệt và thực hiện từ công xă Paris với dân chủ trực tiếp, không phân quyền, chủ yếu sử dụng các biện pháp trấn áp. Công xă Paris về sau được xem là tiền đề của dân chủ vô sản và được các nước XHCN coi là một “ h́nh thức nhà nước ” mẫu mực.

 

  2 -  Theo B. Curasvili th́ dân chủ là phương thức tổ chức những tác động qua lại về mặt xă hội sao cho giải thoát khỏi chuyên quyền. Đặc trưng phương thức tổ chức dân chủ của ông là sự b́nh đẳng của các bên, hoặc là ưu thế của những người bị quản lư so với những người quản lư.

 

Ư niệm này gắn được dân chủ với b́nh đẳng theo hàm nghĩa rộng gồm cả các quan hệ từ trên xuống dưới, quan hệ từ dưới lên trên, giữa quản lư với bị quản lư và quan hệ ngang. Mặc dầu vậy, ư niệm này vẫn chưa vươn tới được những quan hệ xă hội đời thường. Nó cũng chỉ chú ư được đến vấn đề b́nh đẳng mà chưa quán xuyến được lĩnh vực tự do. Ngày nay, ư niệm này c̣n tỏ ra khiếm khuyết ở chỗ không bao hàm được đời sống dân chủ trong xă hội thông tin. Trong xă hội thông tin, nhu cầu thông tin theo chiều ngang nhằm bảo đảm hiệu quả kinh tế nhiều khi c̣n bức xúc hơn cả những lư lẽ của dân chủ chính trị. Dân chủ về kinh tế trong xă hội thông tin nhằm đáp ứng vấn đề vai tṛ của người sản xuất ngày nay ngày càng phụ thuộc vào khối lượng thông tin mà họ nắm được. Trong sản xuất ngày nay, sự thông thạo chuyên môn c̣n phải bao gồm cả kinh nghiệm tiếp xúc cá nhân với quần chúng và khả năng đối thoại với dư luận xă hội … Tại các xí nghiệp Nhật Bản có biểu hiện sự lắng nghe ư kiến của người sản xuất rất rơ và trả tiền cao cho những ư kiến hay. Đấy cũng là hệ quả của dân chủ. 

 

  3 -  Claude Polin định nghĩa : “ Dân chủ là một từ ngữ để chỉ vừa là lư tưởng của việc nhân dân tự cai trị lấy ḿnh và cũng là để chỉ những thể chế có thật hay là phải có để bảo đảm những điều trên ” .

 

Định nghĩa này đă phân biệt được giữa cái lư tưởng và cái thực tiễn, cái hiển nhiên và cái cần phấn đấu của dân chủ. Tuy nhiên ở đây vẫn chỉ bao hàm chủ yếu lĩnh vực chính trị.

 

  4 -  Theo S. Alesiev, “ Dân chủ ngày nay là một h́nh thái của tự do cá nhân, đồng thời là phương thức quản lư xă hội, và cũng là chỉ số phản ánh tŕnh độ hoạt động xă hội của dư luận”.

 

Trong quan điểm này, lần đầu tiên vấn đề cá nhân được đề cập cho nội hàm dân chủ. Có cá nhân đ̣i dân chủ th́ mới có xă hội dân chủ. Có cá nhân dân chủ với bản thân ḿnh th́ xă hội mới buộc phải thực hiện dân chủ. Alesiev cũng rất quan tâm đến dư luận xă hội. Thái độ quần chúng và năng lượng tác động của họ vào đời sống chính trị xă hội thể hiện qua dư luận xă hội. Thông qua dư luận xă hội mà trạng thái dân chủ được bộc lộ ra một cách chân thực.

 

  5 -  Theo tài liệu “ Thế nào là dân chủ ” do bác sỹ Phạm Hồng Sơn lấy từ trang web của Đại sứ quán Hoa Kỳ và đă dịch ra tiếng Việt th́ các cột trụ cơ bản của một nền dân chủ gồm :

 

Quyền tối cao của nhân dân

Chính phủ thành lập dựa trên sự nhất trí của người dân

Nguyên tắc đa số

Các quyền thiểu số

Đảm bảo các quyền cơ bản của con người

Bầu cử tự do và công bằng

B́nh đẳng trước pháp luật

Thực hiện đúng luật

Hiến pháp đặt ra và giới hạn quyền lực đối với chính phủ

Đa nguyên về chính trị, kinh tế và xă hội

Thúc đẩy các giá trị của dung hoà, thực dụng, hợp tác và thoả hiệp.

 

Trong đó :

 

  a – Chính phủ dân chủ là “ chính phủ được thành lập bởi nhân dân trong đó quyền lực tối cao được trao cho nhân dân và được thực hiện bởi nhân dân hoặc bởi các đại diện được bầu ra từ một hệ thống bầu cử tự do ”. Theo Abraham Lincoln , dân chủ là một chính phủ “ của dân, do dân và v́ dân ”.

 

  b -  Về nguyên tắc đa số và các quyền thiểu số - Các thể chế dân chủ là các hệ thống trong đó mọi công dân được tự do đưa ra các quyết định chính trị theo nguyên tắc đa số. Nguyên tắc đa số phải được ràng buộc với sự bảo đảm các quyền con người của cá nhân, các quyền này, đổi lại, lại đóng vai tṛ bảo vệ quyền lợi cho bên thiểu số, dù đó là dân tộc ít người, nhóm tôn giáo hay chính trị hoặc chỉ đơn giản là những người thua cuộc trong tranh luận về một vấn đề lập pháp nào đó. Các quyền của thiểu số không phụ thuộc vào ư nguyện của bên đa số và cũng không thể bị loại bỏ hoàn toàn bởi biểu quyết của đa số.  

 

  c -  Trong một thể chế dân chủ, chính phủ chỉ là một thành phần cùng tồn tại trong một kết cấu xă hội bao gồm rất nhiều các định chế khác nhau, các đảng chính trị, các tổ chức và các hiệp hội. Tính chất đa dạng này được gọi là đa nguyên và thể chế dân chủ đó quy định sự tồn tại, tính pháp lư hay quyền lực của các tổ chức và các định chế khác nhau trong một xă hội dân chủ không phụ thuộc vào chính phủ.  Xă hội dân chủ luôn có hàng ngàn các tổ chức tư nhân hoạt đông ở phạm vi địa phương hay toàn quốc. Rất nhiều các tổ chức đó đóng vai tṛ trung gian giữa các cá nhân và các định chế của chính phủ hay các tổ chức xă hội liên hiệp khác mà họ là một thành phần.

 

  6 -  Theo Hồ Chí Minh th́ “ Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều v́ dân, bao nhiêu quyền hạn đều v́ dân, của dân. Đầu tiên là v́ dân, rồi đến của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân, sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xă đến chính quyền trung ương là do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xă là do dân tổ chức nên. Như vậy là của dân, do dân, v́ dân. Nói tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân ”.


Ư niệm dân chủ này đă bao hàm được nội dung cơ bản là nhà nước của dân, do dân, v́ dân như tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln đă đề xuất từ năm 1776. Điều đặc biệt là Hồ Chí Minh đă đưa tiêu chí v́ dân lên đầu, trong khi A. Lincoln xếp ở cuối. Dẫu sao, ở đây c̣n thấy một thiếu sót cơ bản là chưa xác định được chính quyền này phải do cái ǵ, do cơ quan nào kiểm tra, kiểm soát ?

 

  II -  Dân chủ với tự do –

 

Dân chủ trở thành lư tưởng của nhân loại v́ nó là một học thuyết nhân danh con người và phụng sự con người. Nó bảo đảm tính hợp lư, hợp quy luật, hợp lẽ phải ( chân ); hợp nhân tính ( thiện ); hợp với khát vọng về sự hài hoà và những t́nh cảm cao thượng của con người ( mỹ ). Những giá trị căn bản phổ biến được dân chủ bao gồm là : quyền tự do cá nhân, quyền b́nh đẳng về điều kiện hay b́nh đẳng về cơ hội phát triển cho mỗi cá nhân trong xă hội, sự thống nhất trong tính đa dạng ( hoà đồng, hoà điệu, chấp nhận lẫn nhau, khoan dung và bảo tồn tính đặc thù ) của các cá thể trong mỗi cộng dồng với nhau trong một quốc gia dân tộc, rộng hơn nữa là giữa các nền văn hoá, văn minh trên trái đất.

 

Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1789 từng viết : “ Người ta sinh ra tự do và b́nh đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và b́nh đẳng về quyền lợi”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đă trích nguyên văn câu này vào Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam năm 1945. Người c̣n nhấn mạnh thêm “Đó là những lẽ phải không ai chối căi được.”. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Marx và Engels cũng đă viết : “ Thay cho xă hội tư sản, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người ”.Trong Chống Duhring, F.Engels c̣n khẳng định : “ Xă hội không thể nào giải phóng cho ḿnh được nếu không giải phóng cho mỗi cá nhân riêng biệt ”.

 

J.J.Rousseau đă nói đến tự do cá nhân trong “ Khế ước xă hội ” : “ Tự do là từ bản chất con người mà có. Luật đầu tiên của tự do là mỗi người phải được chăm lo cho sự tồn tại của ḿnh. Những điều quan tâm đầu tiên là quan tâm đến bản thân. Ở tuổi lư trí, con người phải tự định đoạt các phương tiện sinh tồn của ḿnh và do vậy, tự ḿnh làm chủ lấy ḿnh ”, “ Từ bỏ tự do của ḿnh là từ bỏ phẩm chất con người và cả nghĩa vụ làm người ”.

 

Trong buổi b́nh minh của lịch sử nhân loại, trước sự hoang dă của thế giới tự nhiên, con người không thể tồn tại bên ngoài cộng đồng huyết tộc.Cái cá nhân hoà tan tuỵệt đối trong cái cộng đồng. Sức mạnh cá nhân nằm trong sức mạnh cộng đồng. Sức mạnh cộng đồng là tổ hợp đơn giản của sức mạnh các cá nhân. Trong cộng đồng thị tộc, mặc dù khái niệm nhân dân chưa xuất hiện nhưng họ là tất cả các thành viên cộng đồng sống tự do, b́nh đẳng, không ai tách khỏi cộng đồng đ̣i hỏi một quyền ưu tiên nào cả. L. Morgan, nhà nhân chủng học Mỹ thế kỷ XIX nhận xét : “ Trong xă hội cộng đồng nguyên thuỷ toàn thể các thành viên trong xă hội thị tộc đều là những người tự do. Họ đều có quyền cá nhân như nhau, cả tù trưởng lẫn thủ lĩnh quân sự đều không đ̣i hỏi quyền ưu tiên nào cả. Họ kết thành một tập thể thân ái, gắn bó với nhau bởi quan hệ ḍng máu. Tự do, b́nh đẳng, bác ái tuy chưa bao giờ được nêu thành công thức nhưng vẫn là nguyên tắc của thị tộc ”

 

Theo thuyết Sáng thế, con người là h́nh ảnh của Thiên chúa, nên tự do cũng là món quà mà Thiên chúa ban cho con người, tự do tinh thần được coi trọng hơn tự do thân xác. Thậm chí, ngay cả khi con người bị biến thành nô lệ th́ sự nô lệ thân xác vẫn không ngăn cản được ư chí tự do.

 

Những năm 20 của thế kỷ XIX đă xuất hiện cách giải thích tự do theo ư chí luận mà đại diện tiêu biểu là A.Schopenhauer. Ông cho rằng, ư chí là bản nguyên sống cố hữu của con người, ư chí sinh tồn hiện hữu khắp nơi và trở thành ư chí vũ trụ. Thế giới là ư chí biểu tượng của Tôi. Tôi cảm nhận thế giới qua lăng kính ư chí và biểu tượng của Tôi, bởi lẽ thế giới hiện ra không như nó vốn là như vậy, mà qua sự biểu tượng của Tôi. Ư chí của Tôi áp đặt cho thế giới đó một ư nghĩa chủ quan; ư chí tự do và sáng tạo dẫu sao cũng là mù quáng. A. Schopenhauer c̣n cho rằng tự do ư chí sẽ không c̣n ư nghĩa nếu khả năng của con người bị giới hạn theo những khuôn mẫu của lư trí. Chân lư duy nhất không dành chỗ cho sự tự do lựa chọn. Độc quyền, nhất nguyên, sự thiếu vắng tự do lựa chọn tự chúng đă mâu thuẫn với bản chất con người.

 

J.P. Sartre th́ đề cập đến sự tự do lựa chọn thái độ sống của mỗi cá nhân. Ông viết : “ Con người là một dự phóng, sống bằng cuộc sống riêng của ḿnh, thay v́ là một đám rêu xanh mốc meo, hoặc một bắp cải ôi ” .

 

Thực ra, tự do cá nhân có chiều cạnh triết học của nó. Chiều cạnh triết học ấy được thể hiện trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cái tự do mang tính bản năng với cái tất yếu mang tính xă hội. Triết học luôn cố gắng t́m ṭi tính đặc thù của con người so với giới tự nhiên c̣n lại. Tính đặc thù ấy biểu hiện ở chỗ con người có ư thức, có ư chí tức là nó có tự do, nhưng mặt khác, con người cũng là một bộ phận của giới tự nhiên cho nên nó phải phục tùng những quy luật của giới tự nhiên, trong đó có quy luật nhân quả - quan hệ nhân quả với tư cách quan hệ phổ biến. Chính từ đó đă nẩy sinh một vấn đề quan trọng và nan giải đối với triết học, đó là vấn đề mối tương quan giữa tính chế định nhân quả của ư thức với tự do ư chí. Trong lịch sử triết học, vấn đề này c̣n được đặt ra và giải quyết như là vấn đề quan hệ giữa tất yếu và tự do ư chí của con người.

 

Trong khi giải quyết mối quan hệ giữa tất yếu và tự do ư chí ở con người, việc nhấn mạnh hoặc tất yếu hoặc tự do đă đưa tới hai quan điểm đối lập : định mệnh luận và duy ư chí luận.

 

Các nhà triết học theo quan điểm quyết định luận máy móc khẳng định sự tồn tại của tính chế định nhân quả và coi đó là định mệnh đối với mọi hành động, mọi hành vi của con người, kể cả lối ứng xử có ư chí ở họ. Hoạt động tự do, tích cực của con người là cái không thể có. Mọi hoạt động của con người đều là tất yếu. Không những lối ứng xử của một cá nhân riêng biệt, mà toàn bộ tiến tŕnh phát triển của lịch sử đều được định trước. Con người chỉ là một sinh thể phục tùng một cách thụ động, mù quáng các quy luật của tự nhiên và của xă hội, ư chí của họ không thể để lại dấu ấn ở các sự kiện lịch sử.

 

Duy ư chí luận giữ một lập trường đối lập hoàn toàn với định mệnh luận. Các nhà triết học theo quan điểm vô định luận cho rằng tự do là tuyệt đối và được thể hiện ra thông qua quyền tự do mong muốn, quyền tự do có động cơ ứng xử; rằng thông qua tự do ư chí, quyền tự do hành động của con người dường như sinh ra từ tự ư thức, từ sự quan sát hàng ngày về người khác và từ tự quan sát của con người.

 

Khát vọng tự do là cơ sở bùng nổ sáng tạo trong cuộc sống mà cuộc sống là sự thực hiện những khát vọng và bùng nổ sáng tạo ấy. Tuy nhiên, chính cuộc sống lại đặt ra các nhu cầu, những giới hạn, những tính quy định cho hoạt động con người mà thiếu chúng, con người sẽ rơi vào t́nh trạng hỗn loạn, vô chính phủ, không thể kiểm soát được. Ở đây nẩy sinh mâu thuẫn, xung đột và đấu tranh giữa người với người, thúc đẩy sự giằng co giữa cái xă hội và cái phi xă hội trong con người.   

 

Tư tưởng dân chủ phân biệt rơ ràng giữa tự do của cá nhân ( con người xă hội ) và tự do bản năng hay thú tính. Tự do mang tính người phải là tự do nhuốm mầu sắc lư tính. Theo Kant, nó phải tồn tại trước hết dưới dạng tự do ư chí, tức là quyền của cá nhân được khẳng định ư chí của ḿnh. Quyền đó chỉ bị hạn chế bởi quyền tự do tương tự của những người khác, v́ những người khác cũng có quyền năng như vậy.

 

Hegel cho rằng tự do ư chí của cá thể không thể thoát ly khỏi tiến tŕnh chung của sự phát triển xă hội. Trong “ Những bài giảng về triết học của lịch sử ” Hegel đă quan niệm tiến tŕnh này là quá tŕnh lột xác và khai nở của ư niệm tự do qua các giai đoạn : 1- Thời kỳ mông muội : không một ai tự do. Thời kỳ xuất hiện xă hội có nhà nước ( nô lệ và phong kiến ) : một người   ( phương Đông ), hoặc một nhóm người ( phương Tây ) tự do. 3 - Thời kỳ hiện đại ( xă hội tư sản của Châu Âu thuở ấy ) : một số cộng đồng văn minh tự do. 4 – Tương lai : toàn thể nhân loại sẽ đi đến trạng thái tự do hoàn toàn, khi sự chuyển hoá và thâm nhập vào nhau tới độ đồng nhất giữa tự do ư chí và tất yếu của xă hội, được hoàn tất trong ư niệm tuyệt đối.

 

Giới hạn của tự do hành động bởi cả bản tính tự nhiên của con người lẫn của thế giới, tạo nên một không gian sinh tồn mang tính xă hội cho con người, hay không gian của tự do. Tự do chân chính chỉ có ư nghĩa với điều kiện là mỗi người thừa nhận những giới hạn của không gian này, cũng như tính tương hỗ hay chế ước nhau của quyền lợi và nghĩa vụ.

 

Marx và Engels đồng ư với quan niệm của Hegel : tự do là sự nhận thức được tất yếu. Tất yếu nẩy sinh từ bản chất bên trong của các sự vật, hiện tượng và nói lên tính quy luật, trật tự, kết cấu của chúng. Tất yếu tồn tại trong tự nhiên và xă hội dưới h́nh thức các quy luât khách quan. Tuy nhiên, Marx và Engels đă đi xa hơn khi cho rằng tự do không chỉ là nhận thức được tính tất yếu mà c̣n là hành động dựa trên sự nhận thức đó, nghĩa là vận dụng nó vào hoạt động thực tiễn của con người. Trong “ Chống Duhring ” Engels viết : “ Tự do không phải là ở sự độc lập tưởng tượng đối với các quy luật tự nhiên mà là ở sự nhận thức được những quy luật đó và cái khả năng – có được nhờ sự nhận thức này - buộc những quy luật đó tác động một cách có kế hoạch nhằm những mục đích nhất định ”, “ Tự do là ở sự chi phối được chính bản thân và tự nhiên bên ngoài, một sự chi phối dựa trên sự nhận thức được những tất yếu của tự nhiên  ”

 

Marx và Engels cho rằng sự hoàn thiện nhất của lịch sử là ở chỗ con người được giải phóng khỏi thân phận nô lệ, trở thành người tự do, được phát triển tự do mọi khả năng lao động sáng tạo của ḿnh, kết hợp được một cách hài hoà sự phát triển tự do của mỗi cá nhân với sự phát triển tự do của cả cộng đồng.

 

Tự do mà chúng ta hướng tới và đang đạt tới là sự tự do của những cá nhân. Không tồn tại một tự do nào khác ngoài tự do của con người. Nhưng nếu các cá nhân muốn nhận được toàn bộ hay thậm chí là một phần tự do có thể là tự do của họ th́ cần phải hiểu là tự do của mỗi cá nhân phụ thuộc vào  những ǵ tất cả mọi cá nhân cùng nhau hợp nhất thành xă hội đă làm được và sẽ làm được. Nó phụ thuộc vào khả năng hoạt động và sự lựa chọn hoạt động mà cá nhân sử dụng. Đến lượt ḿnh, các khả năng và sự lựa chọn có ở mỗi cá nhân lại phụ thuộc vào các phương tiện nào để hoạt động và để đáp ứng nguyện vọng được tạo ra trong xă hội mà cá nhân thuộc về, cũng như phụ thuộc vào việc các thành viên khác của xă hội có cho phép hay không cho phép cá nhân đó làm.

 

Động viên tinh thần của nền dân chủ, bổ sung nó về mặt đạo dức, dựa vào trách nhiệm của cá nhân và sự tôn trọng của mỗi người đối với quyền và lợi ích của người khác – đó là những điều kiện cần thiết để làm lành mạnh hoá xă hội, sử dụng một cách văn minh các quyền và tự do.

 

Engels đă chỉ ra mối quan hệ không tách rời giữa tự do và trách nhiệm : “ Con người chịu hoàn toàn trách nhiệm về hành vi vi phạm của ḿnh, nếu khi thực hiện nó con người có tự do ư chí một cách đầy đủ ”.

 

Quan niệm cận hiện đại về tự do luôn gắn kết với sự h́nh thành và khẳng định tư tưởng về con người cá nhân, về xă hội công dân và nhà nước pháp quyền. Tổng thống Pháp F. Mitterrand nói : “ Không có thứ dân chủ không cần đến nhà nước … Nhà nước cấp tiền để thực hiện những quyết định dân chủ dưới dạng các bộ luật hoặc các văn bản dưới luật; nó bảo đảm việc duy tŕ pháp luật - nỗ lực phải có để thực hiện dân chủ, nó bảo vệ và bảo đảm sức sống của các quyền tự do của nhân dân ”.

 

Montesquieu từng nói : “ Tự do là quyền làm cái mà luật pháp cho phép. Gíá như công dân có thể làm cái mà luật pháp này ngăn cấm th́ hẳn là họ sẽ mất tự do v́ những công dân khác cũng có thể làm được điều giống hệt như thế ”. Trước đó J. Locke cũng đă phát biểu : “ Mặc dù những lời lư giải có thể giả dối đến đâu, mục đích của luật vẫn là không thủ tiêu và hạn chế mà là bảo toàn và mở rộng tự do….nơi nào không có luật, nơi đó cũng không có tự do”.

 

Tuy nhiên, môi trường để cho cá nhân công dân thực hiện được đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của ḿnh trong quan hệ pháp luật với nhà nước là dân chủ.

 

Nhà nước dân chủ pháp trị coi nhiệm vụ của ḿnh, sứ mạng của ḿnh là bảo đảm tất cả các quyền tự do cho mỗi công dân cụ thể; không cho phép ḿnh phục tùng bất cứ chuẩn mực nào đứng trên hiến pháp, dù là nhà vua hay đảng.

 

Tuyên ngôn của đảng Cộng sản từng dơng dạc tuyên bố : “ Giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ ”.

 

Chẳng nhẽ dân chủ là sự thống trị của giai cấp vô sản ? !

 

Tiếc thay, tư tưởng của Tuyên ngôn này cũng đă được thể hiện rơ ràng trong giải thích của từ điển Triết học Liên Xô: “ … nền dân chủ chỉ tồn tại một cách thực tế đối với những đại diện của giai cấp thống trị ”.

 

Thực ra, trong học thuyết dân chủ, vấn đề chính trị quan trọng không phải là vấn đề ai cầm quyền, mà là cách thức giám sát việc sử dụng nó. V́ không nhà cầm quyền nào không thể bị quyền lực mê hoặc nên vấn đề chính trị cơ bản không phải là ở chỗ giao quyền lực cho ai, mà thực ra là ở cách thức giám sát hữu hiệu nhất đối với quyền lực thông qua các thiết chế chính trị.

 

Ưu việt v́ dân nhất của chế độ dân chủ là ở chỗ nó bảo đảm khả năng thiết lập sự giám sát đối với hoạt động của những người cầm quyền hay là của những cá nhân có chức quyền. Nó cũng đồng thời cho phép, trong trường hợp cần thiết, phế truất những người cầm quyền mà không sử dụng bạo lực.

 

Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776 đă công bố rơ rầng : “ Khi một h́nh thức chính phủ nào đó trở nên đối nghịch với các mục đích trên ( bảo đảm quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân ) th́ nhân dân có quyền thay đổi hay phế bỏ chính phủ đó, và thiết lập một chính phủ mới, dựa trên nền tảng những nguyên tắc như vậy và tổ chức các quyền lực của ḿnh theo h́nh thức nào để cho các quyền lực đó có khả năng bảo đảm an ninh và hạnh phúc cho họ nhiều nhất ”

 

Nhà xă hội học- Triết học người Áo hiện đại K. Popper phát biểu như sau : “Tôi hiểu dân chủ không là một cái ǵ đó không xác định, giống như “ quyền lực của nhân dân ” hay là “quyền lực của đa số”, mà là một hệ thống các thiết chế ( trong số đó đặc biệt là các cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu, tức là quyền của nhân dân băi miễn chính phủ của ḿnh ), hệ thống cho phép thực hiện sự giám sát xă hội đối với những người cầm quyền và băi miễn họ theo ư muốn của những người không cầm quyền, cho phép những người này đạt tới những cải cách vượt khỏi tầm của nhà cầm quyền mà không cần sử dụng bạo lực ”.

 

Tự do, nếu không bị hạn chế, sẽ tự thủ tiêu bản thân ḿnh. Quyền lực nhà nước cần thiết và có chức năng giám sát tự do nhưng dân chủ càng cần thiết hơn đề giám sát quyền lực nhằm bảo vệ các quyền tự do thiêng liêng chân chính của con người.

 

III – Dân chủ với b́nh đẳng

 

Con người không chỉ có khát vọng tự do mà c̣n đ̣i hỏi phải được b́nh quyền, b́nh đẳng trong xă hội. B́nh đẳng là cái gốc tạo sự công bằng. Bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ của Hoa Kỳ ra đời năm 1776 đă mở đầu bằng sự khẳng định một trong những điều thiêng liêng nhất :“ Chúng tôi coi những chân lư sau đây là hiển nhiên : tất cả mọi người sinh ra đều b́nh đẳng …”. B́nh đẳng là một trong những khả năng bẩm sinh của con người. Nó đ̣i hỏi không được có sự hành xử phân biệt giữa các vị thế xă hội, giữa tuổi tác, màu da, giới tính hay quốc tịch …Nó bao gồm các quyền b́nh đẳng trong các quan hệ dân sự, thương mại, quan hệ tố tụng, quan hệ giữa người dân với chính quyền …

 

Kant coi tự do và b́nh đẳng như là quyền độc nhất, có từ xưa, không bị bất cứ hạn chế nào do điều kiện sống cụ thể. Tự do và b́nh đẳng liên kết bền chặt h́nh thành nên phẩm chất con người và cá tính con người.

 

Tuy nhiên khát vọng tự do, b́nh đẳng cùng với những yêu cầu điều tiết những mâu thuẫn nẩy sinh  giữa các phạm trù này đ̣i hỏi h́nh thành quyền lực trong xă hội. Từ đấy nhà nước ra đời. Khi nhà nước xuất hiện, con người, một mặt với tư cách là toàn thể có thêm quyền lực mới : quyền lực chính trị; mặt khác, với tư cách là những người bị trị, bị tước bớt quyền. Quyền lực của họ bị cắt xén, bị thâu tóm, tập trung trong tay nhà nước. Nguồn gốc của quyền lực nhà nước là quyền lực nhân dân, nhưng bệnh quan liêu vốn dĩ của nhà nước luôn có xu hướng tách nhà nước ra khỏi nhân dân, đặc biệt khi bộ máy nhà nước được thiết kế và xây dựng không hợp lư, không có cơ chế kiểm soát.

 

Quyền lực nhà nước tồn tại như một tất yếu nhằm duy tŕ trật tự xă hội . Nhưng theo Marx, đă có hai loại trật tự : “ trật tự xă hội cần thiết ” và “ trật tự thặng dư ”. “ Trật tự thặng dư ” là thứ trật tự phụ trội được áp dụng không phải v́ quyền lợi của xă hội mà chủ yếu dành riêng cho quyền lợi của những người cầm quyền : nhà nước, đảng … “ Trật tự thặng dư ” là đối lập với trật tự đem lại lợi ích và cần thiết cho xă hội. Những nhà nước thiết lập nên và lạm dụng “ trật tự thặng dư ” để đè nặng ách thống trị lên đầu người dân đau khổ đều từ bỏ cái mà Khổng tử gọi là “ thừa thiên mệnh ”.

 

Lịch sử từng chứng kiến nghịch lư trớ trêu. Cộng đồng xă hội lập ra nhà nước. Nhưng nhà nước vốn để phục dịch xă hội, chẳng bao lâu trở thành ông chủ đối với xă hội, đứng trên xă hội, thống trị trở lại xă hội. Họ được quyền đặc miễn. Từ đó mà nẩy ra chế độ chuyên quyền độc đoán. Áp bức tràn lan, bất công khống chế xă hội. T́nh h́nh đó làm các nhà tư tưởng tiến bộ nghĩ đến phải có một khế ước xă hội. Con người trong xă hội phải có trách nhiệm lẫn nhau, giữa người cai trị và người bị trị.

 

Cho nên từ khi nhà nước xuất hiện th́ quyền dân chủ thực chất là phải bao gồm những yêu sách về sự b́nh đẳng chính trị và xă hội của mỗi cá nhân trong mối quan hệ với nhà nước, nhằm bảo đảm cho cá nhân có được khả năng hành động theo ư ḿnh, tự quyết định và làm chủ ư chí của ḿnh mà không làm hại đến người khác, và do đó đem lại khả năng giải phóng toàn diện những năng lực bản chất người của mỗi cá nhân. Engels khẳng định : “ Từ sự b́nh đẳng của mọi người với tư cách là con người, rút ra cái quyền có một giá trị ngang nhau về chính trị và xă hội cho tất cả mọi người, hay ít ra là cho mọi công dân trong một nước, hay cho mọi thành viên trong một xă hội ”.

 

Muốn có một xă hội dân chủ phải có một hệ thống chính trị dân chủ. Môi trường để cho cá nhân công dân thực hiện được đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của ḿnh trong quan hệ với nhà nước là dân chủ. Dân chủ đóng vai tṛ như là điều kiện tiên quyết, là phương tiện để xây dựng một thiết chế xă hội tiến bộ - một thiết chế xă hội bảo đảm và hiện thực hoá các quyền tự do và b́nh đẳng của con người. David Bentham đă chỉ ra rằng : “ Dân chủ là một phương tiện để thực hiện lợi ích chung, bởi v́ nó cho phép nhân dân xác định được lợi ích chung đó là ǵ cũng như kiểm soát quá tŕnh mà ở đó nó được thực hiện một cách có hiệu quả trong thực tiễn ”.

 

Hệ thống chính trị dân chủ chỉ có thể tồn tại trong một nhà nước dân chủ pháp trị.với những đặc điểm cơ bản sau :

 

  -  Nhà nước dân chủ pháp trị đối lập với các thể chế chính trị cực quyền, độc quyền, thần quyền, quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân.

 

  -  Có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, trong đó các đạo luật có vai tṛ tối thượng, mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xă hội, người có chức vụ và công dân đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật và b́nh đẳng trước pháp luật

 

  -  Không chỉ công dân có trách nhiệm đối với nhà nước, mà nhà nước phải có trách nhiệm đối với công dân, khái niệm trách nhiệm ở đây được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, nghĩa là quan hệ giữa công dân và nhà nước là quan hệ b́nh đẳng về quyền và nghĩa vụ.

 

  -  Các quyền dân chủ tự do và lợi ích chính đáng của con người được pháp luật bảo đảm và bảo vệ toàn vẹn, mọi hành vi lộng quyền của bất kỳ cơ quan nhà nước và người có chức vụ nào, cũng như mọi hành vi phạm pháp khác xâm phạm quyền tự do, lợi ích chính đáng của công dân đều bị nghiêm trị.

  

  -  Quyền lực nhà nước được phân chia rơ rệt thành ba quyền : lập pháp, hành pháp, tư pháp; được phân định rơ ràng và hợp lư cho ba hệ thống cơ quan tương ứng trong mối quan hệ cân bằng, đối trọng, chế ước lẫn nhau.

 

Trong nhà nước pháp trị dân chủ, mọi chủ thể, kể cả nhà nước, đều tuân thủ nghiêm chỉnh, chịu phục tùng pháp luật - một hệ thống pháp luật có tính pháp lư cao, phù hợp với lư trí, thể hiện đầy đủ những giá trị cao cả nhất của xă hội, của con người. Mọi tổ chức và hoạt động đều trên cở sở nguyên tắc b́nh đẳng trong các mối quan hệ giữa nhà nước và công dân.

 

Trái với những tư tưởng trên, trên cơ sở cho rằng chế độ dân chủ chỉ là một h́nh thức, một chế độ nhà nước, Marx cho rằng không có một chế dộ dân chủ nói chung mà chỉ có chế độ dân chủ có tính giai cấp. Lenin cũng quả quyết : trong xă hội có giai cấp, nhà nước phải “ là một nhà nước dân chủ kiểu mới ( dân chủ đối với những người vô sản và nói chung đối với những người không có của ), và chuyên chính kiểu mới ( chống giai cấp tư sản ) ”.

 

Trong cái nhà nước dân chủ kiểu mới của Lenin phải tồn tại một bộ máy chuyên chính khổng lồ để chống lại, để tàn sát giai cấp tư sản và tất cả những ai có tư tưởng tư sản hay liên quan đến tư sản.

 

Tíếc thay, ông cử nhân luật Lenin khi làm chính trị lại phỉ báng pháp luật đến mức ngang nhiên tuyên bố:  “Đối với bọn địa chủ, tư sản, chúng ta phải bắn ngay tại chỗ, không cần xét xử ”. Ở Việt Nam, ông Trần Phú cũng hô hào: “ Trí, phú, địa , hào, đào tận gốc, trốc tận rễ ”

 

Thế là, 61 triệu 911 ngàn người đă bị giết trong các trại tù Gulag dưới thời Liên bang Xô viết. Thế là, ở Việt Nam, đă có khoảng 9 vạn người ( trong đó có 2 vạn đảng viên cộng sản ) bị giết và 9 vạn người khác ( trong đó có nhiều đảng viên cộng sản ) v́ bị vu oan mà uất ức hoặc sợ hăi quá phải tự tử trong cải cách ruộng đất.

 

Cả Marx và Lenin đều cho rằng tự do của một giai cấp là sự mất tự do của giai cấp đối lập. Giữa các giai cấp đối lập không có sự b́nh đẳng, b́nh đẳng chỉ có thể tồn tại trong nội bộ một giai cấp.

 

Marx-Lenin không thừa nhận quyền b́nh đẳng giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, giữa nhà nước và nhân dân.

 

Chính v́ thế mà cả hệ thống giáo dục trường học lẫn báo chí, loa đài ra rả dạy trẻ già lớn bé mở miệng ra là phải biết tụng niệm đời đời ơn Đảng, ơn Bác mà không bao giờ có ai nói điều chân lư rằng Đảng phải thực ḷng nhớ ơn nhân dân đă sinh ra, nuôi lớn lên và tạo mọi điều kiện cho Đảng tồn tại và lập công.

 

Chính v́ vậy mà Đảng không c̣n đủ tự trọng khi cứ ngoan cố áp đặt măi vị trí độc tôn của ḿnh qua điều 4 của Hiến pháp.

 

Chính v́ vậy mà Đảng ngang nhiên nẫng cả phần trên của trời đất. Mặc dù trong tất cả các ngày kỷ niệm lớn, ngày sinh nhật Đảng, loa đài đă xói xả inh tai nhức óc hàng trăm, hàng ngàn bản tụng ca công tích của Đảng, thế mà, mỗi độ xuân về, cờ phướn vẫn cứ phải giăng giăng “ Mừng Đảng, mừng xuân”, … rồi mới đến “ mừng đất nước ” !

 

Chính v́ thế mà, mặc dù nhân dân mang nặng đẻ đau ra quân đội, vắt từng giọt sữa gầy để nuôi quân đội nhưng phải chăng, khi cần, quân đội cũng có thể là phải hy sinh tất cả đi ( như quân đội Trung Quốc tại chiến trường Thiên An Môn từng cho xe tăng dày xéo lên xác muôn dân ) để chỉ cần “ Trung với Đảng ” !    

 

Lịch sử tư tưởng chính trị pháp lư đúng đắn chính là lịch sử đấu tranh giữa các quan niệm tiến bộ với các quan niệm bảo thủ lạc hậu trong việc xác định mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân . Lịch sử đấu tranh để nhận thức ngày càng đúng đắn bản chất mối quan hệ pháp lư đó chính là lịch sử khám phá từng bước giá trị của cá nhân con người trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước.

 

P. Frank – nhà hiến pháp học nổi tiếng Hoa Kỳ đă viết : “ Nhà nước không được áp đặt thêm các điếu bất công cho xă hội trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nhà nước cần phải đối xử công bằng và b́nh đẳng với tất cả những người dân của nó ”.

 

Nhà nước tất nhiên phải có quyền lực để duy tŕ trật tự xă hội và xử phạt các tội phạm nhưng các nguyên tắc và thủ tục để nhà nước thực thi pháp luật bắt buộc phải được công khai, rơ ràng, không dấu diếm, không tuỳ tiện, không được sử dụng vào mục đích chính trị của nhà nước.

 

K. Popper cho rằng : “ Bản thân tính b́nh đẳng là yêu cầu nhà nước phải nh́n nhận mọi công dân  một cách vô tư. Thực chất của yêu cầu đó là làm thế nào để cho những điểm trội liên quan đến  nguồn gốc, ḍng dơi, sự hiện diện các mối quan hệ hay sự giầu có, không chi phối những người đang thực hành pháp luật v́ lợi ích của công dân ”. Ông xác định : “ Con người không b́nh đẳng nhưng chúng ta có thể đi theo con đường đấu tranh v́ các quyền b́nh đẳng”.

 

Mục đích của dân chủ là tạo môi trường xă hội để mọi người được đối xử như nhau. Để phản bác lại một số nhà quư tộc trước đây và Karl Marx sau này, cho rằng có một tầng lớp, một số cá nhân nào đó ưu việt hơn, được xem là quan trọng hơn, nhà hiến pháp học J. Bentham đă khẳng định “ Mỗi người chỉ được tính là một và không ai được tính hơn một ”. Nguyên tắc b́nh đẳng này không chỉ nói lên rằng các chính sách chung phải nhằm bảo vệ quyền lợi của tất cả mọi người một cách như nhau mà c̣n cho thấy những quan điểm cá nhân cũng phải được tôn trọng như nhau, không phân biệt giữa người này, kẻ khác.

 

Nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số bị lạm dụng làm cho người ta hiểu rằng quyền lực của đa số là tuyệt đối. Dân chủ thực sự là quyền lợi thuộc về nhân dân có nghĩa rằng quyền lực này được thực thi bởi toàn thể dân chúng chứ không phải chỉ bởi một tập thể dân chúng bằng cách áp đặt ư muốn của họ lên một tập thể dân chúng khác. Nói cách khác, đặc trưng căn bản của dân chủ là công nhận cho mọi người được quyền b́nh đẳng tham gia vào quyết định chung, trong đó nguyên tắc đa số chỉ là một phương cách để giải quyết những bất đồng sau khi đă tận dụng mọi thủ tục: tranh luận, bổ sung ư kiến và thoả hiệp, mà không đạt kết quả. Phải như vậy dân chủ mới bảo đảm cho mọi người đều được tham gia một cách tự do, b́nh đẳng và đầy đủ vào các công việc của nhà nước cũng như toàn bộ đời sống xă hội.

 

Dân chủ bảo hộ cho cả hai mặt đối lập: thiểu số lẫn đa số. Sự phát triển biện chứng của dân chủ làm cho nó như một hợp đề của chính đề đa số và phản đề thiểu số. Trong giai đoạn lịch sử mới phôi thai của ḿmh dân chủ chỉ chấp nhận quyền của đa số nhưng sau quá tŕnh tiến hoá nó chấp nhận cả quyền của thiểu số. Từ khả năng hiện đại hoá, dân chủ chẳng những chấp nhận sự khác biệt mà c̣n lấy sự khác biệt làm nền tảng, đấu tranh cho sự tồn tại của tính khác biệt. Mọi sự khác biệt đều có quyền tồn tại và do vậy mà chúng b́nh đẳng. Dân chủ như môi trường nuôi dưỡng và bảo tồn các bộ phận thiểu số trong xă hội, là sự khoan dung và chấp nhận lẫn nhau giữa chủ quyền của thiểu số và đa số.

 

Dân chủ thực sự gắn liền với b́nh đẳng v́ nguyên tắc dân chủ bảo đảm việc thực hiện các biện pháp nhằm thiết lập sự giám sát đối với những người cầm quyền từ phía những người bị cai trị. Những người bị cai trị phải có các quyền b́nh đẳng trong quá tŕnh tham gia vào sự giám sát đó. Không một giai cấp nào, một cá nhân nào bị loại trừ khỏi sự tham gia quá tŕnh thiết lập giám sát chính quyền dân chủ. Nguyên tắc dân chủ tạo quyền giám sát, từ đấy bảo đảm cho người dân không chỉ có thể chỉ trích, phê phán mà c̣n đ̣i hỏi phế truất chính phủ. Từ năm 1776, Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ đă công khai thừa nhận quyền này :  “ Khi nào một loạt những hành động lộng hành và lạm quyền, luôn theo đuổi một mục đích và để lộ ư đồ bắt mọi người phải tuân theo chế độ chuyên chế, th́ mọi người có quyền và có bổn phận lật đổ chế độ ấy, bổ nhiệm những người mới để bảo vệ an ninh sau này của họ ”.

 

Để bảo đảm mọi thành viên xă hội được thụ hưởng các quyền tự nhiên : quyền được sống, quyền mưu sinh, quyền mưu cầu hạnh phúc – con người c̣n cần được b́nh đẳng về điều kiện. B́nh đẳng về điều kiện là một đ̣i hỏi tất yếu của đời sống xă hội. Nó được hiểu là mỗi người đều có cơ hội như nhau về mặt pháp lư để phát triển khả năng của ḿnh.. B́nh đẳng về điều kiện không thủ tiêu sự khác biệt giữa các cá thể hay giữa các cộng đồng dân tộc mà là nền tảng cho sự nẩy nở tính khác biệt. Nó chỉ ra rằng con người muốn được tự do th́ phải chấp nhận tự do của kẻ khác; đồng thời xác nhận rằng, mỗi nhân cách là một sự độc đáo, không lặp lại, và do đó là duy nhất. V́ vậy, họ b́nh đẳng với nhau.

 

Nhà sử học Anh Toynbee trong cuốn “ Khả biến và bất biến ” của ḿnh đă nêu nhận xét : “ Chủ nghĩa cộng sản sai lầm không phải ở chỗ đ̣i hỏi công bằng mà ở chỗ v́ công bằng mà hy sinh tự do … Chủ nghĩa cá nhân sai lầm không phải ở chỗ đ̣i cho được quyền bất khả xâm phạm của cá nhân con người mà ở chỗ v́ nó mà hy sinh công bằng xă hội ”

 

Đề cập đến nội hàm của phạm trù b́nh đẳng về điều kiện, Kant cho rằng : b́nh đẳng không có nghĩa là b́nh đẳng về tài năng mà là b́nh đẳng về cơ hội để phát triển và áp dụng tài năng.

 

Ở Việt Nam, sau một quá tŕnh cực tả, suy tôn người nghèo, vinh danh cái nghèo, chợt bừng tỉnh, người ta nhẩy sang cực hữu thúc giục nhau hô toáng lên : “Đảng viên cũng phải biết làm giầu ”. Nghe cái cụm trợ động từ “ cũng phải ” thấy tội tội làm sao. Nhưng, trong thực tế, nói chung, người ta đă tạo điều kiện ưu tiên cho đảng viên làm giầu nhanh chóng hơn, do đó nhiều tư bản đỏ thật kếch xù là đảng viên Cộng sản Việt Nam có chức có quyền đă xuất hiện và góp phần gây ô nhiễm xă hội. Lẽ ra, Đảng nếu có tinh thần dân chủ, chỉ cần tạo điều kiện b́nh đẳng cho mọi người được sống, được mưu sinh, được mưu cầu hạnh phúc. Ai muốn làm giầu tiền bạc ( trở thành chủ doanh nghiệp lớn … ), ai muốn làm giầu trí tuệ ( trở thành nhà khoa hoc lỗi lạc, nghệ sỹ tài danh …), ai muốn làm giầu tâm linh ( trở thành thầy tu … ), theo khả năng, đều dược tạo điều kiện ngang nhau để trở thành “ giầu có ” trong lĩnh vực sở trường, sở thích của ḿnh. Khuyến khích làm giàu như khẩu lệnh trên kích thích người ta xông tới chèn ép nhau h́nh thành một xă hôi tư bản hoang dă với đầy dẫy những tệ nạn xấu xa như hiện t́nh Viêt Nam ngày nay.

 

B́nh đẳng về điều kiện giúp cho tinh thần cộng đồng có đường hướng, cho pháp luật có khung hợp lư, cho những người cai trị có chuẩn tắc mới và cho những người bị trị có thói quen đặc biệt. B́nh đẳng về điều kiện là yếu tố không thể thiếu của nền dân chủ.            

 

Chế độ dân chủ khác hẳn với chuyên chế ở chỗ, nó luôn thích nghi và có năng lực tự điều chỉnh cao. Khả năng tự hoàn thiện và tiến bộ không ngừng của nền dân chủ chính là nhờ sự thống nhất trong tính đa dạng và sử dụng tính đa dạng ấy như một phương tiện để phát triển.

 

 IV - Dân chủ, phát triển, ổn định -

 

Dân chủ và phát triển liên quan với nhau ra sao ? Dân chủ có dẫn đến mất ổn định không ? Phần này bàn luận về các vấn đề đó. 

 

Trước khi xem xét mối quan hệ giữa dân chủ và phát triển tưởng cũng cần làm sáng tỏ quan niệm thế nào là phát triển.

 

Thử trích ra đây một vài đoạn ngắn nói đến phát triển trong “ Dự thảo báo cáo chính trị tại đại hội X của Đảng CSVN ” : “ Con đường đi lên xă hội chủ nghĩa ở nước ta là phát triển kinh tế thị trường định hướng xă hội chủ nghĩa …”, “ Phát triển nền kinh tế nhiều h́nh thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai tṛ chủ đạo … ”, “ Bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ : phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hoá- nền tảng tinh thần của xă hội ”,

 

Bản báo cáo tỏ ra rất tự hào khi nói đến “ Tốc độ tăng trưởng GDP năm sau cao hơn năm trước, b́nh quân trong 5 năm 2001 -2005 đạt mức kế hoạch 7,5%”, và phấn đấu “Đến năm 2010 tổng sản phẩm trong nước

( GDP ) tăng gấp hai lần so với năm 2000, mức tăng trưởng GDP b́nh quân đạt 7,5% - 8% /năm và phấn đấu đạt 8%/năm ”.

 

Thế nhưng, tăng trưởng kinh tế có đồng nghĩa với phát triển kinh tế không ? Nền kinh tế phát triển có bảo đảm hoàn toàn định giá được cho sự phát triển của đất nước không ?

 

Khi bàn đến phát triển, ông Nguyễn Gia Kiểng, trong tác phẩm “ Tổ quốc ăn năn ”của ḿnh đă tỏ ra tâm đắc với nhận định của  nhà nghiên cứu nào đó cho rằng phát triển không phải là một vấn đề kinh tế mà là một vấn đề văn hoá xă hội. Ông viết : “ Phát triển rất dễ mà lại rất khó. Rất dễ v́ không đ̣i hỏi một lư thuyết phức tạp hay một kế hoạch cao siêu nào cả. Rất khó v́ nó đ̣i hỏi một tâm lư và một văn hoá mới. Mà thay đổi tâm lư và văn hoá là điều khó nhất ”. Ông đặt nhẹ các yếu tố tư bản và nguyên liệu mà chỉ liệt kê những yếu tố vô h́nh mà ông cho là cần thiết cho phát triển như sau :

 

một chế độ tự do, dân chủ và đa nguyên

một nhà nước nhẹ nhường không gian tối đa cho xă hội dân sự, cho ư kiến và sáng kiến cá nhân

một sinh hoạt kinh tế thị trường bảo đảm cạnh tranh công bằng

một xă hội linh động và b́nh đẳng, không bị trói buộc bởi những thành kiến, không bị ngăn cách bởi những giai cấp hay những đại gia đ́nh;

một tâm lư tôn vinh kinh doanh và buôn bán;

một tinh thần quốc gia ( hay cộng đồng ) mạnh;

một xă hội trong đó thông tin được tự do, các kinh nghiệm và kiến thức được truyền bá nhanh chóng và dễ dàng; 

 

Ai đó lại cũng đă từng cho rằng : “ Phát triển đă nẩy sinh tại một số quốc gia khi, do một sự t́nh cờ của hoàn cảnh lịch sử, bộ máy chính quyền trở thành vắng mặt, quần chúng được một không gian tự do hơn hẳn và v́ thế đă tổ chức một cuộc sống cộng đồng trên căn bản đồng thuận và tương kính. Hoặc v́ không muốn hoặc v́ không được phép, họ đă không t́m kiếm uy quyền để khống chế lẫn nhau mà chỉ thi đua nhau làm giầu trong một luật chơi công bằng ”.

 

Quỹ phát triển kinh tế là cốt lơi của phát triển hay phát triển chỉ là một vấn đề văn hoá xă hội, phải chăng chỉ là những thái cực khác nhau khi xem xét vấn đề phát triển của xă hội ?

 

Tôi ghi nhận một diễn giải bằng h́nh tượng ngắn gọn và đơn giản của thạc sỹ-bác sỹ Phạm Hồng Sơn như sau : “  Chúng tôi thiển nghĩ, một đất nước phát triển, phải là một đất nước phát triển cả về kinh tế và tư tưởng, cũng như một con người không chỉ chú ư đến việc bồi bổ thể lực cơ bắp mà quên đi phát triển tinh thần, trí tuệ. Mà để phát triển tinh thần, trí tuệ th́ không có con đường nào khác tốt hơn là để con người đó được tiếp xúc, trao đổi, va chạm với xă hội xung quanh trong đó có các cá thể và thiên nhiên rộng lớn ”.

 

Trong lịch sử cận đại, Hà Lan được xem là đất nước phát triển sớm nhất. Sau đó mới đến Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản. Người ta nói thế kỷ 17 là thế kỷ Hà Lan, thế kỷ 18 là thế kỷ Anh. Từ thế kỷ 19, Hoa Kỳ lên ngôi bá chủ hoàn cầu. Tiếp sau đó, Nhật Bản đă vươn lên mạnh mẽ như một hiện tượng thần kỳ.

 

Dựa trên thuyết phát triển nẩy sinh “ do một sự t́nh cờ của hoàn cảnh lịch sử, bộ máy chính quyền trở thành vắng mặt ”, ông Nguyễn Gia Kiểng giải thích sự phát triển sớm và rực rỡ của Hà Lan lúc ấy chủ yếu là do Hà Lan không bị cai trị bởi một ông vua hay một lănh chúa mà chỉ bởi một “đại thường trú ” cư ngụ tại một ṭa nhà được dựng ra chỉ để giải quyết các vấn đề hành chính tối cần thiết. Ông nói, trong hoàn cảnh như thế “ Những người Hà Lan không thể có vinh quang được làm vương, làm tướng, họ chỉ c̣n một lư tưởng là làm giầu ”.

 

Trước đó, giải thích sự phát triển của Hà Lan, Montesquieu lại cho rằng do bị thiên nhiên ngược đăi nên đất nước này phải phấn đấu để tiến lên, và để tiến lên th́ cần có tự do. Khác với các dân tộc Nam Á v́ được ngủ trên nệm êm thiên nhiên ưu đăi nên không cần phấn đấu, dù cam chịu kiếp nô lệ.

 

Max Weber th́ cho rằng sự phát triển của Hà Lan và của Anh, Mỹ sau đó là nhờ quốc đạo Tin Lành ở xứ này năng động và cởi mở hơn đạo Công Giáo.

 

Thuyết phát triển dựa vào những phấn đấu vượt bậc của các quốc gia phải vật lộn để khắc phục t́nh trạng bị thiên nhiên ngược đăi không tồn tại được trước câu hỏi v́ sao Hoa Kỳ với đất đai trù phú, tài nguyên dồi dào, điều kiện sinh sống dễ dăi đă phát triển rất mạnh mẽ, trong khi các nước có điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, tài nguyên không phong phú như Mali, Etiopia, Bangladesh lại nghèo nàn, lạc hậu măi. Nói rằng nước Nhật phát triển mạnh v́ người Nhật bắt buộc phải sản xuất nhiều để xuất cảng lấy ngoại tệ mua nguyên liệu và nhiên liệu th́ giải thích ra sao trường hợp nước Anh trở nên hùng cường nhờ than đá và sắt. …

 

T́m nguyên nhân phát triển trong các trường hợp trên dễ bị rơi vào một bài toán đa nghiệm rất khó quy kết mối liên quan giữa nghiệm số với các ẩn số. Bài toán sẽ trở nên đơn nghiệm trước các câu hỏi : v́ sao xuất phát từ cùng một nền văn hoá, một tâm lư dân tộc, một điều kiện thiên nhiên mà Nam Hàn đă trở thành một Con Rồng, trong khi Bắc Triều Tiên ngày một kiệt quệ, dân chúng đói khổ vật vờ bên những ḷ phản ứng nguyên tử lăm lăm đe doạ chế tạo vũ khí hạt nhân ? ( Hai miền bán đảo này không chỉ cách biệt về đời sống kinh tế mà cả về đời sống tinh thần. Người dân Việt Nam rất mê và được xem rất nhiều phim Hàn Quốc nhưng không thích xem và hầu như không có phim Bắc Triều Tiên để mà xem ).

 

Cũng câu hỏi trên đem đặt ra cho các trường hợp giữa Trung Quốc với Đài Loan và Hồng Kông, giữa Tây Đức với Đông Đức, câu trả lời đơn nhất sẽ nhận được là : Sở dĩ Tây Đức phát triển hơn Đông Đức, Đài Loan và Hồng Kông  giầu có hơn Trung Quốc, Nam Hàn phồn vinh hơn Bắc Triều Tiên v́ Tây Đức, Nam Hàn, Đài Loan, Hồng Kông đều dân chủ hơn Trung Quốc, Đông Đức, Bắc Triều Tiên.

 

Dẫn chứng để minh định kết luận trên c̣n có thể được nêu lên từ ngay các nước quanh vùng Đông Nam Á. Với các hoàn cảnh tự nhiên và chủng tộc na ná như nhau nhưng xét tŕnh độ phát triển, dễ dàng nhận thấy Singapor, Thái Lan, Malaysia là đối cảnh của Myanma, Lào, Kampuchía, Việt Nam và trên một bậc so với Indonesia, Philippine. T́nh trạng đối cảnh gây nên do nhóm nước này có chế độ dân chủ, nhóm nước kia không. T́nh trạng phát triển cao thấp chênh lệch nhau liên quan tới chất lượng và tŕnh độ dân chủ ở các nhóm nước.

 

Từ một làng đánh cá khoảng 100 dân, Singapor được thành lập bởi một người Anh từ thế kỷ 19 và chưa hề biết tới một tổ chức xă hội nào khác ngoài khuôn mẫu tự do dân chủ phương Tây. Chính quyền Singapor nằm trong tay quốc hội h́nh thành từ bầu cử tự do. và quốc hội chỉ định thủ tướng. Ơ Singapor tuy đảng Nhân dân Hành động cầm quyền liên tục suốt từ ngày độc lập đến nay nhưng các đảng đối lập không bị cấm, người đối lập không bị trấn áp, báo chí tư nhân được tự do phát hành …. Singapor là một nước có luật lệ khe khắt nhưng cái cơ bản là luật pháp tại đây được áp dụng nghiêm ngặt và ngang bằng cho mọi đối tưọng xă hội, không kể đảng viên hay ngoài đảng, không kể quan chức hay dân thường …

 

Ông Lư Quang Diệu lớn tiếng phê phán dân chủ, nhân quyền phưong Tây, đề cao các giá trị Châu Á là chỉ cốt tỏ vẻ có tư tưởng độc lập của một lănh tụ Đông Nam Á. Thực tế, hơn tất cả mọi nước Đông Nam Á, hơn cả Hồng Kông, Singapor là nước Châu Á bị Tây phương hoá nặng nhất. Mọi người Singapor đều thạo tiếng Anh mà quên tiếng mẹ đẻ Trung Quốc của ḿnh. Ngay cả Lư Quang Diệu cũng nói tiếng Anh trơn tru hơn tiếng Trung Quốc, và, trong suốt cuộc đời làm thủ tướng ông đă cố gắng học và làm theo phương Tây tối đa. Chỉ đến khi về già ông mới bầy tỏ muộn màng đôi chút vương vấn với nguồn cội Trung Hoa của ḿnh.

 

Chế độ độc tài quân phiệt Thái Lan tồn tại suốt 60 năm dựa trên một liên minh vững chắc giữa quân phiệt, tài phiệt và nhà vua. Liên minh này vừa có quân lực, vừa khống chế được tài chính, vứa có quyền uy thế tử. Nhưng, năm 1932, sau một cuộc đảo chính buộc vua Thái chấp nhận chế độ quân chủ lập hiến, nhường thực quyền cho một chính phủ xuất phát từ một quốc hội do dân bầu. Tuy Thái Lan có biểu hiện quân quyền, các nhóm tướng lĩnh thường đảo chính nhau để tranh giành quyền lực, nhưng Thái Lan tôn trọng đa nguyên –đa đảng và tự do ngôn luận. Các cuộc biểu t́nh tuần hành thường do sinh viên tổ chức. Sinh viên ào ạt xuống đường chủ yếu không v́ lư do kinh tế mà v́ lư tưởng tự do, dân chủ và nhân quyền. Mùa xuân năm 1992, trước sự sụp đổ của bức tường Berlin, trong ngọn gió dân chủ ào ạt quật nát các chế độ cộng sản độc tài Liên Xô, Đông Âu và nhân v́ một cuộc bầu cử gian dối trong nước, sinh viên Thái Lan đă rầm rập xuống đường lật đổ chế độ quân phiêt. Từ đó Thái Lan càng khởi sắc, kinh tế phát triển càng mạnh, nâng cánh con rồng Thái Lan bay lên.

 

Malaysia được chuyển từ tay Bồ Đào Nha cho Hà Lan từ năm 1641. Năm 1795, Hà Lan lại phải nhường Malaysia và vùng Bắc Bornéo cho đế quốc Anh để rút về cố thủ quần đảo Indonesia. Năm 1891, Liên Bang Malaysia được thành lập dưới quyền cai trị của Anh. Năm 1957, sau khi kư kết một hiệp ước quân sự, Anh đă trả lại độc lập cho Malaysia. Malaysia có 55% dân gốc người Bumiputra, với hơn 30% dân số gốc Trung Hoa và khoảng 10% gốc Ân Độ, nhưng v́ là một quốc gia hoàn toàn được tạo dựng và cai trị suốt thời gian dài bởi các nước phương Tây tiên tiến nên thiết chế xă hội, tinh thần luật pháp, tư tưởng tự do dân chủ đều chi phối bởi phương Tây. Chế độ chính trị của Malaysia tuy là quân chủ lập hiến nhưng rất ít ai biết đến vua, mà ở đây có tất cả những yếu tố cốt lơi của dân chủ : tự do ngôn luận, tự do kết hợp, tự do bầu cử và ứng cử. Các chính đảng cũng được hoạt động tự do. Hỗn hợp chủng tộc trong một quốc gia như Malaysia tồn tại vững bền được chính nhờ tinh thần dân chủ. Nhờ tinh thần dân chủ mà người Hoa nhường nhịn người Bumiputra, người Bumiputra chấp nhận người Hoa và người Ấn. Nhờ có dân chủ, chẳng những thế, Malaysia c̣n vươn lên thành một cường quốc ở Đông Nam Á. 

 

Minh chứng điển h́nh nhất cho thuyết phát triển nhờ dân chủ là trường hợp của Hoa Kỳ.

 

Năm 1492, Colombus là người đầu tiên đặt chân lên Châu Mỹ nhưng đến năm 1499, nhà hàng hải Ư Amerigo Vespaci mới đến Nam Mỹ và đặt tên Amerigo cho lục địa này. Từ đấy các vua Tây Ban Nha, Pháp, Anh …lần lượt xua quân đến đây chiếm đất. Năm 1535 Pháp chiếm miền Saint Lawrence thành lập nên New France. Năm 1539 Tây Ban Nha tới Florida. Năm 1587, Anh lập Virginia …. Lục địa Mỹ có nguy cơ bị chia năm xẻ bẩy, không bao giờ hợp nhất được bởi rất nhiều chủng tộc, sắc tộc, rất nhiều tôn giáo tín ngưỡng và các yếu tố văn hoá hoàn toàn khác biệt.

 

May sao ư thức cộng đồng ở đây đă sớm được dấy lên từ “ Kết ước Mayflower ”. Năm 1620 một nhóm Tân giáo phái Calvin đă rời bỏ Anh quốc t́m sang Châu Mỹ để được tự do hành đạo. Khi con tàu Mayflower của họ cập bến, cả lănh thổ Hoa Kỳ bao la lúc ấy chỉ vỏn vẹn vài ngàn người da trắng. Họ cũng phải đương đầu với những khó khăn gian khổ như những lớp người đến trước đă từng bị mất tích, phải làm nhà trong hoang vu, khai hoang để trồng trọt, săn bắt, chống chọi với người da đỏ, bệnh tật, đói rét … Khoảng 40 người đă rủ nhau đi lập nghiệp tại Massachussetts. Để chung lưng đấu cật đương đầu với muôn vàn khó khăn gian khổ, họ phải thảo chung với nhau bản “ Kết ước Mayflower”. Bản kết ước cộng đồng sơ khai này đă mang tinh thần tuyên ngôn thành lập một xă hội tự do dân chủ pháp trị sơ khởi tại Hoa Kỳ. Kết ước có các đoạn ghi như sau : “ …Chúng tôi thoả thuận thành lập với nhau một tập thể … Mỗi khi thấy cần thiết cho phúc lợi chung, chúng tôi sẽ làm ra và ban hành các luật lệ đúng đắn và đồng đều cho tất cả, và chúng tôi sẽ tuân phục những luật lệ đó”. Tinh thần “ Kết ước Mayflower ” sau này thấm cả vào bản Tuyên ngôn Độc lập 1789 dắt dẫn đất nước Hoa Kỳ từ sơ khai qua suốt chiều dài lịch sử gắn bó chặt chẽ với chế độ dân chủ. Khi mới tuyên bố độc lập, Hoa Kỳ chỉ có 2,5 triệu dân lắp ghép từ những khối người xa lạ đến từ nhiều lănh thổ, nhiều châu lục khác nhau, nghèo khổ, nhếch nhác, phần lớn không biết đọc biết viết. Dân chủ và tự do đă dần dần gắn kết họ lại, hỗ trợ nhau, khuyến khích nhau lao động sáng tạo. Một thế kỷ sau, năm 1890, họ đă trở thành quốc gia tiến bộ nhất gồm 63 triệu dân. Trong nhiều thập kỷ qua, và cho tới nay, họ vẫn là một siêu cường hàng đầu thế giới.

 

Trên đây đă chứng minh các quốc gia phồn vinh đều có chế độ dân chủ, nhưng, giữa dân chủ và phát triển, cái nào có trước, cái nào có sau ? Có người nói dân chủ phải là tiền đề, thậm chí là tiên quyết duy nhất cho phát triển. Ngược lại, một số người khác, đặc biệt ở Việt Nam hiện nay, cho rằng dân chủ phải đến sau. Phải đợi phát triển kinh tế đă, rồi từ từ mới có dân chủ được.

 

Nói phải có dân chủ rồi mới phát triển được th́ không thể giải thích v́ sao Tần Thuỷ Hoàng xây được Vạn Lư Trường thành, v́ sao Hitler đă từng uy hiếp được cả Châu Âu ? Cũng không giải thích nổi hiện tượng Trung Quốc và Ấn Độ. Đây là hai nước cùng có quy mô dân số nhất nh́ thế giới. Ấn Độ trở thành nước dân chủ từ năm 1947, ngược lại, Trung Quốc đă chọn chế độ cộng sản độc tài từ năm 1949. Vậy mà Trung Quốc đă hơn hẳn Ấn Độ trong lĩnh vực kinh tế, kể cả nông nghiệp lẫn công nghiệp.

 

Cho nên phải nói dân chủ tŕnh độ nào và phát triển kiểu nào ? Có phát triển lành mạnh và phát triển bệnh hoạn, phát triển bền vững và phát triển đoản thời.

 

Thiếu dân chủ th́ không thể phát triển bền vững. Trong lịch sử Trung Quốc, nhà Tần chỉ tồn tại 14 năm, trong khi nhà Hán 426 năm, nhà Đường 289 năm … Liên bang cộng hoà xă hội chủ nghĩa xô viết Nga chỉ tồn tại 72 năm trong khi Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ bền vững đă hơn 200 năm.

 

Thiếu dân chủ th́ không thể phát triển lành mạnh. Sau khi đổi mới, kinh tế Việt Nam tiến vọt hẳn lên so với những năm u ám trước đó để đạt tốc độ tăng trưởng vào loại cao nhất thế giới. Nhưng, xét trong tổng thể, không thể nói Việt Nam đang phát triển lành mạnh. Việt Nam hiện là nước có chỉ số kinh tế tự do vào hàng kém nhất thế giới ( xếp hạng 137/161 nước ), Việt Nam hiện là một trong những nước có khả năng cạnh tranh kém nhất thế giới    ( xếp hạng 77/104 nước), Việt Nam hiện là một trong những nước tham nhũng nhất thế giới ( xếp hạng 94/143 nước ), Việt Nam hiện vẫn c̣n được xếp hạng kém nhất thế giới về chỉ số phát triển con người ( xếp hạng 112/177 nước ), Việt Nam hiện là một trong những nước có chỉ số tự do báo chí tồi tệ nhất thế giới ( xếp hạng 135/143 nước ) …

 

Sở dĩ như vậy v́ Việt Nam hiện là một trong những nước mất dân chủ nhất thế giới (xếp hạng 138/143 nước).

 

Thiếu dân chủ nên phát triển bệnh hoạn. V́ phát triển bệnh hoạn nên mới có t́nh trạng công nhân ( giai cấp lănh đạo cách mạng ) làm ăn đầu tắt mặt tối chỉ được từ 4 trăm ngàn đến trên dưới một triệu đồng lương tháng, trong khi có quan chức nhà nước bỏ ra 120 tỷ đồng ( 7 triệu đôla Mỹ) đánh bạc trong vài tháng. V́ phát triển bệnh hoạn nên mới có t́nh trạng trên lừa dưới ( XHCN là con đường Bác Hồ và nhân dân ta đă chọn. Dân chủ XHCN gấp triệu lần … ), dưới dối trên ( 90% tiến sỹ giả hoặc tồi dở. Học sinh ngồi trong lớp 6 vẫn không biết đọc biết viết…). V́ phát triển bệnh hoạn nên số tử vong và thương tích hàng năm trong giao thông vận tải lớn hơn rất nhiều lần các cuộc chiến ở Afghanistan và Iraq V́ phát triển bệnh hoạn nên tài nguyên thiên nhiên bị khai thác vô tội vạ, môi trường bị huỷ hoại ghê gớm ( sông không c̣n là sông, núi lở, đất nhiễm mặn, lũ lụt tàn phá… ) …

 

Chỉ có dân chủ mới mở đường và bảo đảm cho phát triển lành mạnh và bền vững. Đến lượt ḿnh, phát triển càng cao lại bảo đảm cho dân chủ càng có chất lượng tốt hơn, tŕnh độ cao hơn

 

Ta từng đă thấy trong tự nhiên, phát triển là quá tŕnh vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, mà nét đặc trưng là cái cũ dần dần được thay thế bởi cái mới. Phát triển là một quá tŕnh nội tại: bước phát triển từ thấp lên cao xẩy ra bởi v́ trong cái thấp đă chứa đựng dưới dạng tiềm tàng những khuynh hướng dẫn tới cái cao, c̣n cái cao là cái thấp đă phát triển. Coi sự phát triển chỉ là sự tăng lên hoặc giảm bớt một cách giản đơn những đặc tính ban đầu của một hiện tượng nào đó, không quan tâm đầy đủ sự chuyển hoá những biến đổi về lượng thành những biến đổi về chất sẽ đưa đến những nhận định phiến diện, không biện chứng.

 

Trong xă hội cũng vậy, dân chủ và phát triển vừa là nhân, vừa là quả của nhau. Ở giai đoạn này, cái này là nhân của cái kia, và sau đó, ngược lại. Dân chủ và phát triển nương tựa vào nhau, bồi bổ cho nhau cứ thế đưa các cộng đồng dân cư, đưa nhân loại không ngừng tiến tới.

 

Dù phải thừa nhận dân chủ dẫn tới phát triển lành mạnh và bền vững nhưng một số người, đặc biệt quư vị lănh đạo và giới tư bản đỏ ở Việt Nam hiện nay lại thường hù doạ: phát triển do dân chủ thường dẫn đến mất ổn định.

 

Nhưng, thử hỏi mất ổn định cái ǵ kia chứ ? Mất ổn định chính trị ư ? Mất ổn định chính quyền ư ? Người dân cần ổn định xă hội hơn ổn định chính trị, ổn định chính quyền. Ổn định xă hội là ổn định cho muôn dân, v́ muôn dân; ổn định chính trị là thứ ổn định mà người ta đang ngoan cố duy tŕ bằng mọi giá : tuyên truyền lừa bịp, hù doạ, trấn áp, tù đầy, kể cả sẵn sàng tàn sát hàng trăm, hàng ngh́n người như kiểu Thiên An môn. Ở Việt Nam hiện nay, ổn định chính trị nghĩa là phải cam chịu măi cái cùm Marx-Lenin, cái gông giai cấp công nhân lănh đạo … Biết rằng những điều ấy đă quá bất hợp lư và cực kỳ nguy hại rồi, nhưng người ta vẫn cứ phải, dù biết là vờ vĩnh, hô toáng lên như vậy. Bởi lẽ, chỉ có như vậy mới có lư để áp đặt cho được vai tṛ lănh đạo tuyệt đối của đảng CSVN. Quan trọng hơn, cụ thể hơn là, duy tŕ cho được cái ghế ăn trên ngồi trốc của tập đoàn người nào đó.

 

Trong thực tế, ổn định chính trị, ổn định chính quyền, thường đối lập với ổn định xă hội. Để ổn định chính quyền, dưới thời Stalin, từ năm 1929 đến 1953 khoảng 15 đến 20 triệu người dân Liên Xô đă thiệt mạng trong các trại tập trung Gulag. Để ổn định chính trị, hơn ba chục triệu người Trung Quốc đă chết trong chế độ cộng sản ( Thổ cải, Cách mạng Văn hoá, Thiên An môn … ). Để ổn định chính trị, dù chỉ trong thời gian rất ngắn, 2 035 000 người dân Kampuchia đă chết dưới thời Khme Đỏ …

 

Ở các nước dân chủ đă kể ở trên, đặc biệt Hoa Kỳ, ổn định xă hội được duy tŕ rất bền vững. Hiến pháp, nền tảng luật pháp, nền tảng đạo lư … được duy tŕ cơ bản trong suốt chiều dài lịch sử chế độ dân chủ ở các nước này. Tuyên ngôn Độc lập 1789 của Hoa Kỳ trường tồn và vẫn giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay. Nhiều thủ tướng, nhiều tổng thống đă bị ám sát, quốc hội, chính phủ có thể đột nhiên bị giải tán, biểu t́nh, bạo động có thể nổ ra thường xuyên … nhưng không có tàn sát lớn, chế độ chính trị không bị tiêu tan, nhà nước không sụp đổ.  

 

Ổn định xă hội trong các chế độ cộng sản thực ra là ổn định giả tạo, ổn định bức bối. Kiểu ổn định này không những ḱm hăm phát triển xă hội mà không ngừng tích luỹ những hiểm hoạ khôn lường. Chính v́ thế các trạng thái ổn định này không thể tồn tại lâu dài.

 

Xă hội cũng như tự nhiên vậy. Sự vật phải luôn luôn được tự do vận động, vân động để chuyển hoá, để tiến lên. Nồi nước nếu không muốn cam chịu lạnh ngắt, phải được đun lên để được nóng, được bốc hơi, được thăng hoa. Vật chất ở thể hơi là tự do hơn thể lỏng. Muốn vậy nồi phải được mở ra để sôi tự do. Trong trạng thái sôi tự do, tất cả đều chuyển vần, đặc biệt, phần trên mặt càng xáo động, bong bóng liên tiếp được h́nh thành, liên tiếp bị nổ vỡ. Nếu bít chặt không cho sôi, từ bên ngoài thấy rất yên ắng, rất ổn định, nhưng chẳng bao lâu, b́nh sẽ bị phá tung. B́nh không c̣n, mà nước cũng không c̣n. ( Cách mạng phải phá tung b́nh để nhân dân vượt thoát thể lỏng lạnh lẽo tiến lên thể khí tự do ). Xă hội cũng phải tuân theo những quy luật như tự nhiên, mặt nước càng xao động, bong bóng càng vỡ nhiều, trạng thái sôi càng tốt, nước càng dễ bốc hơi mà b́nh vẫn được bảo toàn.

 

Các nguyên lư bảo toàn thể hiện một mặt của mâu thuẫn biện chứng – mâu thuẫn giữa bảo toàn và biến đổi. Theo định luật này, năng lượng không mất đi mà cũng không được tạo ra khi nó chuyển từ dạng này sang dạng khác. Nó là biểu hiện của ổn định toàn cục, là sự xác nhận về tính bất diệt của vận động.

 

Cho nên ổn định bao giờ cũng phải là ổn định động, bởi v́ ổn định tĩnh là ổn định huỷ diệt, ổn định chết. Hăy lấy trường hợp con vụ ( cái cù ) để liên tưởng. Con vụ phải xoay mới đứng được, xoay càng mạnh, đứng càng vững. Không xoay, con vụ sẽ đổ kềnh.

 

Dân chủ bảo đảm nuôi dưỡng một xă hội công dân tích cực. Ở đấy con người được tôn trọng thực sự, làm chủ thực sự vận mệnh của ḿnh và của xă hội. Ở đấy mọi cá nhân, mọi tổ chức dân chúng độc lập được tự do phát biểu, tự do hoạt động, tự do sáng tạo góp phần tích cực cho xă hội phát triển năng động, lành mạnh, bền vững trong thế ổn định động phù hợp với quy luật của tự nhiên.

 

V – Các thời đại dân chủ -

 

Dân chủ không phải là sản phẩm phát triển của chỉ một hệ thống xă hội duy nhất nào, không phải là độc quyền của chế độ nào. Các nền dân chủ ( trừ dân chủ XHCN ) kế thừa nhau phát triển ngày càng cao hơn về chất lượng, ngày càng đông hơn về chủ thể.. Chương trên đă chứng minh và kết luận : dân chủ và phát triển vừa là nhân vừa là quả của nhau, nương tựa vào nhau, bồi bổ cho nhau đẩy lịch sử tiến tới. Như vậy, dân chủ đă xuất hiện từ bên trong lịch sử và, như một ḍng sông tư tưởng lớn chảy suốt quá tŕnh tiến hoá nhân loại : thời cổ đại với dân chủ ở Hy Lạp, thời trung đại với dân chủ quư tộc và dân chủ nông dân, thời cận đại với dân chủ tư bản và dân chủ XHCN.

 

 1 – Dân chủ thời cổ đại - Người ta thường cho dân chủ Athens là những biểu hiện dân chủ đầu tiên của nhân loại. Ba trăm năm trước công nguyên, tại thành Athens đă có những sinh hoạt dân chủ. Dân chúng tụ tập ở quảng trường tranh luận với nhau về mọi vấn đề, từ việc bầu các vị thẩm phán, cho đến chính sách quốc gia…, và người ta bỏ phiếu. Thực ra, trước đó, xă hội nguyên thuỷ cũng đă là xă hội dân chủ. Trong cuốn “ Nguồn gốc gia đ́nh, tư hữu và nhà nước”, F. Engels đă nói đến những cơ quan có gốc rễ trong nhân dân. Ông cho rằng toàn bộ chế độ thị tộc là một tổ chức của các bộ lạc nhằm giải quyết tự do những công việc của ḿnh và những cơ quan đó là công cụ có ư chí của nhân dân. Đấy là biểu hiện của dân chủ.

 

 2 -  Dân chủ trong xă hội chiếm hữu nô lệ -  gồm hai dạng tiêu biểu :

 

   -  Dân chủ Athens. Tại đây, ngoại trừ những kiều dân, phụ nữ, nô lệ, tất cả các công dân, các chủ hộ nam đều được tham gia trực tiếp vào chính trị.

 

  -  Dân chủ Rome – là dân chủ của quư tộc. Quư tộc thời này không chỉ gồm những người có của, có chức sắc mà c̣n là cả những người giỏi giang, được xem là tinh hoa trong xă hội. Trong khi dân chủ Athens bị các nhà triết học cổ đại phê phán là thiếu yếu tố điều tiết, tức là pháp luật, th́ dân chủ quư tộc Rome có chế độ chấp chính quan để ḱm chế nhau. Như vậy trạng thái đối trọng trên chính trường đă có từ thời cổ đại chứ không đợi đến các thời đại dân chủ sau này.

 

 3 -  Dân chủ trong xă hội trung cổ - gồm 3 dạng :

 

  -  Dạng thứ nhất là Vetche gồm các cuộc họp của các hội đồng quư tộc, các hội nghị nhân dân thời cổ và trung đại Nga từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV nhằm giải quyết những vấn đề hoà b́nh và chiến tranh, nhằm tạo điều kiện cho xă hội tỏ rơ thái độ với các vương công thông qua các luật lệ, các quyết định và các cuộc thương thuyết với các địa phương. Vetche có khi là diễn đàn bảo vệ quyền lợi của nhân dân, có khi được vua chúa phong kiến dùng để hạn chế quyền của các vương công.

 

  -  Dạng thứ hai là dân chủ nghị trường sơ khai ở Tây Âu, cụ thể là ở Đức. Theo Migrazian, kiểu nghị trường sơ khai đă có đủ 3 tính chất của dân chủ tư sản tiến bộ sau này : quyền lực công khai, dân chủ đại diện, cơ chế kiềm chế, đối trọng.

 

  -  Dạng thứ ba là dân chủ thị thành, xuất hiện sau cùng trong ḷng xă hôi trung cổ, gồm các bourg, các tổ chức phường hội của thợ thủ công và dân buôn để chống lại thuế má và sự áp chế của vua chúa.

 

  4 -  Dân chủ tư sản -  nẩy nở từ chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hưng và phát triển thành chủ nghĩa duy lư, dẫn tới cách mạng tư sản. Trước thời phục hưng, châu Âu ch́m đắm trong chế độ phong kiến. Tư tưởng thống trị là tư tưởng phong kiến với thần học chuyên quyền. Kitô giáo điều khiển đời sống tinh thần lẫn cuộc sống trần tục, không có đời sống tự do cá nhân. Chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hưng ra đời đă nêu lên vấn đề con người, đề cao cá nhân, đặt đúng vị trí con người trong thế giới vĩ mô, đề cao tư hữu …

 

Thay cho Kito giáo đề cao Đức Chúa Trời, chủ nghĩa nhân văn đặt con người vào vị trí ưu tiên. Nhà nhân văn học Ư J. P. Mirandole nói “ Tôi đọc trong sách Ảrập rằng người ta không thấy trên đời này cái ǵ đáng ca ngợi hơn là con người  ”. Dựa vào các thành tựư khoa học kiệt xuất của hàng loạt bộ óc vĩ đại như Leonardo da Vinci, Giorđano Bruno … các nhà tư tưởng Phục Hưng cho rằng : sự sáng tạo của con người có thể cao hơn tạo hoá.

 

Chủ nghĩa nhân văn Phục Hưng sớm thấy động lực của sự tiến bộ xă hội không phải là thần học, là các tín điều mà là những lợi ích vật chất. Machiavelli (1469 – 1527 ) tuyên bố : sự tranh thủ và bảo vệ quyền tư hữu là động lực mạnh mẽ nhất của con người. Quyền tư hữu là một bước nhẩy vọt vĩ đại cuả con người trên con đường tự khẳng định và tự giải phóng, là cơ sở sống c̣n của mỗi con người.

 

Chủ nghĩa duy lư là xu hướng triết học lấy lư trí là cơ sở cho nhận thức và ứng xử của con người. Theo chủ nghĩa duy lư, lư trí chứ không phải thực tiễn và kinh nghiệm, không phải thần thánh, là nguồn gốc của tri thức và tiêu chuẩn chân lư của nó. Blaise Pascal định nghĩa: “ Người là cây sậy biết tư duy ”. Rene Descartes nói : “ Cogito, ergo sum ” ( Tôi tư duy, tức tôi tồn tại ).

 

Chủ nghĩa duy lư là một trong những nguồn gốc triết học của hệ tư tưởng khai trí với những ư niệm về tự do, dân chủ, giải phóng con người.

 

Voltaire cho tự do và tất yếu không đối lập nhau, độc lập nhau mà tính tất yếu phổ biến là tiền đề cho tự do của con người, con người được tự do khi được làm cái ḿnh mong muốn. Theo Voltaire, tự do trong xă hội là hoạt động theo quy luật, theo pháp luật. Ông chống chế độ nông nô, đấu tranh cho sự b́nh đẳng của công dân trước pháp luật

 

Denis Diderot lên án những hủ bại của chế độ Nga hoàng, chủ trương chế độ cộng hoà, kêu gọi những kẻ nô lệ hăy khởi nghĩa để tự giải phóng khỏi ách thống trị cường quyền. Ông chủ trương kết hợp thật hợp lư “ lợi ích cá nhân con người với lợi ích xă hội ”.

 

Tư tưởng vĩ đại của Montesquieu chứa đựng trong bộ sách đồ sộ 31 cuốn : “ Tinh thần pháp luật ” được tái bản 20 lần khi ông c̣n sống. Montesquieu trở thành kẻ thù nguy hiểm nhất của chế độ chuyên chế là do ông rất thực tế với lư luận phân biệt ba quyền : quyền lực hạn chế quyền lực do trật tự các sự vật, đó là phương châm cơ bản của bộ “ Tinh thần pháp luật”. Ảnh hưởng của bộ sách rất lớn. Từ tư tưởng quân chủ tự do đă xuất hiện nền quân chủ hạn chế rồi đến quân chủ theo nghi viện. Lối phân loại của Montesquieu c̣n dẫn đến chế độ cộng hoà có tổng thống sau này ở Hoa Kỳ. Ngày nay tư tưởng phân lập quyền lực của Montesquieu vẫn là ngọn đuốc sáng cho các chế độ chính trị tiên tiến ngăn ngừa độc quyền độc đoán.

 

J. J. Rousseau cho rằng để kẻ mạnh không thể cưỡng bức người yếu phục tùng cần làm sao cho đồng thời chẳng ai phải phục tùng chủ và cũng chẳng ai có quyền bắt kẻ khác phải phục tùng ḿnh cần chuyển giao quyền lực. Chuyển quyền lực của quân vương, của một người cho tất cả, cho nhân dân. Ông viết trong “ Khế ước xă hội ” : “ Mỗi người chúng ta đặt chung cá nhân ḿnh và toàn bộ sức mạnh của ḿnh dưới sự chỉ đạo tối cao của ư chí chung ”. Với lư luận về khế ước, tư tưởng của Rousseau xem trọng cả về b́nh đẳng vầ tự do nên đ được các lănh tụ cách mạng 1789 hưởng ứng nhiệt liệt, nhất là đối với các đoạn như: “ Tư tưởng về những đại biểu là hiện đại; nó chẳng đến với ta từ chính quyền phong kiến, từ chính quyền bất công và vô lư, trong đó, loài người bị giáng cấp và ở đó tên con người bị làm nhục. Trong các nước cộng hoà cổ và ngay cả trong nền quân chủ, chưa bao giờ nhân dân có đại biểu. Người ta chưa hề biết từ ngữ ấy ”.

 

Lư luận về khế ước ngày nay vẫn c̣n được nhắc đến khi bàn về dân chủ ; tư tưởng tự do của Rousseau vẫn nguyên vẹn v́ theo ông, tuân theo mọi người là chẳng tuân theo ai cả khi mỗi người là bộ phận của toàn thể.

 

Tư tưởng của các nhà dân chủ Khai Trí thấm sâu vào giới trí thức rồi lan toả ra quần chúng qua các pḥng trà, tiệm cà phê và các câu lạc bộ dẫn đến cao trào cách mạng 1789 – 1794 mở đầu bằng hai sự kiện nổi bật : việc phá ngục Bastilles ( 14-7-1789 ) giành lấy tự do, và đêm 4-8-1789, đốt sạch các văn tự, bắt đầu xoá bỏ đặc quyền đặc lợi phong kiến, giành lấy b́nh đẳng.. Hai mươi hai ngày sau, Quốc hội lập hiến Pháp trịnh trọng công bố Tuyên ngôn nhân quyền và quyền công dân.

 

Tinh thần dân chủ tư sản loang rộng nhanh chóng trên bản đồ thế giới thúc đẩy nhịp độ phát triển quốc tế ngày càng mạnh mẽ. Vào năm 1980 trên thế giới c̣n có 56% nhân loại sống trong cảnh nghèo ở mức dưới 2USD ( 30 ngàn đồng VN ) /ngày, đến năm 2000 tư số đó chỉ c̣n 22%.. Bởi v́, năm 1980, theo báo cáo của Ủy hội Nhân quyền Liên Hiệp Quốc có 81 quốc gia đă tiến bước trên đường dân chủ hoá đáng kể, trong đó có 31 nước đổi từ chế độ quân phiệt sang chế độ dân chủ. Có 140 quốc gia trong số khoảng 200 nước trong thế giới hiện đă có bầu cử tương đối tự do, và 81 quốc gia trong số đó thực sự có tự do.

 

 6 -  Dân chủ xă hội chủ nghĩa –

Lên án dân chủ tư sản là dân chủ h́nh thức, các lư thuyết gia Marxist cho rằng dân chủ XHCN thực chất hơn, ưu việt hơn v́ cơ sở kinh tế của nó là sở hữu xă hội về tư liệu sản xuất. Người ta hùng hồn tuyên bố rằng : Dân chủ XHCN là nền dân chủ cao nhất trong lịch sử loài người; dân chủ XHCN là triệu lần hơn dân chủ tư sản.

 

Lịch sử đă chứng minh, thực tế không phải vậy.

 

Nói dân chủ XHCN là nền dân chủ cao nhất v́ nó dựa trên sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất cho nên có thể h́nh thành “ư chí chung và duy nhất ”. Điều này là không tưởng v́ như đă thấy tại các nước XHCN, cho dù giai cấp không c̣n nữa th́ vẫn c̣n quyền lợi của các dân tộc, sắc tộc, giai tầng, tôn giáo, tín ngưỡng… khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau gay gắt. Dân chủ XHCN cũng không hề là của số đông trong xă hội. Dân chủ XHCN trước hết là của giai cấp công nhân, nhưng giai cấp công nhân ở các nước XHCN, nhất là ở Việt Nam, chỉ là một số ít trong dân số. Cơ sở vật chất -kỹ thuật vào tay giai cấp công nhân là một trong những điều kiện thực thi dân chủ của công nhân nhưng không nên quên rằng có 2 loại quyền dân chủ. Có loại quyền dân chủ phải dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật để thực thi, nhưng có loại quyền dân chủ không, hoặc ít liên quan đến cơ sở vật chất- kỹ thuật ( nhưng nhiều khi thiêng liêng hơn ) như : tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại …. Tự do cũng có hai loại : tự do để ( liberté pour ) như quyền tự do mưu cầu hạnh phúc và quyền tự do chống ( liberté contre ), chống lại sự xúc phạm vô cớ của xă hội và của nhà nước vào cá nhân. Thiếu quyền tự do này th́ tuy roi vọt không quật vào lưng con người, nhưng nỗi đau ṿ xé tận tâm can họ, đặc biệt là với trí thức. Trong cuốn các tự do công cộng, J. Rivero giải thích nguyên nhân chính của hiện tượng ly khai và trốn chạy khỏi các nước XHCN là do “ Sự thiếu quyền tự do lựa chọn cũng đủ để làm cho cuộc sống trở thành không thể chịu đựng nổi đối với những ai đ̣i hỏi được sống và suy nghĩ độc lập ”.

 

Dân chủ XHCN được xem là đồng nhất với chuyên chính vô sản. Hăy nghe Engels nói trong cuốn “ Những nguyên lư của chủ nghĩa cộng sản ” : “Đối với giai cấp vô sản, chế độ dân chủ sẽ trở nên hoàn toàn vô ích nếu nó không được dùng ngay lập tức làm phương tiện để thi hành những biện pháp rộng răi trực tiếp đánh vào chế độ tư hữu và bảo đảm sự sinh sống của giai cấp vô sản ”. C̣n Lenin th́ khẳng định : “ Chuyên chính là một chính quyền dựa trực tiếp vào bạo lực và không bị một luật pháp nào hạn chế cả. Chuyên chính cách mạng của giai cáp vô sản là một chính quyền do giai cấp vô sản giành được và duy tŕ bằng bạo lực đối với giai cấp tư sản, chính quyền không bị một luật pháp nào hạn chế cả ”. Lenin đă viết như vậy và đă trực tiếp ra lệnh : “ Lợi dụng nạn đói Nga để lột trần các giáo sỹ Nga và làm cho họ sợ đến 50 năm nữa ”.

 

Nói dân chủ XHCN triệu lần hơn dân chủ tư bản v́ nó tạo điều kiện cho sự “ nở hoa ” của con người nhưng thực tế con người mất quyền tự do ngôn luận, mất quyền tự do tư tưởng mà chỉ được nhất nhất phục tùng hệ tư tưởng cùng với Đảng. Đă có một thời nhà văn không viết theo hiện thực XHCN th́ bị đào thải, bị đầy đoạ ( Lenin đă từng mắng nhà văn thiên tài Nga V.G. Korolenko “ Không phải là trí tuệ mà là cục phân của dân tộc ” ), nông học phải theo Mítsurin- Lưsenko, bác sỹ chỉ được chữa bệnh tâm thần theo phương pháp Paplov

 

 VI – Dân chủ cho Việt Nam

 

 1 - Việt Nam vốn là một nước có truyền thống dân chủ.

 

Triệu Đà chiếm được nước Âu Lạc của Thục An Dương Vương, sát nhập vào với hai tỉnh Quảng Đông , Quảng Tây lập ra nước Nam Việt và đem Khổng giáo vào Việt Nam.

 

Theo Khổng tử, dân chỉ là một tập hợp đa số vô danh, hầu như không bao giờ được tính đến với tư cách là cá nhân cụ thể. Khổng tử dạy thiên hạ rằng : chủ của thế giới là trời, chủ của xă hội là thiên tử “ đại thiên hành hóa, thế thiên hành đạo ”. Dưới thiên tử là chư hầu rồi đến sĩ đại phu; cuối cùng mới là dân. Trong xă hội chỉ có những thần dân là tôi tớ của vua quan.

 

May sao, thế kỷ XI –XVII, bên cạnh Nho giáo, và đặc biệt là khi Nho giáo thoái trào th́ hai giáo lư khác : Đạo Phật và Đạo Lăo tồn tại gần như đồng đẳng, thậm chí triều Lư c̣n xem Phật giáo là quốc đạo.

 

Phật giáo ngoài tính nhân bản c̣n chứa đựng những tiền đề lư thuyết và trong hoạt động thực tiễn có nhiều biểu hiện nguyên tắc công bằng, b́nh đẳng - một trong những cốt lơi của dân chủ. Một tập đoàn sống theo lối dân chủ cổ xưa nhất trong lịch sử nhân loại chính là tăng đoàn sống vào thời Phật Thích Ca vào thế kỷ thứ 6

trước công nguyên. Thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, vua Asoca đă triệu tập những cuộc họp thảo luận về giáo lư với các “quy tắc nghị hội ” đă được ấn định giúp cuộc thảo luận tiến hành dân chủ và trật tự. Về sức cảm hoá hoà đồng của đạo Phật, ở Việt Nam, văn bia chùa Chiêu Phúc –Hà Bắc c̣n ghi: “ Nhà Phật lấy họa phúc để cảm động ḷng người, sao mà được ḷng người tin đến thế.. Trên từ Vương công, dưới đến dân thường, hễ bố trí đến việc nhà Phật dù hết tiền vẫn không sẻn tiếc”.

 

Đạo Lăo thường được dùng để thu hút nông dân tham gia vào các cuộc bạo động chống lại cường hào ác bá địa phương và quan lại trung ương. Thời Lư Nhân Tông có Lư Giác cầm đầu cuộc bạo động ở Diễn Châu, đời Trần Phế Đế có Nguyễn Bố, đời Hồ có Trần Đức Huy …Thế vậy đó, nhưng cái tư tưởng xuất thế và vô vi của Lăo Tử lại lưu truyền trong huyền thọai Đức Thánh Gióng về một vị anh hùng nông dân dẹp xong giặc Ân, không màng quyền thế, phóng ngựa bay lên trời.  

 

Ngoài những pho tiếu lâm, những nhân vật hề, tinh thần nhân bản, ư thức chống đối cường quyền đây đó được thể hiện khá nhiều trong dân ca và ca dao Việt Nam : “ Người ta là hoa đất”, “ Thương người như thể thương thân ”, “ Lệnh ông không bằng cồng bà …”, “Nhất sỹ nh́ nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nh́ sỹ ”, “ Bầu ơi thương lấy bí cùng ”… Những mầm tư tưởng nhân văn ấy c̣n lấp lánh cả trong Bần nữ thán, Cung óan ngâm khúc, Truyền kỳ mạn lục, Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều …

 

Sau đêm trường Bắc thuộc 1000 năm, ở Việt Nam đă xuất hiện một thể chế dân chủ sơ đẳng trong các cộng đồng làng xă . Mỗi làng là một “ vương quốc ” nhỏ khép kín với luật pháp riêng mà các làng gọi là hương ước và các “ tiểu triều đ́nh ” riêng, trong đó hội đồng kỳ mục là cơ quan lập pháp, lư dịch là cơ quan hành pháp. Sự biệt lập đó tạo nên truyền thống   “ Phép vua thua lệ làng ”, thể hiện quan hệ dân chủ đặc biệt giữa nhà nước phong kiến với làng xă ở Việt Nam. Truyền thống dân chủ này làm cho, khác với Phương Tây và Trung Hoa, nhà nước phong kiến Việt Nam giống với làng xă. Ở đây, nước như là sự mở rộng của làng. Làng ứng xử với nhau theo t́nh cảm tạo nên truyền thống dân chủ; nước tuy có tổ chức chặt chẽ hơn nhưng trên đại thể vẫn duy tŕ truyền thống dân chủ ấy.

 

Tính cộng đồng làng xă là cơ sở tạo nên hàng loạt lĩnh vực cộng đồng khác: đồng tộc, đồng niên, đồng nghiệp, đồng hương …và, trong lĩnh vực quốc gia là đồng bào. Như vậy, tính cộng đồng làng xă coi mọi người trong thôn xóm đều là anh em đă được mở rông thành ư thức cộng đồng quốc gia.  

 

Truyền thống dân chủ giữa lănh đạo với dân chúng Việt Nam duy tŕ gần như suốt lịch sử. Sử sách Trung Hoa c̣n ghi những nhận xét về mối quan hệ vua quan với dân chúng ở Việt Nam là: không phân biệt rạch ṛi ngôi thứ, các quan lại địa phương có thể gọi các con hát vào cùng nắm tay nhảy múa hát ḥ. Một sứ thần Trung Hoa đến Việt Nam năm 990 đă ghi chép như sau: “ Lê Hoàn đi chân đất xuống nước và câu cá bằng một cần câu tre dài. Mỗi lần nhà vua câu được một con cá th́ quần thần nhẩy lên reo mừng ”. Vua Việt Nam không quá chuyên chế độc đoán như Phương Tây và tạo cho ḿnh một thế uy nghiêm của thiên tử như ở Trung Hoa.

 

Truyền thống dân chủ cũng được thể hiện trong cả bộ máy lănh đạo quốc gia. Theo giáo sư-viện sỹ Trần Ngọc Thêm trong cuốn “ Cơ sở văn hoá Việt Nam ” th́, khởi nguồn từ tổ chức làng xă với những h́nh thức Hội đồng Già làng, Hội đồng Kỳ mục, truyền thống lănh đạo tập thể ở cấp quốc gia đă đi từ quan hệ huyết thống như vua chị-vua em ( Trưng Trắc, Trưng Nhị ), vua anh-vua em ( Ngô Xương Văn-Ngô Xương Ngập; ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ ); vua cha -vua con với h́nh thức Thái thượng hoàng ( thời Trần, thời Hồ và thời Mạc ), đến quan hệ xă hội mang tính pháp lư vua chúa ( vua Lê-chúa Trịnh ) theo nguyên tắc   “ Hoàng gia giữ uy phúc, vương phủ giữ quyền bính ” ( vua có địa vị cao sang nhưng quyền lực nhỏ, c̣n chúa địa vị thấp hơn nhưng quyền lực lớn ).

 

Truyền thống dân chủ nước ta c̣n được thể hiện trong việc tuyển chọn người vào bộ máy quan lại. Với các tước vị công, hầu, bá, tử, nam, bộ máy quan lại phong kiến Phương Tây thường được bổ nhiệm theo cha truyền con nối. Ở Việt Nam, việc bổ nhiệm được tiến hành qua thi cử. Con nhà nghèo nếu thông minh, thi cử đỗ đạt đều được bổ nhiệm làm quan, từ hào lư trong thôn làng đến các chức quan rất to trong triều đ́nh.

 

Ở Việt Nam, nhà nước xuất hiện khá sớm. Vào khoảng thiên niên kỷ thứ 2 trước công nguyên, xă hội Việt cổ đă có những biến chuyển nhất định. Trên cơ sở sức sản xuất phát triển, những yếu tố mới xuất hiện làm nẩy sinh chế độ tư hữu không thể hiện dưới h́nh thức tư hữu về ruộng đất mà dưới h́nh thức sở hữu nhà nước. Nhà nước đầu tiên là nhà nước Văn Lang của các vua Hùng ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII, thứ VI trước công nguyên.

 

Luật pháp Việt Nam cũng đă h́nh thành từ rất sớm.  Trong lời tâu của Mă Viện gửi vua Hán Quang Vũ sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng có đoạn : “ Luật của dân Việt khác luật của người Hán đến hơn 10 điều  ”. Sau khi dẹp yên loạn 12 sứ quân, để củng cố chính quyền, năm 968 Đinh Tiên Hoàng đă ban bố một đạo luật với những h́nh phạt rất hà khắc. Ngay giữa sân triều đặt vạc dầu sôi và chuồng hổ báo. Tội đồ bị ném vào vạc dầu sôi hoặc thả vào chuồng cho thú dữ xé xác để uy hiếp người chứng kiến. Thời Lư có bộ luật H́nh thư gồm 3 quyển do Lư Thần Tông ban hành năm 1042. Thời Trần có bộ Quốc triều h́nh luật gồm 1 quyển ban hành năm 1244. Bộ Quốc triều h́nh luật đời Lê được gọi là Luật Hồng Đức do Lê Thánh Tông ban hành năm 1489 gồm 6 quyển với 722 điều. Bộ Luật Gia Long đời Nguyễn ban hành năm 1815 và trở thành Hoàng triều luật lệ.

 

Luật Hồng Đức thể hiện tinh thần dân chủ tốt hơn luật Trung Hoa. Trong khi luật Trung Hoa chú trọng nhiều đến tôn ti, đẳng cấp ( cha con, vua tôi …) th́ Luật Hồng Đức giành phần đáng kể bảo vệ quyền phụ nữ. Luật Hồng Đức quy định con gái được hưởng quyền thừa kế tài sản b́nh đẳng ngang con trai.Con gái, cháu gái cũng được đảm nhiệm việc hương khói khi nhà không có con trai, cháu trai. Nếu con trai trưởng c̣n nhỏ th́ trách nhiệm tế tự tổ tiên thuộc về bà quả phụ. Phụ nữ có quyền từ hôn nếu thấy vị hôn phu bị ác tật, bị phá sản hay là một tội phạm. Phụ nữ có quyền li dị nếu trong 5 tháng người chồng bỏ rơi vợ, không đi lại.

 

Luật Gia Long sao phỏng luật Trung Hoa nhiều hơn luật Hồng Đức, tuy nhiên vai tṛ người phụ nữ vẫn được xem trọng hơn ở Trung Hoa. Theo luật Trung Hoa đàn ông có được 7 cớ        ( thất xuất ) để bỏ vợ. Luật Hồng Đức có sao chép “ thất xuất ” nhưng bổ sung “ tam bất khả xuất ” ( ba trường hợp không được ly dị vợ : đă để tang cha mẹ chồng, đă làm cho nhà chồng trở nên giầu có, ngoài nhà chồng ra, không c̣n nơi nương tựa ) để bảo vệ quyền lợi phụ nữ. Luật Gia Long cũng cấm chồng không được bán vợ, không được bắt vợ làm thuê, không được hạ vợ ḿnh xuống làm nàng hầu.

 

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng dân chủ Pháp 1789. của cách mạng Trung Hoa 1911 và của Phong trào Duy Tân Nhật Bản do Minh Trị thiên hoàng chủ xướng, tư tưởng lập hiến lần đầu đă xuất hiện trong trí thức Việt Nam. Phạm Quỳnh và Bùi Quang Chiêu kiến nghị ban bố một bản hiến pháp sao cho vừa bảo đảm được quyền điều hành đất nước của Hoàng Đế, quyền bảo hộ của chính phủ Pháp, đồng thời quyền dân chủ cho nhân dân.

 

Vào năm 1902, tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản Phương Tây và tư tưởng cải cách đất nước của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Bạch, Phan Chu Trinh đề xướng chủ trương “ Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh ”, đồng thời đề cao tư tưởng dân chủ và lập hiến. Ông đ̣i phế bỏ chế độ quân chủ chuyên chế, xây dựng chế độ dân chủ.. Ông nói: So sánh hai cái chế độ quân trị và dân trị ta thấy chủ nghĩa dân trị hay hơn chủ nghĩa quân trị nhiều lắm. Lấy theo ư riêng của một người hay của triều đ́nh mà trị một nước th́ cái nước ấy không khác nào một đàn dê được no ấm vui vẻ hay đói khát khổ sở tuỳ theo ḷng người chăn. C̣n theo chủ nghĩa dân trị th́ quốc dân lập ra hiến pháp, luật , đặt ra các cơ quan để lo việc chung của cả nước, ḷng quốc dân thế nào th́ làm thế ấy, dù không có người tài giỏi th́ cũng không đến nỗi phải để dân khốn khổ làm tôi mọi một nhà, một họ nào ”. Ông phân tỏ : “ Trong nước có hiến pháp, ai cũng phải tôn trọng hiến pháp, cái quyền của chính phủ cũng bởi hiến pháp quy định cho …. Khi có điều ǵ vi phạm đến pháp luật th́ người nào cũng như người nào, từ ông tổng thống cho đến một người nhà quê cũng chịu theo pháp luật như nhau ”.

 

Những khuyến nghị mạnh mẽ này chưa kịp hiện thực hoá th́ cách mạng Tháng Tám đă nổ ra.

 

  2 -  Đẩy mạnh công cuộc dân chủ hoá đất nước

 

Các h́nh thái dân chủ, các sinh hoạt dân chủ đă xuất hiện trong lịch sử nước ta c̣n sớm hơn cả ở rất nhiều nước Phương Tây. Tư tưởng dân chủ, tinh thần thượng tôn pháp luật đă nẩy nở khá sớm và phát triển ngày một cao từ cổ đại, qua thời Bắc thuộc đến thời Pháp thuộc. Tiếc rằng, tất cả đă chựng lại sau Cách mạng Tháng Tám và ngày càng suy thoái trong chế độ Cộng hoà Xă hội Chủ nghiă Việt Nam.

 

Từ chỗ quyền sở hữu cá nhân được tôn trọng, đến bị tước đoạt. Từ chỗ buôn bán, làm ăn được tự do, đến ngăn sông, cấm chợ. Từ chỗ báo chí tư nhân cũng được phát hành, đến cấm tiệt. Từ chỗ đ́nh, chùa, đền, miếu, nhà thờ … được xây dựng khắp làng bản, thôn trang, thị thành, đến chỗ đây đó bị triệt phá tan hoang. Văn học hiện thực phê phán đang nở rộ hàng loạt tác phẩm nổi tiếng của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan … bị bóp chết.  Các tổ chức xă hội tự do : Hội hướng đạo, Hội ái hữu …. bị giải tán …

 

Luật pháp không những không tiếp tục được hoàn thiện mà bị phế bỏ ! Trường đại học Luật đă được thành lập hồi Pháp thuộc bị đóng cửa. Nhiều luật gia giỏi bị đối xử tồi tệ.

 

Trong khi ngay từ thượng cổ La Mă Cicero đă viết : “ Chúng ta đều là nô lệ của luật pháp, v́ thế chúng ta được tự do ” và chính Karl Marx cũng thừa nhận “ Bộ luật là kinh thánh tự do của nhân dân ” th́ chủ tịch Hồ Chí Minh dưới bút danh CB trong loạt bài lên án “ Mỹ quốc là nước xấu ”, tố cáo Mỹ không có dân chủ v́ ban hành quá nhiều đạo luật. Chính từ đấy, ở Việt Nam đă h́nh thành một quan niệm phổ biến rất kỳ lạ : không luật pháp, không kỷ cương, là dân chủ. Cho nên, thấy người đi nghênh ngang giữa đường, bất chấp luật lệ giao thông người ta bảo dân ḿnh được tự do quá trớn. Phóng uế bừa băi nơi công cộng cũng là được tự do quá trớn. Trong hội nghị, không tôn trọng quyền điều khiển của chủ tọa, cứ hăng lên là ầm ào như chợ vỡ, người ta bảo dân ḿnh được dân chủ quá trớn. Học tṛ bất chấp nội quy học đường, con cái nói năng trống không với ông bà, cha mẹ, cũng bảo là dân ḿnh được dân chủ quá trớn … Cứ như là ân huệ của Đảng, của cách mạng ban cho bị lạm dụng.

 

Điều 1 - Hiến pháp 1946 có ghi : “ Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt ṇi gíông, gái trai, giầu nghèo, tôn giáo ”, và điều 10 tuyên bố : “ Công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài ”. Nhưng hiến pháp cứ bị sửa đổi theo hướng mỗi lần càng siết chặt các quyền tự do và, nền dân chủ Việt Nam từ đấy cứ thế xuống cấp dần. Cho đến khi Lê Duẩn tuyên bố : “ Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước chuyên chính vô sản” (  Điều 2 – Hiến pháp 1980 ) th́ nền dân chủ cộng ḥa vốn rất èo uột cũng bị khai tử nốt. Thủ tướng Phạm văn Đồng đă phải thú nhận với một nhà cách mạng lăo thành Pháp : “ Độc lập đă giành được, thống nhất đă thành công, nhưng vấn đề dân chủ vẫn nguyên vẹn, chưa được giải quyết ”.

 

Không có dân chủ nên mặc dù “ độc lập đă giành được, thống nhất đă thành công ”, mặc dù đă được yên hàn kiến thíết trong ḥa b́nh nhưng đất nước cứ thế ngày càng lụn bại. May sao, nhờ hệ thống xă hội chủ nghĩa sụp đổ, sau Đại hội VI, Việt Nam từ bỏ nền kinh tế kế hoạch tập trung, băi bỏ ngăn sông cấm chợ, ngả theo kinh tế thị trường.

 

Mặc dù tổng bí thư Nguyễn văn Linh đă hô hào cởi trói cho văn nghệ, mặc dù đường đă rộng gấp mấy lần tám thước, mặc dù đă lác đác những ngôi nhà cao hơn chục tầng … nhưng dân chủ cho nhân dân th́ vẫn chỉ nhỏ giọt rất dè xẻn. Mấy năm gần đây người ta mới như nhứ ban bố chủ trương “ dân chủ ở cơ sở ”.

 

Tại sao lại chỉ được dân chủ ở cơ sở ? Tại sao lại chỉ cần dân chủ ở cơ sở ? Đây là một đường lối, một biện pháp khoa học hay chỉ là một thủ đoạn lừa mỵ ? Phải chăng người ta muốn các thần dân cứ tha hồ đấu đá, căi cọ, phê phán nhau ở phía dưới. Chỉ có địa phương sai, chỉ có địa phương làm bậy, trung ương bao giờ cũng đúng, cũng anh minh, Đảng bao giờ cũng sáng suốt. Cho nên cán bộ địa phương mới chỉ vơ bèo gạt tép được ít đ̣ng đong cân cấn th́ bị bà con xô vào móc họng ra mà quên những con mèo núc ních trên kia đang tha lôi hàng thúng cá bự. Mấy vị quan chức Thái B́nh bớt xén từ đường, trường, trạm ra xây được mấy cái nhà mái bằng, mua được vài chiếc xe máy th́ ăn nhằm ǵ so với những biệt thự được “ phân phối ” bán đi kiếm hàng chục ngh́n cây vàng, những chiếc xe hơi biếu tặng trị giá hàng tỷ đồng. Chữ cơ sở ở đây mới thật mơ hồ làm sao. Chẳng nhẽ phải chỉ đạo dân chủ hóa xong ở xóm rồi mới lên thôn, rồi mới lên xă, rồi mới lên huyện, rồi mới lên tỉnh …Thế th́ bao nhiêu thế hệ nữa cho xong. Mà dù có dân chủ hóa xong ở tất cả các cơ sở th́ nước ta vẫn là một nước không dân chủ. Trong khi, nếu có dân chủ ở trung ương, ở cấp quốc gia th́ lập tức có dân chủ ở tất cả các cơ sở.  

 

Đấu tranh thiết lập lại truyền thống dân chủ và đẩy mạnh công cuộc dân chủ hóa đất nước là yêu cầu hết sức bức thiết, là nghĩa vụ thiêng liêng và cao cả của mọi người dân Việt Nam ngày nay. Sự nghiệp này có thể được tiến hành bằng những phương thức đa dạng dựa trên hai kịch bản :

 

  -  Một là : Đảng cộng sản Việt Nam qua đấu tranh nội bộ, bộ phận cấp tiến thắng thế hợp cùng sức ép của các lực lượng dân chủ trong, ngoài nước và nước ngoài nhận thức được xu thế tất yếu, từ bỏ bớt những đặc quyền đặc lợi, tự cải hóa đặng ḥa nhập được vào trào lưu chung tạo nên ḍng thác cách mạng, bằng phương thức ḥa b́nh đẩy sự nghiệp dân chủ hóa đất nước tiến tới .

 

  -  Hai là : do ngoan cố bám giữ những lợi quyền bất chính, phải tận dụng mọi thủ đoạn tàn bạo nhằm duy tŕ chế độ độc tài, chống lại xu thế dân chủ hóa, đảng CSVN ngày càng đối lập và thù địch với nhân dân làm dấy lên làn sóng cách mạng bạo lực lật đổ chính quyền, Đảng không chỉ mất quyền lănh đạo mà sẽ sụp đổ. Một chính quyền mới được thiết lập, xây dựng chế độ dân chủ không có đảng CSVN.

 

Kịch bản thứ hai nếu diễn ra sẽ hết sức đau ḷng. Đảng CSVN sụp đổ sẽ tạo ra khoảng trống quyền lực nguy hiểm, cơn chấn động chính trị từ đây sẽ kéo dài không biết đến bao giờ. Khác với Liên Xô và Đông Âu, ở Việt Nam, do những lỗi lầm hết sức tai hại qua các vụ Nhân văn –Giai phẩm, qua Cải cách ruộng đất, qua cuộc chiến Nam Bắc tương tàn với hàng vạn hồn oan Mậu Thân, hàng triệu vong linh tức tưởi dưới ḷng biển trên đường vượt biên và trong các trại cải tạo … đă gây nên ngàn, triệu nỗi hờn óan. Những oán hờn này là thực tế và chính đáng. Tuy nhiên, mọi óan hờn ấy cần nên được tiêu tan bằng ḥa giải, bằng cảm thông, bằng đền bồi ở mức có thể nhất đặng ḥa hợp v́ lợi ích chung và v́ tương lai dân tộc. E rằng, hiện vẫn lấp ló đâu đó hàng loạt thế lực cơ hội ở trong và ngoài nước, khi có điều kiện sẽ bừng bừng trỗi dậy, khó bề kiểm soát, v́ thù hận, v́ hám quyền lực và danh vọng bất chính …Cơn chấn động chính trị dù được may mắn kết thúc nhanh chóng do bỗng nhiên xuất hiện một hiền tài thực sự, một anh hùng kiệt xuất th́ đất nước chắc là vẫn khó tránh khỏi tan hoang với đầm đ́a máu và nước mắt, mà, nhân dân ḿnh th́ đă vừa phải nếm trải không biết bao nhiêu gian nan, tang tóc suốt bao năm trường rồi

 

Hăy đồng ḷng hiệp sức, bằng sự suy xét minh mẫn, bằng tài thao lược, ư chí ngoan cường và ḷng bao dung nhân ái tạo t́nh thế thuận lợi cho kịch bản thứ nhất. Kịch bản thứ nhất sẽ được diễn tiến ḥa b́nh với những chủ trương và hành động như sau :

 

  1 -  Ra sức đưa Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới để xây dựng nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh. Ủng hộ chủ trương giành quy chế Tối huệ quốc vĩnh viến của Hoa Kỳ và gia nhập WTO trước tháng 10 năm 2006. Trên tinh thần độc lập tự chủ và giữ ǵn bản sắc dân tộc, chủ động hội nhập có chọn lọc nền văn hóa, khoa học, giáo dục, chính trị của các nước tiên tiến. Cải tổ tư tưởng chính trị, chủ động kết giao để nhanh chóng xây dựng được t́nh hữu nghị Việt Nam-Hoa Kỳ thắm thiết hơn t́nh hữu nghị Việt Nam – Trung Quốc.

 

  2 -  Đấu tranh mạnh mẽ và sắc bén trên lĩnh vưc tư tưởng – chính trị, loại bỏ tư tưởng Mác –Lênin và chủ nghĩa xă hội. Thay thế chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hưỡng xă hội chủ nghĩa bằng nền kinh tế thị trường tự do có sự quản lư của nhà nước. Hủy bỏ chủ trương kinh tế quốc doanh làm chủ đạo, giải tư tất cả những doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ.

 

  3 -  Xây dựng chế độ pháp trị thực thụ, bảo đảm mọi công dân đều có quyền làm những ǵ luật pháp không cấm trong khi quan chức, viên chức nhà nước chỉ được làm những ǵ luật pháp cho phép. Lên án mạnh mẽ, kêu gọi quốc tế trừng phạt tất cả những hành động vi hiến , vi pháp của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, từ việc bắt bớ, giam cầm không xét xử hoặc xét xử không công khai đến việc khám xét, cắt điện thoại, thu giữ bưu phẩm không tuyên bố lư do xác đáng. Thả hết tù nhân lương tâm

 

  4 -  Chấp nhận cho tư nhận được ra báo, được mở nhà xuất bản, tối thiểu, trước mắt một tờ báo và một nhà xuất bản tư nhân. Trong trường hợp chưa được ra báo tư nhân, các tổ chức và cá nhân trong, ngoài nước cùng góp sức xúc tiến mạnh mẽ việc tán phát các tài liệu phục vụ đấu tranh dân chủ hóa qua chuyền tay, qua bưu điện, qua internet và qua hộp thư điện tử. Trong khi người trong nước bị khống chế nghiêm ngặt, các tổ chức và cá nhân ở ngoài nước nên xem trọng việc tổ chức gửi tài liệu vào các hộp thư điện tử cho các ủy viên Trung ương Đảng, các cơ quan Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các cán bộ giảng dạy và học sinh, sinh viên. Làm tốt việc này sẽ có tác dụng tích cực hơn cả một tờ báo.

 

  5 -  Chấp nhận chế độ đa nguyên, đa đảng. Trước mắt đ̣i tái lập đảng Dân chủ và đảng Xă hội ( Việc lập đáng mới vô cùng khó khăn, nếu không được phép, chính quyền sẽ dễ dàng đàn áp. Vả chăng, với một đảng lạ, không chỉ ít người dám theo mà cũng ít người muốn theo. Chỉ tái lập các đảng đă được chính Bác Hồ thừa nhận th́ chính quyền sẽ rất chùn tay đàn áp mà lại sẽ có đông người gia nhập, kể cả đảng viên CSVN ). Không nên để quá nhiều đảng xuất hiện mà chỉ khoảng bốn đảng là lực lượng tiên phong của bốn giới : sĩ, nông, công, thương. Tờ báo dưới h́nh thức tán phát kể trên cần làm cho Đảng hiểu rơ đa đảng chính là con đường sống của đảng CSVN. Nhờ đa đảng mới có cạnh tranh và có tiết chế giám sát giúp đảng CSVN ḱm chế sa sút đang ở mức thảm hại như hiện nay. Có cạnh tranh mới giúp Đảng phấn đấu vươn lên để may ra duy tŕ một trong những vị thế lănh đạo cao đối với đất nước. Độc quyền, độc đóan, đảng phiệt đang hủy hoại Đảng ngày một ghê gớm đến mức nguy cơ tiêu vong đă nhỡn tiền.

 

  6 -  Giải thóat các tổ chức chính trị-xă hội như công đoàn, phụ nữ, thanh niên, hội nông dân, hội cựu chiến binh …  khỏi sự khống chế của Đảng. Mở rộng quyền cho các cá nhân được tự do hội họp tự do tổ chức và thành lập các tổ chức dưới nhiều dạng khác nhau trong hệ thống tổ chức phi chính phủ. Các tổ chức này gồm 2 nhóm : nhóm hoạt động v́ lợi ích chung hay vận động hậu trường có chức năng tư vấn, khuyến cáo nhà nước về các vấn đề thuộc đường lối, chủ trương, chính sách; nhóm hoạt động v́ các lợi ích tư nhân như các hiệp hội kinh doanh, các tổ chức nghề nghiệp hay liên đoàn lao động.  

 

  7 -  Tổ chức bầu cử năm 2007 theo các phương thức tự do thực sự. Xóa bỏ chế độ đảng cử dân bầu. Mỗi đơn vị bầu cử được bầu một số đại biểu ứng với tỷ lệ dân số. Đảng không đề cử ứng cử viên bằng cách áp đặt cho các địa phưong một cách h́nh thức và phi lư. Tất cả những người được đề cử hay ứng cử ở các địa phương đều phải có chương tŕnh tranh cử. Người ra ứng cử phải thu thập được một số chữ kư nhất định trong phạm vi toàn quốc hoặc phải được 2/3 số người ủng hộ tại một hội nghị tổ chức trong khu vực ḿnh làm việc hoặc sinh sống. Tất cả các người được đề cử hoặc ứng cử đều được tự giới thiệu ḿnh trên tất cả các phương tiện thông tin. Ban tổ chức bầu cử phải bị một tổ chức độc lập giám sát.

 

  8 – Băi bỏ chế độ tổng bí thư của một đảng cao hơn người lănh đạo nhà nước và chính phủ. Để tránh biến tướng do mới thoát thai từ chế độ độc tài, không tổ chức phổ thông đầu phiếu trực tiếp bầu ra một tổng thống. Ở chế độ tổng thống, quyền lực được giao quá nhiều cho một người, tổng thống nhiều khi có thể ngang nhiên bất chấp cả quốc hội. Nên xây dựng chế độ đại nghị để người dân có quyền lựa chọn và bầu trực tiếp các dân biểu. Trong chế độ đại nghị thủ tướng phải là người thực sự tài đức v́ chịu sự giám sát chặt chẽ của quốc hội, có thể bị quốc hội băi nhiệm bất cứ lúc nào. Song, ngay cả khi thủ tướng bị thay đổi cũng sẽ không gây khủng hoảng lớn như đối với trường hợp tổng thống. 

 

  9 -  Bộ máy nhà nước phải được tổ chức theo cơ chế tam quyền phân lập cho các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nước nên được tổ chức dưới h́nh thức liên bang theo chế độ tản quyền với khoảng 12 vùng ( tạm căn cứ vào cách chia ra 9 quân khu và 3 khu tự tri trước đây ). Mỗi vùng có một nghị viện, một chính quyền dân cử và một guồng máy hành chánh riêng. Mỗi vùng không có quân đội riêng mà chỉ có cảnh sát riêng nhưng số cảnh sát riêng của vùng không vượt quá số cảnh sát trung ương có mặt trong vùng. Luật pháp trong vùng không được mâu thuẫn với luật pháp trung ương. Các vùng không có tiền tệ riêng, không có đại diện ngoại giao và không được quyền kư hiệp ước với nước ngoài.

 

Trên đây không phải là một lộ tŕnh mà chỉ là phác thảo chủ trương hành động. Không có các bước tuần tự tách biệt mà là một liên hoàn được vạch ra theo thứ tự ưu tiên nhằm dắt dẫn công cuộc dân chủ hóa Việt Nam được đẩy mạnh một cách ḥa b́nh và hữu hiệu.

 

*

Dân chủ là dân mạnh, nước giầu, là tự do, b́nh đẳng, công bằng, là xă hội văn minh. Đấu tranh v́ sự nghiệp đẩy mạnh công cuộc dân chủ hóa đất nước tất gian khó, thậm chí phải hy sinh nhưng đấy là nghĩa vụ không thể thoái thác đối với tổ quốc, với nhân dân. Chúng ta đă từng xả thân v́ cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cuộc cách mạng dân chủ này c̣n thiêng liêng, cao cả hơn. Nụ cười rạng rỡ của tổ quốc Việt Nam dưới ánh ngời dân chủ sẽ là vinh quang, là phần thưởng vô giá cho tất cả những ai đang vững bước tiến lên trong ngọn trào dân chủ.

 

                                                                                         Hà Nội, xuân Bính Tuất

                                                                                          Nguyến Thanh Giang

                                                                            Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lư Máy bay

                                                                                  Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội       

                                                                                           Điện thoại : 5 534370

 

        ----- O -----

 

Chúng ta chỉ có một Tổ quốc

Huỳnh Việt Lang

 

I. Xă hội bị thống trị bởi thiểu số

 

I.1. Temasek không chỉ có ở Thái Lan

 

Suốt mấy tuần qua, dân Thái biểu t́nh ào ạt; có cuộc lên đến hàng trăm ngàn người. Giá như ông Thaksin Shinawatra ở Việt Nam th́ chuyện chẳng có chi là ầm ỹ. Trong nội vụ câu chuyện có nổi lên một cái tên mà nhiều đại gia Việt không xa lạ: tập đoàn Temasek của Singapore. Nội vụ chưa ngă ngũ, song theo như báo cáo của Tổ chức tư vấn về Rủi ro Kinh tế và Chính trị (PERC), điểm tham nhũng của Thái năm nay cao hơn năm trước (2005: 7.20; 2006: 7.64) với viện dẫn về vụ bán Shin Corp cho Temasek.

 

Người ta từng thấy Temasek mua cổ phần của Vinamilk, Kinh Đô…song nổi trội nhất là vụ sở hữu 30% cổ phần công ty hàng không Pacific Airlines với số tiền là 50 triệu USD. Pacific Airlines đă lỗ khoảng 14 triệu USD sau hơn 10 năm hoạt động dưới sự quản lư của Vietnam Airlines. Với lư do bảo vệ ngành hàng không nội địa, các quan chức Bộ Tài chính VN đă loại cả Boeing và Airbus để chọn Temasek, hầu như họ quên rằng Temasek sở hữu 57% vốn của Singapore Airlines và 11% cổ phần hăng hàng không giá rẻ Tiger Airways, đây là những đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Vietnam Airlines trong vận tải hàng không quốc tế tại khu vực. Quái lạ hơn nữa, việc chọn lựa nhà đầu tư này không qua giai đoạn đấu thầu.

 

Thoạt trông, vụ mua bán Pacific Airlines chẳng có chi phiền hà, thậm chí phía VN c̣n lời to là khác. Mọi chuyện chỉ toé loe ra khi Luật hàng không dân dụng đem tŕnh Quốc hội hồi tháng 02/2006, trong đó có vấn đề muốn đảm bảo được quyền lợi khách hàng th́ phải phát triển ngành hàng không. Giải tŕnh cho t́nh trạng ngắc ngứ về Luật hàng không lại chẳng đề cập đến việc cấp phép mở hăng máy bay; với tư cách là người chủ tŕ Ban soạn thảo Luật hàng không, bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Đào Đ́nh B́nh đă trả lời: Chính phủ (cụ thể đây là chính phủ ông Phan Văn Khải - HVL) có cam kết với nhà đầu tư Temasek là trong ba năm tới VN sẽ không lập thêm hăng hàng không nào. Th́ ra, luật pháp một quốc gia đă bị bẻ quặt v́ một vụ mua bán 50 triệu USD. Luật hàng không dân dụng sẽ được đem ra Quốc hội vào tháng 6 năm nay, chưa biết sẽ được thông qua kiểu nào. Sự vụ ông Thaksin buôn bán vẫn được coi là hợp pháp trên mọi phương diện pháp lư, nhưng hàng trăm ngàn người Thái đă tức giận khi thấy người lănh đạo đất nước lại thiếu ḷng yêu nước. Xem xét trên nền tảng quyền lợi quốc gia, vấn đề đạo đức của ông Thaksin được đặt ra. Nếu là người Việt Nam, chuyện này hoàn toàn dễ hiểu. Coi ra, Tamasek (1) và Pacific Airlines sẽ là một câu chuyện rất chó trong năm con chó này.

 

Tập đoàn phản động Hà nội luôn muốn giữ nguyên trạng để tiếp tục thụ hưởng các bao cấp về: tài chính và tư tưởng. Ư thức hệ đối với chế độ độc tài có giá trị như một vũ khí đặc hiệu, những phần tử day máu ăn phần sẵn sàng gạt phắt đi các lợi ích cộng đồng - một khi các đặc lợi của chúng có nguy cơ tổn hại. Bên trong một nhà nước luôn hô hào cái chung đă h́nh thành những nhóm lợi ích tư; sự lớn mạnh của chúng xảy ra từng ngày, quyền lợi của đại bộ phận nhân dân – chưa bao giờ như hôm nay - bị bóc lột đến cùng tận. Nếu không có ai đó…và nhiều ai đó... chấp nhận dấn thân th́ trong tương lai thật gần, Việt Nam trở thành một xă hội được thống trị bởi thiểu số (orligarchy) là tất yếu. Tài nguyên đất nước liên tục bị thâu tóm vào tay các quan chức đại diện công quyền.

 

I.2. Dư âm tư duy “… chùm khế ngọt”

Sau khi vắt kiệt thành quả lao động của người dân trong nước - bất chấp khả năng tái tạo sức lao động, như kiểu người ta vắt sữa ḅ… của nhà hàng xóm, nhà nước toàn trị quay sang ve văn kiều bào hải ngoại với chủ trương “Việt kiều là chùm khế ngọt”. Quả thật, số lượng ngoại tệ năm sau chuyển về nước luôn nhiều hơn năm trước, song ḍng chảy kiều hối này luôn nằm ngoài tầm tay với của đám tham quan độc tài phản động. Vậy là nhà đương quyền lại quay sang nguồn có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong nước. Đây là dư âm một kiểu tư duy “chùm khế ngọt”.

 

Trong 6 tháng đầu năm 2005, tỷ lệ doanh nghiệp FDI tại Sài g̣n kê khai thua lỗ kéo dài hoặc đang trong giai đoạn triển khai dự án là: 84%. Chỉ có 194 DN kê khai có lăi. Cũng trong thời gian này, Cục thuế Sài g̣n tiến hành kiểm tra hơn 50/1.450 DN có vốn FDI, phát hiện nhiều DN khai man lợi nhuận trước thuế, xác định số thuế truy thu là gần 60 tỷ đồng. Với năng lực thẩm định của nhà nước hiện nay, Việt Nam phải mất ít nhất 5 năm mới có thể điều tra nổi một công ty đa quốc gia có gian lận hay không (2). Vậy là chùm khế FDI kia vẫn đẫm một vị chua loét. Cái kiểu chính sách nửa trăng nửa đèn hiện nay đă liên tục nảy sinh t́nh trạng ích nước th́ ít mà hại dân lại nhiều. Những xung lực đối chọi ngay trong nội bộ nhà cầm quyền khiến mọi việc trở nên chậm chạp cách đáng ngờ. Chẳng hạn, trong vấn đề cổ phần hóa DN nhà nước được tiến hành ầm ỹ về số lượng trong nhiều năm; thực chất vốn chuyển đổi chỉ đạt 9% (3).

 

Nhiều tờ báo lâu lâu lại trưng ra thực tiễn: nước ta có 26% hộ nghèo… nghĩa là khoảng 20 triệu hộ gia đ́nh nghèo. Họ làm như tự dưng cái nghèo kia từ trên trời rơi xuống hay những người dân kia không muốn làm giàu. Trước cảnh dầu sôi lửa bỏng này, các nhà lư luận cộng sản lại hục hặc nhau về chuyện: “Đảng viên (CS) có được làm kinh tế không giới hạn hay không ?”. Chẳng phải những người này u mê đến độ không phân biệt được cái chức năng có khác nhau giữa một trọng tài và một cầu thủ, đă đứng thổi c̣i th́ đừng vung chân sút banh và ngược lại. Họ chỉ lập lờ chuyện vừa muốn cỡi trên đầu cha thiên hạ mà vẫn nghiễm nhiên qươ cào tư túi - dưới một cái mác kinh doanh dớ dẩn nào đó. Nhân danh: “Đảng viên cũng là con người b́nh thường” nên “Việc không cho đảng viên làm kinh tế tư doanh thời gian qua (…) cũng ít nhiều làm phát sinh t́nh trạng ăn cắp, tham ô, tham nhũng”. Song, họ lại lờ tịt đi những quy định có tính pháp lư về đạo đức của người công chức. Với thiết chế hiện nay, đảng CS đang đóng vai tṛ lănh đạo toàn diện; khả năng các đảng viên – doanh nhân nằm trong bộ máy lănh đạo là hiển nhiên. Đối diện phía kia là các doanh nhân – không đảng viên mặc nhiên thành bộ phận chịu/bị lănh đạo. Mọi người hoàn toàn thấy trước được kết quả của cuộc cạnh tranh thương trường giữa hai bộ phận này. Trong một nền kinh tế đầy lổ hổng pháp lư hiện tại, chùm khế ngọt mới/lănh vực kinh doanh siêu lợi nhuận chính là việc đầu tư vào các quan chức.

 

Một khi đám bộ sậu đảng viên công chức được công khai làm ăn th́ liệu bộ máy chuyên ăn cắp kia có trở nên liêm chính hay không - vẫn c̣n là một nan đề lớn. Trong lúc đợi câu trả lời, người cả nước có quyền ngạc nhiên về tập hợp nhân sự không phải thần thánh ấy lại tự cho ḿnh quyền muôn đời thống trị nhân dân.

 

II. Người lao động dưới chế độ XHCN

 

II.1. Một văn bản pháp lư bẩn cấp Chính phủ

Điểm lợi của những người dân sống dưới chế độ XHCN là họ sẽ rất rành danh tánh những kẻ bóc lột người lao động: đó là giai cấp tư sản, chế độ tư bản chủ nghĩa.v.v. gần đây lại thêm các ông chủ nước ngoài. C̣n dưới chế độ “ưu việt ta” th́ thi thoảng có thể là ông nọ bà kia; nh́n chung, chỉ là những con sâu nho nhỏ nào đó – khó mà làm rầu được nồi canh đại dương của Đảng (CS). Ấy vậy mà chuyện “bóc lột sức lao động” chết người kia lại thể hiện rành rành qua một nghị định cấp chính phủ.

 

Trong nghị định số 199/2004/NĐ-CP (4) có nói văn vẻ như sau: “Lợi nhuận sau thuế của công ty nhà nước được phân phối theo tỷ trọng giữa vốn nhà nước và vốn huy động của doanh nghiệp. Phần được chia theo vốn nhà nước được dùng để tái đầu tư bổ sung vốn nhà nước tại công ty. Phần được chia theo vốn tự huy động dùng để trích các quỹ tại công ty”. Như vậy, theo quy định th́ lợi nhuận được chia phân biệt khác nhau giữa nguồn vốn ban đầu. Các nguồn trích thưởng, trích phúc lợi cho người lao động trong/cùng các quỹ khác tại công ty chỉ được lấy từ phần được chia theo vốn tự huy động của công ty; người lao động chớ có léo hánh đến phần được chia theo vốn nhà nước.

 

Điểm vô lư đến quái gở của văn bản này là đă gạt phăng đi sự đóng góp của người lao động trong quá tŕnh h́nh thành nên những đồng lợi nhuận - dẫu đó có là vốn của nhà nước. Qua cách phân chia và xử dụng lợi nhuận này, nhà nước đă từ chối trách nhiệm phải thanh toán ṣng phẳng với sức lao động đă làm ra lợi nhuận. Đây là nguyên nhân dẫn đến thảm trạng: tại các công ty nhà nước, với tỷ lệ đầu tư vốn nhà nước chiếm đa phần; các chế độ khen thưởng, phúc lợi dành cho người lao động chỉ là những con số tượng trưng, bởi không có nguồn để trích chi.

 

II.2. Những nạn nhân điển h́nh

Trong lúc thiên hạ đang mơ màng say ngủ, người công nhân (CN) cạo mủ phải thức dậy rất sớm, đạp xe ra ngoài lô cao su làm việc từ 4 - 5 giờ sáng. Một ngày như mọi ngày, bất kể nắng hay mưa. Trong những lô cao su luôn ẩm thấp, người lao động vẫn phải vác các thùng mủ ra các xe bồn. Mặc rết cắn muỗi chích, chưa kể mùi cao su thoang thoảng như… hơi cóc chết. Vậy mà đồng tiền đẫm mồ hôi của họ đang có nhiều nguy cơ giựt trắng trợn từ một văn bản pháp lư bẩn cấp chính phủ.

 

Cái sẩy làm nảy cái ung, truy nguyên lại người ta sẽ thấy các hành vi vô trách nhiệm diễn ra như sau:

1/ Cơ chế tính quỹ khen thưởng cho CN đă được Tổng Công ty Cao su Việt Nam (TCty CSVN) kiến nghị lên Chính phủ và Bộ Tài chính từ đầu năm 2005.

Măi đến cuối năm (20/12), Văn pḥng Chính phủ mới có Thông báo số 234/TB-VPCP thông báo ư kiến của Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trên nguyên tắc đồng ư cho TCty CSVN trích quỹ khen thưởng, phúc lợi từ lợi nhuận sau thuế thưởng tết cho CN "tối đa không quá 3 tháng lương, giao Bộ Tài chính xem xét giải quyết, nếu vượt thẩm quyền tŕnh Thủ tướng Chính phủ".

Ngày 30/12, Bộ Tài chính cũng có văn bản gửi Thủ tướng, trong đó, thống nhất với kiến nghị của TCty CSVN, đề nghị Thủ tướng cho phép áp dụng mức thưởng nêu trên. Đă quá cận kề ngày Tết, Thủ tướng vẫn im lặng. Dù chưa nhận được quyết định cuối cùng từ Thủ tướng, nhưng lănh đạo TCty CSVN đă tạm trích hơn 500 tỷ đồng để thưởng tết cho hơn 84.000 người lao động ngành cao su - mức tối đa bằng 70% của 3 tháng lương.

 

2/ Sau Tết Âm lịch - tức tiền thưởng đă trao CN; ngày 7/02/2006, Văn pḥng Chính phủ mới có văn bản trả lời về kiến nghị trên của TCty CSVN. Theo chỉ đạo này, mỗi người lao động ngành cao su chỉ được thưởng tết không quá 1 tháng lương. Một quan chức khác phóng thêm: dựa trên luật và các quy định tài chính, TCty CSVN cần phải thu hồi lại khoản tiền "lỡ" chi cho ngân sách nhà nước.

 

3/ Và cuối cùng theo người phát ngôn của Thủ tướng, ông Nguyễn Kinh Quốc, việc xử lư TCty CSVN áp dụng mức thưởng vượt khung của Chính phủ là thuộc thẩm quyền giải quyết của Quốc hội.

 

Quả bóng quyền lợi người lao động đă lần lượt đưa qua Bộ Tài chính, rồi Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, đến Văn pḥng Chính phủ… Bóng lại được đẩy lên Thủ tướng, e khó bề xoay sở, cuối cùng có vẻ bóng đang trong chân Quốc hội. Của phải tội, nguồn vốn nhà nước trong TCty CSVN chủ yếu là từ tiếp quản khơi khơi các đồn điền ngày trước của… Tây. Do đó, tỷ trọng vốn nhà nước trong vốn kinh doanh của TCty rất lớn: 92,6%; đồng nghĩa với mỗi CN ngành cao su chỉ được thưởng tết không quá 1 tháng lương. Nhà nước đương quyền tỏ ra đang lúng túng. Câu chuyện nếu xử theo hướng chặt đẹp, th́ không thể bịt miệng được hơn 84.000 người lao động ngành cao su. Nếu để Tcty CS thưởng Tết vượt khung th́ té ra Nghị định của Chính phủ chẳng khác chi tờ giấy lộn; làm sao ngăn chặn các Tổng công ty nhà nước khác xin truy “thưởng Tết vượt khung”.

 

Bức xúc hiện nay của 84.000 người lao động ngành cao su là bao giờ họ được chi trả tiếp số thưởng Tết c̣n lại th́ căn cứ trên các quy định nhà nước, diễn tiến quay sang chiều ngược lại: số tiền c̣n lại không được chi trả tiếp mà c̣n có nhiều khả năng sẽ bị thu hồi hồi lại qua h́nh thức trừ vào lương năm 2006. Người lao động ngành cao su làm việc trên một địa bàn trải rộng 16 tỉnh, thành phố; trong đó có hơn 6.500 người là đồng bào dân tộc thiểu số. Họ đang suy nghĩ và định làm ǵ nhỉ… Thực ra diễn giải về các h́nh thức bóc lột, chỉ nên dành cho những người không có chân trong chế độ toàn trị; chớ chắc chắn rằng: những người xuất thân cai đồn điền như ông Lê Đức Anh th́ đă quá rành. Chính cách nhà nước xử lư phản ứng của các xă hội dân sự sẽ làm cho họ bị sụp đổ trước khi bị ngoại lực bên ngoài tác động tới.

 

III. Biểu tượng mới t́nh đồng bào

 

III.1. Sức mạnh người lao động

Có những người Việt thở dài khi thấy h́nh ảnh cặp vận động viên Lee Bora (Nam Hàn) và Han Jong In (Bắc Hàn) đi song đôi, bên nhau, dẫn phái đoàn Triều Tiên vào dự lễ khai mạc Thế vận Mùa đông 2006 ở Turin, Ư. Ruột gan những người Việt đó quặn thắt khi hồi niệm về quê ḿnh – nơi từng có những người chung tiếng nói, vờn nhau dọc hai bờ chiến hào, để gh́m chặt tay súng mà… nă đạn vào đầu nhau. Đoạn phim ấy đă cháy, đă trở nên cũ rích… sau những tháng ngày qua. Bởi hôm nay Sài G̣n đă lên tiếng; B́nh Dương, Biên Hoà trả lời... Hải Pḥng, Quảng Ninh réo gọi; Long An, Cần Thơ có mặt... Chưa bao giờ trong suốt hơn 50 năm qua (1954 – 2006), người cả ba miền: Nam, Trung và Bắc cất chung tiếng nói như hôm nay... Lịch sử dân chủ mai ngày sẽ ghi nhận sự thật này. Đă xuống tới năm con chó, dẫu biết chẳng thể ngày một ngày hai mà đời được lên voi – nhưng vẫn thấy mát ḷng hả dạ khi anh chị em ngoài kia đến với nhau v́ cái t́nh cần lao vốn cùng bọc mẹ sinh ra. Những ngày này sẽ đi vào lịch sử dân tộc. Chẳng một chủ nghĩa, học thuyết ngoại lai nào có thể huy động được đám đệ tử nhanh đông như vậy. Chính tinh thần chung sức đấu tranh bảo vệ dân quyền đă làm được việc đó.

 

Trong quá tŕnh thể hiện công khai chính kiến, người lao động Việt có những bước tiến dài lên phía trước. H́nh ảnh anh chị em lao động không phân biệt địa phương sinh trưởng, chính kiến; đồng ḷng ngẩng cao đầu bước ra cổng công ty là biểu tượng của tinh thần nối ṿng tay lớn, đủ làm xúc động rất nhiều trái tim xa xứ. Nhân dân từ miền Tổ quốc thứ tư: hải ngoại – đă nức ḷng ủng hộ cuộc đấu tranh chân chính này. Đoàn kết dân tộc luôn là khát vọng truyền đời của người Việt, bởi đây là nguồn lực vô giá để bảo vệ/đ̣i lại lănh thổ quốc gia, xây dựng/phát triển một Việt Nam mới sánh vai cùng bè bạn năm châu. Mọi chuyện không đơn giản chỉ là miếng cơm manh áo, giành lại công bằng vài trăm ngàn bạc… Cháy bỏng hơn, là cái t́nh đồng bào của những người đi đầu và đi bên cạnh cuộc tranh đấu không tiếng súng hàng trăm ngày qua. Đó là thắng lợi quan trọng nhất mà hơn 110.000 người lao động cả nước đă làm được trong 03 tháng ṛng (5).

 

Đ́nh công sẽ ngày càng phát triển ở quy mô lớn và dai dẳng hơn. Cách thức biểu thị ư chí của người lao động sẽ loang ra, vượt qua những giới hạn phân biệt loại h́nh doanh nghiệp, không loại trừ các công ty quốc doanh. Qua các cuộc tranh đấu quyền lợi người lao động, vai tṛ một công đoàn độc lập trở nên thiết thực hơn bao giờ hết. Chỉ có công đoàn do người lao động trực tiếp bầu ra mới có giá trị đại diện cho cộng đồng anh chị em thợ thuyền. Thực tiễn cho thấy các cán bộ công đoàn do nhà nước dựng lên đă cụp đuôi bỏ chạy khi lệnh đ́nh công phát động. Đốn mạt hơn, đă có những trường hợp quay ra giải vây cho các chủ doanh nghiệp, chỉ điểm các thủ lĩnh công nhân. Công đoàn nhà nước thực chất chỉ là một cơ quan ngoại vi của đảng cộng sản, cưỡng đoạt quyền đại diện của anh chị em cần lao. Trước thực tế luật pháp không gắn liền cuộc sống, đ́nh công hôm nay không đơn thuần là đ̣i lại các quyền lợi hợp pháp của người lao động khi người xử dụng lao động phạm luật. Anh chị em thợ thuyền đă có bước tiến xa hơn: chủ động đưa ra các yêu cầu hợp lư, gây áp lực phải thực hiện với chủ xử dụng lao động. Bộ máy đương quyền đă xử dụng nhân dân như đám đổ vỏ mà chính bọn họ là người ăn ốc.

 

III.2. Vận mệnh dân tộc cần tương lai

Quả là một đề tài nhạy cảm khi so sánh các khuynh hướng vận động dân chủ hoá cho nước nhà hiện nay. Tuy nhiên, nếu loại trừ các yếu tố như: học thuyết uyên thâm, chủ trương độc đáo, hoạt động phù hợp... th́ người ta sẽ thấy rằng: khó có một lộ tŕnh đúng đắn xuất phát từ một tập hợp không lớn mạnh/sống cùng ngay trong ḷng đồng bào ḿnh. Đây có lẽ là một tiêu chí thiết yếu để lượng giá thực lực của một tập hợp tranh đấu. Bởi không khổ như chị em công nhân đang khổ, chẳng sợ như đồng bào từng sợ th́ làm sao cảm hết được những trăn trở của nhân dân. Do đó, để thay đổi hiện trạng quốc gia dứt khoát không thể bằng một số hoạt động có tính cách cục bộ, càng không thể bằng những tuyên bố - dẫu là những ngôn từ hùng hồn nhất. Thực tại Việt Nam luôn kêu gọi những công dân ái quốc hăy xắn tay áo lên trong hành động bản thân. Tự lời nói thuần tuư không thể tải được các xung động dân chủ; thậm chí mang sắc thái tiêu cực nếu lặp lại có chủ ư - bởi tính cách cơ hội ẩn chứa bên trong. Ư chí không thể thay thế cho lập luận, mỹ từ th́ càng chẳng thể lấp được những lỗ hổng tư duy logic.

 

Thời gian qua, các biến động thời sự trong nước như: người lao động đ́nh công hàng loạt, tiểu thương băi thị... được nh́n nhận có khác nhau, phụ thuộc vào sự dị biệt của các nhăn quan chính trị. Giữa thực tế xảy ra và việc mô tả chúng có khoảng cách nhất định, độ lớn của khoảng cách này tuỳ thuộc vào thực lực của mỗi tập hợp. Ở một số trường hợp nhất định, những tuyên bố nẩy lửa nhất – cơ hồ - được xem như/thay thế một hoạt động trong thực tiễn. Trong khi đó, xung động của các xă hội dân sự Việt Nam dẫu đă vượt qua giai đoạn trứng nước song hiện nay, để xác định là một lực lượng đủ sức đối trọng th́ cần nhiều nỗ lực hơn. Thực vậy, chủ trương xử dụng bạo lực có khả năng làm tàn lụi những tụ điểm dân chủ - dẫu xuất phát từ bất cứ phe nào: dân chủ/phản dân chủ. Xét dưới góc độ dân chủ là một giá trị phổ quát, những vấn đề trong thực tiễn Việt Nam như: kêu gọi công nhận đầy đủ quyền công dân, đấu tranh bảo vệ lợi ích người lao động… thuộc phạm trù tiến hóa (evolution) hơn là cách mạng (revolution). V́ những lợi ích thiết thực, người lao động chúng ta đang cố gắng thực thi những bổn phận công dân bằng quyền hạn của người công dân; hơn là họ hoạt động như một phần tử cách mạng. Bởi những ǵ họ đấu tranh/bảo vệ là cái vốn phải có, chớ chẳng phải là cái mới cần đạt. Các quyền cần phải có của con người cơ hồ như quả cầu đa sắc, tuỳ nhăn quan mà người ta sẽ thấy chúng là các lợi ích kinh tế hay chính trị. Song trong chừng mực cảnh khốn cùng hiện nay, nhân dân ta đang cần giải quyết cấp bách các vấn đề cơm áo gạo tiền – và đây là ưu tiên hàng đầu.

 

Tuy nhiên, mức độ thành công trong tiến tŕnh dân chủ hóa phụ thuộc một phần vào khả năng cấu kết các xă hội dân sự. Thực tiễn cho thấy, các nhóm nhỏ có phối hợp chặt chẽ thường hiệu quả hơn những đám đông to lớn thiếu tổ chức. Đâu phải làm bậy cho bơ ghét, làn sóng đứng lên giành quyền b́nh đẳng tư pháp là chính đáng và thiết thực. Chẳng có người tranh đấu nào là ḿnh đồng da sắt, canh cánh trong ḷng anh chị em chúng ta là những lo toan rất đỗi đời thường. Giữa muôn trùng cam go, lực lượng cần lao ṇng cốt vẫn đứng vững. Anh chị em thợ thuyền đă tiên phong thực hiện, các tầng lớp khác trong xă hội Việt nỡ nào làm ngơ, chẳng lẽ trớt qướt quay lưng... Tiến tŕnh dân chủ hoá nước nhà cần tăng tốc hơn nữa. Mỗi con người có thể sống bằng quá khứ nhưng vận mệnh cả dân tộc này th́ luôn cần một tương lai. Dẫu đứng ở bất cứ nơi đâu, tất cả người Việt đang sống trên cơi đời này cũng chỉ có một Tổ quốc.

 

Sài g̣n, ngày 29/03/2006 - Kỷ niệm cuộc đ́nh công thứ 1.000 đă qua.

 

Chú thích:

1/ Tính đến tháng 05/2004, công ty Temasek Holdings đầu tư vào Việt Nam 400 triệu USD. Để hiểu về Temasek, cần để ư thêm một vụ mua bán trong ngành cáp quang biển năm 2005 tại Mỹ: Global Crossing, mạng cáp kết nối phần lớn nước Mỹ với châu Âu và châu Mỹ La tinh đă được bán cho hăng Technologies Telemedia với giá 250 triệu USD. Và Technologies Telemedia là một hăng con của Temasek Holding. Tổng giám đốc của Công ty là bà Ho Ching - phu nhân Thủ tướng Lư Hiển Long, con dâu của cố vấn cao cấp Lư Quang Diệu. Là một siêu thế lực tại Singapore, tính minh bạch về hoạt động của Temasek luôn là một ẩn số trong suốt thời gian hoạt động 30 năm qua. Chỉ đến năm 2004, Temasek mới lần đầu tiên công bố báo cáo thường niên của ḿnh.

2/ Nguồn: Cục thuế thành phố. Báo Tuổi trẻ số 146/2005, ngày 29/06/2005, tr. 1 & báo Người lao động số 3345, ngày 01/07/2005, tr. 7.

3/ Tính đến thời điểm tháng 10/2005, theo tŕnh bày của đại biểu tỉnh Thái B́nh trước Quốc hội kỳ 8 khóa XI.

4/ Ban hành ngày 3.12.2004, kèm theo có Thông tư số 33/2005/TT-BTC, ngày 29.4.2005 của Bộ Tài chính, hướng dẫn nghị định trên. 

5/ Tính sơ bộ từ năm 1995 - 28/02/2006, cả nước có 1.017 cuộc đ́nh công. Riêng thời điểm từ 23/12 – 28/02 có hơn 110.000 người lao động tham gia.

 

----- O -----

 

      CÔNG NHÂN Đ̀NH CÔNG - DIỄN BIẾN VÀ HỆ QUẢ

Việt Cường

 

(Kính tặng các Anh Chị Em công nhân đă tham gia các cuộc đ́nh công trong suốt thời  gian qua).

 

 

1.Một “sự kiện lịch sử”.

 

Có thể gọi các cuộc đ́nh công của giới công nhân Việt Nam trong mấy tháng qua là một “sự kiện lịch sử” v́ những lư do sau:

 

-Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam cận đại, từ khi Đảng cộng sản cầm quyền đến nay, giai cấp công nhân đă biết đứng lên đấu tranh và đ̣i hỏi quyền lợi cho giai cấp ḿnh. Như chúng  ta đều biết, từ khi đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền đến nay, với bản chất cai trị hà khắc  và tàn bạo, đảng đă “bóp chết” bất cứ sự đối kháng nào, từ bất cứ ai, nếu sự phản kháng đó mang lại bất lợi cho đảng. Khí phách quật khởi và tinh thần bất khuất, anh dũng của cả dân tộc Việt Nam đă bị “đè bẹp” bởi nhà tù và dùi cui của chế độ cộng sản. Ngay cả tầng lớp trí  thức, tinh hoa của dân tộc cũng đă phải cúi đầu khuất phục cường quyền. Với các cuộc đ́nh

công qui mô và có tổ chức tốt như vậy, giai cấp công nhân Việt Nam đă vượt qua được chính  ḿnh. Họ đă vượt qua được sự sợ hăi, sự yếu đuối và cam chịu để đứng lên đấu tranh cho quyền lợi của chính ḿnh.

 

- Lần đầu tiên, giai cấp công nhân đă ư thức được sự khốn cùng của ḿnh không phải do ông  Trời định, mà chính là do sự lănh đạo kém cỏi của đảng cộng sản. Đây là một sự thay đổi về tư duy rất lớn đối với người dân nói chung và giới công nhân nói riêng. Do bị bưng bít thông tin, tuyên truyền dối trá, một chiều nên rất nhiều người Việt nghĩ rằng ḿnh nghèo, ḿnh  khổ là do cái số phận ḿnh nó như vậy; hoặc do sự chống phá của các nước Tư Bản. Thật ra th́ không phải như vậy. Ví dụ trong một gia đ́nh, nếu con cái (khi tuổi c̣n thơ) không được đi học mà phải đi làm những việc cực nhọc như đánh giầy, bán vé số, hay phải đi lang thang bụi đời th́ lỗi lớn nhất phải là do ông bố bà mẹ đó. Trong một công ty, để công ty làm ăn thua lỗ, phá sản, công nhân không có lương th́ trách nhiệm lớn nhất phải thuộc về ban lănh đạo công ty đó. Tương tự như vậy, trong một đất nước, nếu để cho công dân bị bóc lột, phải sống trong cảnh nghèo khổ th́ lỗi lớn nhất là từ nhà cầm quyền. Một nhà nước  biết thương yêu và lo lắng cho công dân của ḿnh th́ phải ngày đêm vắt óc, t́m ra muôn ngh́n kế sách để chỉ bảo cho công dân ḿnh biết đường mà làm ăn cho khấm khá. Công nhân Việt Nam lao động rất vất vả mà cuộc sống của họ như thế nào th́ ai cũng biết. Ư thức được điều đó, những yêu sách của công nhân đă gửi đến thẳng đến lănh đạo tối cao của Đảng cộng sản.

 

- Lần đầu tiên giai cấp công nhân đă biết đoàn kết lại. Một chính sách rất thâm hiểm của cộng sản là chia để trị. Đảng cộng sản luôn t́m mọi cách để xúi bẩy, chia rẽ, kích động và phá hoại bằng đủ mọi cách để người Việt không bao giờ ngồi lại được với nhau. Các tổ chức Đảng, Đoàn, Công đoàn…trong các nhà máy, xí nghiệp chỉ là tổ chức của những tên mật thám và phá hoại, không hơn không kém. Những kẻ này ăn lương và hùa với giới chủ đe nẹt công nhân để bảo vệ quyền lợi cho đảng. Lực lượng này không ít trong các nhà máy, thế nhưng đă bị thất bại do giới công nhân đă biết đoàn kết.

 

-Lần đầu tiên giới công nhân đă ư thức được sức mạnh của ḿnh, đó là sức lao động. Tầng lớp công nhân Việt Nam đă và đang được h́nh thành, Việt Nam hay bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển th́ phải có một nền công nghiệp phát triển. Mà để có nền công nghiệp phát triển th́ phải h́nh thành một giai cấp công nhân đông đảo và để sức lao động của ḿnh được trả giá xứng đáng th́ họ phải biết đấu tranh. Công đoàn độc lập do chính giai cấp công nhân bầu ra sẽ là đại diện duy nhất giúp họ đàm phán và bảo vệ quyền lợi của ḿnh trước các chủ nhân.

 

-Với các cuộc đ́nh công qui mô diễn ra từ Bắc đến Nam giai cấp công nhân đă lột bỏ được cái bộ mặt dối trá, bản chất phi nhân của đảng cộng sản và góp phần vào việc đánh đổ học thuyết xa lạ, lỗi thời là học thuyết Mác-Lênin. Đảng luôn rêu rao và ghi thật trang trọng trong Hiến Pháp rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân…” Nhưng trớ trêu thay, đảng cộng sản không, đúng ra là chưa bao giờ, là đại diện cho công nhân. Và công nhân cũng không cần đến đảng làm “đại biểu trung thành” nữa. Trong lá thư của một số anh chị em công nhân, mà đại diện là anh Nguyễn Tấn Hoành gửi đến ông Nông Đức Mạnh (Tổng Bí Thư Đảng CSVN), Bộ Chính Trị Đảng CSVN, Bộ Lao Động Thương Binh và Xă Hội, đă đưa ra 8 đề nghị (hay yêu sách) trong đó có hai đề nghị rất quan trọng là điều 3: Dẹp bỏ Công đoàn do đảng (CS) xây dựng đưa vào các công ty xí nghiệp. Và điều 4: Không được phát triển đoàn, đảng trong hệ thống công nhân chúng tôi, để rồi quay lại đàn áp chúng tôi.

 

2.Các cuộc đ́nh công sẽ tiếp tục?

 

Chắc chắn sẽ là như vậy! Cho dù nhà cầm quyền đă có những phản ứng nhanh chóng như việc tăng lương tối thiểu của công nhân lên 40%. Các tổ chức Đảng, Đoàn, Hội, chính quyền địa phương, công an…đă đều nhập cuộc. Đe dọa có, năn nỉ có , xoa dịu có. Nhưng tất cả không thể giải quyết được ǵ. Cái chính và quan trọng nhất là cải thiện cuộc sống cho mỗi người công nhân. Để các công đoàn độc lập và thực sự đại diện cho công nhân ra đời và hoạt động mới tháo gỡ được bế tắc.

 

Thế nhưng điều đó không bao giờ được đảng chấp nhận. Đảng chỉ muốn đè đầu cưỡi cổ người công nhân suốt đời. Đảng phải chiều ḷng mấy ông đầu tư ngoại quốc, v́ lỡ ăn tiền của họ và hứa không có chuyện đ́nh công này nọ rồi chăng? Hay Đảng chỉ muốn công nhân Việt nam hiền lành, chăm chỉ, ngu ngơ, bảo ǵ làm nấy? Không v́ thế th́ đáng lẽ phải yêu cầu các nhà đầu tư tôn trọng luật lao động, tạo điều kiện ăn ở và làm việc cho công nhân tốt hơn ắt sẽ không có chuyện đ́nh công th́ ông Chủ tịch nước Trần Đức Lương lại đi xin lỗi ông Hiroshi Okuda, Chủ tịch Liên hiệp Doanh nghiệp Nhật Bản? Và hứa sẽ nhanh chóng ổn định t́nh h́nh! Bằng cách nào đây?

 

Chúng ta hay t́m hiểu sơ qua cuộc sống của công nhân xem sao? Đa số họ đến từ các tỉnh lẻ, cuộc sống của họ ở quê nhà thật là khó khăn, không có việc ǵ để làm. Tất cả chỉ trông chờ vào mấy sào ruộng, nhà th́ đông anh em, dư thừa lao động. Họ khăn gói vào thành phố với mong muốn đỡ gánh nặng cho gia đ́nh, hy vọng có việc làm và dành dụm để gửi về giúp đỡ người thân…

 

Thế nhưng cuộc sống của họ ra sao? Th́ phải một lần đến nơi họ ở mới thấy thông cảm cho họ. Chổ ở họ phải hoàn toàn lo liệu, 4-5 người thuê chung một cái pḥng trọ rẻ tiền vài mét vuông, không hề có tiện nghi ǵ. Ở các thành phố th́ cái ǵ cùng đắt đỏ mà cuộc sống th́ cái ǵ cũng cần, từ hộp kem đánh răng cho đến bánh xà pḥng tắm họ cũng phải tiết kiệm và dùng dè xẻn. Với mức lương trên dưới 1 triệu đồng th́ chi tiêu có tiết kiệm cỡ nào cũng hết 2/3 số tiền đó. Ngoài ra họ c̣n phải gửi tiền về quê giúp đỡ gia đ́nh, em út…nhiều người công nhân 4-5 năm không có tiền để về thăm nhà, đơn giản v́ tiền tiết kiệm được không đủ chi phí cho chuyến đi. Đời sống tinh thần cũng nghèo nàn, để mua được cái tivi 14 in, không phải công nhân nào cũng làm được.

 

Đấy là tại nơi nhà trọ, c̣n ở công ty, xí nghiệp th́ họ phải làm việc cật lực từ 10 - 12 tiếng/ngày. Ăn uống không đủ chất, điều kiện làm việc khắt khe. Có những qui định quái gở như một ngày chỉ được đi tiểu 1 lần, và một lần không quá 2 phút. Thật không thể hiểu và tin nổi!  Người ta có c̣n xem những công nhân là người nữa hay không? 

 

3.Phản ứng của chính quyền và biện pháp đối phó.

 

Chính quyền vô cùng lo sợ trước phong trào đ́nh công của công nhân, nhất là khi phong trào này lan nhanh ra khắp nơi, từ Nam ra Bắc, từ các công ty tư nhân đến các công ty quốc doanh…

Nhiều biện pháp sẽ được thi hành. Thật ra các bài đó cũng cũ rồi. Thứ nhất là chính quyền sẽ xoa dịu bằng cách vuốt ve, năn nỉ, hứa hưu hứu vượn…Biện pháp này e cũng hết tác dụng. Người dân Việt Nam và giới công nhân ăn “bánh vẽ” của đảng đă nhiều và lâu quá rồi nên họ đă chán tận cổ những lời hứa. Biện pháp để chống lại thủ đọan này của chính quyền là giới công nhân phải đấu tranh đến cùng, phải có các cam kết và thỏa thuận rơ ràng, giấy trắng mực đen. Phải luôn nhớ câu “Đừng nghe cộng sản nói mà hăy nh́n cộng sản làm”.

 

Song song với biện pháp “ḥa b́nh” này là biện pháp đàn áp. Bộ Công an đă dự định dùng đến cả vũ khí siêu âm, gây chóng mặt và ngất xỉu để giải tán các cuộc đ́nh công của công nhân như trong một thông báo của Đảng Dân Chủ Nhân Dân. Theo các thông tin bên ngoài th́ chính quyền đă bắt đi hơn 100 người được coi là những người cầm đầu các cuộc đ́nh công. Anh Nguyễn Tấn Hoành, một công nhân trẻ đă cùng với một số công nhân khác gửi bản kiến nghị 8 điểm đến đảng cộng sản, tất cả đă bị đuổi việc. Trong một cuộc trả lời báo chí nước ngoài anh Hoành cho hay, bản thân bị đuổi việc, Công đoàn công ty dẫn công an về nhà thu hết giấy tờ. C̣n các bạn khác th́ bị Công đoàn kêu lên bắt viết giấy cam kết, hăm dọa, nếu tiếp tục nghe “bọn xấu” đ́nh công th́ sẽ bị bỏ tù…Thật ra cái “bài” này của đảng cũng không mấy hiệu nghiệm nữa. Thứ nhất là người công nhân đă quá cùng cực, họ không c̣n ǵ để mất. Nếu họ không đứng dậy một lần th́ măi măi sẽ bị qú gối. Với đồng lương rẻ mạt đấy họ đâu có cần. Nói một cách đơn giản là những công nhân này “đâu có tóc” cho “đảng nắm”. Ngược lại, nếu cố t́nh đẩy họ vào đường cùng th́ hậu quả e sẽ khó lường. Khi họ đă biết khổ do đâu? Ai làm khổ họ? th́ phản ứng của họ sẽ không c̣n tự phát và thiếu chín chắn nữa. Khi đă có tổ chức và kế hoạch th́ kết quả sẽ hoàn toàn khác trước.

 

Để đối phó với chiêu bài này, hơn ai hết các anh chị em công nhân phải hết sức đoàn kết, cụ thể là phải bảo vệ, che chở, thông báo kịp thời tin tức của những người lănh đạo công nhân ra bên ngoài, bằng cách gửi thư cho các đài , báo của người Việt, đặc biệt là Đài Châu Á Tự Do (RFA) để giới truyền thông Hải ngoại đánh động dư luận quốc tế. Hoặc thông báo cho các nhà hoạt động dân chủ trong nước, ví dụ gửi cho Đảng Dân Chủ Nhân Dân…Những người dân chủ và đồng bào Hải ngoại vẫn luôn đứng bên cạnh anh chị em công nhân. Thế nhưng sự xuất hiện của họ trong các cuộc đ́nh công sẽ bất lợi cho anh em công nhân, v́ rằng chính quyền sẽ rêu rao là anh em công nhân bị “xúi giục” bởi “các thế lực thù địch”. Cuộc sống của anh chị em phải do chính anh chị em quyết định. Chúng ta mỗi người một tay, đấu tranh để đ̣i lại quyền sống, trước là cho chính ḿnh sau là cho cả dân tộc, cho chính con em của chúng ta sau này.

 

Đảng cộng sản ngày càng trở nên bất lực và yếu kém trước các vấn đề trọng đại liên quan đến cuộc sống, nhân phẩm và danh dự của mỗi người công dân Việt Nam chúng ta. Anh chị em công nhân hăy mạnh dạn và quyết tâm cùng toàn thể nhân dân Việt Nam đứng lên dành lại quyền làm chủ đất nước.

 

Phải xây dựng các đảng đối lập với những mục tiêu với hành động cụ thể nhằm mang lại một cuộc sống tốt đẹp hơn cho tất cả chúng ta.

 

Chúng ta phải có quyền lựa chọn cho ḿnh những cá nhân và đảng phái xuất sắc nhất để trao thân gửi phận.

 

Chúng ta là những con người nên chúng ta cũng phải có quyền như những con người.

 

   Điện Thư Câu Lạc Bộ Dân Chủ