Vấn đề xuất khẩu lao động tại Việt Nam
GS.Trần Văn Thọ
Đại học Waseda, Tokyo
Trong thời đại toàn cầu hoá, lao động di chuyển từ nước này sang nước khác đă trở thành hiện tượng khá phổ biến. Tuy không nhộn nhịp như tư bản và công nghệ, lao động cũng là một yếu tố sản xuất ngày càng vượt biên giới t́m nơi có mức thù lao cao hơn. Tuy nhiên, khác với sự di chuyển của lao động trí thức đă có từ trước, xuất và nhập khẩu lao động giản đơn (unskilled labor, less-skilled labor) hay lao động chân tay (blue-collar workers) là hiện tượng tương đối mới. Vấn đề nầy cũng phức tạp, không thể chỉ xét ở khía cạnh thuần kinh tế.Bài nầy bàn về trường hợp lao động giản đơn nầy. Câu hỏi đặt ra ở đây là Việt Nam cần suy nghĩ như thế nào về vấn đề xuất khẩu lao động ?
Thấy ǵ từ những nước xuất và nhập khẩu lao động ?
Những nước cần nhập khẩu lao động có hai loại : một là những nước dân số ít mà giàu tài nguyên như ở Trung Đông, ở đây thiếu lao động trong các ngành xây dựng, dịch vụ, nhất là dịch vụ tại tư gia; hai là những nước đă phát triển, kể cả những nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Malaysia. Trong nhóm thứ hai, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh sang những ngành dùng nhiều tư bản, công nghệ và lao động trí thức, và chuyển sang nước ngoài (đầu tư trực tiếp, FDI) những ngành có hàm lượng lao động giản đơn cao. Tuy nhiên, tại những nước công nghiệp mới, những ngành dùng nhiều lao động giản đơn có quy mô khá lớn nên không thể chuyển hết ra nước ngoài. Thêm vào đó, trong những ngành đang phát triển mạnh tại những nước nầy, nhiều công đoạn c̣n dùng lao động giản đơn nên nhu cầu nhập khẩu lao động tăng. Tại những nước phát triển (Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật), nhu cầu lao động tăng trong ngành xây dựng, ngành dịch vụ ẩm thực, dịch vụ săn sóc người cao tuổi, một số nước cần lao động trong nông nghiệp.
Ở đây cần lưu ư một điểm là tại các nước đă phát triển không phải là không c̣n tồn tại lao động giản đơn. Vẫn c̣n một bộ phận không nhỏ số người mới ở tŕnh độ giáo dục cưỡng bách. Tuy nhiên v́ tiền lương nói chung đă tăng cao theo mức sống của xă hội, các xí nghiệp có khuynh hướng thuê mướn lao động nước ngoài để giảm chi phí. Mặt khác, lao động bản xứ có khuynh hướng tránh những loại công việc mà môi trường lao động không tốt, dễ gặp tai nạn, như ở các công tŕnh xây dựng. Tại Nhật 3 loại công việc, mà tiếng Nhật gọi là 3K, phải nhập khẩu lao động nước ngoài v́ không thuê mướn được lao động bản xứ : nguy hiểm (kiken), môi trường làm việc không sạch sẽ (kitanai) và điều kiện lao động khắc nghiệt (kitsui) như nóng nảy, ngột ngạt.
Về phía các nước xuất khẩu lao động, nói chung đây là những nước kém phát triển, hoặc phát triển với tốc độ chậm mà lại không ưu tiên đẩy mạnh các ngành dùng nhiều lao động. Cho đến nay, những nước xuất khẩu lao động vừa nhiều về số lượng vừa có tỉ lệ cao trong tổng dân số của nước đó là Lebanon, El Salvador, Columbia, Pakistan và Phi-li-pin. Riêng Phi-li-pin, hiện nay có khoảng 8 triệu người làm việc ở nước ngoài, bằng khoảng 10 % dân số nước nầy. Hằng năm ngoại hối do lao động xuất khẩu gửi về qua đường chính thức khoảng 10 tỉ USD, xấp xỉ 10 % GDP.
Nh́n chung có thể thấy một số đặc điểm cơ bản liên quan đến lao động xuất khẩu và liên quan đến những nước xuất khẩu nhiều lao động :
Thứ nhất, lao động giản đơn xuất khẩu sang các nước phát triển nhất là các nước công nghiệp mới thông thường làm việc trong những môi trường khó khăn, quyền lợi của người lao động dễ bị xâm phạm nếu việc xuất nhập khẩu lao động không được tổ chức chu đáo, không có sự cam kết của xí nghiệp dùng lao động và sự giám sát của các cơ quan của nước sở tại.
Thứ hai, v́ là lao động giản đơn, tŕnh độ học vấn, tŕnh độ văn hoá của người đi lao động nước ngoài thấp nên khó thích nghi với điều kiện văn hoá, xă hội nước ngoài. Không ít người thất vọng với hoàn cảnh sống và làm việc ở xứ người, và có nhiều trường hợp phạm pháp xảy ra, gây ra h́nh ảnh xấu cho nước xuất khẩu lao động. Ngoài ra, cùng với điểm thứ nhất, lao động có tŕnh độ văn hoá thấp thường dễ bị bóc lột tại xứ người.
Thứ ba, nước xuất khẩu lao động hầu hết là những nước không thành công trong các chiến lược phát triển kinh tế. Với tŕnh độ văn hoá thấp, người dân các nước nầy không khỏi không lo âu khi rời xứ sở ra nước ngoài làm việc. Tại Á châu, ngay cả việc rời nông thôn để ra thành thị đối với họ cũng không phải là sự chọn lựa dễ dàng. Thành ra, nếu trong nước có công ăn việc làm, ít người muốn tham gia xuất khẩu lao động.
Thứ tư, cho đến nay, trong những nước xuất khẩu lao động chưa thấy nước nào đưa vấn đề nầy vào trong chiến lược phát triển kinh tế chung, trong đó lao động được đưa đi sẽ bảo đảm rèn luyện được tay nghề khi trở về, ngoại hối thu được sẽ được dùng một cách hiệu quả trong việc du nhập công nghệ, tư bản, v.v... và có kế hoạch chấm dứt xuất khẩu lao động trong tương lai. Chỉ thấy có truờng hợp (như Malaysia đă làm 20 năm trước) tích cực đưa thực tập sinh sang tu nghiệp ngắn hạn tại các nước tiên tiến để sau đó về làm việc với năng suât cao hơn tại các nhà máy hoặc các cơ sở kinh tế khác, nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển chung. Nhưng thực tập sinh khác về chất với vấn đề xuất khẩu lao động.
Vấn đề của Việt Nam
Không kể thời kỳ quan hệ kinh tế mật thiết với các nước Đông Âu, xuất khẩu lao động của VN tăng nhanh từ cuối thập niên 1990 và chủ yếu sang các nước Đông Á, nhất là Ma-lai-xia, Đài Loan và Hàn Quốc. Gần đây, thị trường xuất khẩu lao động mở rộng sang Trung Đông, Tây Âu và Mỹ. Từ năm 2001, b́nh quân mỗi năm có 70.000 lao động được đưa đi ra nước ngoài. Hiện nay có hơn 400.000 lao động VN làm việc tại 40 nước và lănh thổ, trong đó riêng tại Malaysia có hơn 100.000 người, chíếm độ 10 % tổng số lao động nhập khẩu của nước nầy.
Báo chí trong nước đă nói nhiều về t́nh trạng khó khăn, nhiều trường hợp rất bi thảm, của người lao động đang làm việc ở nước ngoài. Từ những phân tích ở trên ta cũng hiểu được điều nầy. Cùng với hiện tượng ngày càng nhiều phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài chỉ v́ mục đích giải quyết khó khăn về kinh tế, việc xuất khẩu lao động trở thành vấn đề bức xúc của xă hội ta, xúc phạm ḷng tự trọng của người Việt Nam. Đặc biệt xuất khẩu lao động làm cho h́nh ảnh của VN trên thế giới không mấy sáng sủa. Tổn thất nầy có bù đắp được bằng mấy tỉ đô la ngoại hối do xuất khẩu lao động mang lại hàng năm ?
Trong nước đương bàn về dự thảo Luật đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, dự kiến Quốc hội sẽ thông qua luật nầy vào cuối năm 2006. Việc tổ chức hy vọng sẽ được cải thiện. Tuy nhiên, trên căn bản, tôi nghĩ vấn đề xuất khẩu lao động của Việt Nam cần được giải quyết theo hướng sau :
Thứ nhất, cần đưa vấn đề nầy vào trong một tổng thể của chiến lược phát triển kinh tế, trong đó điểm mấu chốt là giải quyết công ăn việc làm cho mọi người có khả năng lao động. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng, việc thu hút FDI, việc dùng ngân sách để yểm trợ các dự án phát triển công nghiệp phải hướng vào điểm mấu chốt đó. Việc hoạch định chính sách theo hướng đó và công bố rộng răi chính sách nầy sẽ làm người dân tin tưởng vào tương lai đất nước, thấy an tâm là ḿnh sẽ không bị bỏ rơi trong quá tŕnh phát triển và như vậy giảm được áp lực tham gia xuất khẩu lao động..
Thứ hai, đặt kế hoạch đưa lao động đi thực tập và làm việc tại các nước phát triển theo một chương tŕnh chuẩn bị chu đáo để bảo đảm người lao động có thể học tập qua công việc và quyền lợi lao động được bảo vệ. Những lao động được chọn đi không nên là lao động quá giản đơn (unskilled) mà là lao động có một tŕnh độ học vấn nhất định (semi-skilled) để dễ thích nghi với điều kiện văn hoá, xă hội ở nước ngoài và nhất là để có thể lănh hội tri thức mới qua công việc.
Thứ ba, có lẽ trong vài năm trước mắt chưa thể chấm dứt ngay vấn đề xuất khẩu lao động, do đó cần tổ chức tốt để hoạt động nầy có hiệu quả hơn, tránh t́nh trạng lao động bị bóc lột như trong thời gian qua. Nói cụ thể hơn, cần thu thập, phân tích thông tin liên quan đến thị trường lao động, tổ chức theo dơi, quản lư tại các nước và phổ biến rộng răi trong nước để người dân có đủ cơ sở chọn lựa tham gia xuất khẩu lao động hay không.
Để kết thúc, tôi muốn nhấn mạnh lại điểm nầy : Một nước xuất khẩu nhiều lao động giản đơn hầu hết, nếu không nói là tất cả, là những nước nghèo, và do đó h́nh ảnh của những nước nầy không mấy sáng sủa trên vũ đài thế giới. Có kế hoạch chấm dứt t́nh trạng nầy trong một thời gian càng ngắn càng tốt là trách nhiệm của những người lănh đạo đất nước./.
Trần Văn Thọ
Chú : Tư liệu về xuất khẩu lao động của VN tham khảo từ Website của Bộ Lao động, Thương binh và Xă hội (http:// www.molisa.gov.vn) và Thời báo kinh tế Việt Nam 2/6/2005 và 6/2/2006. Tư liệu về xuất nhập khẩu lao động trên thế giới tham khảo từ nhiều nguồn tiếng Nhật và tiếng Anh, đặc biệt bài viết của Prema-chandra Athukorala, International Labour Mỉgation in East Asia : trends, pattern and policy issues, Asian-Pacific Economic Literature, Vol 20 No.1 (May 2006).
Một khu vực béo bở…
Trong cuộc họp báo ngày 16.6.2006 về t́nh h́nh xuất khẩu lao động (XKLĐ) 6 tháng đầu năm nay, ông Nguyễn Ngọc Quỳnh, phó cục trưởng cục Quản lư lao động ngoài nước, cho biết trong thời gian tới Đài Loan sẽ xem xét việc tiếp nhận trở lại lao động giúp việc gia đ́nh và chăm sóc người bệnh tại nhà của VN. Trước đó, từ ngày 20.1.2005, Đài Loan dừng tiếp nhận lao động VN ở hai lĩnh vực nói trên do tỉ lệ lao động bỏ trốn quá cao (chiếm khoảng 9 %). Ông Quỳnh phấn khởi cho biết VN có thể được cho phép nối lại cung ứng lao động với Đài Loan là nhờ « cải thiện và hạn chế đáng kể được t́nh trạng lao động bỏ trốn », nhưng không nói rơ những lư do khiến người lao động bỏ trốn « nhiệm sở » của ḿnh. Trong buổi thảo luận về dự luật XKLĐ ngày 5.6 vừa qua, một nữ đại biểu quốc hội đă đề nghị bỏ việc tuyển chọn lao động giúp việc gia đ́nh đi làm việc ở nước ngoài v́ dễ bị lạm dụng t́nh dục : « Sau khi đi tiếp xúc cử tri chúng tôi nghe phản ảnh rất nhiều về vấn đề này. Nơi đất khách quê người, ngôn ngữ bất đồng, nếu bị lạm dụng th́ chị em cũng không biết kêu vào đâu ».
Có không ít khả năng là cái cục Quản lư của ông Quỳnh c̣n nhiều việc làm khác hấp dẫn hơn việc ra sức bảo vệ người lao động nơi đất khách quê người.
Sự nở rộ của những « c̣ XKLĐ » chẳng hạn. Theo VnEconomy 4.4.2006, mỗi lao động sang Hàn Quốc phải nộp trước cho « c̣ » từ 4 tới 8 ngàn USD trong khi chi phí đi lao động ở nước này, theo qui định của nhà nước, chỉ là 699 USD. Hầu hết các doanh nghiệp làm XKLĐ là quốc doanh, tại sao người đi lao động lại phải qua trung gian của c̣ mồi ? Những ai được « ăn » trong các dịch vụ trung gian đó ? Tại sao báo chí nói rất nhiều tới những vụ lừa đảo trong khu vực này mà cục Quản lư vẫn b́nh chân như vại ? v.v.
Câu hỏi c̣n nhiều, và nếu có một cuộc tổng thanh tra khu vực, chắc hẳn người ta sẽ thấy « ở trong c̣n lắm điều hay », nhưng có thể « cá độ » là tựu trung vẫn xoay quanh câu chuyện cái cơ chế xin–cho và những người nắm đầu mối của cơ chế đó…
Thanh niên có lư tưởng không?
Friday, July 21, 2006Ngô Nhân Dụng
Ngày hôm qua, nhật báo Người Việt tiếp tục đăng tin về những đồng bào từ Long An, Bến Tre lên Sài G̣n biểu t́nh chống cường hào chiếm đất. Ở Hà Nội cũng có nhiều đồng bào quận Thanh Xuân đi biểu t́nh về những lư do tương tự. Không biết báo chí ở trong nước có báo nào chú ư tới “sinh hoạt dân chủ” của bà con nông dân hay không.
Nhưng chính nhật báo Người Việt đă nhận được tin tức về cuộc biểu t́nh ở Sài G̣n từ tuần trước. Tờ NV đă được tin ngay khi vụ biểu t́nh xảy ra, nhờ một độc giả báo cho biết. Một buổi sáng mở máy ra, chúng tôi thấy một e-mail từ Sài G̣n đă gửi cho tờ báo. Một độc giả vô danh. Chưa bao giờ quen biết. Không bao giờ liên lạc trở lại. Đọc lời lẽ trong lá thư th́ thấy ông hay cô này rất xúc động. Chắc v́ vậy cho nên không cầm ḷng được, phải gửi cho một nhật báo để loan tin ngay. Phải chọn một tờ báo ở nước ngoài, v́ báo chí trong nước thế nào cũng bị “ách” ngay! Điều này chứng tỏ bà con ở quê nhà rất quan tâm đến số phận của các đồng bào số phận xấu hơn ḿnh. Họ không thể làm ngơ trước cảnh bất công diễn ra chung quanh họ. Và họ muốn giúp nhau, loan tin là một cách đóng góp giúp những người đang tranh đấu. Giống như Thi Sĩ Nguyễn Chí Thiện đem tập bản thảo mấy trăm bài thơ “Hoa Địa Ngục” đưa cho Ṭa Đại Sứ Anh ở Hà Nội, nhờ họ chuyển ra nước ngoài. Cho bất cứ người Việt Nam, cơ quan truyền thông tiếng Việt nào. Để những tiếng kêu thống khổ có người nghe thấy, rồi cả thế giới nghe thấy, tiếng kêu của những người bị đầy đọa trong nhà tù cộng sản. Vị độc giả gửi bản tin cho báo Người Việt không lo bị trả thù, bị bắt lại vào tù như nhà thơ Nguyễn Chí Thiện. V́ đảng Cộng Sản vẫn chưa kiểm soát hết được internet.
Xin trích dẫn nguyên văn một đoạn đầu lá thư như sau:
“Bây giờ là 9h5' sáng tại Sài G̣n mến yêu, tôi vừa chứng kiến một đoàn người khoảng hơn 30 người đi biểu t́nh trên đường Pasteur, họ đi ngược chiều
để mọi người dễ nh́n thấy. Đi đầu là 2 người đàn bà già cầm 2 cờ đỏ sao
vàng ở giữa kế là 1 người cầm tấm h́nh bác HỒ cũ, đa số là đàn bà đội nón
lá, 2 bên dán 2 tờ giấy A 4 trên viết: Chúng tôi đi t́m công lư; trả nhà
đất lại cho chúng tôi, An giang, Bến tre. Chung quanh mắt tôi thấy có CA
ch́m chạy HONDA chung quanh, khoảng 4 chiếc (8 người). Có 1 chiếc xe hơi
kia bị ách lại v́ chụp h́nh. Nắng đă lên cao chẳng ai giúp họ, thương đồng
bào ḿnh quá báo NGƯỜI VIỆT ơi.”
Chúng tôi in nguyên văn không sửa chữa, để quư vị cảm thấy được tâm tư của người viết tin tức trên, trong lúc vội vàng.
Vị độc giả vô danh này là một người như thế nào? Chúng tôi có thể tưởng tượng được không? Chắc đó phải là một thanh niên đă tốt nghiệp đại học. Ngôn ngữ của anh có vẻ một người ra đời sau năm 1975 và ở miền Nam. Buổi sáng, trong ḷng đang hớn hở yêu đời, bỗng anh chứng kiến cảnh những cụ già đi biểu t́nh. Họ mang cờ, mang ảnh, họ dùng những mảnh giấy nhỏ khổ A 4 trên nón lá làm biểu ngữ. Chúng kiến cảnh đó, máu trào lên nghẹn cuống họng của anh. Anh lập tức đến một quán cà phê internet, ngồi viết trong một góc pḥng, mở ra một địa chỉ e-mail mới, gửi thư xong là hủy. Anh đứng dậy, cẩn thận xóa những vết tay của ḿnh trên bàn đánh máy, rồi bỏ đi liền. Trong ḷng người thanh niên, nỗi uất nghẹn cũng nguôi đi v́ thấy ḿnh đă đóng góp vào cuộc tranh đấu của những cụ già bị oan ức. Đây là một thứ người “giữa đường thấy sự bất b́nh không tha!” Nhưng chỉ có thể phản ứng trong giới hạn khả năng của ḿnh. Anh chắc chưa được đọc Lục Vân Tiên, nhưng trong ḍng máu cha mẹ chắc đă chứa đầy dũng khí của cụ Đồ Chiểu. Anh là một thanh niên có lư tưởng. Tự nhiên. Không ai đ̣i hỏi, không ai thúc dục.
Ở nước ta có bao nhiêu người mang tâm tư giống như vị độc giả vô danh này? Có bao nhiêu thanh niên có lư tưởng? Tôi đoán là nhiều lắm. Trong 100 thanh niên ở nước ta, phải có 80, 90 người giàu ḷng vị tha, thương yêu đồng bào, sẵn sàng làm việc nghĩa như thế.
Gần đây trên báo chí và các mạng lưới trong nước, chúng ta thường đọc rất nhiều những tin tức xấu về nền giáo dục. Nào là thầy cô cho học sinh lên lớp bất kể có chịu học hay không. Nào là gian lận thi cử, mua bán bằng cấp. Đọc nản quá. Chán quá. Giáo dục như thế làm sao đào tạo được những thanh niên có đạo đức, có chí khí? Ông Huỳnh Văn Lang, trong cuốn sách kể chuyện 3 tháng về thăm quê nhà, cho chúng ta một câu tục ngữ mới, “Tiên học phí, hậu học thêm.” Ông thuật cuộc gặp gỡ một cô giáo, vào hàng cháu của ông. Cô gái “cháu nội chú Hai Đảnh” mới tốt nghiệp Đại học Tổng hợp, sắp đi nhận thiên chức dậy trẻ. Sau mấy câu chuyện về đời sống ở trường, về bạn bè, lương bổng, muốn thử tŕnh độ hiểu biết của cô cháu, ông già 84 tuổi hỏi:
“Nói chuyện Hai bà Trưng, bà Triệu, cho ông nghe xem!”
“Ông hỏi con về Hồ Chí Minh th́ con nói cho ông nghe. C̣n về Hai bà Trưng, bà Triệu, con có học đâu mà nói!”
T́nh trạng đó nghe cũng nản thật. Nhưng chúng ta vẫn thấy ở trong nước có rất nhiều người lo lắng, thiết tha muốn sửa đổi nền giáo dục, để đất nước ta không mất những thế hệ tương lai. Ông Trần Hữu Tá, một nhà giáo lăo thành đă góp nhiều ư kiến về thi gian và bán bùa, đă đề nghị tám điều để chữa bệnh cho hệ thống thi cử. Trong điều thứ tư, ông có viết, “Hăy giảm thiểu những vấn đề cao xa lớn lao mà nên kiên tŕ bồi đắp cho các em ḷng trung thực, tinh thần tự trọng, nếp nghĩ và lối sống lành mạnh.” Ông c̣n dẫn một câu nói của Abraham Lincoln, một tổng thống Mỹ, nói về gian lận thi cử.
Chúng tôi muốn nhấn mạnh những chữ “ḷng trung thực, tinh thần tự trọng, nếp nghĩ và lối sống lành mạnh.” Giáo sư Trần Hữu Tá đề nghị nhà trường đừng dạy học sinh những chuyện cao xa nhiều quá. Ai cũng hiểu, ông muốn nói đến những lớp “thầy không muốn dạy, tṛ không muốn học,” tức là chủ nghĩa Mác-Lê. Ông muốn học sinh học vài đức tính căn bản trong đạo làm người. Giống như các nhà Nho ngày xưa, giống như trong những ngôi trường tiểu học, trung học ở Hà Nội mà tôi đă đến học trong những năm đầu thập niên 1950. Ngày xưa, chúng tôi nhớ, “Tiên học Lễ, hậu học Văn.”
Chúng ta có thể đoán được là trong khi nền giáo dục của nhà nước suy vi như vậy, giới trẻ nước ta vẫn học được đạo làm người, là nhờ vẫn có những vị thầy giáo, cô giáo không chịu đầu hàng, nhất định bảo vệ nền nếp tổ tiên. Thanh thiếu niên cũng vẫn được cha mẹ, ông bà dạy ǵn giữ gia phong. Cho nên có những thanh niên vẫn giàu ḷng nghĩa hiệp, muốn giúp đời, giúp người.
Chắc phải có một tâm hồn trong sáng và lương thiện th́ người bạn trẻ mới đi làm những việc nghĩa hiệp, thấy cảnh bất công xă hội trước mắt th́ phản ứng ngay, để giúp giảm bớt được chút nào hay chút đó. Tâm hồn trong sáng do đâu mà có? Biểu hiện như thế nào? Tôi tin tưởng là số người thanh niên sống lành mạnh, trong trẻo có rất nhiều, đông hơn nhiều lần số người chỉ biết thi nhau nhậu nhẹt, ngồi quán cà phê lười biếng, ăn chơi vô trách nhiệm, hoặc ghiền ma túy, đua xe gắn máy.
Tôi xin thú thật là thái độ lạc quan của tôi là do gần đây tôi được nghe một bài hát khiến tôi cảm thấy tin tưởng ở những người trẻ tuổi trong nước ta. Nếu tôi lạc quan quá, chỉ v́ một bài hát, th́ xin tha thứ. Nhưng nghe một bài hát, chúng ta có thể cảm được tâm t́nh của những người nghe. Bài hát đang thịnh hành, một bài hát tươi vui, êm ái, chắc ḷng các thanh niên đang nghe cũng như vậy. Cô Hồng Nhung hát bài Nắng Sớm như thế này:
“Nhẹ nhàng nắng sớm rất hồng - Nắng rung rinh trong vườn - Bông hoa đang cười, thương thật thương.”
“Một ngày đến với em, một tia nắng êm, bừng soi trên lá cây niềm vui yên tĩnh.”
Rất tiếc trên báo này chúng tôi chỉ có thể chép lại mấy câu hát, chứ không thể ghi nốt nhạc được. Lần đầu nghe điệu nhạc (của Huy Tuấn) chúng tôi chợt nhớ đến những âm thanh của Hoàng Quư, thời tiền, tiền chiến, mặc dù không có những nét hồn nhiên của nhà nhạc sĩ Hướng Đạo tiên phong đă khuất. Nhưng chỉ đọc lời thôi, quư vị cũng có thể cảm thấy được tâm hồn chứa đầy những ước ao của thính giả. Họ cảm được “Bông hoa đang cười, thương thật thương.” Họ muốn nh́n thấy “trên lá cây niềm vui yên tĩnh.”
Nhạc sĩ cũng thú nhận, có:
“à Một ngày giống bao nhiêu ngày - Nhiều khi rất buồn - Nhiều khi cay đắng.” Nhưng, lại tự nhủ, “Th́ về nắng mai trong vườn - T́m trong sớm hồng - lóng lánh hạt sương.”
Khi nghe bài hát trong lành, êm dịu đó, chúng ta có thể cảm thấy có một bầu không khí mới trong ḷng giới trẻ yêu âm nhạc ở nước ta. Họ đi t́m những nét tươi vui, trong lành, đơn sơ, êm dịu, sạch sẽ. Họ muốn sống như vậy. Không c̣n là những bản nhạc sầu năo, èo uột rải rác những câu triết lư rẻ tiền mà thế hệ đàn anh đă được nuôi dưỡng, ch́m đắm trong đó. Tôi không biết tác giả là một ông nhạc sĩ như thế nào, nhưng có thể cảm được những người thích bản nhạc này có tâm hồn như thế nào. Những người muốn sống trong lành sẽ rất dễ trở thành những thanh niên muốn sống với một lư tưởng.
V́ vậy, tôi tin tưởng ở trong nước ta bây giờ có rất nhiều thanh niên sống với “ḷng trung thực, tinh thần tự trọng, nếp nghĩ và lối sống lành mạnh,” như Giáo Sư Trần Hữu Tá mong ước. Mặc dù nền giáo dục suy đồi đến mấy, con em chúng ta vẫn muốn sống như những người Việt Nam trong lành, chính trực, và nghĩa hiệp nữa. Như người độc giả vô danh đă gửi tin cho nhật báo Người Việt tuần trước. Cảm ơn người bạn vô danh, bạn đă tặng cho chúng tôi thêm nhiều niềm tin vào tương lai đất nước. Hăy coi như đó là nhờ phúc ấm tổ tiên.
Quốc Hội và Chính Quyền Trong Hiến Pháp Dân Chủ
Nguyễn Học Tập
(VNN)"Việc hành xử quyền lập pháp không thể được ủy thác cho Chính Quyền, nếu không với những nguyên tắc và tiêu chuẩn định hướng, chỉ trong thời gian giới hạn và các đối tượng được xác định".
Chúng tôi vừa trích dẫn điều 76 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc, liên quan đến mối tương giao đúng đắn phải có trong thể chế Dân Chủ, giữa hai quyền lực Quốc Gia, Lập Pháp và Hành Pháp.
Quyền lập pháp là quyền của Quốc Hội.
Quốc Hội là cơ quan dân cử, chính danh đại diện ư muốn của dân chúng trong cuộc sống thường nhật của Cộng Đồng Quốc Gia.
Luật pháp, được Quốc Hội "lập ra" hay đúng hơn được sinh ra qua tiến tŕnh "chuẩn y hay bác bỏ" của Quốc Hội là dụng cụ tiên khởi để thực hiện đường lối chính trị Quốc Gia.
Kết quả của tiến tŕnh "chuẩn y hay bác bỏ" đó của Quốc Hội, luật pháp được "lập ra" để xác định và thực hiện, bảo đảm và thăng tiến các quyền của cá nhân người dân, cũng như lợi ích của cuộc sống chung Cộng Đồng Quốc Gia.
Trong cuộc sống thường nhật và liên tục, luật pháp do Quốc Hội "chuẩn y hay bác bỏ" được "lập ra" để đáp ứng lại nhu cầu và ước vọng của dân chúng, của Cộng Đồng Quốc Gia, đáp ứng lại t́nh thế biến chuyển của cuộc sống.
Quyền lập pháp là quyền của Quốc Hội, quyền thực hiện luật pháp là thẩm quyền của Chính Quyền.
Điều 76 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc vừa kể cho thấy quyền lập pháp của Quốc Hội có thể được ủy tác cho Chinh Quyền (Hành Pháp) với một số điều kiện được Hiến Pháp tiền liệu đưa ra để giới hạn.
Điều vừa kể cho thấy quyền Lập Pháp là quyền thường nhiệm tự nhiên của Quốc Hội, Chính Quyền được giao cho hành xử quyền Lập Pháp của Quốc Hội là hành xử quyền hành trong một ít trường hợp bất thường và phải tuân giữ những giới hạn không thể vượt qua được Hiến Pháp tiền liệu, tiền liệu để bảo đảm nguyên tắc phân quyền cho Thể Chế Dân Chủ, nền tảng của tổ chức Cộng Đồng Quốc Gia.
Luật pháp được Quốc Hội "chuẩn y hay bác bỏ" lập ra là dụng cụ tiên khởi và thông thường để xác định, bảo vệ, thực hiện và phát huy triển nở quyền và tự do của người dân trong cuộc sống Cộng Đồng Quốc Gia:
- "Nền Cộng Hoà nhận biết và bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm của con người, con người như cá nhân hay con người như thành phần xă hội, nơi mỗi cá nhân triển nở con người của ḿnh và đ̣i buộc chu toàn các bổn phận liên đới không thể thiếu trong các lănh vực chính trị, kinh tế và xă hội" (Điều 2, Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).
- "Bổn phận của Nền Cộng Hoà là dẹp bỏ đi những chướng ngại vật về phương diện kinh tế và xă hội, là những chướng ngại, trong khi giới hạn thật sự tự do và b́nh đẳng của người dân, không cho phép mỗi người được triển nở hoàn hảo con người của ḿnh và tham gia thiết thực vào tổ chức chính trị, kinh tế và xă hội của xứ sở" (Điều 3, đoạn 2, id.).
Với những mục đích vừa kể của tổ chức Quốc Gia, được Hiến Pháp nêu ra "...mỗi người được triển nở hoàn hảo con người của ḿnh và tham gia thiết thực vào tổ chức chinh trị, kinh tế và xă hội của xứ sở ", luật pháp được Quốc Hội "lập ra" là những dụng cụ tiên khởi để thực hiện lư tưởng và ước vọng được ghi trong Hiến Pháp.
Luật pháp c̣n được xem là những dụng cụ "thông thường" để bảo vệ, thực thi và phát huy quyền và tự do của con người, mỗi cá nhân cũng như lợi ích chung của cuộc sống Cộng Đồng Quốc Gia, so với Hiến Pháp là dụng cụ "bất thường", được soạn thảo ra chối bỏ định chế phi nhân độc tài trước đó của Phát Xít Benito Mussolini và mở rộng một tương lai sáng lạn hơn cho con người trong Thể Chế Dân Chủ mới của dân chúng Ư (R. Guastini, Le fonti di diritti e interpretazione, Trat. dir. priv. Judica e Zatti, Milano 1993, 149s).I- Quyền lập pháp hạng hai của chính quyền
Qua những ǵ vừa được bàn đến, quyền Lập Pháp là quyền của Quốc Hội và quyền thực hiện luật pháp, áp dụng luật pháp hay Hành Pháp là quyền đặc thù của Chính Quyền.
Chính Quyền có quyền và nhiệm vụ thực hành các đạo luật đă được Quốc Hội "chuẩn y hay bác bỏ" lập ra trước.
Nói cách khác, qua các đạo luật được lập ra, Quốc Hội đă đưa ra đường lối chính trị Quốc Gia và chỉ thị cho Chính Quyền phải thực hiện.
Như vậy, Hành Pháp là thực hiện đường lối chính trị Quốc Gia, được Quốc Hội đề ra và chỉ định qua các đạo luật đă được soạn thảo.
Đó là những đạo luật ở cấp một, những đạo luật được Quốc Hội "lập ra".
Nhưng như tục ngữ người Ư có câu: "Tra parlare e fare, c'è di mezzo il mare!" (Giữa nói và làm, c̣n có cả một đại dương!).
Như vậy, muốn thực hiện các đạo luật của Quốc Hội vào hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xă hội của xứ sở, đối nội cũng như đối ngoại, và nhứt là trước những hoàn cảnh thay đổi, Chính Quyền cần giải thích sao cho thích hợp với hoàn cảnh và thích ứng các chỉ thị tổng quát được đạo luật của Quốc Hội chỉ định vào hoàn cảnh và thời điểm cá biệt, cũng như phương thức thích hợp phải được áp dụng, làm cách nào để
- "Các cơ quan công quyền phải được tổ chức theo các chỉ thị của luật pháp, tổ chức thế nào để bảo đảm được hiệu năng và không thiên vị của nền hành chánh" (Điều 97, đoạn 1 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).
Để giải thích và thích ứng các đạo luật chỉ thị tổng quát của Quốc Hội, Chính Quyền phải viết thành văn bản những quy tắc (normes), có hiệu lực luật định hạng hai, dựa theo và bên dưới các điều khoản luật được Quốc Hội lập ra trước đó.
Các quy tắc được Chính Quyền soạn thảo ra được gọi là những đạo luật hạng hai, đối luật pháp của Quốc Hội.
Và dĩ nhiên trong một Thể Chế Dân Chủ, theo nguyên tắc phân quyền, các quy tắc của Chính Quyền soạn ra để áp dụng không thể nào là:
- những điều khoản luật triển hạn hoặc xóa bỏ các đạo luật hiện hành của Quốc Hội,
- những quy tắc có hiệu lực luật định, nếu các quy tắc đó không nằm trong khuôn khổ quyền hạn và mục đích đă được luật pháp của Quốc Hội hay các điều khoản của Hiến Pháp xác định (Pietro Perlingieri, Commento alla costituzione italiana, ed. Scientifiche Italiane, Napoli 2001, 519).
Nói như vậy, không phải là Chính Quyền của Thể Chế Dân Chủ được Hiến Pháp khoán trắng cho muốn giải thích, thích ứng ra quy tắc, sắc luật thế nào tùy hỷ, mà các quy tắc hay sắc luật đó phải được một đạo luật Quốc Hội ủy thác cho và không thể đi ra ngoài hay đi ngược lại các đạo luật hiện hành của Quốc Hội (E. Palici si Suni, La regola e eccezione: Istituzioni parlamentari e potestà normative dell'esecutivo, Giuffré, Milano 1988).
Và đó là những ǵ đă được Hiến Pháp xác định:
- "Chính Quyền không được, nếu không có sự ủy quyền của Quốc Hội, ban bố các sắc luật có hiệu lực luật định của đạo luật thông thường" (Điều 77, đoạn 1, Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).
Những ǵ vừa kể,
- * không được triển hạn hoặc xoá bỏ các đạo luật hiện hành,
- * không được vượt ra ngoài khuôn khổ, mục đích được luật pháp và Hiến Pháp xác định,
- * mỗi sắc luật hay quy tắc của Chính Quyền ban ra phải được một đạo luật ủy thác của Quốc Hội cho phép trước, cho thấy Hiến Pháp đă tiền liệu quyền soạn thảo và ban bố sắc luật có hiệu lực luật định của Chính Quyền không thể "xâm phạm, lấn đất, dành quyền" của Quốc Hội, cơ quan dân cử, là tiếng nói đại diện cho ư muốn của dân chúng trong cuộc sống đất nước.
Dân Chủ là vậy!
Dân chủ không phải ai muốn làm ǵ th́ làm, mà là mỗi người, mỗi đoàn thể, mỗi cơ chế tự do sống và hành xử trong lằn mức hiến định và luật định của ḿnh.
Các vị soạn thảo Hiến Pháp 1947 Ư Quốc không thể thả lỏng cho Chính Quyền "giải thích, thích ứng" luật pháp và áp dụng cách nào tùy hỷ bằng các sắc luật, nghị định, quy tắc.
T́nh trạng Benito Mussolini giải thích luật pháp và áp dụng tùy hỷ, ở Ư ai cũng nghe nói đến, bởi đó trên đầu môi chót lưỡi của họ, họ luôn luôn khuyên chúng ta phải thận trọng:
- "Fatta le legge, fatti gli inganni!" (Đạo luật được thảo ra, là các thủ đoạn lường gạt đă được dọn sẵn!).
Quyền "làm ra luật" của Chính Quyền phải được Quốc Hội cho phép (đạo luật ủy thác) và Quốc Hội luôn luôn có Ủy Ban Điều Tra đối với cách hành xử, nội dung và lằn mức các sắc luật của Chính Quyền. Ủy Ban đó có thẩm quyền của một Ủy Ban Tư Pháp:
- "Ủy Ban Điều Tra Quốc Hội tiến hành điều tra và và t́m hiểu có cùng quyền hạn và giới mức như là một cơ quan tư pháp" (Điều 82, đoạn 2, id.)
(L. Calassare, Regolamenti dell'esecuvito e principio di legaltà, Cedam, Padova 1966, 288).
Quốc Hội của Đảng và Nhà Nước Dân Chủ CHXHCNVN nhà ḿnh có bao giờ biết thiên hạ trên thế giới hành xử như vừa kể không?
Hỏi đế mượn ư cho Quốc Hội ḿnh, tự xét lương tâm xem ḿnh có phải là đại diện cho dân, tiếng nói của dân và v́ dân kiểm soát cả cách hành xử luật pháp và lập luật của Chính Quyền không.
Nếu Quốc Hội của Đảng và Nhà Nước nhà ḿnh không hành xử như Quốc Hội một Quốc Gia dân chủ, th́ Quốc Hội ḿnh ngồi đó để làm ǵ?II- Quyền lập pháp hạng nhứt của chính quyền
Chúng ta vừa đề cập đến quyền lập pháp của Chính Quyền, được soạn thảo ra các quy tắc (norme), sắc luật (decreti legislativi) là những văn bản giải thích và thích ứng với môi trường và hoàn cảnh để áp dụng các đạo luật của Quốc Hội, định hướng đường lối chính trị Quốc Gia.
Các quy tắc, sắc luật được gọi là những văn kiện luật pháp hạng hai, so với các đạo luật Quốc Hội, bởi lẽ là những lối giải thích và thích ứng để áp dụng các đạo luật đă được Quốc Hội "lập pháp", "chuẩn y hay bác bỏ" cho nẩy sinh ra trước.
Nhưng quyền "lập pháp" của Chinh Quyền không phải chỉ có vậy.
Hiến Pháp cũng tiền liệu trong một ít trường hợp, Chính Quyền cũng có thể tự ḿnh đứng ra "làm ra luật" để áp dụng, đáp ứng với t́nh thế đ̣i buộc, bởi lẽ tiến tŕnh "lập pháp" thông thường của Quốc Hội là tiến tŕnh lâu dài, không giải quyết được nhu cầu cấp bách của t́nh thế, cũng như nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến các lănh vực chuyên môn, Quốc Hội không có đủ khả năng giải quyết.
Đó là các trường hợp Quyền Lập Pháp Hạng Nhứt cửa Chinh Quyền.
Hạng Nhứt, bởi v́ các sắc luật (decreti leggislativi) để giải quyết các vấn đề chuyên môn hay sắc lệnh (decreti legge) để giải quyết các vấn đề khẩn cấp không tùy thuộc vào một điều khoản luật thông thường nào khác đă được Quốc Hội "lập ra" trước đó.
Nhưng dù sao đi nữa, muốn được thẩm quyền soạn thảo ra sắc luật hay sắc lệnh, Chính quyền cũng phải hội đủ những điều kiện hiến định.
- * đối với các vấn đề phức tạp trong cuộc sống thường nhật, mà Quốc Hội không có khả năng hiểu biết chuyên môn để có thể soạn thảo ra đạo luật để thi hành. Hoặc do chính Quốc Hội, hoặc theo lời yêu cầu của Chính Quyền, Quốc Hội sẽ đề thảo ra một đạo luật ủy nhiệm (legge di delega), được đa số thành viên Quốc Hội chấp nhận, ủy nhiệm cho Chính Quyền soạn thảo sắc luật để giải quyết vấn đề liên hệ.
Dĩ nhiên là đạo luật ủy nhiệm phải hàm chứa các
- "nguyên tắc và tiêu chuẩn hướng dẫn, thời gian giới hạn và mục tiêu được xác định" (Điều 76, id.), như chúng ta đă trích dẫn ở đầu bài viết.
Và chắc chắn sắc luật được Chính Quyền đề thảo ra cũng sẽ không thể đi ra ngoài các lằn mức hạn định vừa kể, nếu không muốn bị Viện Bảo Hiến xem là đạo luật vi hiến và trở thành vô hiệu.
- * kế đến trong trường hợp khẩn trương Chính Quyền có thể đề thảo ra những sắc lệnh (decretti legge), không cần đợi có được đạo luật ủy nhiệm của Quốc Hội. Tuy nhiên, sắc lệnh đó phải được Quốc Hội biến cải thành luật trong ṿng 60 ngày. Và đó là những ǵ được tuyên bố ở điều 77:
- "Trong trường hợp cần thiết và khẩn cấp, Chính quyền có thể dùng các nghị định tạm thời có hiệu lực luật định, do chính ḿnh chịu trách nhiệm, nhưng trong cùng ngày được công bố, Chính Quyền phải đệ tŕnh các phương thức tạm thời đó trước Quốc Hội để được Quốc Hội hoán chuyển thành đạo luật. Trong thời gian năm ngày, dầu cho Quốc Hội đă bị giải tán, Quốc Hội cũng sẽ được triệu tập và nhóm họp lại.
Các nghị định tạm thời đó ngay từ đầu đă mất hiệu lực, nếu không được hoán chuyển thành luật trong ṿng 60 ngày, kể từ ngày được công bố" (Điều 77, đoạn 1 và 2, id.).
Qua những ǵ vừa kể, Chính Quyền muốn có được thực quyền hiến định để "làm ra luật",
- phải được đạo luật ủy nhiệm của Quốc Hội để đề thảo ra sắc luật, trong thời gian thông thường,
- sắc luật được soạn thảo phải tuân theo lằn mức hiến định,
- và sắc lệnh được soạn thảo phải được Quốc Hội hoán chuyển thành luật trong ṿng 60 ngày.
Điều đó cho thấy trong Thể Chế Dân Chủ không có cách hành xử "lưỡng đầu chế" (bicefalismo) hay (dualismo) của hai trung tâm quyền lực lập pháp.
Hiến Pháp 1947 Ư Quốc, trong lănh vực lập pháp, đặt Chính Quyền trực thuộc và dưới quyền giám định của Quốc Hội với
- * "đạo luật ủy nhiệm" (điều 76),
- * "phải được Quốc Hội hoán chuyển sắc lệnh thành đạo luật trong ṿng 60 ngày" (điều 77),
- * "bị đặt dưới quyền kiểm soát của Ủy Ban Điều Tra Quốc Hội, có thẩm quyền bắt buộc thẩm vấn, yêu cầu trưng chứng cớ và tố cáo, tuyên án phạm pháp, bất tín nhiệm như là một cơ quan tư pháp" (điều 82, đoạn 2).
Thể Chế Dân Chủ là thể chế đặt trọng tâm thượng đẳng xây dựng Quốc Gia trên nền tảng Quốc Hội, cơ quan dân cử, là tiếng nói phát biểu lư tưởng và ước vọng của người dân.
Nhiệm vụ lập pháp, định hướng đường lối chính trị Quốc gia là nhiệm vụ của Quốc Hội.
Nhiệm vụ thi hành luật pháp là nhiệm vụ của Chính Quyền.
Chính Quyền chỉ được Hiến Pháp và luật pháp của Quốc Hội giao cho quyền lập pháp trong các trường hợp để bổ túc cho Quốc Hội và tùy thuộc vào Quốc Hội.
Giữa Quốc Hội và Chính Quyền, trong trách nhiệm và quyền hạn lập pháp, không có địa vị đồng đẳng, mà là địa vị của Chính Quyền tùy thuộc, bổ túc khi cần và trong giới hạn xác định.
Chính Quyền thi hành quyền lập pháp của ḿnh, không phải là để bổ túc cho đường lối chính trị hướng dẫn Quốc Gia của Quốc Hội, cho bằng tạo ra những phương thức thực hiện chính hướng đă được Quốc Hội đề xướng (G. Zagrebbelsky, Il sistema delle fonti del diritto, Utet, Torino 1992, 162).
Cho đến một lúc nào đó, nếu Quốc Hội thấy ḿnh không c̣n có đủ khả năng "lập pháp" để hướng dẫn đường lối chính trị Quốc Gia, bảo đảm quyền và tự do của người dân, Quốc Hội phải nhận thức tự lương tâm ḿnh nên giải tán.
Chính Quyền không thể cho rằng ḿnh có thể thay thế Quốc Hội trong nhiệm vụ "lập pháp" để lo cho dân. Một Chính Quyền vừa lập pháp vừa hành pháp tùy hỷ là Chính Quyền độc tài, Mussolini cũng đă hành xử không khác ǵ.
Đạo luật Hiến Pháp của điều 76 đang bàn đặt giới hạn bắt buộc Quốc Hội hành xử trong lằn mức không thể thiếu, khi soạn thảo và tuyên bố đạo luật ủy nhiệm giao cho Chính Phủ quyền lập pháp trong một vài trường hợp cá biệt nào đó:
"với các nguyên tắc, tiêu chuẩn hướng dẫn, thời gian giới hạn và mục dích xác định" (điều 76).
Lằn mức bắt buộc đó đối với Quốc Hội, giảm thiểu tự do của Quốc Hội, nhưng đồng thời cũng là phương thế bảo vệ Quốc Hội và bảo chứng quyền và tự do của dân chúng.
Quốc Hội không thể khoán trắng, giao đại, ủy nhiệm thả cửa cho Hành Pháp, khiến Quốc Hội không c̣n một tấc quyền trong tay và Chính Quyền biến thành Chính Quyền Phát Xít độc tài Mussolini, soạn thảo và hành xử luật lệ tùy hỷ lên đầu lên cổ dân chúng.
Đạo luật ủy nhiệm của Quốc Hội không hàm chứa nội dung được điều 76 nêu lên, là đạo luật tự nó đă vi hiến và từ đó kéo theo các cách hành xử của Chính Quyền được đạo luật ủy nhiệm cho phép cũng là những cách hành xử vi hiến, từ sắc luật đến áp dụng (L. Paladin, Commento all' art 76 della costituzione, in Commentario della costituzione, a cura di G. Branca, Zanichelli, Bologna 1979, 5).
Và tính cách vi hiến hay hợp hiến đó, không phải Quốc Hội tự ḿnh đứng ra phán quyết, cũng không phải do Chính Quyền thoả thuận với Quốc Hội đứng ra ếm nhẹm, mà là do Viện Bảo Hiến, "cơ quan đứng giữa và đứng trên", được Hiến Pháp thiết lập để công minh bảo vệ Thế Chế Dân Chủ và bảo vệ người dân:
- "Viện Bảo Hiến phán quyết
* về những mối bất đồng liên quan đến tính cách hợp hiến của các đạo luật, nghị định, sắc luật có hiệu lực luật định của Quốc Gia hay của các Vùng,
* về những mối tương phản giữa các quyền lực Quốc Gia,
* về những tranh chấp giữa tổ chức Quốc Gia và các Vùng cũng như giữa các Vùng với nhau (Điều 134, đoạn 1 2 và 3 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).
Và với những quyền được Hiến Pháp giao phó vừa kể, Viện Bảo Hiến đă không ngần ngại cho là vi hiến, đặt ngoài ṿng pháp luật đạo sắc lệnh số 400/1988 của Chính Phủ Ư lúc đó. Sau 60 ngày công bố, không được Quốc Hội đồng thuận chấp nhận hoán chuyển thành đạo luật, Chính Phủ thu hồi để rồi sau đó lại sao ư bản chính đệ tŕnh, xin Quốc Hội triển hạn cứu xét.
Đó là lối hành xử quanh co, bất chính và vi hiến, ngược lại những ǵ đă được Hiến Pháp xác định lằn mức ở điều 77, chúng ta vừa trích dẫn ở trên.
Chính Phủ có nhiệm vụ thi hành luật pháp và có thể xử dụng quyền lập pháp, tùy thuộc vào Quốc Hội và trong các lằn mức và điều kiện không thể vượt qua, được Hiến Pháp ấn định.
Thể Chế Dân Chủ của các Quốc Gia Tây Âu ǵn giữ một cách tôn kính sự lựa chọn vừa kể được Hiến Pháp tuyên bố.
Quyền lập pháp của Chính Quyền tùy thuộc vào Quốc Hội bảo đảm cho thể chế dân chủ được xây dựng trên quyền tối thượng của người dân: Quốc Hội là cơ quan dân cử, tiếng nói đại diện cho người dân, chủ nhân quyền tối thượng Quốc Gia (A. Cerri, Delega legislativa, in Enc. dir., Treccani, vol X, Roma 1988, 2).
Dân Chủ là vậy!
Dân Chủ không phải chỉ tuyên bố mà có, mà c̣n phải tiền liệu các phương thức cần thiết để thực hiện và bảo đảm, tránh độc tài và lạm dụng.