CHỐNG CỘNG NHƯ THẾ NÀO
Kinh Thánh có câu : “ Nó tự ru ngủ
bằng những lư luận đơn giản, sai lầm và
ảo tưởng. Nó tự khóac vào người nó một
bộ áo đạo đức giả ; nhưng bản
chất thật của nó, th́ vô cùng gian manh, quỷ quyệt,
ác ôn và côn đồ. Nó đă hạ thấp h́nh ảnh tốt
đẹp, cao thượng của con người xuống
hàng xúc vật, rắn rết và ḅ sát. » Ngẫm câu nói
trên, mặc dầu đă cách đây hàng ngàn năm, áp dụng
nó vào lư thuyết của K. Marx và bản chất thật của
người cộng sản ; có người cho rằng
để chống cộng sản ; chúng ta chỉ cần
thi hành câu nói trên. Tại sao vậy ?
Chống cộng có cả ngàn cách
suy nghĩ, việc làm khác nhau ; nhưng tổng quát, có 2
việc làm chính : chống cộng trên phương diện
lư thuyết và chống cộng trên phương diện thực
hành. Trên phương diện lư thuyết, đó là phản
bác sự đơn giản, sai lầm, ảo tưởng
của lư thuyết Marx, nhất là phản bác sự kiện
nó đă hạ thấp h́nh ảnh tốt đẹp, cao
thượng của con người xuống hàng súc vật,
rắn và ḅ sát. Trên phương diện thực tiễn,
đó là chống lại bản chất đạo đức
giả, gian manh, giảo quyệt, ác ôn, côn đồ của
người cộng sản.
I )
Lư thuyết của Marx đă hạ thấp h́nh ảnh
tốt đẹp và cao thượng của con người
xuống hàng súc vật, rắn rết và ḅ sát.
Engels viết : « Thiên nhiên
là viên đá thử vàng của biện chứng pháp và phải
nói rằng những khoa học hiện đại của
thiên nhiên đă cung cấp cho vấn đề này những
nhiên liệu vô cùng quí giá và nó tăng lên mỗi ngày ; khoa
học hiện đại đă chứng minh rằng thiên
nhiên, cuối cùng ( en dernière instance), đă biến chuyển
một cách biện chứng pháp ( dialectiquement), chứ không
phải một cách siêu h́nh ( non métaphysiquement) , rằng thiên
nhiên không biến chuyển trong một chu kỳ giống
nhau măi măi, lập lại hoài hoài ; mà thiên nhiên có một
lịch sử thật sự. Về điểm này, chúng ta
cần phải nhắc tới Darwin, người đă
giáng một quả búa nặng nề cho quan niệm siêu h́nh
về thiên nhiên, bằng cách chứng minh rằng toàn thể
thế giới hữu cơ, như nó hiện hữu ngày
hôm nay, những cây cỏ, xúc vật, và tất nhiên trong
đó có con người , đều là sản phẩm của
một tiến tŕnh phát triển
đă kéo dài hàng bao triệu năm nay . « ( Engels, dẫn
bởi Staline – trong Histoire du Parti communiste/ Bolchévik de l’
U.R.S.S. – trang 118 – Editions Norman Béthune – Paris – 1971).
Ở đây tôi không đi sâu vào
việc phê b́nh lư thuyết của Marx và Engels, xin quí vị
xem những bài của tôi như Phê b́nh lư thuyết của
Marx trên phương diện triết học, Sự không
tưởng của lư thuyết Marx, v.v.., trên các báo việt
ngữ hải ngoại, tôi chỉ nói về sự liên hệ
giữa Marx và Darwin ở ngoài đời và trên phương
diện tư tưởng.
Charles Darwin ( 1809-1882), Karl Marx (
1818-1883), người ta có thể nói 2 người này sống
cùng thời, Darwin sinh trước Marx 9 năm, chết
trước một năm ; hai người cùng ở tại Anh, cư ngụ cách
nhau độ vài chục cây số. Năm 1859, Darwin cho xuất
bản quyển « De l’Origine des Espèces et des Moyens de la
Sélection naturelle », Nguồn gốc chủng loại và những
phương tiện lựa chọn tự nhiên ;
cũng là năm Marx cho xuất bản bằng tiếng
Đức quyển « Le Capital », Tư bản Luận.
Người đọc sách trước tiên của Darwin giữa
Marx và Engels là Engels ; ông đă say mê và t́m thấy ư
nghĩa tiến hóa. Ông đă nói hăng say với Marx rằng
Darwin là người cùng phía với chúng ta, v́ ông đă tin
như chúng ta rằng có một lịch sử thế tục
của nhân loại và có một sự đấu tranh sống
c̣n cho cuộc sống. ( Theo J. Attali – Karl Marx ou l’esprit du
monde – trang 248 – nhà xuất bản Fayard – 2005 – Paris). Engels
đề nghị là phải gặp Darwin, việc mà Marx
đă thử ; bằng cách viết cho ông ta một cái
thư và gửi biếu sách Tư Bản Luận ;
nhưng không nhận được hồi âm của Darwin.
Một vài năm sau, khi quyển Tư Bản Luận
được dịch ra tiếng Anh, Marx lại viết một
bức thư và viết đề tặng Darwin quyển
Tư Bản Luận bằng tiếng Anh. Lần này Darwin
trả lời một cách lễ phép ; nhưng dè dặt
và lạnh nhạt. Ông cho rằng lư thuyết của ông chỉ
áp dụng cho khoa học thiên nhiên, chứ không phải cho
khoa học nhân văn, ; chỉ áp dụng cho loài vật
chứ không phải cho loài người ; và sự lựa
chọn tự nhiên giữa loài vật nó xẩy ra một
cách tự nhiên, t́nh cờ ; chứ không phải theo một
tiến tŕnh nào cả ; nhất là không theo tiến tŕnh
biện chứng pháp như Marx nghĩ. Ông c̣n thêm rằng những
tư tưởng cuả Marx có tính cách tuyên truyền vô thần,
chống thiên chúa, có hại cho việc giải phóng trí tuệ
( Sách đă dẫn – trang 403). Những sự kiện này,
Marx và Engels hiểu rơ hơn ai hết, thế mà vẫn phớt
tỉnh, và thản nhiên viết : « Về điểm
này, chúng ta cần phải nhắc tới Darwin, người
đă giáng một đ̣n nặng nề cho quan niệm siêu
h́nh về thiên nhiên, bằng cách chứng minh rằng toàn thể
thế giới hữu cơ, như nó hiện hữu ngày
hôm nay, những cây cỏ, xúc vật, và tất nhiên trong
đó có con người , đều là sản phẩm của
một tiến tŕnh phát triển đă kéo dài hàng bao triệu
năm nay « ( Engels – Đă dẫn ở trên ) . Sau
này, những người theo lư thuyết của Marx như
Lénine, Staline và những trí thức cộng sản hoặc
không biết, hoặc biết, nhưng cố t́nh dấu nhẹm
đi, vẫn rao rác rằng lư thuyết của Darwin là những
đ̣n búa giáng nặng nề cho quan niệm siêu h́nh về
thiên nhiên. Điều đau buồn là cho tới ngày hôm nay,
giới trí thức cộng sản Việt Nam vẫn u mê,
rao rác như vậy.
I I)
Lư thuyết của Marx đơn giản, sai lầm
và ảo tưởng.
Ở đây tôi không đi vào chi
tiết, tôi chỉ nói sơ qua về sự đơn giản,
sai lầm và ảo tưởng của Marx, trên
phương diện lịch sử, kinh tế.
Mở đầu Tuyên Ngôn Thư
Đảng Cộng Sản, Marx viết lúc mới có 29 tuổi :
« Lịch sử nhân loại cho tới ngày hôm nay là lịch
sử của đấu tranh giai cấp. » Chắc chắn
với tuổi này, Marx chưa đọc hết lịch sử
của nhân loại. Hơn thế nữa quan niệm lịch
sử bạo động và đấu tranh giai cấp của
Marx là đơn giản và sai lầm. Marx đă lấy cái
ǵ bất b́nh thường làm cái b́nh thường và
đưa lên hàng qui luật. B́nh thường, lịch sử
một con người, một xă hội, một quốc
gia, dân tộc là ḥa b́nh, không bạo động, chiến
tranh. Con người chỉ bạo động khi bắt
buộc. Một quốc gia dân tộc cũng vậy. Có thể
nói hai dân tộc Đức Pháp là hai dân tộc đă
đánh nhau nhiều lần, đă là nguyên nhân và tác nhân chính
của 2 trận Thế Chiến. Nhưng đây cũng chỉ
là trường hợp bất b́nh thường. Hơn thế
nữa lịch sử là ǵ, nếu
không là những hành động của con người, của
một xă hội, dân tộc được ghi chép lại,
trong đó thường là những biến cố quan trọng.
Nếu như vậy, th́ trong lịch sử nhân loại
không thiếu ǵ sự kiện nước này đánh nước
kia, ông lănh chúa này đánh ông lănh chúa kia, nhiều khi người
trong cùng một gia đ́nh hay 2 anh em tranh ngôi nhau, đánh
nhau, như thời Trịnh Nguyễn phân tranh hay Tây sơn ở
Việt Nam. Nếu nh́n theo quan niệm của Marx, th́ những
người này đâu có ở giai cấp khác nhau. Hay phải
chăng Marx cho rằng những sự kiện này không phải
là sự kiện lịch sử ?
Marx chủ trương băi bơ quyền
tư hữu ; nhưng đây là một lầm lẫn
to lớn của Marx ; v́ quyền tư hữu không thể
băi bơ, mà chỉ có thể chuyển nhượng. Hơn thế
nữa, quyền tư hữu là một động lực
khiến con người làm việc. Cảnh cha chung không ai
khóc, ruộng chung không ai cày, nhà chung không người
chăm sóc, khiến kinh tế cộng sản đ́nh trệ,
tụt hậu là vậy. Hơn thế nữa, sau những
vụ cộng sản cướp chính quyền, đánh
tư bản mại sản, chuyển nhượng quyền
tư hữu đang ở trong tay phần lớn nhân dân,
nay vào tay một thiểu số đảng đoàn cán bộ,
làm cho xă hội trở thành vô cùng bất công : đại
đa số dân th́ vô cùng nghèo đói ; trong khi thiểu số
đảng đoàn cán bộ th́ vô cùng giàu có. Xă hội không
thành xă hội cộng sản, công bằng như Marx ảo tưởng quan
niệm ; mà trở thành một xă hội vô cùng phẩm
trật và bất công như hiện thực cộng sản
đă chứng minh trong ṿng gần một thế kỷ qua
đă áp dụng lư thuyết của Marx, tại những
nước cộng sản.
Marx cho rằng phương pháp
nghiên cứu, tư tưởng của ḿnh là khoa học, thực
nghiệm, đi từ cái ǵ cụ thể đến cái ǵ
trừu tượng, đi từ những sự kiện
hiện thực, cá thể đến cái ǵ tổng quát,
phương pháp quy nạp ( l’induction). Nhưng thực tế
Marx đi hoàn toàn ngược lại, đi từ cái ǵ trừu
tượng nhất, từ một lời tiên tri cho rằng
xă hội loài người sẽ đi đến chế
độ cộng sản, không quyền tư hữu, không
giai cấp, xă hội « làm theo năng lực, hưởng
theo nhu cầu. » ; và từ đó Marx cố gắng
bẻ cong tất cả những công tŕnh nghiên cứu của
ḿnh để phù hợp với lời tiên tri này. Chính v́ vậy
mà Marx bỏ ra suốt cả cuộc đời vẫn
không thể hoàn thành công cuộc nghiên cứu cuả ḿnh v́
hiện thực không đi theo lời tiên tri, không thể biến
khoa học nhân văn như kinh tế, lịch sử, chính
trị thành khoa học thiên nhiên, chính xác Marx đă bỏ dở,
không thể hoàn tất quyển Tư Bản Luận
cũng là v́ vậy.
Chúng ta nên nhớ Marx là người
gốc Do Thái, gia đ́nh của ông trải qua bao đời
làm mục sư Do thái giáo ở vùng Trèves, vùng Nam nước
Đức sát với Pháp, Marx bị ảnh hưởng sâu
đậm bởi tư tưởng Do Thái giáo, theo đó
con người đang sống trên thiên đàng ;
nhưng rồi con người ăn trái cấm, bị
đày xuống trần gian, phải sống khổ sở. Tuy
nhiên khổ sở đến cùng cực, th́ sẽ có một
vị cứu tinh, Đức chúa Trời giáng thế, cứu
rỗi con người. Marx đă lấy tư tưởng
này áp dụng cho tư tưởng của ḿnh ; nhưng
hiện đại hóa. Thay v́ là thiên đàng, th́ Marx thay thế
bằng chế độ cộng sản nguyên thủy ;
thay v́ là trái cấm, th́ marx thay thế bằng đầu óc
tư hữu. Theo Marx, con người đang sống ở
thiên đàng xă hội cộng sản nguyên thủy, không quyền
tư hữu. Nay con người ăn vào trái cấm là nhiễm
đầu óc tư hữu, nên xă hội chia thành giai cấp,
con người bị đọa đày, lâm vào cảnh
đấu tranh giai cấp, v́ giai cấp là do quyền
tư hữu mà ra. Cuộc đấu tranh giai cấp trở
nên khốc liệt, hố ngăn cách giầu nghèo quá cao,
đưa đến cách mạng tất yếu ;
người vô sản, thay v́ là Đức Chúa trời ,
đứng ra cứu con người, làm cách mạng vô sản,
băi bỏ quyền tư hữu, băi bỏ giai cấp,
đưa xă hội loài người trở lại xă hội
cộng sản. Đi từ một lời tiên tri, sau này
được lập lại khi Marx viết Tuyên Ngôn
Thư Đảng Cộng sản lúc 29 tuổi, với tuổi
này Marx chưa có thể có những suy nghĩ chín chắn,
khoa học, sau này Marx muốn viết quyển Tư Bản
Luận, mà ông nghĩ như là một phương tiện
khoa học, giúp giai cấp vô sản đấu tranh khoa học.
Ông muốn biến lịch sử, kinh tế, khoa học
nhân văn, không chính xác, thành khoa học thiên nhiên, chính xác,
như toán học, vật lư, hóa học. Đây là một việc
làm không thể được. Chính v́ vậy mà Marx đă bỏ
40 năm để viết quyển Tư Bản Luận gồm
3 quyển, nhưng chỉ hoàn thành quyển đầu, c̣n
2 quyển sau bị dang dở, do Engels xắp xếp rồi
cho xuất bản sau khi Marx chết. Tuy nhiên có một số
trí thức Tây phương cũng như Đông
phương, không biết sự kiện này, hay biết
nhưng không nói ra, và nh́n sự kiện ngược lại,
như ông Phạm như Cương, một trí thức Việt
Nam viết : « Bộ Tư Bản luận là công sức
của 40 năm lao động, bắt đầu từ
năm 1843 cho đến những tháng cuối của cuộc
đời Mác. Mỗi bước tiến lên trong nhận
thức quy luật của sự tiến bộ xă hội
đều là kết quả của một sự tập
trung cao độ tinh lực trí tuệ. Đằng sau mỗi
phát hiện lư luận, sau mỗi trang bản thảo
được viết để làm sáng tỏ cho bản
thân ḿnh ( như Mác thường hay nói), là một khối lớn
các cuốn sách được đọc đi đọc
lại, được nghiên cứu kỹ lưỡng với
những đoạn trích, tóm tắt, trải qua hàng giờ,
hàng này, hàng tháng và có khi là hàng năm suy tư bền bỉ
để hiểu sự vật đến tận cùng
« ( Phạm như Cương – Bài học về lao
động của C. Mác - Tạp chí Cộng sản – Cơ
quan lư luận và chính trị của đảng cộng sản
Việt Nam - số 6 năm 1983 - Hanội). Thưa, K. Marx bỏ
ra hơn 40 năm mà không hoàn thành quyển Tư Bản Luận,
v́ ông đi từ những cái ǵ không khoa học, từ những
tiên tri, những ngẫu hứng tuổi trẻ khi viết
Tuyên ngôn thư ; nhưng sau đó ông lại muốn biến
những thứ này thành khoa học chính xác. Một việc
làm không thể làm được.
I I I
) Bản chất của
người cộng sản là đạo đức giả,
gian manh, quỷ quyệt, ác ôn và côn đồ.
Ở đây tôi xin dẫn chứng
những người cựu cộng sản nói về bản
chất người cộng sản v́ họ là những
người hiểu rơ cộng sản hơn ai hết.
Ông M. Gorbatchev, cựu Tổng bí
Thư Đảng Cộng sản Liên Sô : « Tôi
đă bỏ hơn nửa cuộc đời đấu
tranh cho lư tưởng cộng sản ; nhưng ngày hôm
nay tôi phải đau buồn mà nói rằng cộng sản
chỉ biết tuyên truyền và nói láo. » Ông Yakolek, Ủy
viên Bộ Chính trị cũng cuả Đảng Cộng sản
Liên Sô : « Cộng sản là một loài sâu bọ ;
con mới đẻ nằm lên xác con già, con già nằm lên
xác con trẻ. Trong đó có con khỏe nhất, leo lên
được chỗ cao nhất. Nhưng để leo lên
chỗ cao nhất th́ nó dẵm lên xác không biết bao con
khác !" Ông Phạm quế Dương, cựu đại
tá cộng sản, cựu Tổng biên tập tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử Quân đội nhân dân :
« Cộng sản vừa bất tài, vừa bất lực
lại vừa bất lương. » Ông Lê xuân Tá, trí thức,
cựu Phó trưởng ban khoa học và kỹ thuật
Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam :
« Sự ngu dốt và sự thấp hèn tự nó không
đáng trách và không làm nên tội ác. Nhưng sự ngu dốt
và sự thấp hèn mà được trao quyền lực
và được cấy vào vi trùng ghen tỵ, th́ nó trở
thành quỉ nhập tràng. Và con quỉ này nó ư thức rất
rơ và mau lẹ rằng cái đe dọa quyền và lợi của
nó chính là sự hiểu biết, trí thức, văn hóa và
văn minh ; nên nó đă đánh những thứ này một
cách tàn bạo, dă man, không thương tiếc. Vụ Nhân
văn giai phẩm ở Việt Nam là vậy. Cách mạng Hồng
vệ binh ở bên Tàu là thế. Tuy nhiên, v́ là ngu dốt và
thấp hèn, nên những thứ này đă trở nên sỏi
thận, sỏi mật, sơ gan cổ chướng trong lục
phủ, ngũ tạng của chế độ cộng sản,
làm cho chế độ này không ai đánh mà tự chết "
Thực vậy, nếu chúng ta
đọc cuộc đời và tư tưởng của
K. Marx, chúng ta đều biết quan niệm cách mạng tất
yếu của ông và ông đă bỏ ra cả cuộc đời
chờ đợi cách mạng tất yếu xẩy ra ở
những nước kỹ nghệ ; lúc đầu ông
hy vọng ở Anh ; sau đó ở Đức ;
nhưng cách mạng tất yếu không xẩy ra ; v́ nhiều
nguyên do ; trong đó có một nguyên do chính đó là giới
trí thức ở các nước Tây Âu đă nh́n rơ từ lúc
đầu tính chất đơn giản, sai lầm và ảo
tưởng trong lư thuyết của Marx. Ferdinand Lassalle (
1825-1864), bạn của Marx, cùng đấu tranh với
Marx ; Edouard Bernstein ( 1850-1932) cùng với Karl Kautsky (
1854-1938), được coi là đồ đệ của
Marx và Engels, v́ nh́n thấy những sai lầm của tư
tưởng Marx, nên đă bỏ thầy ; và cùng Lassalle
lập ra đảng Dân chủ xă hội Đức bây giờ.
Ông Pierre -Joseph Proudhon ( 1809-1865), người cùng thời và
đă từng bút chiến với Marx. Ông viết quyển
Triết lư của sự nghèo đói (Philosophie de la Misère).
Marx trả lời lại bằng cách viết thẳng bằng
tiếng Pháp quyển Sự Nghèo nàn của Triết lư (
Misère de la Philosophie ). Theo Proudhon, th́ lư thuyết của Marx
là một con sán lải ( le tania ), xă hội nào mắc vào nó
th́ trở nên bệnh hoạn, không thể phát triển
được. Kinh nghiệm gần 100 năm qua áp dụng
tại các nước cộng sản quả thực đă
chứng minh như vậy. Dân tộc các nước Liên Sô,
Đông Âu đă can đảm đứng lên vứt bỏ
con sán lải cộng sản. Dân tộc Việt Nam, bắt
đầu bằng giới trí thức cộng sản
như ông Phạm như Cương, hăy can đảm, sáng
suốt, nh́n rơ tính chất đơn giản, sai lầm và ảo
tưởng của tư tưởng Marx, đứng lên vứt
bỏ nó đi. Làm như vậy th́ dân tộc, đất
nước Việt Nam mới có thể phát triển
được.
Paris
ngày
Chu chi Nam