Kính
gởi quư vị và các bạn AUDIO âm thanh 3 câu
phỏng vấn Giáo sư Nguyễn Chính Kết
về động lực
dấn thân đấu tranh của các chiến sĩ phản kháng chế
độ Việt Cộng ở quốc nội. KÍNH
NHỜ PHỔ BIẾN VỀ
VIÊT NAM qua Emails,
Paltalk, Diễn Đàn Internet...
(bấm vào đây nghe
âm thanh)
Động Lực Tranh Đấu cho Tự Do Dân Chủ
ngọc yến phỏng vấn
Gs Nguyễn Chính
Kết
ngày 30-5-2007
Trong ước mong chuyển những nhận định
và tâm t́nh thân thương của đồng bào hải ngoại gởi về Viêt Nam, sau đây là 3
câu phỏng vấn ngắn dành cho Gs nguyễn Chính Kết, là người tích cực tranh đấu
cho nhân quyền và tự do dân chủ cho Viêt Nam. Năm 1954, Chính Kết là giáo
dân Công Giáo di cư vào miền Nam. Xuất thân từ Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt,
và sau khi rời Chủng Viện từ năm 1978, Gs Chính Kết tiếp tục dấn thân hoạt
động, trở thành một khuôn mặt nổi bật của tập thể chiến sĩ đối kháng nhà cầm
quyền Việt Cộng ở quốc nội. Ông hiện đang hoạt động ở hải ngoại, giữa lệnh
truy nă của nhà nước Việt Cộng. Giáo sư Nguyễn Chính Kết là thành viên Khối
8406, một sáng lập viên Hội Nhà Báo Tự Do Việt Nam, một trong những người
lănh đạo Liên Minh Dân chủ và Nhân Quyền VN.
Hỏi:
Kính chào Gs Nguyễn Chính Kết, xin ông
cho biết động lực nào khiến ông cũng như các nhà dân chủ khác trong nước dấn
thân vào cuộc đấu tranh đầy cam go và nguy hiểm như hiện nay?
Trả lời:
Như chúng ta đă biết, để bảo vệ độc
quyền cai trị vô thời hạn trên đất nước Việt Nam, CSVN đă thẳng tay đàn áp
các nhà đấu tranh cho tự do dân chủ trong thời gian vừa qua. Trong quá khứ,
họ đă dùng tất cả những phương tiện có thể, kể cả những phương tiện tồi tệ
nhất, vô nhân nhất, hèn hạ nhất, dă man nhất để bảo vệ cái độc quyền ấy. Họ
đă dùng biện pháp khủng bố làm cho mọi người dân sợ hăi: sợ chết, sợ tù, sợ
mất việc làm, sợ bị phiền nhiễu, sợ người thân bị liên lụy… hầu người dân
phải luôn luôn khuất phục, vâng lời họ. Nhiều người dân sợ đến nỗi chấp nhận
làm tay sai cho họ, sẵn sàng tuân hành những lệnh phi lư và vô nhân nhất của
họ. Mục đích cuối cùng của đảng CSVN chỉ là để bảo vệ những đặc quyền đặc
lợi mà họ đang hưởng một cách bất chính, bất nhân trên dân tộc Việt Nam, bất
chấp dân tộc phải chịu thiệt tḥi, phải chấp nhận biết bao đau khổ, tang
thương, mất mát.
Tuy nhiên vẫn có những người vượt
thắng được những nỗi sợ hăi cố hữu đang đè nặng trên nhân dân để tranh đấu,
để nói lên những điều mà chẳng mấy ai dám nói. Họ đă mạnh dạn nói lên những
khát vọng sâu xa của người dân về tự do dân chủ mà người dân bị đảng CSVN
tước đoạt suốt 60 năm qua. Họ dám nói lên những bất công, những đau khổ mà
người dân phải chịu do chế độ độc tài độc đảng đang gây ra cho họ; những
người can đảm này dám nói lên sự vô nhân, thất đức, sự hèn hạ, bất xứng của
giai cấp lănh đạo đang quyết tâm bám lấy “ngai vàng” với bất cứ giá nào, bất
chấp sự bất lực, vô tài, bất đức của ḿnh. Họ đă can đảm nói lên sự thật bất
chấp bị đe doạ, sách nhiễu, bất chấp bị quản chế hay vào tù, thậm chí bất
chấp cả cái chết… Họ là những người đang lên tiếng tranh đấu cho tự do dân
chủ như Lm Nguyễn Văn Lư, Lm Phan Văn Lợi, Ls Nguyễn Văn Đài, Ls Lê Thị Công
Nhân, v.v…
Cái ǵ đă thúc đẩy họ, khiến họ can
đảm hy sinh tranh đấu như thế? Chính là t́nh yêu đối với quê hương dân tộc,
đặc biệt đối với những người dân đang đau khổ. Chính lương tâm ngay chính
của họ khiến họ không thể im lặng hay thụ động ngồi yên khi thấy đồng loại
bị đau khổ v́ những áp bức bất công. Nghĩ tới biết bao người bị tù, bị giết,
bị tra tấn, bị bạc đăi v́ lư do tôn giáo, v́ khác quan điểm chính trị với
những kẻ cầm quyền, v́ thấp cổ bé miệng, hay chẳng v́ một lư do nào cả; nghĩ
tới biết bao người đau khổ không nhà cửa, trở nên nghèo khổ v́ bị tước đoạt
tài sản, nhà cửa đất đai ruộng vườn do ḷng tham vô đáy của những kẻ có chức
có quyền; họ sẵn sàng chấp nhận đau khổ để tranh đấu thay cho những người
ấy. Họ nghĩ những đau khổ mà họ phải chịu v́ sự tranh đấu của họ đâu là ǵ
so với trăm ngh́n đau khổ mà người dân Việt đang phải gánh chịu v́ chế độ
độc tài. Nếu phải đau khổ mà hy vọng làm cho dân chúng bớt khổ th́ họ luôn
sẵn sàng chấp nhận.
Họ không phải là những người có tiếng
nói mạnh mẽ trong xă hội như các đại tướng trong quân đội hay các bộ trưởng
trong chính phủ, hay như những ông chủ tịch tỉnh, chủ tịch thành phố, cũng
không phải như những giám mục hay ḥa thượng có cả hàng ngàn, vạn tín hữu
sẵn sàng nghe lời dạy bảo của ḿnh… Họ chỉ là những người b́nh thường, có
tiếng nói rất hạn chế của một linh mục, một mục sư, một thượng tọa, hay một
luật sư, một kỹ sư, một giáo sư, một nhà văn… thậm chí chỉ là một sinh viên,
một nông dân, một công nhân… Họ đă chờ đợi những người có tiếng nói lên
tiếng trước để họ ủng hộ. Nhưng những người này nhiều khi im lặng thụ động,
có vẻ như đồng lơa hay sợ hăi mà đành chấp nhận bạo lực, hay không đủ t́nh
yêu và can đảm để tranh đấu, không đủ ư thức trách nhiệm để thấy rằng trong
hoàn cảnh đất nước như hiện nay, ḿnh phải làm một cái ǵ hơn là những việc
ḿnh phải làm trong một xă hội b́nh thường. Không thể chờ đợi những người
khác lên tiếng rồi ḿnh mới lên tiếng, v́ nếu ai cũng chờ như thế th́ sẽ
chẳng ai lên tiếng cả. Ư thức được trách nhiệm của một người dân trong một
đất nước lầm than: “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, “giặc
đến nhà, đàn bà phải đánh”, dù cảm thấy tiếng nói của ḿnh có nhỏ bé đến
đâu, họ vẫn cảm thấy trách nhiệm phải lên tiếng. Lên tiếng cho những kẻ
không có tiếng nói, cho những kẻ không dám nói, cho những kẻ muốn nói mà
không nói được, nhất là cho những kẻ đang bị áp bức cách bất công…
Hỏi:
Kính thưa Gs Chính Kết, là một Kitô
hữu, hơn nữa là một người có nhiều suy tư về Thần Học, có động lực khác mang
tính tôn giáo, thúc đẩy ông dấn thân vào cuộc tranh đấu này không?
Trả lời:
Riêng tôi, là một người Kitô hữu, hơn
nữa một người thường suy tư thần học, tôi cảm thấy tranh đấu cho quê hương
dân tộc cũng là một cách thờ phượng Thiên Chúa, và là cách mà tôi cho là tốt
nhất, tuyệt vời nhất. Gương của Chúa Giêsu cho tôi thấy điều ấy. Ngài xuống
thế làm người v́ yêu thương nhân loại. Ngài sống cuộc đời trần thế với bao
khổ đau như mọi người cũng v́ yêu thương nhân loại. Ngài chịu khổ h́nh và
chết nhục nhă trên thập giá cũng v́ yêu thương nhân loại. Chính v́ yêu
thương nhân loại, mà tất cả những hành vi yêu thương và sự hy sinh cho nhân
loại của Ngài như xuống thế, sống đời trần thế, chịu khổ h́nh và chết trên
thập tự, và ngay cả hành vi lập phép Thánh Thể của Người cũng đều là những
hành vi được giáo hội nh́n nhận là những hành vi thờ phượng Thiên Chúa, và
là hành vi thờ phượng Thiên Chúa chính danh nhất, đúng nghĩa nhất. Nơi Ngài,
yêu thương nhân loại và thờ phượng Thiên Chúa chỉ là một hành vi duy nhất.
Nói khác đi, theo Ngài, yêu thương nhân loại cũng chính là thờ phượng Thiên
Chúa.
Dường như nơi Người không có sự phân
biệt giữa hai việc: yêu mến Thiên Chúa và yêu thương con người. Hễ yêu mến
Thiên Chúa th́ tất nhiên phải yêu thương con người. Mà yêu thương và hy sinh
cho tha nhân cũng chính là yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa tuyệt hảo nhất.
Hai điều đó, hai giới răn đó tự bản chất chỉ có thể phân biệt chứ không bao
giờ có thể tách biệt nhau. Tách rời nhau được th́ chúng không c̣n là yêu mến
Thiên Chúa hay yêu thương tha nhân đúng nghĩa nữa. Thờ phượng Thiên Chúa
bằng yêu thương tha nhân có giá trị hơn những nghi thức tôn giáo, v́ điều
cốt yếu nhất trong việc thờ phượng là sự hy sinh: mọi sự thờ phượng từ
nguyên thủy đều đ̣i hỏi sự hy sinh, mất mát, thiệt tḥi nào đó. Hy sinh một
vật ngoài ḿnh không giá trị bằng hy sinh chính ḿnh hay hy sinh một cái ǵ
đó thân thiết nhất của ḿnh: mạng sống, hạnh phúc, an toàn bản thân, người
ḿnh yêu, vật ḿnh quư, ư muốn, danh dự, uy tín, sức khỏe, th́ giờ, tiền
bạc, tiện nghi… Rất nhiều nghi thức thờ phượng trong tôn giáo không hề đ̣i
hỏi kẻ thờ phượng phải hy sinh, chấp nhận đau khổ, nếu có th́ chỉ đ̣i hỏi hy
sinh những ǵ bên ngoài ḿnh, không mấy thân thiết với ḿnh. Nếu đ̣i hỏi
phải hy sinh bản thân hay những thứ thân thiết nhất với ḿnh mới là sự thờ
phượng chân chính, ắt số người thờ phượng đúng nghĩa sẽ ít hơn rất nhiều.
Hành vi nào của Đức Giêsu ở trần gian cũng đều vừa là yêu thương con người,
vừa là thờ phượng Thiên Chúa. Đó là một hành vi nhưng có hai giá trị gắn
liền nhau không thể tách rời. Và có thể nói, nơi Ngài, yêu thương con người
và thờ phượng Thiên Chúa là một hành vi duy nhất, một giới răn duy nhất,
không phải là hai giới răn tách biệt nhau.
V́ thế, cách yêu mến và thờ phượng
Thiên Chúa của tôi chính là yêu thương và hy sinh cho tha nhân. Tha nhân là
tất cả mọi người không trừ ai. Nhưng những người mà tôi nghĩ cần phải ưu
tiên yêu thương và hy sinh cho là những người đang đau khổ; cụ thể là những
người nghèo hèn, bệnh tật, những người bị áp bức, bị tước đoạt những quyền
căn bản và chính đáng nhất của con người, bị chiếm đoạt nhà cửa, ruộng vườn
khiến họ phải sống vất vưởng vô gia cư, những người bị tù đày, bị tra tấn,
sách nhiễu, bị đối xử bất công… Trong hoàn cảnh đất nước bị chế độ độc tài
cộng sản đô hộ hiện nay, việc tranh đấu chống độc tài, áp bức, bất công, để
đem lại tự do, công bằng và hạnh phúc cho quê hương chính là cách thức yêu
mến và thờ phượng Thiên Chúa mà tôi cho là cụ thể và thiết thực nhất. Tôi
cũng cho rằng tất cả những người đang hy sinh bản thân, mạng sống, chấp nhận
đau khổ, tù tội để làm cho tha nhân được ấm no, hạnh phúc, cho xă hội được
tự do, công bằng, thăng tiến… nhất là những người đang liều ḿnh tranh đấu
cho tự do dân chủ của quê hương, dù họ thuộc bất kỳ tôn giáo nào, họ đều là
những người yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa cách đúng nghĩa nhất.
Đó chính là những động lực sâu xa thúc
đẩy tôi dấn thân vào con đường tranh đấu, khởi đầu là cho tự do tôn giáo từ
đầu năm 2001, cho nhân quyền và dân chủ đa đảng từ năm 2005 đến nay.
Hỏi:
Thưa Gs Chính Kết, trong thời gian ở
nước ngoài, để vận động người Việt hải ngoại và chính giới các nước ủng hộ
cuộc tranh đấu cho tự do dân chủ ở quốc nội Việt Nam, thưa ông thấy việc vận
động của ông có kết quả ǵ không?
Trả lời:
Tôi thấy cuộc tranh đấu nào cũng cần
có những người làm công tác ngoại vận và quốc tế vận. Trong quá khứ đă có
những người làm công việc này như cụ Phan Bội Châu, Cường Để, Nguyễn Hải
Thần, Ngô Đ́nh Diệm… Chính v́ vậy khi ban Điều Hành Liên Minh Dân Chủ Nhân
Quyền Việt Nam thấy tôi có cơ hội ra nước ngoài được − v́ tôi có sẵn hộ
chiếu (passport) và được Mạng Lưới Nhân Quyền ở California mời sang lănh
giải thưởng nhân quyền − liền đề nghị tôi đi. Thực ra từ rất lâu đă có nhiều
người Việt hải ngoại làm công việc này trước tôi, nhưng trong công việc này
lời chứng của một người trong nước dẫu sao vẫn có một giá trị thuyết phục
mọi người hơn. Tuy cả hai đều nói cùng một sự thực, tuy giá trị về mặt sự
thật của cả hai là ngang nhau, thậm chí người Việt hải ngoại có thể nói
chính xác và đầy đủ hơn v́ nắm bắt được nhiều thông tin hơn, nhưng người
trực diện với sự thật trong nước vẫn có tính chứng nhân nhiều hơn nên có sức
thuyết phục hơn. Tương tự như sự khác nhau giữa lời kể của một người nghe
nói về một sự kiện và lời kể của một người chứng kiến tận mắt hay thật sự
đóng một vai nào đó trong chính sự kiện ấy. Cũng tương tự như sự khác nhau
giữa hai người cùng hứa mua nhà, một người trao tiền cọc và một người không.
Hai người cùng hứa mua nhà y như nhau, nhưng người đưa tiền cọc th́ được chủ
bán nhà tin tưởng hơn. Thật vậy, người ngoài nước nói đúng hay nói mạnh tới
đâu cũng không bị sao cả, c̣n người trong nước nói điều ǵ th́ cũng phải sẵn
sàng trả giá − thậm chí rất mắc − cho điều ḿnh nói. Điều đó khiến cho
người nghe cảm thấy thuyết phục và dễ tin hơn. Mà một điều rất quan trọng
trong cuộc vận động này là làm cho người ta tin những điều ḿnh nói.
Tôi thấy những cuộc gặp gỡ của tôi với
đồng bào hải ngoại đă làm cho những người tranh đấu trong nước và ngoài nước
hiểu nhau hơn, nhờ đó đoàn kết hơn và dễ phối hợp với nhau nhịp nhàng hơn
trong cuộc tranh đấu chung này. C̣n chính giới các nước th́ hiểu rơ và xác
tín hơn về những vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền CSVN. Nhờ đó họ có
động lực mạnh hơn trong việc đ̣i hỏi và áp lực nhà cầm quyền CSVN phải tôn
trọng nhân quyền của người dân.
KÍNH NHỜ PHỔ BIẾN VỀ VIỆT NAM