Trại
Lực lượng Đặc biệt A Shau: Nơi chào đời
của thuyết điểm nóng dioxin
(Ảnh:
Larry Wagoner - 1969)
“ĐIỂM
NÓNG” DIOXIN Ở VIỆT
TỪ LƯ
THUYẾT ĐẾN THỰC TẾ
Nguyễn
Minh Quang, P.E.
Tháng 1
năm 2007
PHẦN
MỞ ĐẦU
Tiếp theo sau Hội nghị
Khoa học Hỗn hợp Việt-Mỹ về Ảnh hưởng
của Chất da cam/dioxin lên Sức khỏe và Môi trường,
được tổ chức tại Hà Nội, Việt Nam
từ ngày 3 đến 6 tháng 3 năm 2002, đại diện
của hai chánh phủ đă đạt đến thỏa thuận
về những công tác nghiên cứu trong tương lai, được
ghi trong biên bản ghi nhớ (memorandum
of understanding (MOU)) kư kết ngày 10 tháng 3 năm 2002. Những công tác nầy bao gồm
việc nghiên cứu trực tiếp ảnh hưởng của
việc tiếp xúc với dioxin đối với sức
khỏe con người và ảnh hưởng của chất
da cam/dioxin đối với môi trường và hệ sinh
thái. Việc nghiên cứu sẽ
ưu tiên nhắm vào dân số đang tiếp xúc nhiều với
dioxin, chẳng hạn như sinh sống gần các “điểm
nóng,” và nhắm vào việc xác định, định tính
(characterization), và điều trị (remediation) các “điểm
nóng.”
Theo biên bản
ghi nhớ, “điểm nóng” là những nơi có mức độ
dioxin ở trong đất cao.
Một vài nơi đă được xác định,
c̣n những nơi khác được xem như là hiện hữu,
nhưng vị trí của chúng chưa được xác định. Hai nghiên cứu được thỏa
thuận để tiến hành bao gồm việc nghiên cứu
hệ sinh thái và phục hồi rừng suy thoái, chẳng hạn
như rừng Mă Đà, và việc nghiên cứu để xác định,
định tính, và điều trị những điểm
nóng, chẳng hạn như phi trường Đà Nẳng
(1). Hai địa điểm
nầy do các khoa học gia Việt
Đại
diện hai chánh phủ tại Hội nghị ở Hà Nội
năm 2002 |
Đây không phải
là lần đầu tiên những “điểm nóng” dioxin ở
Việt
Những “điểm
nóng” dioxin có thật sự hiện hữu ở Việt
THUYẾT ĐIỂM NÓNG
HATFIELD
Theo HCL, tất
cả các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ được
xem như là (theorized) những điểm nóng dioxin ở Việt
Tổng TEQs
được dùng để đánh giá nguy cơ của việc
tiếp xúc với một hỗn hợp (combination) bao gồm
các hợp chất họ dioxin (dioxin-like compounds). Nó là tích số của nồng độ
của từng hợp chất họ dioxin, Ci, với
hệ số độc tố tương đương
với dioxin, TEFi (TCDD toxicity equivalency factor), cho hợp
chất đó. Tổng TEQs là tổng số của mỗi TEQs
của từng hợp chất:
Tổng
Hatfield Consultants Ltd. cho rằng h́nh
thức ô nhiễm TCDD quan sát trong thung lũng A Lưới [nồng
độ trong đất vượt quá tiêu chuẩn 350
ppt TEQs của ô nhiễm ở khắp miền Nam
Việt Nam, nơi có vô số bồn chứa TCDD hiện hữu trong đất ở
các căn cứ quân sự cũ của Mỹ. “Trong nghiên
cứu của chúng tôi, các căn cứ quân sự được
xem là các điểm
nóng dioxin dựa trên mức độ dioxin của mẩu
đất lấy từ các địa
điểm ở gần mỗi căn cứ. Như đă tŕnh bày, các điểm ô nhiễm
‘chính’ th́ chưa được xác định/phân tích; do đó,
dù một căn cứ được
xem như không ô nhiễm nghiêm trọng, căn cứ đó
vẫn có thể ‘nóng’ nếu vị
trí chính xác của khu vực Ranch Hand được xác định
và phân tích. Một căn
cứ quân sự cũ của Mỹ ở Việt không có
nghĩa là nó không bị ô nhiễm; nó chỉ có nghĩa là ô nhiễm
nghiêm trọng chưa được xác định v́ thiếu
dữ kiện (trong nghiên cứu nầy,
nghiêm trọng được định nghĩa là ≥
190 pg/g [ppt] TCDD).” |
“Thuyết
điểm nóng Hatfield” được tŕnh bày khá chi tiết
trong nhiều bài viết chuyên môn của HCL. “Những
địa điểm có mức độ dioxin trong đất
cao có thể gọi là ‘điểm nóng’ chất da
cam/dioxin. Chúng tôi chọn đất,
một bộ phận của môi trường ở thung lũng
A Lưới, như là một yếu tố để xác định
các điểm nóng. Nếu ô
nhiễm đất ở thung lũng là tiền đề
của ô nhiễm thực phẩm và con người hiện
nay, th́ đất phải được dùng như là yếu
tố chính yếu trong việc xác định một điểm
nóng.” (4)
“Các điểm nóng xác định bởi
Hatfield đang hiện diện, đó là đất có mức
độ TCDD rất cao v́ tiếp nhận nhiều TCDD hơn
trong thời gian chiến tranh.
Điều quan trọng là những điểm nóng Hatfield
không phải là vùng rừng rậm bạt ngàn, mục tiêu của
các phi vụ thường xuyên của Chiến dịch Ranch
Hand, ám số của chương tŕnh phun thuốc khai quang
của Quân đội Mỹ...
Những điểm nóng hiện nay là đất nơi
chất da cam bị ṛ rỉ, được xịt từ
bồn chứa gắn trên xe, kể cả việc phun thuốc
chung quanh các căn cứ, v.v., cho nên đất ở đây
có mức tiếp nhận dioxin nhiều hơn so với đất
ở vùng bị phun thuốc từ trên không. Nồng độ TCDD cao nhất được
t́m thấy trong các mẩu đất lấy ở trại
gia binh bên trong một căn cứ cũ của lực lượng
đặc biệt Mỹ ở thung lũng A Lưới (Dwernychuk
et al., 2002). Hai căn cứ khác
trong thung lũng, được sử dụng trong một
thời gian ngắn hơn, cũng có mức độ TCDD trong
đất cao hơn những vùng bị phun thuốc từ
trên không... Các căn cứ
Ranch Hand ở Biên Ḥa và Đà Nẳng là những điểm nóng
quan trọng điển h́nh. Nồng
độ TCDD trong đất ở Biên Ḥa được ghi
nhận lên đến 1,2 triệu phần ức (ppt)
(Schecter et al., 2001). Tài liệu
mật [anecdotal] từ các khoa học gia Việt
“Các căn cứ không quân cũ của
Mỹ ở Đà Nẳng, Phù Cát, và Biên Ḥa có thể được
xem như là những ‘điểm nóng’ quan trọng v́ nồng
độ TCDD quan sát được ở ‘hạ lưu” của
các địa điểm t́nh nghi là khu vực Ranch Hand. Trong nghiên cứu nầy, các ‘địa
điểm t́nh nghi chính yếu’ chưa được trực
tiếp phân tích v́ chánh quyền Việt
TAI NẠN THUỐC KHAI QUANG TRONG THỜI CHIẾN
Những
tai nạn liên quan đến việc sử dụng thuốc
khai quang trong cuộc chiến Việt Nam; chẳng hạn
như ṛ rỉ từ bồn chứa, xả khẩn cấp
hoặc ṛ rỉ từ máy bay Ranch Hand, và thiệt hại về
cây ăn trái và hoa màu; được báo cáo trong nhiều tài
liệu mật. Những tài liệu
nầy; gồm có biên bản ghi nhớ, ghi chú, và phúc tŕnh để
báo cáo kết quả điều tra tai nạn; vừa được
giải mật và công bố qua Trung tâm Sưu tầm Tài liệu
của Quân vụ Hoa Kỳ (Center for Unit Records Research of the
US Armed Services (USAS/CURR)) ở Springfield, Virginia. Một số tai nạn liên quan đến
thuốc khai quang đáng chú ư được mô tả tóm tắt
dưới đây.
Ṛ rỉ thuốc khai quang ở
Căn cứ
Không quân Biên Ḥa là căn cứ lớn nhất trong số 5
căn cứ vận hành của Chiến dịch Ranch Hand bao
gồm Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt (Sài G̣n), Đà Nẳng,
Nha Trang, và Phù Cát (Qui Nhơn). Hầu
hết các phi vụ khai quang Ranch Hand thực hiện từ
tháng 12/1966 đến tháng 07/1970 đều xuất phát từ
căn cứ nầy (9).
Vị trí
của khu vực Ranch Hand ở Căn cứ Không quân Biên
Ḥa |
Theo biên bản
ghi nhớ của Trung tá Keith W. West, Tư lệnh Phi đoàn
Đặc nhiệm (SOS) 12th của Chiến dịch
Ranch Hand ở Căn cứ Không quân Biên Ḥa, các vụ ṛ rỉ
thuốc khai quang xảy ra từ đường ống ngầm
của hệ thống tồn trữ và phân phối mới
vừa hoàn tất vào ngày 14 tháng 1 năm 1970. Hệ thống được xây
dựng để có thể bơm 3 loại thuốc khai
quang (trắng, xanh, và da cam) từ các bồn chứa vào các
máy bay Ranch Hand đậu ở khu vực tiếp liệu và
bảo tŕ. “Đường ống ngầm bằng plastic có thể
chịu một áp suất lên đến 300 PSI [pounds per
square inch]. Áp suất tối đa
dùng bơm thuốc khai quang lên máy bay vào khoảng 45 đến
65 PSI. V́ tất cả đường
ống đều nằm dưới mặt đất, ṛ
rỉ chỉ được phát hiện khi áp suất trong
đường ống bị giảm bất thường. Số lượng của mỗi
bồn chứa được theo dơi hàng ngày bằng số
lượng c̣n trong bồn trừ số lượng bơm
lên máy bay. Dường như đây
là phương pháp duy nhất để xác định xem có
ṛ rỉ hay không [?].” (10)
Ngày 15 tháng
1 năm 1970, gần 500 gallons chất màu trắng ṛ rỉ từ
mối nối chữ T của đường ống ngầm. “Không
có thuốc khai quang chảy tràn trên mặt đất; tất
cả số lượng ṛ rỉ thấm vào đất ở
chung quanh chỗ bị bể.” (10) Ngày 5 tháng 2 năm 1970, một mối
nối chữ L của đường ống ngầm bị
sút khiến khoảng 1.000 gallons chất da cam bị ṛ rỉ,
nhưng chi tiết không được báo cáo. Trong tuần lễ đầu tiên
của tháng 2 năm 1970, một mối nối khác của đường
ống ngầm lại bị sút.
Gần 500 gallons chất da cam bị thất thoát, nhưng
chi tiết không được báo cáo.
Tai nạn
nghiêm trọng nhất có lẽ xảy ra ngày 28 tháng 2 năm
1970 với khoảng 7.500 gallons chất da cam ṛ rỉ từ
một lỗ thủng có đường kính ½ inch trên đường
ống ngầm. “Vào khoảng 7:30 sáng ngày 1 tháng 3 năm
1970, Thiếu tá Iorcross, 12SOS được Trung sĩ Webb của
Ban Thuốc khai quang thông báo việc ṛ rỉ trong hệ thống
bơm thuốc khai quang. Công binh
được thông báo để đào đường ống
sau khi đă đóng tất cả các khóa (valves) của hệ
thống. Một lỗ thủng
có đường kính ½ inch được t́m thấy trên một
đoạn ống thẳng giữa khu S-13 và S-12 (tham khảo
sơ đồ tổng thể của BHAB, RVN [Căn cứ
Không quân Biên Ḥa, Việt Nam Cộng Ḥa] trong hồ sơ của
Chỉ huy trưởng Bảo tŕ, 3TFW [Vùng III Chiến Thuật]). Vào lúc nầy, sĩ quan trực của
Phi đoàn Đặc nhiệm 12th được thông
báo và số lượng thuốc khai quang trong bồn chứa
chất da cam được kiểm tra. Sau khi khấu trừ số lượng
sử dụng trong đêm qua, 3 feet (khoảng 7.500 gallons) thuốc
khai quang được xác nhận là thất thoát.
Một bồn
chứa thuốc khai quang
ở Căn
cứ Không quân Biên Ḥa (9)
Việc ṛ rỉ được sửa
chữa bằng cách gắn mối nối Dresser chung quanh nơi
đường ống bị hư hại. Một bờ đất được
đấp ngay lập tức để chận nước
chảy tràn trên mặt đất (ước lượng
khoảng 100 gallons).
Sau đó một đập làm bằng
đất lấy tại chỗ được xây ngay phía
dưới đường ống ngầm để chận
nước chảy tràn nếu đường ống bị
bể trong tương lai. Ngày
7 tháng 3, Bác sĩ của Phi đoàn được liên lạc
để xác định phương pháp lấy mẩu nước
và đất ở nơi bị ô nhiễm thuốc khai
quang. Những biện pháp kiểm
soát tại chỗ đă được thay đổi để
đóng tất cả các khóa của hệ thống vào ban đêm,
ngoại trừ trường hợp phải bơm thuốc
lên máy bay. V́ tất cả những
tín hiệu của hệ thống (áp suất của bơm
và lưu lượng của thuốc khai quang ở ṿi) vẫn
b́nh thường, biện pháp nầy được xem là cần
thiết để tránh những tai nạn tương tự
trong tương lai.
Khoảng 2 tuần sau, Đại úy Altum,
MACV J3-09, được báo cáo trong một chuyến thăm
viếng của Ông. Tai nạn
ṛ rỉ, những biện pháp khắc phục, và nhu cầu
lấy mẩu để xác định ảnh hưởng
của đường ống bể được thảo
luận. Bác sĩ của Phi đoàn
đề nghị Quân Y Biên Ḥa phụ trách vấn đề
lấy mẩu. Họ cho biết,
căn cứ không quân gần nhất có khả năng thử
nghiệm 2-4D và 2-4-5T là Căn cứ Không quân McCellan. Trung sĩ Larson bên Quân Y đă liên
lạc với Phi đoàn Đặc nhiệm 12th vào ngày
22 tháng 3 năm 1970 để thảo luận phương
pháp lấy mẩu nước.
Đập đất đă ngăn chận
được tất cả nước và thuốc khai
quang c̣n sót lại. Chất lỏng
không c̣n chảy vào hệ thống thoát nước nữa. Tuy nhiên, nơi xảy ra tai nạn
hiện đang ngập đầy nước nên đập
đất sẽ không c̣n hiệu quả trong mùa mưa. Một số lượng nước
đă được xả qua đập và để cho
thấm vào đất cát trong mương thoát nước.
Tai nạn được báo cáo lên Đại
tá Whiteside, MACV J3-09, ngày 21 tháng 3 năm 1970. Theo đề nghị của Ông, Công
binh sẽ thay thế tất cả ống plastic bằng ống
sắt và be bờ chung quanh các bồn chứa để ngăn
chận tất cả thuốc khai quang trong trường hợp
các bồn chứa bị bể.” (10)
Những
nơi bị thiệt hại v́ thuốc khai quang trong vùng
phụ cận Căn cứ Không quân Đà Nẳng (12) |
Ảnh hưởng
đối với môi trường của các vụ ṛ rỉ
nầy đă được điều tra và mô tả trong
một biên bản ghi nhớ do Pacific Technical Analysts –
Subsidiary soạn ngày 29 tháng 4 năm 1970. “Các vụ
ṛ rỉ đă làm một vài nơi của nền đất
đấp (artificial fill) và đất cát lắng ở mương
thoát nước bị băo ḥa. Vụ
ṛ rỉ từ đường ống bể ngày 1 tháng 3 năm
1970 làm băo ḥa một phần của nền đất đấp,
và một phần giữa nền đất đất đấp
và lớp đất cát pha sét ở bên dưới. Các mẩu đất lấy ở
vách mương khảo sát (exploration trench), được đào
giữa nơi ṛ rỉ và đường thoát nước,
bị ô nhiễm thuốc khai quang da cam với nồng độ
thay đổi từ 0,2 cho đến 106,1 phần triệu
(parts per million (ppm)). Sự phân
phối các mẩu nầy cho thấy thuốc khai quang bị
giới hạn trong nền đất đấp và khoảng
1 đến 2 inches phần trên cùng của lớp đất
cát pha sét. Nồng độ
trong đất lên đến 10 phần triệu, được
t́m thấy trong các mẩu lấy từ lớp đất
cát pha sét hoặc lớp đất sét có nhiều màu (mottled
clay) nằm bên dưới nền đất đấp từ
1 đến 3 feet, có lẽ do sự lan truyền cơ học
(mechanical spreading) trong khi đào mương khảo sát. Thuốc khai quang khó có thể lan
xa hơn một vài inches trong lớp đất cát pha sét nằm
bên dưới nền đất đấp trong suốt thời
gian kể từ khi xảy ra vụ ṛ rỉ.” (11)
Thiệt hại cây ăn trái và hoa màu
trong vùng phụ cận Căn cứ Không quân Đà Nẳng
Những
thiệt hại do thuốc khai quang gây ra cho cây ăn trái và
hoa màu trong vùng phụ cận Căn cứ Không quân Đà Nẳng
xảy ra trong tháng 9 và 10 năm 1968. Kết quả nhiều
cuộc điều tra, được thực hiện để
xác định nguyên nhân gây ra thiệt hại, cho thấy cây
ăn trái và hoa màu trong vùng phụ cận Căn cứ Không
quân Đà Nẳng bị thiệt hại v́ số thuốc khai
quang c̣n sót lại trong các thùng 55-gallon đựng thuốc
khai quang (12-15).
“Việc phân phối rộng răi các thùng
không từng chứa thuốc khai quang, với khoảng từ
2 đến 3 gallons thuốc c̣n sót lại, rất phổ
biến ở hai căn cứ Ranch Hand chánh yếu ở Biên
Ḥa và Đà Nẳng. Việc vận chuyển các thùng không nầy
trong khắp thành phố và vùng phụ cận, cộng với
việc ṛ rỉ và bay hơi (volatilization) không thể tránh
khỏi của thuốc khai quang c̣n sót lại trong thùng, chắc
chắn, đă gây thiệt hại đáng kể cho cây che mát
(shade trees), cây ăn trái, và hoa màu trong vùng mà các thùng không nầy
được phế thải.
Vấn đề được ghi nhận trong phúc
tŕnh “Thiệt hại do thuốc khai quang ở Đà Nẳng”
ngày 25 tháng 3 năm 1969 của Trung tá Jim Corey, Chỉ huy phó CORDS/NLD/I
CTZ, gởi cho R.M. Urguhart, Chỉ huy trưởng CORDS/NLD/I
CTZ, được lưu trữ trong hồ sơ của
Ban Hành quân Hóa học (Chemical Operations Division), MACV J3-09. Như được tŕnh bày trong
phúc tŕnh và được các thành viên của đoàn quan sát
trong vùng Đà Nẳng, rất nhiều thùng không từng đựng
thuốc khai quang được t́m thấy khắp nơi
trong thành phố và vùng phụ cận. Các thùng nầy được dùng
để đựng xăng, dầu cặn (diesel fuel) và nước
dù có một số ít thuốc khai quang vẫn c̣n sót lại
trong thùng. Việc dùng xăng bị
ô nhiễm thuốc khai quang để chạy xe gắn máy
và các loại xe khác chắc chắn là nguyên nhân chánh yếu
của các thiệt hại do hiện tượng bay hơi
của nhiều chất khác nhau được chứa
trong các thùng không.
Mức thiệt hại trong thành phố
Đà Nẳng đă đưa đến những biện pháp
giới hạn việc phân phối các thùng thuốc khai
quang. Một trong các biện pháp
cần thiết để ngăn chận sự thiệt hại
là chôn hoặc phế thải một cách an toàn (safe disposal)
các thùng không bị ô nhiễm thuốc khai quang.” (15)
Thiệt hại
do số thuốc khai quang c̣n sót lại trong thùng từng đựng
thuốc khai quang không chỉ giới hạn trong vùng phụ
cận Căn cứ Không quân Đà Nẳng. Một cuộc điều tra
trong tháng 9 năm 1969 cũng cho thấy những thiệt hại
tương tự ở bên trong Bộ Tư lệnh Hải
quân Việt Nam Cộng Ḥa ở Đà Nẳng. “Có tất cả tám thùng thuốc khai quang DA CAM được
t́m thấy bên trong Bộ Tư lệnh. Hai trong bốn thùng ở Băi xăng
dầu c̣n nồng nặc mùi thuốc khai quang. Bốn thùng c̣n lại ở gần
xe báo hiệu th́ chứa đầy xăng. Xăng trong các thùng nầy dùng để
chạy máy phát điện. Phó
tư lệnh James và Ông Xuân được thông báo là xăng
trong các thùng có thể chứa một ít thuốc khai quang, do
đó, khói do máy phát điện phun ra sẽ chứa hơi
thuốc khai quang có thể ảnh hưởng đến hoa
màu ở chung quanh. Họ cũng
được lưu ư rằng hơi bốc ra từ số
thuốc khai quang c̣n sót lại trong các thùng không cũng có thể
là nguyên nhân gây thiệt hại cho hoa màu ở gần đó.”
(16)
Xả khẩn cấp và ṛ rỉ từ
Trong trường
hợp khẩn cấp như động cơ bị hư
v́ trúng hỏa lực của địch hay v́ lư do kỹ
thuật, toàn bộ 1.000 gallons thuốc khai quang trong bồn
chứa trên máy bay UC-123 phải được xả khẩn
cấp (emergency dumping) để bảo đảm an toàn
cho máy bay và phi hành đoàn. Máy
bay UC-123 là loại máy bay dùng trong Chiến dịch Ranch
Hand. Theo tài liệu thống kê
của Quân đội Hoa Kỳ, có 37 vụ xả khẩn
cấp với tổng cộng 11.800 gallons thuốc khai quang
đă xảy ra từ năm 1965 đến 1970; gồm có
11 vụ với 4.200 gallons chất da cam, 8 vụ với
2.100 gallons chất màu xanh, 6 vụ với 3.900 gallons chất
màu trắng, và 12 vụ với 1.600 gallons thuốc khai quang không
rơ loại (17).
“Hồ sơ lưu trữ của
Ban Hành quân Hóa học ở MACV cho thấy năm vụ xả
khẩn cấp từ máy bay RANCH HAND xảy ra trong khoảng
từ ngày 1 tháng 12 năm 1968.
Một vụ xảy ra ở ngoài biển Đông, cách bờ
khoảng 10 km về phía nam tỉnh Bạc Liêu. Bốn vụ c̣n lại xảy ra
trong phạm vi có bán kính từ 20 đến 25 km chung quanh Biên
Ḥa ở cao độ từ 2.000 đến 3.500 feet. Kết quả khảo sát một
vị trí cách Biên Ḥa 20 km về phía thượng nguồn sông
Guai [?] của Marvin Davis bên USAID cho thấy thiệt hại
về cây ăn trái, dừa, cây kiểng, và hoa màu có giá trị
cao trong một vùng rộng khoảng 1 km và dài khoảng 2
km. Ở một vị trí khác
gần làng Mỹ Quới, tỉnh Biên Ḥa nơi chất DA
CAM được xả từ cao độ 2.500 feet, vùng
thiệt hại rộng khoảng 1 km và dài khoảng 2-3 km,
cũng theo phúc tŕnh của Marvin Davis bên USAID. Cam quít, xoài, chuối, dừa, cau bị
thiệt hại nặng nhất.
Tuy nhiên, hoa màu ngắn ngày được trồng 6 tuần
sau vụ xả khẩn cấp th́ không bị ảnh hưởng. Thiệt hại của các vụ
xả khẩn cấp có thể rất nặng trong vùng ảnh
hưởng của chúng, nhưng nếu gặp điều
kiện thời tiết thuận lợi, những vùng chung
quanh cũng có thể bị thiệt hại, nhưng nhẹ
hơn, v́ thuốc bị thổi tạt đi xa hơn khi được
phun ở cao độ khá cao.
Một phần thiệt hại của cây che mát ở
phía đông thành phố Biên Ḥa có thể do những vụ xả
khẩn cấp ở vùng phụ cận gây ra.” (16)
Ṛ rỉ có
thể xảy ra từ máy bay UC-123 hoặc trực thăng
nếu ṿi của hệ thống phun trên máy bay bị ṛ rỉ. “Ṿi thường
bị ṛ rỉ trên đường bay trở về căn
cứ sau khi hoàn tất phi vụ. V́ màn bơm bị kẹt
nên một số lượng nhỏ thuốc khai quang c̣n sót
lại trong ống phun có thể rơi xuống sau khi tắt
máy bơm thuốc. Mức thiệt
hại do thuốc khai quang ṛ rỉ từ hệ thống bơm
trên máy bay UC-123 gây ra cho hoa màu và các loại thực vật
khác th́ không được biết, nhưng chắc là rất
thấp v́ chỉ liên quan đến một số lượng
nhỏ thuốc khai quang và bị khuếch tán khi ṛ rỉ từ
cao độ khá cao.” (16) Lúc
ban đầu, ṛ rỉ từ máy bay Ranch Hand bị nghi ngờ
là nguyên nhân của những thiệt hại nặng nề ở
vườn rau kiểu mẫu ở Quận Ḥa Vang trong tháng
9 năm 1968. Vườn rau kiểu
mẫu nầy nằm ở phía nam của Căn cứ Không
quân Đà Nẳng, trên đường cất cánh thông thường
của máy bay Ranch Hand. Nhưng
“Việc ṛ rỉ khó có thể
xảy ra khi máy bay cất cánh hay trước khi thuốc
khai quang trên máy bay được phun. Ṛ rỉ chỉ xảy ra khi khóa bị
hư sau khi phun thuốc... Cũng
cần nói thêm là những vùng thiệt hại khác th́ nằm
ngoài đường bay của máy bay phun thuốc khai
quang. Hơn nữa, hoa màu đang
trồng bên phía đông Đà Nẳng (vùng tô màu nâu trên bản đồ)
th́ không bị thiệt hại mặc dù máy bay Ranch Hand vẫn
thường bay qua vùng nầy.” (12)
Tai nạn không hề biết
ở Tân cảng Sài G̣n
Tai nạn
đổ tháo thuốc khai quang ở Tân cảng Sài G̣n th́ không
hề được biết đến như các tai nạn
khác, nhưng được ghi nhận một cách t́nh cờ
qua các h́nh ảnh cá nhân do thành viên của Tiểu đoàn Vận
tải 71st chụp và đăng tải trên một
trang web của Allan Furtado (một trung sĩ của Đại đội
154th) có địa chỉ là http://www.allanfurtado.com.
Tân cảng
Sài G̣n năm 1968 (19)
Những
thùng thuốc khai quang
vận
chuyển qua Tân cảng Sài G̣n (20)
Tân cảng
Sài G̣n nằm trên sông Sài G̣n, cách Cảng Sài G̣n khoảng 3 dặm
về hướng bắc, ngay phía dưới cầu Sài G̣n
trên Xa lộ Sài G̣n – Biên Ḥa. Cảng
do công ty Raymond International, Morrison-Knudson International, Brown &
Root and J. A. Jones (RMK-BRJ) xây cất trên một khu đất
rộng khoảng 100 acres, một phần là ruộng lúa và một
phần là đầm lầy ngập nước khi thủy
triều lên. Sau khi hoàn tất
vào cuối năm 1966, Tân cảng Sài G̣n được điều
hành bởi Tiểu đoàn Vận tải 71st có căn
cứ ở Fort Story, Virginia để tiếp nhận tất
cả hàng hóa của Quân đội Hoa Kỳ đang được
bốc dỡ ở Cảng Sài G̣n vào thời điểm đó
(18).
Những
thùng thuốc khai quang ở Tân cảng Sài G̣n (21)
Những
thùng thuốc khai quang ở Tân cảng Sài G̣n (21)
Những
thùng thuốc khai quang ở Tân cảng Sài G̣n bị hư
hại vào tháng 5
năm 1968 (22) |
Những
thùng chất da cam ở Tân cảng Sài G̣n (21)
Trong đợt
Tổng công kích Tết Mậu Thân giai đoạn 2, Tân cảng
Sài G̣n bị pháo kích bằng hỏa tiển 122 mm và súng cối
vào ngày 12 tháng 5 năm 1968. Vụ
tấn công nầy đă gây thiệt hại quan trọng cho
cơ sở và khí cụ ở Tân cảng Sài G̣n. Cầu Sài G̣n cũng bị hư
hại.
Văn pḥng
điều hành bị hư hại (22)
Khí cụ
bị hư hại (22)
Cầu Sài
G̣n bị hư hại (21)
Trong số
các thiệt hại đó có thể là hàng ngàn thùng chất da
cam và chất màu trắng, được ghi nhận t́nh cờ
trong một bức ảnh với lời chú thích: “Bức
ảnh nầy cũng được đăng trên một
trong các trang web của Al Krabbenhoeft.
Tôi nghĩ rằng nó đáng để chúng ta xem lại
một lần nữa. Một
nhân viên dân sự ở Tân cảng đang quan sát vị trí nơi
James Lake thiệt mạng v́ hỏa tiển pháo kích ngày 12 tháng
5 năm 1968. Cô đang cười
v́ được chụp ảnh.
Hăy nh́n phía sau. Đó là những
thùng bị hư và bể. Khi
nh́n kỹ sẽ thấy những sọc màu trắng và da
cam.” Bức ảnh nầy được
chụp bởi SP4 Richard Allen Morawa, thành viên của Đại
đội 368th thuộc Tiểu đoàn Vận tải
71st, phụ trách bảo vệ an ninh cho Tân cảng
Sài G̣n vào lúc đó (22).
TIÊU CHUẨN DÙNG ĐỂ
XÁC ĐỊNH “ĐIỂM NÓNG”
V́ Việt
Nam chưa có tiêu chuẩn dùng để xác định địa
điểm ô nhiễm, HCL đă dùng tiêu chuẩn do tiểu
bang British Columbia, Canada (BC) ấn định cho đất
nông nghiệp và đất thổ cư/công viên để xác
định điểm nóng dioxin ở Việt Nam. Để bảo
vệ môi trường, tiêu chuẩn BC giới hạn nồng
độ dioxin trong đất ở mức 10 ppt Tổng TEQs
đối với đất nông nghiệp và 1.000 ppt Tổng
TEQs đối với đất thổ cư/công viên. Để bảo vệ sức khỏe
con người, nồng độ dioxin trong đất không
được quá 350 ppt Tổng TEQs cho tất cả các loại
đất (8).
Cơ quan Bảo vệ Môi sinh Hoa Kỳ
(EPA) đă ấn định mục tiêu điều trị
tạm thời (Preliminary Remediation
Goals) hay khởi điểm cho việc ấn định
mức tẩy xóa dioxin ở trong đất
tại các địa điểm khắc phục ô nhiễm
chi phối
bởi Đạo luật Tổng quát
về Đối phó, Bồi thường, và Trách nhiệm Môi
trường
(Comprehensive Environmental Response,
Compensation, and Liability Act
(CERCLA), thường được
gọi là các địa điểm “Siêu ngân.”
Đối với đất thổ cư,
1 phần tỉ (hay 1.000 ppt) Tổng TEQs được dùng
làm
khởi điểm để tẩy
xóa dioxin ở các địa điểm “Siêu ngân” và làm mục
tiêu
điều trị tạm thời để
giảm dioxin ở các địa điểm khắc phục
ô nhiễm.
Đối với đất thương
măi/kỹ nghệ, nồng độ trong đất từ
5 đến 20 phần tỉ
(5.000 đến 20.000 ppt) Tổng TEQs
được dùng làm khởi điểm
để tẩy xóa dioxin ở các địa
điểm “Siêu ngân” và làm mục tiêu điều trị tạm thời để giảm dioxin ở các địa điểm khắc phục ô nhiễm |
Ở Hoa Kỳ,
Cơ quan Bảo vệ Môi sinh (EPA) đă ấn định
mục tiêu điều trị tạm thời (preliminary
remediation goals (PRGs)) hay khởi điểm cho việc ấn
định mức tẩy xóa dioxin ở trong đất tại
các địa điểm khắc phục ô nhiễm
(corrective action sites) chi phối bởi Đạo luật Tổng
quát về Đối phó, Bồi thường, và Trách nhiệm
Môi trường (Comprehensive Environmental Response, Compensation and
Liability Act (CERCLA)) và Luật Bảo tồn và Phục hồi
Tài nguyên (Resource Conservation and Recovery Act (RCRA)), thường được
biết dưới cái tên địa điểm “Siêu ngân” (“Superfund”
sites). Những mức độ
nầy được ấn định để bảo
vệ sức khỏe con người và môi trường. “Một
ppb [phần tỉ hay 1.000 ppt] (TEQs, hay độ độc
tương đương) được dùng làm khởi điểm
để ấn định mức tẩy xóa cho các địa
điểm “Siêu ngân” và làm mục tiêu điều trị tạm
thời để giảm mức độ dioxin trong đất
thổ cư ở các địa điểm khắc phục
ô nhiễm. Đối với đất
thương măi/kỹ nghệ, một nồng độ
trong đất từ 5 đến 20 phần tỉ [5.000 đến
20.000 ppt] (TEQs) phải được dùng làm khởi điểm
để ấn định mức tẩy xóa cho các địa
điểm “Siêu ngân’ và làm mục tiêu điều trị tạm
thời để giảm mức dioxin trong đất ở
các địa điểm khắc phục ô nhiễm.” (23)
Cơ quan
Pḥng ngừa Bệnh tật và Độc tố (Agency for Toxic
Substances and Disease Registry (ATSDR)) thuộc Bộ Y tế và Xă
hội Hoa Kỳ cũng đă phê chuẩn một tài liệu
hướng dẫn tạm thời (interim policy guideline) để
lượng giá ảnh hưởng của các hợp chất
dioxin và họ dioxin (dioxin and dioxin-like compounds) trong đất
thổ cư ở tại hoặc gần các địa điểm
có chất thải độc hại (hazardous waste sites). Tài liệu hướng dẫn tạm
thời nầy giải thích một cách rơ ràng và hợp lư chánh
sách và đường lối hiện nay của ATSDR đối
với những hiểm nguy do sự hiện diện của
TCDD (dioxin) và các hợp chất cùng họ ít độc hơn,
chlorinated dibenzo-p-dioxins (CDDs) và chlorinated dibenzo furans (CDFs), ở
trong đất thổ cư.
Khi nồng độ ước tính trong đất thay đổi
trong khoảng từ 50 đến 1.000 ppt Tổng TEQs, phương
pháp cân nhắc bằng chứng (weight-of-evidence approach) phải được áp
dụng để đánh giá mức độ ô nhiễm và
ảnh hưởng của chúng đối với sức
khỏe con người. Nồng
độ 1.000 ppt Tổng TEQs được ATSDR xem như
là “nồng độ của hóa
chất, ở đó, các biện pháp để chận đứng
hoặc ngăn ngừa ô nhiễm cần phải được
cứu xét, chẳng hạn như khảo sát, khảo cứu,
nghiên cứu y tế, giáo dục cộng đồng, tu nghiệp,
hoặc điều tra t́nh trạng tiếp xúc với ô nhiễm
(exposure investigations). Tuy nhiên, những
biện pháp nầy có thể không cần thiết tùy theo kết
quả lượng định của Giám định viên
Y tế (health assessor).” (24)
Giám định viên Y tế phải trả lời các câu hỏi
sau đây:
·
Phạm vi ô nhiễm rộng như thế nào?
·
Ô nhiễm tập trung hay lan rộng?
·
Người lớn và trẻ con có tiếp cận
dễ dàng với đất hoặc nơi ô nhiễm không?
Vùng ô nhiễm như thế nào (có cây cối hay không)?
·
Ở địa điểm nầy, chu kỳ (hàng
ngày, hàng tuần, hàng tháng) và thời khoảng (tháng, năm,
trọn đời) tiếp xúc với ô nhiễm ra sao?
Nếu việc tiếp xúc với đất
thổ cư có nồng độ dioxin vượt quá 1.000
ppt Tổng TEQs được xem là thái quá, địa điểm
được ATSDR ấn định là nguy hiểm cho sức
khỏe công cộng. Các biện pháp và đề nghị
cá biệt về y tế cần phải được cứu
xét để ngăn ngừa hoặc ngăn chận việc
tiếp xúc với ô nhiễm.
NỒNG ĐỘ DIOXIN TRONG ĐẤT
Ở CÁC “ĐIỂM NÓNG”
Trại Lực lượng Đặc
biệt A Shau
Vị trí
của các căn cứ quân sự trong thung lũng A Shau
(26) |
Trại Lực
lượng Đặc biệt A Shau (nay là A Sô) là một trong
ba căn cứ của lực lượng đặc biệt
được thiết lập trong thung lũng A Shau (nay là
A Lưới). “Thung lũng A Shau, một vùng đất nhiệt đới
giàu có và màu mỡ dài 35 miles, chạy dọc theo ranh giới
phía tây của tỉnh Thừa Thiên.
Bạn có thể cảm nhận sự thần bí của
thung lũng khi nh́n thấy nó lần đầu tiên, từ
trên không hay ở dưới đất. Tài liệu lịch sử của
A Shau không có bao nhiêu. Kể từ
năm 1962, thung lũng đă trở thành ác mộng của lực
lượng Hoa Kỳ và Việt Nam [Cộng Ḥa] khi họ
thiết lập các căn cứ ở A Lưới trong vùng
trung bắc, ở Tà Bạt trong vùng trung tâm, và ở A Shau
trong vùng phía nam. Ngoài ba căn cứ
với các phi đạo tí hon, A Shau c̣n có khoảng 30.000 cư
dân thuộc sắc tộc Katu và Pakoh. Các trại nầy, từng
trại một, bị bắt buộc phải đóng cửa
v́ không thể tiếp tục hoạt động dưới
áp lực của Việt Cộng và quân Bắc Việt.
Yếu tố tiếp liệu, thời tiết, và địch
quân là các lư do của việc rút quân, đầu tiên là A Lưới,
rồi Tà Bạt, và sau cùng là A Shau vào tháng 3 năm 1966. Thung lũng thuộc quyền kiểm
soát của địch quân trong hai năm. Măi đến năm 1968, lực lượng
Hoa Kỳ và đồng minh mới trở lại A Shau, một
thiên đàng của địch.” (25)
Vào năm
1996, sau khi “tham khảo” với nhiều cơ quan chức năng
của chánh phủ Việt Nam và các Ủy ban Nhân dân trước
khi xúc tiến việc nghiên cứu tại chỗ, HCL đă
tiến hành việc lấy mẩu thăm ḍ trong thung lũng
A Shau. “Dữ kiện của chương tŕnh 1996 cho thấy
các mẩu đất và cá thu thập từ A Sô ở phía
nam thung lũng A Lưới có chứa dioxin (đất: 33,3 pg/g và 112,6 pg/g TEQ;
cá: 2,6 pg/g và 53,7 pg/g TEQ). Dữ
kiện năm 1996 là nền tảng cho cuộc thăm ḍ
chi tiết hơn trong năm 1997 ở A Sô và một căn
cứ không quân nhỏ của lực lượng đặc
biệt Mỹ ở trong vùng… Giống
như cuộc thăm ḍ năm 1996, đất ở căn
cứ cũ của Mỹ có nồng độ dioxin cao nhất
(92,2 pg/g và 901,2 pg/g TEQ); hợp chất 2,3,7,8-T4CDD chiếm đến
96% và 99,6% Tổng TEQs của các mẩu nầy. Dữ kiện nầy cho thấy
nguồn gốc của 2,3,7,8-T4CDD th́ có liên quan đến
chất da cam, v́ hợp chất nầy là chất ô nhiễm
chánh của chất da cam hiện diện trong loại thuốc
diệt cỏ 2,4,5-T [2,4,5-trichlorophenoxyacetic acid], một thành
phần của hỗn hợp chất da cam .” (2)
Phi đạo
A Lưới năm 1969 (Ảnh: Raz Reed) (27)
Phi đạo
Tà Bạt năm 1969 (Ảnh: Larry Wagoner) (28)
Trại Lực
lượng Đặc biệt A Shau và phi đạo năm
1969
(Ảnh:
Larry Wagoner) (28)
Năm
1999, HCL lại tiến hành một cuộc thăm ḍ khác bao
gồm toàn thể thung lũng A Shau với trọng tâm là trại
Lực lượng Đặc biệt A Shau. “Nói
chung, nồng độ dioxin trong các mẩu đất thu
thập khắp nơi trong thung lũng A Lưới th́ thấp
hơn rất nhiều so với các mẩu đất ở
căn cứ A Sô cũ. Trung tâm
của các hoạt động quân sự qui mô (đó là các
trại lực lượng đặc biệt) có nồng độ
TCDD cao nhất… Như được
ghi nhận trong các cuộc thăm ḍ trước đây, các
mẩu đất lấy ở trại Lực lượng
Đặc biệt Mỹ ở A Sô có nồng độ TCDD cao
nhất (220 pg/g - 360 pg/g; Bảng 2.3)… Khu vực phía bắc của căn
cứ A Sô có mức độ TCDD cao nhất. Mức độ [dioxin] giảm dần
về phía nam của căn cứ.
Trị số TCDD năm 1999 ở căn cứ A Sô th́
thấp hơn trị số năm 1997 (895,85 pg/g, H́nh 2.6), cho
thấy mức biến thiên rất cao của nồng độ
trong phạm vi căn cứ… Sự
biến đổi của nồng độ TCDD trong đất
ở gần căn cứ A Sô (1996, 1997 và 1999) cho thấy
nhiều khu vực của căn cứ bị ô nhiễm
cao, và ở một vài nơi [nồng độ dioxin trong đất]
có lẽ vượt quá trị số được báo cáo
trong phúc tŕnh.” (29) Nhưng nồng
độ trong đất chỉ thay đổi từ 26 đến
46 ppt Tổng TEQs ở vùng trung tâm và từ 4,9 đến 16
ppt Tổng TEQs ở vùng phía nam của căn cứ. Hai trại lực lượng đặc
biệt c̣n lại trong thung lũng A Shau cũng được
HCL thăm ḍ, nhưng nồng độ dioxin trong đất
th́ thấp hơn rất nhiều.
Các nồng độ nầy thay đổi từ 5,5 đến
37 ppt Tổng TEQs ở trại Lực lượng Đặc
biệt Tà Bạt và từ 5,7 đến 20 ppt Tổng TEQs ở
trại Lực lượng Đặc biệt A Lưới (29).
Căn cứ Không quân Đà Nẳng
Mặc dù
Căn cứ Không quân Đà Nẳng được HCL và Ủy
ban 10-80 xác nhận là một trong những điểm nóng
dioxin ở Việt Nam và được MOU và Ford Foundation chọn
để nghiên cứu thêm, dữ kiện và tin tức liên
quan đến ô nhiễm dioxin ở đây th́ không có bao nhiêu. Không có một vụ ṛ rỉ hay đổ
tháo thuốc khai quang nào được báo cáo, ngoại trừ
những thiệt hại được phổ biến
trong năm 1968.
Vào năm 2003,
trong một cuộc điều tra được xem là một
phần của “Kế hoạch
nghiên cứu dioxin cấp nhà nước để t́m hiểu
hậu quả của chất độc hóa học do Quân đội
Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam (Chiến
dịch Ranch hand từ 1961-1971) (NDRP),” hai mẩu đất
được thu thập để phân tích các hợp chất
polychlorinated dibenzo dioxins (PCDDs) và
polychlorinated dibenzo furans (PCDFs). “V́ các biện pháp an ninh chúng tôi không
thể thực hiện việc lấy mẩu bên trong sân
bay, do đó chúng tôi chọn địa điểm lấy mẩu
bên ngoài sân bay ở gần đường bay, nơi chất
thải từ máy báy được liệng ra ngoài sau các
chuyến bay trong thời chiến tranh [?].” (30)
Vị trí
lấy mẩu ở vùng phụ cận Căn cứ Không
quân Đà Nẳng năm 2003 (30) |
Nồng độ
trong đất đo được 4,5 ppt Tổng TEQs ở
địa điểm gần sân bay và 4,1 ppt Tổng TEQs ở
địa điểm kia. “Điều nầy hợp lư, v́ như
chúng tôi đă nói ở trên, địa điểm DN1 ở
gần sân bay và là nơi chứa rác của sân bay trong thời
gian qua… Tuy nhiên, dựa theo dữ
kiện trong bảng 5.4, phần lớn Tổng TEQ của địa
điểm DN2 là do OCDD [octa-chlorodibenzo-p-dioxin] và 1,2,3,4,6,7,8-HpCDD
– các hợp chất được xem là ít độc (với
TEFs bằng 0,01 và 0,001). Các hợp
chất nầy có lẽ phát xuất từ những nguồn
ô nhiễm khác chẳng hạn như tro khi đốt thuốc
khai quang phế thải [?].” (30)
Cũng cần nên biết nồng độ TCDD trong đất
ở địa điểm DN2 là 0,2 ppt.
Nồng độ
trong đất cũng được biết đến
qua nhiều bài viết và tin tức báo chí; tuy nhiên, chi tiết
về các nồng độ nầy th́ không được cung
cấp. Theo HCL, nồng độ
dioxin của 21 mẩu đất thu thập trong vùng phụ
cận Căn cứ Không quân Đà Nẳng trong tháng 3 năm
2005 thay đổi từ dưới 1 ppt đến 269 ppt
Tổng TEQs với nồng độ TCDD cao nhất là 227 ppt
(6). Theo Ủy ban 33, Căn cứ
Không quân Đà Nẳng là điểm nóng “nóng nhất,” với 85.000
m3 đất ô nhiễm có nồng độ trung b́nh
là 10.000 ppt Tổng TEQs (31).
Rừng Mă Đà
Rừng Mă
Đà là địa điểm thứ hai được MOU chọn
để nghiên cứu thêm. “Trước năm 1975, Mă Đà được
gọi là Chiến khu D – là một căn cứ của Quân đội
[Nhân dân] Việt Nam trong thời chiến tranh Việt-Mỹ. Vùng nầy chịu ảnh hưởng
nặng nề của chất độc hóa học và vũ
khí giết người. Trong
thời gian 1964-1969, thuốc khai quang được phun ở
Chiến khu D để phá hủy rừng ở địa
phương (Trung, T.V. 1982). Rừng
dọc theo đường 322, từ sông Đồng Nai đến
suối Mă Đà (35 km) hầu như bị phá hủy hoàn toàn v́
bị phun thuốc khai quang nhiều lần. Diện tích rừng bị thiệt
hại lên đến khoảng 3.000 ha. Vào năm 1975 (sau khi Việt Nam được
độc lập), Lâm trường Mă Đà (MAYs) được
thành lập để khai thác gỗ cho mục đích kinh tế. Một lần nữa, rừng bị
tàn phá nghiêm trọng. Vào năm
1982, sau một thời gian khai thác khá lâu, tài nguyên rừng hầu
như kiệt quệ. Mục
đích của MAYs là chuyển từ khai thác qua khôi phục
rừng. Các hoạt động
trồng rừng tập trung vào những loại gỗ có
giá trị kinh tế cao chẳng hạn như Dipterocarpaceae,
Hopea Odorata, v.v. để phục hồi tài nguyên rừng. Nhiều kỹ thuật tái tạo
rừng được áp dụng để tăng gia sản
lượng gỗ được ghi trong kế hoạch.”
(30)
Vào năm
1997, HCL và Ủy ban 10-80 tiến hành một cuộc điều
tra trong vùng phụ cận phi trường quân sự ở
Rang Rang. Nồng độ
trong đất thay đổi từ 2,37 đến 20,33 ppt
Tổng TEQs, và nồng độ trong bùn thay đổi từ
2,64 to 7,93 ppt Tổng TEQs (29).
Trong cuộc
điều tra 2003, “… chúng tôi
thu thập tất cả 16 mẩu (10 ở sân bay Rang Rang, 3
ở suối Mă Đà, và 3 trong rừng tự nhiên ở chung
quanh). V́ không đủ thời
giờ, chúng tôi chỉ phân tích 6 mẩu (3 mẩu được
kiểm chứng bởi Carso Lab và 1 mẩu được
phân tích bởi Carso Lab).” (30)
Nồng độ trong đất ở sân bay Rang Rang
thay đổi từ 1,9 đến 6,7 ppt Tổng TEQs. Nồng độ của mẩu đất
lấy trong rừng tự nhiên là 1,3 ppt Tổng TEQs. Nồng độ của mẩu
bùn lấy ở suối Mă Đà là 2,7 ppt Tổng TEQs.
Căn cứ Không quân Biên Ḥa
Vào năm
1999, 4 mẩu đất được lấy từ “Căn cứ Không quân Biên Ḥa, là nơi
tàng trữ chất da cam trước kia” (32). Nồng độ trong đất
của các mẩu nầy được báo cáo là 0,04; 1.063;
610.874; and 1.180.737 ppt Tổng TEQs.
Các mẩu đất nầy được cho biết
là do cố Giáo sư Lê Cao Đài thu thập (33), nhưng không một
ai biết vị trí chính xác của chúng cả (34).
Các vị
trí lấy mẩu ở Căn cứ Không quân Biên Ḥa |
Năm 2004,
Căn cứ Không quân Biên Ḥa lại được lấy
mẩu trong kế hoạch NDRP, nhưng “cho đến nay, Căn cứ Không quân Biên Ḥa vẫn
chịu sự quản lư của Quân đội Nhân dân, do đó
việc lấy mẩu ở đó cực kỳ khó khăn
(thật vậy, việc lấy mẩu chánh thức bị
cấm). Với sự trợ
giúp của một cán bộ thuộc Sở Môi trường
tỉnh Đồng Nai, chúng tôi được vào khu vực gần
đài ra đa của sân bay để lấy mẩu (06/2004). Vào lúc đó, những hoạt động
xây dựng bên trong khu vực rất khẩn trương nhằm
mục đích biến nơi nầy thành khu gia cư (cho
gia đ́nh binh sĩ).” (30) Nhưng
vị trí lấy mẩu, như được ghi trên “Bản đồ lấy mẩu
ở Căn cứ Không quân Biên Ḥa và hồ Biên Hùng - Tỉnh
Đồng Nai,” (chấm màu xanh) th́ không phù hợp với các
tọa độ cung cấp trong luận án (chấm màu vàng). Tám mẩu đất lấy ở
địa điểm phía bắc có nồng độ thay đổi
từ 4,5 đến 134,7 ppt Tổng TEQs. Kết quả phân tích cho thấy TCDD
không hiện diện trong mẩu có nồng độ 4,5 ppt,
nhưng nồng độ của OCDD rất cao, từ 384,3
đến 44.972,8 ppt.
1,2,3,4,6,7,8-HpCDD và OCDF (octachlorodibenzofurans) cũng hiện
diện nhưng ở mức thấp hơn. Nồng độ của 2 mẩu
đất lấy ở địa điểm phía nam là 43,7
và 148,8 ppt Tổng TEQs.
Nồng độ
trong đất cũng được biết đến
qua nhiều bài viết và tin tức báo chí; tuy nhiên, chi tiết
về các nồng độ nầy th́ không được cung
cấp. Theo HCL, nồng độ
dioxin của 24 mẩu đất và bùn thu thập trong vùng
phụ cận Căn cứ Không quân Biên Ḥa trong tháng 3 năm
2005 thay đổi từ 1,19 to 833 ppt Tổng TEQs với nồng
độ TCDD cao nhất là 797 ppt (6). Theo Ủy ban 33, Căn cứ Không
quân Biên Ḥa là điểm nóng “nóng thứ hai,” với 90.000 m3
đất ô nhiễm có nồng độ trung b́nh là 6.000 ppt
Tổng TEQs (31).
TỪ LƯ THUYẾT ĐẾN THỰC TẾ:
MỘT KHOẢNG TRỐNG BAO LA
Dữ kiện
và tin tức hiện có dường như không biện minh
cho “thuyết điểm nóng Hatfield.” Các yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến giá trị của thuyết nầy được
thảo luận dưới đây.
Nguồn gốc mơ hồ của
TCDD
HCL suy đoán
rằng TCDD t́m thấy ở các điểm nóng là TCDD ở
trong thuốc diệt cỏ da cam được dùng trong
chiến tranh Việt Nam. “Giống như cuộc thăm ḍ
năm 1996, đất ở căn cứ cũ của Mỹ
có mức độ dioxin cao nhất (92,2 pg/g và 901,2 pg/g TEQ);
hợp chất 2,3,7,8-T4CDD chiếm đến 96% và 99,6% Tổng
TEQs của các mẩu nầy. Dữ
kiện nầy cho thấy nguồn gốc của 2,3,7,8-T4CDD
th́ có liên quan đến chất da cam, v́ hợp chất nầy
là chất ô nhiễm chánh của chất da cam hiện diện
trong loại thuốc diệt cỏ 2,4,5-T [2,4,5-trichlorophenoxyacetic
acid], một thành phần của hỗn hợp chất da
cam .” (2) Nhưng có nhiều
bằng chứng cho thấy TCDD có thể phát xuất từ
nhiều nguồn gốc khác.
Quả thật
là TCDD chiếm 96% và 99,6% Tổng TEQs của hai mẩu đó,
nhưng các hợp chất họ dioxin PCDDs/PCDFs cũng hiện
diện ở mức độ rất cao, đặc biệt
là OCDD. Nồng độ OCDD trong
hai mẩu đất nầy lên đến 697,05 và 563,84 ppt. Các hợp chất nầy chắc
chắn phát xuất từ các nguồn gốc khác, và các nguồn
nầy rất có thể cũng chứa TCDD. Theo Hàn lâm viện Y khoa (Institute of
Medicine) của Hoa Kỳ, “phần
lớn dioxins và furans trong môi trường phát xuất từ
sự thiêu đốt (combustion) (Zook and Rappe, 1994, như đă
trích dẫn trong ATSDR, 1998). Những
tiến tŕnh thiêu đốt bao gồm việc thiêu đốt
rác (waste incineration) (chẳng hạn như rác đô thị,
bùn nước cống (sewage sludge), rác y tế, và rác độc
hại (hazardous waste)), đốt các loại nhiên liệu (chẳng
hạn như than, gỗ, và sản phẩm dầu hỏa),
các nguồn có nhiệt độ cao (chẳng hạn như
ḷ nung xi măng), các nguồn thiêu đốt không trọn vẹn
hoặc thiếu kiểm soát (chẳng hạn như cháy rừng,
núi lửa, và đốt củi) (Clement et al., 1985; EPA, 2000;
Thoma, 1988; Zook and Rappe, 1994, như đă trích dẫn trong ATSDR,
1998).” (35)
Trong vùng phụ
cận của trại Lực lượng Đặc biệt
A Shau, thiêu đốt sản phẩm dầu hỏa, cháy rừng,
cháy doanh trại, và đốt củi có thể là những
nguồn TCDD. Việc thiêu đốt
sản phẩm dầu hỏa đă xảy ra trong chiến
tranh Việt Nam. “Để dọn băi đáp ở những
nơi có cây thấp và bụi rậm, Ban Hóa học của
Sư đoàn hiện đang dùng máy bay [trực thăng]
UH-1 để thả 3 thùng 55-gallon chứa đầy dầu
đặc (thickened fuel). Các thùng
nầy được đặt trong lưới chở hàng
cũ và móc bên ngoài máy bay bằng dây. Tất cả được thả
từ cao độ 250 feet ở vận tốc 0 và được
châm ng̣i bằng lựu đạn khói thả từ máy bay. Một vùng có đường kính
khoảng 25 m bị cháy rụi.” (36)
Một nguồn
TCDD khác trong vùng phụ cận của trại Lực lượng
Đặc biệt A Shau là pentachlorophenol (PCP), từng được
dùng làm thuốc chống mối mọt cho căn cứ
trong thời chiến tranh (37).
PCP cũng có thể hiện diện trong hóa chất dùng
trong nông nghiệp hiện nay.
Điểm suy luận nầy dường như được
kiểm chứng bằng nồng độ OCDD cao nhất
(1.700 ppt) trong các mẩu đất lấy ở một cánh
đồng ở xă Hồng Vân năm 1996. Nồng độ rất cao của
OCDD đă được kiểm chứng trong cuộc điều
tra năm 1999. “Trong thung lũng A Lưới, nồng độ cao
nhất của octa-dioxins (O8CDD [OCDD]) được t́m thấy
trong những vùng có cư dân và đốt rác phổ biến
(chẳng hạn như ở xă Hồng Thương, 2.200
pg/g Tổng O8CDD; chợ Ḅ Đót, 1.100 pg/g Tổng O8CDD; xă Sơn
Thủy, 1.800 pg/g và 1.100 pg/g Tổng O8CDD; Bảng 2.3).”
(29)
Tiêu chuẩn đất tùy tiện
Tiêu chuẩn
được dùng để xác định độ “nóng”
của “thuyết điểm nóng Hatfield” có lẽ là yếu
tố quan trọng đáng nghi ngờ nhất. Dường như HCL đang cố
sức để biện minh cho lư thuyết của ḿnh.
Lúc ban đầu,
HCL dùng tiêu chuẩn 350 ppt Tổng TEQs của BC, thay v́ dùng mục
tiêu điều trị tạm thời của EPA hay mức
hành động của ATSDR, là 1.000 ppt Tổng TEQs, để
khẳng định trại Lực lượng Đặc biệt
A Shau là một điểm nóng dioxin, có lẽ v́ nồng độ
trong đất cao nhất ở căn cứ nầy thấp
hơn 1.000 ppt Tổng TEQs. HCL giải
thích cho việc chọn tiêu chuẩn cao hơn như sau: “Tuy nhiên, các mức tác hại (thresholds)
của PCDD and PCDF được áp dụng ở phương
tây không đủ thận trọng (conservative) để bảo
vệ sức khỏe con người ở vùng nông thôn Việt
Nam. T́nh trạng kinh tế xă hội
ở thôn xă, có rất nhiều nhà nền đất, người
lớn và trẻ con không mang giày dép, sự liên hệ mật
thiết với đất canh tác, và điều kiện vệ
sinh chung khiến họ tiếp xúc với chất ô nhiễm
nhiều hơn. Do đó, hướng
dẫn và tiêu chuẩn phải cao hơn trong môi trường
như vậy.” (3) Nhưng
tiêu chuẩn BC và mục tiêu điều trị tạm thời
của EPA hay mức hành động của ATSDR được
dựa trên sự tiêu hóa trực tiếp đất ô nhiễm
(direct ingestion of contaminated soil); do đó, lời giải thích
nầy có vẻ không thích hợp.
Dữ kiện
đất được HCL dùng để xác định
các điểm nóng ở các căn cứ quân sự (6) |
Mới đây,
HCL lại hạ tiêu chuẩn 350 ppt Tổng TEQs của họ
xuống c̣n 190 ppt TCDD. Lư do của
sự thay đổi nầy không được tŕnh bày, nhưng
nó là “tiêu chuẩn” mà HCL cần phải có để cho các căn
cứ không quân Đà Nẳng, Phù Cát, và Tân Sơn Nhứt được
lọt vào danh sách những điểm nóng dioxin của họ,
bởi v́ nồng độ của dioxin trong đất/bùn
ở các căn cứ nầy (269, 201, và 341 ppt Tổng TEQs (6))
thấp hơn tiêu chuẩn 350 ppt Tổng TEQs của BC.
Dù sao đi
nữa, việc áp dụng tiêu chuẩn của BC dùng cho đất
nông nghiệp, thổ cư và công viên để xác định
các căn cứ quân sự cũ của Hoa Kỳ là những
điểm nóng dioxin th́ không thích hợp về mặt kỹ
thuật, nhất là đối với các căn cứ không
quân Biên Ḥa, Đà Nẳng, Phù Cát và Tân Sơn Nhứt. Mục tiêu điều trị tạm
thời của EPA dùng cho các khu thương măi/kỹ nghệ
(từ 5.000 đến 20.000 ppt Tổng TEQs) có vẻ thích hợp
hơn.
Dữ kiện đất đáng nghi
ngờ
Dữ kiện
đất được HCL dùng để biện minh cho
thuyết điểm nóng của họ dường như
không đáng tin, không phù hợp, và không đầy đủ. Thật vậy, “thuyết điểm
nóng Hatfield” dường như chỉ dựa trên một dữ
kiện thực địa duy nhứt ở trại Lực
lượng Đặc biệt A Shau (đó là nồng độ
901,2 ppt Tổng TEQs trong năm 1997).
Nhưng dữ kiện nầy cũng không được
kiểm chứng trong cuộc điều tra năm 1999, một
cuộc điều tra được quy hoạch cẩn
thận “…để khảo sát
kỷ hơn phạm vi của những vấn đề có
liên quan đến chất da cam trong thung lũng A Lưới.”
(29) Vấn đề nghiêm trọng
nhất đối với dữ kiện đất do HCL
thu thập chính là sự vắng mặt “khó hiểu” của
những địa điểm lấy mẩu. Thật vậy, vị trí chính xác
của những mẩu đất/bùn do HCL thu thập trong
các cuộc điều tra trong các năm 1996, 1997, và 1999 chưa
hề được công bố (2, 29).
Dữ kiện
đất được HCL dùng để xác định
các “điểm nóng” khác cũng không khá hơn. “Các căn cứ Ranch Hand ở Biên
Ḥa và Đà Nẳng là những thí dụ điển h́nh của
các điểm nóng quan trọng.
Một nồng độ TCDD trong đất ở Biên
Ḥa [không rơ vị trí] được ghi nhận lên đến
1,2 triệu phần ức (ppt) (Schecter et al., 2001). Tin tức mật do các khoa học
gia Việt Nam cung cấp cho thấy mức độ dioxin
trong đất ở Đà Nẳng [không rơ vị trí] có thể
lên đến vài trăm ngàn ppt.” (5)
Ở nơi
nào không có dữ kiện tại chỗ (on-site soil data), HCL dùng
dữ kiện đất “…được
thu thập ở các địa điểm lấy mẩu ở
gần mỗi căn cứ [!?]” để xác định các điểm nóng dioxin.
“Các căn cứ không quân
cũ của Mỹ ở Đà Nẳng, Phù Cát, và Biên Ḥa có thể
được xem như là những ‘điểm nóng’ dioxin
quan trọng dựa trên nồng độ TCDD ghi nhận được
trong vùng ‘hạ lưu’ của các địa điểm t́nh
nghi là khu vực Ranch Hand. Các ‘địa
điểm t́nh nghi chủ yếu’ nầy chưa được
thử nghiệm trực tiếp trong nghiên cứu của
chúng tôi v́ không được phép của chánh quyền Việt
Nam. Tuy nhiên, những trị số
TCDD rất cao (Bảng 1) cho thấy sự quan hệ chặt
chẽ của thuốc diệt cỏ da cam với mức độc
hại tổng quát của các mẩu đất/bùn nầy,
bởi v́ TCDD là đặc tính của hợp chất dioxin
có trong chất da cam.” (6)
Hơn thế
nữa, dữ kiện đất được tŕnh bày
trong Bảng 1 rất đáng nghi ngờ v́ nó không phù hợp
với dữ kiện đă biết. Thí dụ như nồng độ
trong đất ở Căn cứ Không quân Đà Nẳng (<1-269
ppt Tổng TEQs) th́ không phù hợp với kết quả thu
thập trong năm 2003 (4,1 và 4,5 ppt Tổng TEQs), với tin
tức mật của các khoa học gia Việt Nam (vài trăm
ngàn ppt), và với trị số của Ủy ban 33 (10.000
ppt Tổng TEQs). Chi tiết của
dữ kiện đất được ghi trong Bảng 1,
kể cả bản đồ vị trí lấy mẩu, đă
không được cung cấp mặc dù các vị trí nầy
không nằm bên trong khu quân sự.
TÓM
TẮT, KẾT LUẬN VÀ
ĐỀ
NGHỊ
Năm 1998,
HCL công bố cái gọi là “thuyết điểm nóng Hatfield”
sau khi dioxin được t́m thấy ở nồng độ
tương đối cao (901,2 ppt Tổng TEQs) trong một
mẩu đất thu thập trong vùng phụ cận của
trại Lực lượng Đặc biệt A Shau cũ trong
năm 1997. “Thuyết điểm
nóng Hatfield,” được dùng làm “khuôn mẫu cho t́nh trạng ô nhiễm [TCDD] ở khắp
miền Nam Việt Nam,” (6) cho rằng tất cả các căn
cứ quân sự cũ của Hoa Kỳ (căn cứ không
quân, căn cứ hỏa lực, căn cứ hải quân,
v.v.) ở miền Nam Việt Nam có thể được
xem là các điểm nóng dioxin, đặc biệt là các căn
cứ không quân chánh yếu như Tân Sơn Nhứt, Biên Ḥa,
và Đà Nẳng, nơi một số lượng lớn thuốc
diệt cỏ được vận chuyển, tồn trữ,
và sử dụng. Mặc dù mức
độ ô nhiễm dioxin trong vùng phụ cận của trại
Lực lượng Đặc biệt A Shau không được
kiểm chứng qua cuộc điều tra bổ túc năm
1999, HCL vẫn duy tŕ lư thuyết của họ v́ “căn cứ có thể ‘nóng’”
mặc dù “’các địa điểm
ô nhiễm chủ yếu’ chưa được xác định
hoặc thử nghiệm [!]” và v́ HCL đă “ấn định
lại” tiêu chuẩn đất, chỉ c̣n 190 ppt TCDD (6).
Lạm dụng
hóa chất nông nghiệp (39)
Tuy nhiên, dữ
kiện và tin tức hiện có đường như không
biện minh cho “thuyết điểm nóng Hatfield.” HCL cho rằng TCDD ở Việt
Nam phát xuất từ thuốc diệt cỏ (tức là chất
da cam) được dùng trong chiến tranh Việt Nam; nhưng
dữ kiện và tin tức mới nhất cho thấy TCDD có
thể do các hóa chất nông nghiệp có chứa PCP hay do tiến
tŕnh thiêu đốt, nhất là việc thiêu đốt rác đô
thị. Thật vậy, các mẩu
tro thu thập trong năm 2003 từ một ḷ đốt rác
y tế ở thành phố Hồ Chí Minh và các ḷ đốt rác
đô thị ở B́nh Hưng Ḥa, thành phố Hồ Chí Minh
và ở Phú Ḥa, thành phố Vũng Tàu có nồng độ
dioxins (số nhiều) thay đổi từ 184 ppt Tổng TEQs
(trong đó có 6 ppt TCDD) đến 12.328 ppt Tổng TEQs (trong đó
có 53 ppt TCDD) (30).
Thiêu đốt
bừa băi tại một nhà máy ở Củ Chi (40)
HCL dùng tiêu
chuẩn đất 190 ppt TCDD do chính ḿnh đặt ra để
làm căn bản cho lư thuyết.
Tiêu chuẩn nầy có vẻ “nguội” khi so sánh với
1.000 ppt Tổng TEQs của mục tiêu điều trị tạm
thời của EPA và mức hành động của ATSDR dùng
cho đất thổ cư, và có vẻ “lạnh” khi so sánh với
5.000-20.000 ppt Tổng TEQs của mục tiêu điều trị
tạm thời của EPA và mức hành động của
ATSDR dùng cho đất thương măi/kỹ nghệ. Cho dù dữ kiện của HCL được
xem là đáng tin cậy, không có một căn cứ không quân
nào mà HCL đă t́nh nghi và điều tra có thể được
xem như là một điểm nóng dioxin, nếu mục tiêu
điều trị tạm thời của EPA và mức hành động
của ATSDR (1.000 ppt Tổng TEQs) được dùng làm tiêu
chuẩn đất.
Có một địa
điểm có thể có khả năng biện minh cho “thuyết
điểm nóng Hatfield.” Đó là Tân
cảng Sài G̣n, nơi mà hàng ngàn thùng 55-gallon đựng thuốc
khai quang đă bị hư hại trong đợt Tổng công
kích Tết Mậu Thân giai đoạn 2 vào tháng 5 năm
1968. Hàng chục ngàn gallons chất
da cam có thể đă đổ tháo trên mặt đất. Mặc dù tai nạn đổ tháo
thuốc khai quang nầy không được điều
tra, Tân cảng Sài G̣n có lẽ không được ghi trong
danh sách điểm nóng của Hatfield v́ không có một thiệt
hại hay ảnh hưởng nào được khai báo, mặc
dù nó ở rất gần vùng đông dân cư nhất.
Dựa theo dữ kiện và tin tức
mới nhất, chúng ta có thể kết luận rằng các
điểm nóng TCDD hay “các vấn đề dioxin,” theo lư thuyết của Hatfield
Consultants Ltd., có thể không hiện
hữu ở Việt Nam. Nhưng
Việt Nam có
lẽ đang đối diện với
các vấn đề do PCDDs/PCDFs gây ra: “các vấn đề
dioxins.” Các hợp
chất họ dioxin nầy không bắt nguồn từ chất
da cam.
Các vấn đề dioxins nghiêm trọng
hơn và càng ngày càng tồi tệ hơn. Thật vậy,
TCDD không t́m thấy trong một mẩu
đất lấy ở Biên Ḥa trong năm 2004,
nhưng PCDDs/PCDFs được t́m
thấy ở nồng độ 121,5 ppt Tổng TEQs.
Trong một mẩu khác, TCDD được
t́m thấy ở nồng độ 27,9 ppt trong khi
PCDDs/PCDFs có nồng độ 548,5 ppt Tổng TEQs. Đứng về mặt khoa học
mà
nói, “các vấn đề dioxins” hiện
nay ở Việt Nam cần phải được chú ư và
cứu xét
nghiêm chỉnh hơn “các vấn đề
dioxin,” trên b́nh diện quốc gia và quốc tế. |
Mới đây,
HCL được Ủy ban 33 yêu cầu thực hiện
hai nghiên cứu cho một “điểm nóng” ở phi trường
Đà Nẳng. Các nghiên cứu nầy
được Ford Foundation tài trợ. Mục đích của nghiên cứu
thứ nhất, với ngân khoản 120.000 đô la Mỹ, là
“nghiên cứu đặc tính di
chuyển của một ‘điểm nóng’ dioxin ở phi trường
Đà Nẳng, lượng định các trường hợp
tiếp nhiễm và đề nghị các biện pháp khắc
phục khả thi.” Nghiên cứu
thứ nh́, với ngân khoản 342.800 đô la Mỹ, để
“lượng định ảnh
hưởng đối với sức khỏe công cộng
qua đất và dây chuyền thực phẩm ở một
‘điểm nóng’ dioxin ở phi trường Đà Nẳng và đề
nghị các biện pháp khắc phục ngay lập tức.”
(38) Tuy nhiên, cái “điểm nóng”
của hai nghiên cứu nầy dường như không hiện
hữu v́ dữ kiện và tin tức hiện có cho thấy
nồng độ dioxin trong đất ở Căn cứ
Không quân Đà Nẳng hoặc chưa biết (chưa thử
nghiệm bên trong căn cứ) hoặc rất thấp (dưới
5 ppt Tổng TEQs ở sát bên ngoài căn cứ (30)). V́ lư do đó, một chương
tŕnh công tác (work plan) phải được soạn thảo
và công bố để lấy ư kiến một cách rộng
răi (trong nước và quốc tế) để xác định
và định tính cái “điểm nóng” nầy. Kết quả định tính sẽ
được dùng để xem hai nghiên cứu vừa nêu
có cần thiết hay không.
Dựa
theo dữ kiện và tin tức mới nhất, chúng ta có thể
kết luận rằng các điểm nóng TCDD hay “các vấn
đề dioxin,” mà HCL đă quan sát được trong suốt
“hơn 12 năm nghiên cứu,”
có thể không hiện hữu ở Việt Nam hiện nay. Nhưng có lẽ Việt Nam đang
phải đối diện với nhiều vấn đề
do PCDDs/PCDFs gây ra: “các vấn đề dioxins.” Chúng là các hợp chất họ
dioxin từ các nguồn ô nhiễm không phải là chất da
cam. Các vấn đề dioxins
nầy nghiêm trọng hơn và càng ngày càng tồi tệ hơn. Thật vậy, TCDD không được
t́m thấy trong một mẩu bùn lấy ở hồ Biên Hùng
trong năm 2004 (SSM9), nhưng PCDDs/PCDFs được t́m thấy
với nồng độ 121,5 ppt Tổng TEQs. Trong một mẩu khác (SSM8), nồng
độ TCDD chỉ có 27,9 ppt trong khi nồng độ của
PCDDs/PCDFs lên đến 548,5 ppt Tổng TEQs (30). Đứng về mặt khoa học
mà nói, “các vấn đề dioxins” hiện nay ở Việt
Nam cần phải được chú ư và cứu xét nghiêm chỉnh
hơn “các vấn đề dioxin,” trên b́nh diện quốc
gia và quốc tế.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
(1)
Memorandum of Understanding. Meeting of the Vietnamese and United States Delegations in
Follow-Up to the Joint Vietnam-US Scientific Conference on Human Health and
Environmental Effects of Agent Orange/Dioxin. March 10, 2002. Hanoi, Vietnam. http://www.niehs.nih.gov/external/usvcrp/mou31002.pdf.
(2)
Hatfield Consultants Ltd. and Vietnam 10-80
Committee. 1998. Preliminary Assessment
of Environmental Impacts Related to Spraying of Agent Orange Herbicide during
the Vietnam War. Volume 1: Report,
Volume 2: Appendices. West Vancouver,
Canada.
(3)
L. Wayne Dwernychuk, et al. 2002. “Dioxin reservoirs in southern Viet Nam
– A legacy of Agent Orange.” Chemosphere 47, 117-137.
(4)
L. Wayne Dwernychuk, et al. March 2002. “Agent Orange/Dioxin Hot Spots –
A legacy of U.S. Military Bases in Southern Viet Nam.” Presented at the Joint US – Vietnam Scientific Conference on Human
Health and Environmental Effects of Agent Orange/Dioxin. Hanoi, Vietnam.
(5)
L. Wayne Dwernychuk. 2005. “Short Communication,
Dioxin hot spots in Vietnam.” Chemosphere 60, 998-999.
(6)
Dwernychuk, LW, et al. August 2006.
“The Agent Orange Dioxin Issue in Viet Nam: A Manageable Problem.” Presented at the 26th
International Symposium on Halogenated Persistent Organic Pollutants. Oslo, Norway.
(7)
HCL.
(8)
British Columbia (BC) Waste Management Act. 1996.
Waste Management Act – Contaminated Sites Legislation. BC Regulations 375/96. Canada.
(9)
Buckingham, William A., Jr. 1982. Operation Ranch Hand. The Air Forces and
Herbicides in Southeast Asia 1961-1971.
US Air Force, Office of Air Force History. Washington, D.C.
(10)
West, Keith W.
March 24, 1970. “Memorandum for:
Chief of Chemical Operations, MACV J3-09.
Subject: Herbicide Storage at Bien Hoa AB.” 12th SOS. Bien Hoa, Vietnam.
(11)
Michael, E.D.
April 29, 1970. “Memorandum for
Record. Subject: Effects of Herbicide Spills at Bien Hoa Air Base.” Pacific Technical Analysts-Subsidiary. San Francisco, California.
(12)
Moran, John.
31 October 1968. “Memorandum for:
7th Air Force, TACC. Attn:
Lct Robert McCollester. Subject:
Herbicide Damage to Vegetable Plots Vicinity Da Nang Air Base.” Chemical Operations Division. MACJ3-09.
(13)
Corey, Jim. 25 March 1969.”Defoliant Damage in
Da Nang City.” CORDS/NLD/ICTZ.
(14)
US Military Assistance Command, Vietnam. 15 September 1969. Vietnam Lessons Learned No. 74: Accidental Herbicide Damage.
MACVJ3-053.
(15)
Darrow, Robert A., Reed C. Bunker, and J. Ray
Frank. 23 September 1969. “Report of
Trip to Republic of Vietnam, 15 August-2 September 1969.” Department of the Army. Frederick, Maryland.
(16)
Bills, Ray W. 26 September 1969. “Memorandum
for: III MAF Chemical Officer (Cpt Lott). Subject: Report of Investigation into
Possible Herbicide Damage at Vietnamese Naval Compound at Da Nang.” Chemical Operations Division. MACJ3-09.
(17)
US Department of the Army. 15 October 1981. “MACV Fixed Wing Aircraft Herbicide
Incidents.” Alexandria, Virginia.
(18)
Le Moine, Thomas F. “Newport Terminal: A Historical Overview of a
US Army Port Facility Operated by the 71st Transportation
Battalion.” US Army. Fort Eustis, Virginia. http://www.allanfurtado.com/newportterminal.html
(19)
McNaught, David.
“Page 31. David McNaught. Some
Photos I took In and Around Newport Terminal.”
http://www.allanfurtado.com/davidmcnaughtnewport.html
(20)
Farris, Gregory M. “Page 40. Photos from Gregory M. Farris.” http://www.allanfurtado.com/gregoryfarris.html
(21)
Krabbenhoeft, Alfred. “Pages 17-19. Photos from
Al Krabbenhoeft.” http://www.allanfurtado.com/alfredkrabbenhoeft.html
(22)
Morawa, Richard Allen. “Pages 53-54. Photos from Rich Morawa.” http://www.allanfurtado.com/richmorawanewport.html
(23)
Fields, Timothy, Jr. April 13, 1998. “Memorandum on Approach for Addressing Dioxin
in Soil at CERCLA and RCRA sites.”
Office of Solid Waste and Emergency Response. U.S. Environmental Protection Agency. Washington,
D.C.
(24)
De Rosa, Christopher
T., et al. August 21, 1997. Dioxin and
Dioxin-Like Compounds in Soil, Part 1: ATSDR Interim Policy Guideline. Agency for Toxic Substances and Disease
Registry, U.S. Department of Health and Human Services.
Atlanta, Georgia.
(25)
Horvath, Richard L. Undated. “Mystique of
the Valley, Fall 1968 Rendezvous with Destiny Magazine.” http://www.lcompanyranger.com/Ashau/ashauarticle2.htm
(26)
Aton, Bert and William Thorndale. Undated. A
Shau Campaign, December 1968 – May 1969.
Directorate Tactical Evaluation. CHECO Division. US Department of Air Forces.
(27)
Reed, Raz. “Photos, Articles, and Maps of the A
Shau Valley, Page 20.” http://www.lcompanyranger.com/Ashau/ashauarticle2.htm
(28)
Wagoner, Larry. “Photos, Articles, and Maps of
the A Shau Valley, Pages 16-17.” http://www.lcompanyranger.com/Ashau/ashauarticle2.htm
(29)
HCL and 10-80 Committee. April 2000.
Development of Impact Mitigation
Strategies Related to the Use of Agent Orange Herbicide in the Aluoi Valley,
Vietnam. HCL, West Vancouver,
Canada; 10-80 Committee, Ha Noi, Vietnam.
(30)
Mai, Tuan Anh.
2006. Sources and Fate of PCDDs
and PCDFs in Rural and Urban Ecosystems and Food Chain in Southern Vietnam. Thèse No. 3446 (2005). École Polytechnique Fédérale de
Lausanne. Lausanne, Belgium.
(31)
Lê, Huân.
July 13, 2006. “Tư vấn
sức khỏe sinh sản cho nạn nhân chất độc
dioxin: Mỏi ṃn chờ đợi.” Báo Lao Động. Hà Nội,
Việt Nam.
(32)
Schecter, A., Le Cao Dai, Oaf Papke, Joelle
Prange, John D. Constable, Muneaki Matsuda, Vu Duc Thao, and Amanda L.
Piskac. May 2001. “Recent Dioxin Contamination from Agent
Orange in Residents of a Southern Vietnam City.” Journal
of Occupational and Environmental Medicine.
Volume 43, Number 5.
(33)
Huỳnh Văn Mỹ. June 24, 2001. “Người bạn của những
nạn nhân da cam.” Báo Lao Động. Hà Nội, Việt Nam.
(34)
Mai, Truyet T. May 2004. “Letters to the Editor – Food as a Source of
Dioxin Exposure in the Residents of Bien Hoa City, Vietnam – Schecter et al.” Journal of Occupational and environmental
Medicine. Volume 46, Number 5.
(35)
Institute of Medicine. 2003. Dioxins and Dioxin-like Compounds in the
Food Supply: Strategies to Decrease Exposure. National Academy Press. Washington, D.C.
(36)
Wickham, Kenneth G.. 9 December 1969. “Operational Report – Lessons Learned,
Headquarters, 101st Airborne Division, Period Ending 31 July 1969
(U).” Department of the Army. Washington, D.C.
(37)
Schecter, A.J., J.J. Ryan, M. Gross, N.C.A. Weerasinghe, and J.D.
Constable. 1986. “Chlorinated dioxins and dibenzofurans in human tissues from
Viet Nam, 1983-84.”. Chlorinated Dioxins
and Dibenzofurans in Perspective. C. Rappe, G. Choudhary, and L.H. Keith
[editors]. Lewis Publishers. Ann Arbor, Michigan.
(38)
http://www.fordfound.org/grants_db/view_grant_detail.cfm?grant_id=39336
(39)
Đỗ, Anh H.
October 5, 2006. “Cẩn thận
với thuốc trừ sâu.” Báo
Sài G̣n Giải Phóng. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt
Nam.
(40)
Quang Đạt.
November 31, 2006. “Xung quanh
khu công nghiệp Tân Quy - Đất, nước và không khí
đều ô nhiễm.” Báo Sài
G̣n Giải Phóng. Thành phố
Hồ Chí Minh, Việt Nam.