Những Ǵ Thấy Được Qua Vụ Án Tượng Phật Bị Mất Trộm Tại Bắc Giang
Trần Đức Tường
(VNN)Từ nhiều năm nay, người ta thấy tại hải ngoại, không phải trong các viện bảo tàng mà trong các tiệm bán đồ cổ, thậm chí cả tư gia Việt kiều cũng như người nước ngoài, nhiều cổ vật Việt Nam như đồ sành sứ, trống đồng và nhiều pho tượng Phật, tượng La Hán. Chắc chắn, Việt kiều về nước hay khách nước ngoài đi du lịch Việt Nam không thể ăn cắp những cổ vật đó mang đi. Nhà Nước Việt Nam cấm xuất khẩu cổ vật, hải quan kiểm soát chặt chẽ... Một cái điếu ống là đồ dùng tư nhân, có thể để gọn trong hành lư cũng không ra lọt, huống hồ một pho tượng to lớn, cao cả thước, nặng trên 50kg, là thánh vật thờ cúng trong đền, chùa. Vậy mà các pho tượng cổ có niên tuế ba bốn trăm năm đă xuất hiện tại hải ngoại. Hỏi ra th́ được biết các sở hữu chủ đă mua ở Việt Nam và được chuyên chở ra hải ngoại trong các containers lớn bằng đường hàng không hay hàng hải. Điều thứ nhất có thể thấy được trong việc tẩu tán cổ vật ra nước ngoài là phải có sự thông đồng, tiếp tay, ăn chia của chính quyền CSVN.
Trong các dịch vụ thương mại, CSVN thường nói đến "đầu vào" và "đầu ra". Đối với mọi sản phẩm th́ đầu ra là thị trường, là người tiêu thụ, là "mức cầu" đối với sản phẩm đó. Chính "mức cầu" quyết định quy mô sản xuất và giá cả sản phẩm. Các cổ vật có thị trường riêng của nó. Thường th́ cổ vật, càng lâu đời, càng đắt giá. Chỉ có những bảo tàng viện hoặc các tỷ phú mới có thể mua được. Các pho tượng trong đền chùa Việt Nam thường có niên đại vào thế kỷ 16, 17. Đă là cổ vật th́ rất đắt tiền. Nhưng trên mặt tín ngưỡng th́ quả là vô giá, v́ nó gắn liền với lịch sử, v́ nó c̣n đang tại vị trên bệ thờ và được hương khói, cúng lễ hằng ngày. Về mặt khách hàng th́ các viện bảo tàng thường trả giá cao, nhưng đ̣i hỏi giấy tờ chứng minh xuất xứ hợp pháp, trong lúc những tư nhân chơi đồ cổ th́ họ không cần. Về phí người bán, kẻ ăn trộm ở trong nước không biết giá trị thực sự của cổ vật và lại có nhu cầu tiêu thụ cho mau. V́ thế họ không đ̣i hỏi giá cao nên cũng vừa túi tiền người mua. Điều thứ nh́ thấy được là số lượng khổng lồ cổ vật đă tứ tán trên toàn thế giới, không hy vọng thâu hồi lại. Nguy cơ Việt Nam mất đi những di sản văn hóa ngày càng trầm trọng. C̣n đầu vào th́ không thể nhập nguyên liệu để sản xuất cổ vật. Đối với CSVN đầu vào là ăn cắp.
Vụ tượng Phật bị trộm tại Bắc Giang xẩy ra như sau: Trong ṿng 3 tuần của tháng 1 năm 2001 xảy ra hai vụ trộm, mất ba pho tượng: Di Lặc, A Nan và Ca Diếp bằng sơn son thiếp vàng (thế kỷ 17), nặng 30 kg; từ 3/ 6 đến 23/7/2003 mất liên tiếp 5 vụ, gồm 24 pho tượng. Tổng cộng 27 pho tượng cổ và các bộ sắc phong, bát bửu, hậu bành, câu đối, mâm son v.v... đă bị mất trộm. Dư luận trong giới thiện nam, tín nữ Phật Giáo rất bức xúc v́ ai cũng thấy rơ có bàn tay của nhơ bẩn của bọn cán bộ chính quyền CSVN nhúng vào. Nhu cẩu của bọn tham quan ô lại CSVN là phải dập tắt dư luận bất lợi cho họ. Từ nhu cầu này, đă có sự cấu kết giữa các bộ phận chính quyền là công an (bộ công an), trại giam Kế (bộ công an), viện Kiểm Sát Nhân Dân (bộ tư pháp) để làm thế nào tạo ra cho được các "thủ phạm" không phải là chính quyền. Kết quả là vào năm 2003, công an Bắc Giang đă bắt 9 người trong đó có 4 nhà sư gồm Ḥa Thượng Thích Đức Chính (tục danh Phan Hữu Hường sinh năm 1937); Đại Đức Thích Tâm Thương (tục danh Lê Văn Thương, sinh năm 1973); Đại Đức Thích Nguyên Kiên (tục danh Dương Văn Trung, sinh năm 1962) và chú tiểu Thích Đạo Sơn (tục danh Nguyễn Quư Đoan, sinh năm 1980) và 5 cư sĩ trong đó có một phụ nữ tên Nguyễn Thuư Lan, sinh năm 1951. Điền đáng chú ư là những người này không biết ǵ về vụ trộm tượng Phật. Để thực hiện âm mưu "tạo ra thủ phạm", công an với sự toa rập của viện kiểm sát đă tra tấn các nạn nhân một cách hết sức man rợ để ép cung, bắt kư giấy nhận tội. Ngoại trừ bà Thúy Lan được tại ngoại, 8 nạn nhân c̣n lại đề bị cực h́nh. Riêng Ḥa Thượng Thích Đức Chính, tuổi đă già, lại bị những trận đ̣n thù dă man nên đă tắt thở ngay trong trại tù. Họ đă không ngần ngại bịa đặt các t́nh tiết, dựng chuyện, trưng ra vật chứng giả để mang ra xét xử vào đầu năm 2006. Ṭa án tṛ hề đă căn cứ trên những tài liệu điều tra của chính quyền để kết án. Toàn thể nạn nhân, trừ người đă chết đă kháng án. Sau nhiều lần hoăn đi hoăn lại v́ không đủ bằng chứng kết tội, nhà cầm quyền CS tỉnh Bắc Giang đă lại phải mở phiên toà mới vào ngày 20/6/2006. Sau gần 10 ngày xét xử, sáng ngày 28/6/2006 ngay từ rất sớm, khoảng từ 6 đến 7 giờ hàng ngh́n người dân thuộc 2 tỉnh Hà Tây và Bắc Giang, cùng một số huyện lân cận đă kéo về rất đông trên các tuyến đường dẫn vào toà án của tỉnh đặt tại trung tâm thị xă Bắc Giang. Kết cục, với hồ sơ luận tội không vững vàng, với áp lực quần chúng, ṭa án phải trả tự do cho tất cả các nạn nhân. Chỉ tiếc cho Ḥa Thượng Thích Đức Chính đă bỏ mạng dưới trong pḥng giam. Điều thứ ba nh́n thấy trong vụ án này là t́nh trạng chính quyền CSVN thao túng công lư, ṭa án làm theo lệnh chính quyền "quy án, gán tội" một cách ngang ngược, CSVN đă chà đạp nhân quyền, bức hại Phật Giáo, tra tấn tù nhân là điều thế giới nghiêm cấm. Nếu cộng sản Hà Nội không mong đợi Hoa Kỳ cho được quy chế PNTR th́ chưa chắc vụ án đă kết thúc như vừa kể.
Vấn đề hiện nay là phải làm rơ trắng đen. Ai là thủ phạm thật sự các vụ kiện? Ai ra lệnh cho những tên công an ác ôn đánh đập, tra tấn dă ma tù nhân? Thế giới cần biết rơ thực trạng không có công lư tại Việt Nam. Đảng CSVN phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về tội ác trong vụ Tượng Phật Bắc Giang.
Giáo Dục Thụt Lùi, Nghề Tắm Cho Người Chết và Bắt Chó
Trần Vĩnh Phong
(VNN)Chuyện Việt Nam vẫn là vô số chuyện buồn. Trong lănh vực giáo dục vẫn thường có vấn đề mỗi khi vào hè, mùa thi lại đến. Thi tốt nghiệp hay thi tuyển vào đại học lại được mở ra với những điều nghịch lư. Hơn 31 năm qua t́nh trạng giáo dục được gọi dưới tên là "tươi đẹp, tiến bộ" vẫn c̣n được phơi bầy dài dài trên các báo cáo thành tích. Họ cùng lừa nhau trên giấy để dễ dàng xin viện trợ ngoại quốc. C̣n phẩm chất thực dụng ra sao? Hăy xem nhưng thí dụ cụ thể xẩy ra hàng ngày.
Báo nhà nước có đăng một bài có cái tựa đề nguyên văn: "Đề thi Văn quanh quẩn, cũ ṃn". Nội câu này cũng mô tả một nỗi buồn, như suốt đời con trâu nhơi cỏ. Sự thú nhận thụt lùi cũng từ đây. Nguyên do là không trọng dụng nhân tài, bằng giả nhiều hơn thật. Người có trách nhiệm giáo dục c̣n có lương tâm th́ lại quá yếu đuối trước cám dỗ của danh lợi, tiền bạc hay không thể nào chống nổi cả "tập đoàn". Họ cô đơn, buông xuôi cùng tháng đợi ngày chờ về chánh sách chỉ có trên giấy. Hăy nghe 1 lời than thở khác bằng 1 bài thơ:
Buồn cười, thi cử nước ta
Đầu vào "thị Nở", đầu ra "Chí Phèo"
Khối D th́ "Phố huyện nghèo"
Khối C "Tiếng hát con Tèo" lại ra.
Năm ngoái th́ chuyện "Sông Đà".
Năm nay lại gặp cụ già "Nguyễn Tuân".
Không ai biết bài thơ này có từ hồi nào, nhưng nó được các thày cô giáo khoa Văn Học, Đại học Khoa Học Xă Hội và Nhân Văn, thuộc trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội đua nhau truyền khẩu, có vẻ như muốn phác họa về thực trạng học hành thi cử môn Văn ở Việt Nam. V́ t́nh trạng lối ṃn, dậm chân tại chỗ nên nhiều năm gần đây các thày không vui cho rằng: "Điểm cao chưa chắc học sinh đă giỏi".
Hăy nghe ông Tiến sĩ Hà Văn Đức, phân khoa trưởng Đại Học Hoa Học Xă Hội và Nhân Văn, tại trường đă chấm 15 ngàn bài cho riêng trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội. Các thày c̣n chấm bài cho các trường khác. Có 32 thày cô tham dự chấm thi trong 3 ngày. Có 40 túi bài hoàn chỉnh trong 3 ṿng độc lập (mỗi túi bài thi có khoảng 30-35 bài).
Theo thống kê sơ khởi túi thứ nhất có 5 bài đạt 1-4 điểm, 14 bài đạt 5-6 điểm, 9 bài 7-8 điểm, không có bài 9 điểm. Ông Đức mô tả: "nhờ đề thi tương đối cơ bản, không đánh đổ, nên hầu như không có bài thi bỏ giấy trắng". Tuy nhiên cũng có những thí sinh không làm được bài viết. Cứ lập đi lập lại một đoạn nhiều lần tới mười mấy trang giấy hoặc có thí sinh chép lại đề bài tới 9 trang giấy liền. Có thí sinh được yêu cầu viết về Xuân Diệu, th́ cả bài viết phân tích về Xuân Diệu, nhưng cứ khi nhắc đến tác giả lại đổi tên nhà thơ này thành Nguyễn Tuân.
Thày Nguyễn Hùng Vĩ kể: "Khoảng 15 năm trước, điểm trung b́nh một bài thi văn là 3,3. Khi đó bộ Giáo Dục qui định ra đề đúng theo chương tŕnh học và t́nh h́nh luyện thi ồ ạt nên điểm thi có cao. Như vậy, điểm thi do sự ra đề chứ chưa chắc đúng tŕnh độ người học. Điểm có cao, nhưng chưa chắc người học giỏi. Đề thi quen thuộc, quay đi quay lại, bộ đề thi quen thuộc rất lâu nên phát sinh ra bài thơ bên trên cũng không là chuyện lạ.
Một thày lấy 1 thí dụ, bài thơ của Xuân Diệu có câu: "Đây muà thu tới muà thu tới", trong sách giáo khoa xưa nay vẫn phân tích đây là tiếng reo vui, tiếng reo thầm trước muà thu của một tâm hồn trẻ, nhưng có thí sinh lại mạnh dạn viết: "đó không phải là tiếng reo vui tiếng reo thầm trước muà thu của một tâm hồn trẻ mà là ẩn ức về thời gian khi nó trôi đi..."
Thày Trần H́nh nêu ư kiến Bộ Giáo Dục không nên ra đề thi như hiện nay. Theo thầy, văn chương phải tự do v́ văn tổng hợp nhiều kiến thức chứ không là học tủ, học vẹt. Những người làm tốt trong chương tŕnh chưa chắc đă là người học giỏi môn Văn.
Một điều rất lạ, những thí sinh có 4 điểm về Văn có thể vẫn vào học đại học Văn nhờ 2 môn học thuộc ḷng Sử và Địa cao, làm ảnh hưởng đến khả năng của sinh viên. Ông bộ Giáo Dục th́ chưa quyết định ǵ. Cả ban tham mưu c̣n bận họp để chờ.*Bây Giờ Bàn Chuyện Hoc Sử
Hăy nghe nhận xét của các thày mà muốn bể đầu: "Có thí sinh viết: 'để củng cố chánh quyền cách mạng phải thực hiện 4 chương tŕnh: diệt ruồi, diệt muỗi, diệt nhặng và diệt bọ. Hay phải thực hiện 3 sạch: ăn sạch, ở sạch, uống sạch để củng cố chánh quyền.'" C̣n cánh trí thức, sinh viên hải ngoại nghĩ sao?
Các điểm thi môn lịch sử từng gây ngạc nhiên cho xă hội với kết quả điểm số từ 0-1 chiếm 1/3 bài thi năm 2005. Năm nay cũng không khá ǵ hơn. Tuy nhiên thí sinh bỏ giấy trắng và bỏ về nửa chừng có ít hơn. Đề thi dễ.
Theo Tiến sĩ Ngô Đăng Trí, phó viện môn Lịch sử, khi chấm thi nhận xét đề thi năm nay dễ hơn, có câu dễ câu khó nên trung b́nh thí sinh làm được bài. Tuy nhiên có những tín hiệu đáng phàn nàn là bài thi của thí sinh có quá nhiều lỗi "ngớ ngẫn" thảm hại như năm 2005.
Câu hỏi thi về quân đồng minh, v́ không hiểu nên thí sinh kể ra nào quân đồng minh xây dựng căn cứ địa cách mạng, quân đồng minh phát động phong trào phá kho luá của Nhật. Một thí sinh khác viết: "Quân đồng minh đánh Nhật với trận mở màn tại thị xă Lạng Sơn. Thí sinh nhầm quân đồng minh với Việt Minh..!"
C̣n lỗi chính tả th́ nhiều vô kể, câu viết sai tràn ngập. Các thày lại thở than. Gộ-Phong-tenb-nơ-blô th́ được viết thành tên nhà tư tưởng khai sáng thế kỷ XVIII Mông-te-xki-ơ của Pháp. C̣n rất nhiều hiện tượng viết nhiều, nghĩ ǵ th́ cứ viết đại. Mười hai trang giấy viết lung tung, thày chấm đọc hết bài không hiểu ǵ cả cho 0.5 điểm. Học sinh đi học v́ phải học chứ không ham thích, say mê mà đi sâu vào môn học và phó thác cho sách giáo khoa, nên điểm thi cũng là phó thác. Thày Nguyễn Văn Ánh than một câu nghe buồn làm sao: "Dù đă xẩy ra hồi năm ngoái, việc đổi mới năm nay cũng không khá ǵ. Việc giảng dạy lịch sử chưa là bao nhiêu nên điểm thí sinh tệ cũng là buồn.."*Chuyện Giáo Dục đối với Ông Nguyễn tấn Dũng
Ông Dũng lên thay, ông Khải về vườn đón gió chờ "job" mới. Ông Thủ Tướng gần như ngày nào cũng họp hành và tuyên bố răn đe về các khiá cạnh rất hăng, để chuẩn bị "hà hơi" trong sạch của tập đoàn bao cấp mới dưới trướng. Ông Dũng tuyên bố: "Khắc phục bệnh thành tích, loại trừ tiêu cực trong thi cử". Chờ xem ông làm được tới đâu rồi hăy bàn. Ông Dũng nh́n nhận có quá nhiều lỗ hổng do bao che và nặng thành tích. Vụ này dân cả nước biết rồi ông à. Ông chỉ thị cho các ông thần khoa bảng tại chức trong bộ giáo dục cần phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành tại địa phương để chống tiêu cực trong giáo dục. Khi phối hợp là nói đến thanh tra, mà thanh tra th́ ở Sàig̣n hay Hà Nội cũng giống nhau. Cán bộ ḅ xuống các tỉnh có báo trước để có tiệc nhậu và b́ thư... tiền. Ông Dũng ra lệnh gần như khóc, cấm thày dạy kèm, dạy thêm hay học thêm ngoài giờ cùng 1 ông thày kèm riêng và các tiêu cực trong việc thi cử. Ông nói, bệnh thành tích là các báo cáo nghe "nổ" dữ lắm, nhưng giáo dục th́ cứ ù ĺ, phẩm chất thật lại không cao." Ông Dũng cũng làm bộ chú ư đến giáo dục mầm non, ông có vẻ lo về nhân cách, trí tuệ, thể chất. Ông quên cha nó về mặt đạo đức công dân và cứ vồ vập về lănh đạo đảng tiến bộ gấp trăm ngàn lần, cứ như là vài năm nữa giáo dục nước ta hơn cả Mỹ.
Ông Dũng đưa ra 1 loạt đồ án cần thực hiện chỉ nội cánh giáo dục thôi cũng làm cho các thày chạy sốt vó mà phát bệnh không biết chừng. Ông nói: "Về bậc đại học, đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lư, cơ sở vật chất, kỹ thuật, tŕnh độ, ngành nghề, loại nghề, vùng, miền cần đổi mới về nội dung, phương pháp cho giáo dục đại học chứ không "học đại". Học đại học cần gắn liền với nhu cầu xă hội, quản lư trường phải theo nhà nước đă định hướng dù có quyền tự chủ của đại học.."
Ông Dũng c̣n nói thêm: "Muốn có đại học tầm vóc quốc gia cần phải xúc tiến làm việc xây dựng đồ án. Đồ án thôi, c̣n thi hành th́ chờ chánh phủ duyệt xét... dù duyệt xét kéo dài 3 đến 10 năm". Ông Dũng nói cho sướng miệng. Các thày nghe bụm miệng cười về chương tŕnh ồn ào của tay số 2 của đảng CSVN, y chang như đang quảng cáo thuốc "Cao hổ cốt" của gánh hát Sơn Đông, trị đau lưng "cột xương sống" trí thức VN tương lai không biết chừng.*Nghề Tắm Cho Người Chết.
Việt Nam bây giờ người ta cũng phần nào "khá" ra và bên cạnh đó cũng có lắm người "khá nghèo". Con số này tăng lên nhờ nông dân bỏ ruộng đồng ra tỉnh thành mở tiệm và đồng loạt phá sản. Bức tranh "vân cẩu" giàu nghèo cách biệt ở Việt Nam gần như lâu lắm. Hay nói rơ thêm là vẫn đầy dẫy những chuyện nghịch lư. Bài báo mới đọc qua tưởng như là chuyện đùa. Báo mô tả về cuộc đời trưởng giả của giới có tiền t́m cách "tắm cho người chết" và phong tục khá lạ đời. Không phải người mới chết mà là chết lâu rồi. Nếu chịu khó suy nghĩ chắc ở Việt Nam mới có nghề lạ lùng này. Chuyện môi sinh, vệ sinh và bệnh tật bên lề xin miễn bàn. Xin hăy xem vài đọan nguyên văn làm bằng: "Người chết chôn được vài ba năm, nay con cháu tổ chức cúng bái rồi đào lên, róc rủa, 'tắm' cho thật sạch. Cách 'tắm' này là một kiểu cải táng không cần thiết, tốn kém, sẽ không có ǵ phải bàn khi đó là tập tục, và nếu như nó không ảnh hưởng đến vấn đề môi trường". Các chuyên gia WTO thế giới chưa ghé mắt xanh vào vụ này. Biết đâu có anh sinh viên nào đó về Bắc nghiên cứu về cách hành nghề tắm xác chết ở Việt nam bằng luận án Tiến sĩ. Âm Dương cũng gần.
Tại huyện Hoà Hiệp, tỉnh Bắc Giang có một gia đ́nh tổ chức ngày tắm rửa của người anh quá cố. Tại khu nghĩa địa có rạp che được dựng lên cao; heo, vịt cúng kiếng la om ṣm, lẫn tiếng khóc của thân nhân. Nhiều người khách được mời ngồi nói chuyện. Chuyện bốc mộ được thực hành ban đêm dưới ánh đèn điện. Giờ giấc được chọn chiếu theo giờ linh mà thân chủ xem bói tin tưởng "đúng cơ trời" cho con cháu hưởng. Quỷ than ma khóc. Dụng cụ gồm cuốc xẻng, xà beng, hương hoa, đồ cúng ma cũng được bày ra. Mộ được đào, quan tài được kéo ra. Sau mấy nhát búa, áo quan bị bể lộ xác chết trong giai đoạn bị phân hủy lộ ra, bốc mùi hôi thối lan rộng nồng nặc, khiến đám đông phải lùi ra xa.
Nửa lít xăng được tưới vào, một người mồi lửa, chiếc quan tài bốc cháy. Tiếng mỡ cháy xèo xèo hoà cùng tiếng khóc của thân nhân. Khi lửa cháy xong, một người cầm que như chiếc đũa gắp từng khúc xương c̣n dính thịt bỏ trên mặt đất có trải khăn thưa và bỏ vào các xô, chậu dùng đựng xương thịt người chết. Những người thợ tắm xác đang làm việc phân công liên tục, miệng được che, đeo bao tay lựa xương thịt. Những người khác quen việc làm thuộc ḷng, dùng dao gọt những phần thịt c̣n bám vào xương cho sạch, rồi chuyển cho người khác tắm xương trong nước có màu đen, thoảng thoảng mùi hoa hồi. Sau nhiều lần rửa, toàn thịt bám vào phần xương của người chết được lóc ra hết, bộ xương thơm mùi nước hoa hồi.
Hai người khác xếp bộ xương ngay ngắn vào chiếc lọ sành bọc vải đỏ. Khi chiếc xương cuối cùng được xếp vào, nấp chiếc lọ được đậy lên. Cả đoàn người cùng di chuyển chiếc tiểu sành đựng xương đến nơi khác rồi chôn lại ở một hố đất mới đào rộng chừng 1m5. Chiếc tiểu được đặt xuống rồi lấp đất. Công việc phải hoàn tất trước khi mặt trời mọc. Thân nhân thắp hương cần van khấn bái. Tất cả cùng chắp tay kính cẩn bên ngôi mộ mới trước khi ra về. Khu đất cũ rác rưởi bỏ lại, cây ván lung tung cùng với da, gân, thịt thối bóc ra từ xác người chết đang bay mùi nồng nặc. Thịt da bón phân cho ruộng đồng và làm mồi cho ruồi nhặng.
Hôm sau, khu nghiă địa những đứa trẻ hồn nhiên trong làng vẫn chơi đùa bên cạnh cây ván ngổn ngang cùng mùi thối nồng nặc bao quanh.
Một người trong làng biết chuyện kể lại rằng tại đây có tập tục tắm người chết đúng ba năm. Gia đ́nh tổ chức tắm rửa nguười chết, tùy thuộc vào hoàn cảnh kinh tế của gia đ́nh. Nhiều người chết ba năm thịt da chưa thối rữa hết, mặc dù người nhà mướn người tắm và trực tiếp làm công việc "tắm" này nhưng bất kỳ ai bắt tay vào việc "tắm" cũng thường phải ực rượu đế, khoảng nửa chai để thủ thế và lấy tinh thần. Nhưng gần như ai cũng có vẻ "rờn rợn" hiện rơ trên khuôn mặt và trong công việc. Ông Ngô văn Xoe, dù quen việc nhưng nói: "Tôi làm công việc này đă nhiều, nhưng lần nào cũng cảm thấy khiếp, lúc về nhà ăn cơm nuốt không vô."
Cả làng tôi chỉ có gia đ́nh ông Châu là không tắm. Nhà giàu, con cái lại hay đi làm xa, lúc sống ông được con cái tẩm bổ toàn đồ thứ tốt hạng nhất. Khi ông Châu qua đời, loại ḥm chôn cũng là thứ tốt. Ba năm sau đến ngày tắm rửa, lúc con cái mở nắp ván ḥm xác ông gần như vẫn c̣n nguyên. Một người c̣n lấy cây ấn tay, chân vẫn thấy như c̣n da thịt nổi bung lên, khiến các tay thợ tắm và thân nhân bỏ chạy về nhà. Khi tin báo cho đứa con trưởng, anh này ra lệnh không được tắm rửa và xây mộ ngay lập tức. Việc này đă xẩy ra trên mười năm. Cả làng ai cũng biết.
Tại làng Vương, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên ông Nguyễn Văn Ơng lừng danh v́ hành nghề tắm xác chết giúp cho cả làng. Hễ ai có người chết cần tắm là kêu ông. Ông tới "hăng say làm việc". Đặc biệt ông không lấy tiền công dù chỉ một đồng. Hành động của ông được cả làng mến phục. Nhiều người bàn tán. Khi ông chết đi rồi ai tắm cho ông? Và ai sẽ làm việc thay cho ông này?*Nghề Bắt và Bán Chó Trộm
Dù ghét, thương hay thế nào, con vật quen thuộc khắp nơi vẫn là con chó. Chó ở nhà giàu, chó ở nhà nghèo hay người khuyết tật ốm đau. Con chó dù bị bạc đăi thế nào vẫn ở với chủ nó trung thành cho đến cuối đời. Thế nhưng con người yêu chó, thương chó rồi bắt chó đem bán hay tận cùng "hoá kiếp chó" làm thịt nhậu chơi. Buồn thiệt t́nh! Con chó sợ con người, nhất là các tay bắt chó trộm.
Hăy về Việt Nam xem những hoạt cảnh về cuộc đời "chó" ra sao, nhất là chó nhà giàu? Thiên hạ "rửng mở" hay v́ có các ông bà ngoại quốc ưa thích ôm ấp chó như người cưng mà bày ra lắm tṛ lắm nhu cầu. Và v́ vậy cũng có lắm người sống nhờ ăn cắp chó ra đời. Khoan nói đến ăn chó nghe nó "dă man" biết chừng nào. Các ông bà ở hội bảo vệ chó mèo quốc tế, nhất là Hoa Kỳ có lẽ nên đề nghị nhà nước CSVN nên ra lệnh cấm ăn chó mèo trước khi bàn về WTO thay v́ "nhân quyền hay đàn áp tôn giáo, diễn tiến hoà b́nh, tự do thông tin v.v." Ông nhà nước Việt Nam chắc OK liền một khi, để rồi hạ hồi "vũ như cẩn". Cả đám Hà Nội đang nín thở mừng thầm trong 80 ngày chờ các cuộc đi đêm, nhất là chuyến đi của Bà Tôn Nữ Thị Ninh quảng cáo chào hàng chánh khách và thương gia Mỹ. Có vài ông Việt kiều mừng húm, nắm tay bà Ninh hôn, nói: "nối ṿng tay lớn" hẹn gặp nhau ở Hà Nội hay Sàig̣n mở tiệm "săn sóc chó" cho ngoại quốc.
Báo Sàig̣n bây giờ viết về chó cho nó nhẹ nhàng hấp dẫn, dở tờ báo đầy h́nh màu mô tả về chữ hồi xuân và nghệ thuật trên giường, mát sa trong tiệm hớt tóc, rái tay, xoay lỗ ghèn. Ngoài ra đầy bài khoe thành tích hay phun ra phóng sự bắt lăo Tôn. Ông này họ Mạc tên Kim Tôn, lạm dụng chức vụ đại biểu quốc hội tham nhũng cậy quyền. Hết thời có ông Dũng làm bùa răn đe chống tham nhũng cho ngoại quốc thấy cái quyết tâm láu cá của phe Hà Nội. Vậy mà bọn tư bản vẫn có nhiều người bị lừa. Ngu xuẩn hữu ích mà không hay. Ngoài ra, báo không có ǵ để đọc. Ngoài chuyện bá láp, ngáp phải ruồi những chuyện láo giả y như thật. Y chang như các chỉ thị của ông Dũng "rùa" mới lên bày tṛ chống lăng phí, chống tiêu cực học đường của bộ "vô" giáo dục hoang dă và chống tham ô, cửa quyền. -i thôi đủ loại, chưa nói hết về một loạt chỉ thị "rất hồ hởi" phen này ta lại lên tiên. Mỹ nó xả "cấm vận" về nhân quyền biếu cho ta củ cà rốt và cây gậy thần "mậu dịch b́nh thường". Cả bọn Hà Nội từ các ông trong Trung Ương đảng trở xuống đám xà bần của ông Dũng mừng quá. Phen này ông Dũng, ông Mạnh ra lệnh o bế Mỹ hết ḿnh y như là kẻ thù cũ, bạn mới giúp ta hóa rồng Đông Nam Á cho thằng Đài Loan tiêu, anh Đại Hàn lạy, Nhật Bản qùy, thằng Bangkok th́ gật đầu ngả nón. C̣n ông Bắc Kinh và B́nh Nhưỡng th́ lạy làm anh em. Ôi, tất cả là cái bao tiền hợp pháp WTO vào tháng 10 "mộng trở thành thực". Năm con cẩu có khác. Cám ơn chó.
Quay lại chuyện chó. Hăy nghe báo nhà nước nói về con chó: "Phần lớn số chó kiểng bày bán tại "chợ" bán chó kiểng dọc Bến Chương Dương, Quận 1, đều có những đường dây trộm chó chuyên nghiệp ngay tại địa bàn thành phố cung cấp. Điều lạ đời. Khách hàng t́m đến mua chó th́ ít mà đi chuộc chó con vật thân yêu th́ nhiều."
Nói đến chợ chó kiểng dọc Bến Chương Dương hầu hết người ta đều biết, nhất là các anh chạy xe ôm.
Chó có hai loại. Chó cỏ chắc thịt mà không mấy đẹp "trai", bọn bắt chó bán cho ḷ thịt nở rộ từ Bắc chí Nam. Thịt chó bày bán gần như phong trào. Trước đây ăn chó phổ thông ở ngoài Bắc rồi tiến dần xâm nhập rầm rộ miền Nam. Thực khách thoạt đầu là dân nhậu b́nh dân, tiến dần thêm thành cao lâu nhà hàng 8 món và rồi 12 món, ngon như thịt con "lân", có ông ví như vậy. Tội nghiệp con lân huyền thoại ngồi ở cửa canh cột đ́nh hay chuà nh́n con rồng ôm cột đ́nh làm dáng, rồi nh́n con chim phụng bay là đà trên vách làm cảnh hạ giới mà cứ tưởng là thiên đàng. Ông nào đó có óc tưởng tượng thêu dệt cũng hay hay và nhà nước chưa cấm điều này. Nghe đâu mả ông Hồ ở Ba Đ́nh cũng đă có đề nghị để tượng 2 con chó canh cửa, mà nói đó là con lân vật yêu của bác trong hang dạo trước. Rồi cho "lay off" các lính gác cho đỡ tốn tiền thuế của dân.
Tại "chợ" chó thực tế chỉ độ 10 người làm cảnh, lấy lề đường làm nơi buôn bán. Trước 75 ở đường mang tên ông vua Hàm Nghi khi có cảnh sát lái xe đến hốt chó cả bọn dắt chó chạy tán loạn vào các con hẻm gần đó để chủ nhân và chó cùng trốn. Khi cảnh sát làm cảnh đi th́ chó bán lại bày ra. Tṛ cút bắt này cũng giúp cho các thày "công an" ngày nay học nghề và đă tạo ra khá bộn tiền. Các ông cũng bắt chó rồi cho bọn buôn chó chuộc lại. Cái ṿng "bắt và buôn" đàng nào cũng có lợi. C̣n không th́ lái thẳng ra tiệm thịt chó là xong. Được tiền, được nhậu th́ sướng biết chừng nào! Có một đoạn đường chó không bị bịt mơm, chó mệt thở lè lưỡi, la suả om ṣm. Cuộc đời chó có hai ngả về nhà được cưng hay vào nồi luộc.
Lúc 8 giờ sáng, vợ chồng anh nhà giàu tên Trần Chánh Khẩm ngụ ở đường Hồng Bàng, Chợ Lớn, Quận 6, bị mất chó lúc 6 giờ. Con chó cưng gốc Nhật mới bị mất trộm. Khi anh dừng xe, thấy anh nh́n mấy con chó, một người đàn bà chạy ra hỏi: "cần t́m chó màu ǵ, nhà ở đâu?". Sau khi được mô tả con chó, người đàn bà móc điện thoại gọi ai đó và ra giá ngay một triệu đồng tiền chuộc. Bà bảo anh Khẩm để lại số điện thoại. Khoảng nửa giờ sau, người đàn bà kêu lại cho anh Khẩm ra giá lại đ̣i 1.5 triệu đồng.
Một bà bán nước dạo gần đó cho biết. Đám người bán chó ở đây nằm trong tổ chức bắt chó trộm. Họ đảm nhiệm phần tiêu thụ. Họ có mối giao thiệp quan trọng với bọn trộm. Điều này cũng dễ chứng minh là chỉ vài chi tiết trao đổi qua điện thoại với các anh ăn trộm là họ đă t́m được đích xác con chó bị mất.
Những con chó nhà giàu, bọn buôn chó gài bẫy chủ nhân bằng cách leo thang ḷng trắc ẩn của chủ nhân mà ra giá tiền chuộc. Họ bày tỏ sự sốt sắng t́m kiếm giùm và dĩ nhiên họ "chém giá" rất cao. Một số người c̣n bày tṛ, khi phát hiện con chó bị đem ra bán ở chợ, họ âm thầm mua chuộc công an thu lại con chó mà trả tiền cho công an ít hơn tiền chuộc. Cả hai thằng công an và kẻ bán chó đều có lợi như nhau. Cuộc đời chó thật.
Tại khu vực khác, chợ chó nằm trên đường Lê Hồng Phong, Quận 10 cũng là nơi đầu mối cho việc tiêu thụ chó bắt gian của các băng "cẩu tặc". Tại đây có tay vốn là dân chích và hút, mặt mũi đeo đầy ṿng khuyên. Anh nói 1 câu tỉnh bơ: "Đừng chờ đợi mất công hay đi kiếm đâu xa. Các tay trộm chó đều đem chó bán tại đây. Hôm nay chưa thấy th́ mai hăy đến".
Đây chỉ là một số cảnh đời biến tướng theo thời gian ở Việt nam, khi nói ra đa số ai cũng biết mà dường như bất lực. C̣n chúng ta hay những người có chí khí chưa chịu thua hay bất lực, chúng ta cần làm ǵ kẻo trễ.
Kính chuyển báo Tự Do Ngôn Luận số 8 từ trong nước. Xin giúp Khối 8406 chuyển về nước cho đồng bào đọc và cổ động Tự Do Ngôn Luận.
Kính chuyển,
Trần Đan Tâm
Bản tin của Liên Hội Nhân quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ ngày 15-7-2006 cho biết, Nghị Viện châu Âu vừa thông qua Quyết Nghị lên án mạnh mẽ chính sách bóp nghẹt quyền tự do phát biểu trên Internet vào ngày 6-7-2006, do sự vận động của các tổ chức quốc tế bênh vực Nhân quyền, nhứt là Phóng Viên Không Biên Giới.
Họp tại Strasbourg, các Nghị viên đă cực lực tố cáo và lên án gắt gao một số Nhà nước vi phạm nghiêm trọng Quyền Tự Do này. Bản Quyết Nghị cũng nghiêm khắc chỉ trích sự tiếp tay, đồng lơa v́ tham lợi của Yahoo, Google, Microsoft và Cisco systems ở Bắc Mỹ và France Telecom cùng Telecom Italia ở châu Âu. Các công ty này đă cung cấp phương tiện, thiết bị kỹ thuật để kiểm duyệt, canh chừng và phong tỏa nguồn tin liên mạng.
Các chế độ độc tài, thiếu dân chủ, kẻ thù của Quyền Tự do Phát biểu trên Internet gồm có Trung Cộng, Belarus, Miến Điện, Cuba, Ba Tư, Libye, Maldives, Népal, Bắc Hàn, Ouzbékistan, Arabie Saoudite, Syrie, Tunisie, Turkménistan và VN.
Bản Quyết Nghị tái khẳng định rằng Quyền Tự do Phát biểu là một giá trị căn bản chung cho toàn thể các Nhà nước hội viên Liên Hiệp Âu Châu. Các thành viên phải có những biện pháp cụ thể để bênh vực Quyền Tự Do ấy. Hội Đồng và các Nhà nước Liên Hiệp Âu Châu phải đồng thuận đưa ra một Tuyên Ngôn chung xác nhận sự cam kết của họ nhằm bảo vệ những Quyền Tự do của người sử dụng Internet, đồng thời cổ xướng và phát huy Quyền Tự do Phát biểu trên Internet ở khắp thế giới. Bản Quyết Nghị yêu cầu Ủy Hội Âu Châu soạn thảo một Quy tắc Hành Xử tự nguyện ấn định những giới hạn hoạt động đối với các công ty kinh doanh tại những nước nổi tiếng áp chế kể trên. Các Nghị viên yêu cầu Hội Đồng và Ủy Hội khi cứu xét chương tŕnh ngoại viện cần lưu ư ghi nhận nhu cầu của mọi công dân tại nước liên hệ được truy cập Internet không giới hạn.
Các Nghị viên cũng lên án những sự sách nhiễu, giam cầm nhà báo và những ai bày tỏ quan điểm của ḿnh trên Internet. Hội Đồng và Ủy Hội Âu Châu được yêu cầu áp dụng những biện pháp cần thiết đối với các nhà cầm quyền tội phạm, buộc họ phóng thích tức khắc những người sử dụng Internet đang bị nhốt tù. Trong số nạn nhân nổi tiếng được nhắc tên có bác sĩ Phạm Hồng Sơn (Việt Nam)
Bản Quyết Nghị sẽ được ông Josep Borrell Fontelles, Chủ Tịch Nghị Viện Âu Châu, chuyển đến Hội Đồng, Ủy Hội, Chính phủ và Quốc Hội của các Nhà nước hội viên Liên Hiệp Âu Châu.
+++++++++++
Strasbourg Thứ Năm
ngày 6 tháng 7 năm 20065
Nghị quyết của Nghị viện Âu châu về quyền tự do phát biểu trên Internet
Nghị viện Âu châu,
- căn cứ vào các Nghị quyết thường niên trước đây về t́nh trạng nhân quyền trên thế giới,
- căn cứ vào các Nghị quyết trước đây về nhân quyền, về tự do báo chí và về việc lượng giá của Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới ở Tunisia tháng 12-2005 về Xă hội Thông tin,
- căn cứ vào Điều 19 của Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền,
- căn cứ vào Điều 10 của Hiệp định Âu châu về Nhân quyền,
- căn cứ vào các Chỉ đạo của Liên Âu về Đối thoại Nhân quyền (2001) và Bảo vệ Nhân quyền (2004) và việc lượng giá đầu tiên về chúng ở cấp Nguyên thủ tại Áo quốc,
- căn cứ vào Tuyên ngôn về các Nguyên tắc đă được Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới thông qua ngày 12 tháng 12 năm 2003 về Xă hội Thông tin,
- căn cứ vào Tuyên ngôn chung ngày 21 tháng 12 năm 2005 của Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hiệp Quốc về Tự do Quan điểm và Ngôn luận, của Đại biểu cơ quan OSCE về Tự do Truyền thông Đại chúng và của Báo cáo viên Đặc biệt của cơ quan OAS về Tự do Ngôn luận,
- căn cứ vào chính sách Liên Âu về nhân quyền và dân chủ hóa trong các nước thứ 3 được Hội đồng thông qua tháng 12 năm 2005;
- căn cứ vào Sáng kiến Âu châu cho Dân chủ và Nhân quyền của Âu châu (EIDHR: European Initiative for Democracy and Human Rights),
- căn cứ vào Quy tắc 115 trong bảng Quy tắc Thủ tục của Nghị viện Âu châu;
A. Xét rằng Điều 19 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền công bố rằng mọi người đều có quyền tự do quan điểm và ngôn luận, quyền này bao gồm quyền giữ các quan điểm mà không bị quấy rối và quyền t́m kiếm, thu nhận và phổ biến thông tin và ư tưởng bằng bất cứ phương tiện truyền thông đại chúng nào, bất kể biên giới.
B. Hoan nghênh bản tuyên bố của Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới tại Tunis từ ngày 16 đến 18-11-2005 về tầm quan trọng hàng đầu của xă hội thông tin đối với dân chủ, đối với việc tôn trọng nhân quyền và các tự do cơ bản; đặc biệt là tự do ngôn luận và quan điểm, cũng như tự do thu nhận và truy cập thông tin;
C. Xét rằng cuộc đấu tranh cho tự do ngôn luận ngày nay đă được rộng răi biến thành trực tuyến v́ Internet đă và đang trở nên một phương tiện ngôn luận ưu tuyển cho các nhà bất đồng chính kiến, hoạt động dân chủ, bảo vệ nhân quyền và các kư giả độc lập trên toàn thế giới;
D. Xét rằng việc truy cập Internet có thể tăng cường dân chủ và góp phần vào sự phát triển kinh tế & xă hội của một quốc gia, nên sự hạn chế việc truy cập như thế không phù hợp với quyền tự do ngôn luận;
E. Xét rằng những hạn chế chỉ nên có trong trường hợp dùng Internet vào các hoạt động bất hợp pháp như kích động căm thù, bạo lực và kỳ thị chủng tộc, tuyên truyền cho độc tài toàn trị, như việc thiếu nhi truy cập các trang khiêu dâm hay việc khai thác t́nh dục trẻ nhỏ;
F. Xét rằng theo tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới, các chế độ và chính phủ độc tài càng ngày càng sử dụng các phương pháp hiệu quả để kiểm soát Internet, chủ yếu bằng cách dùng kỹ thuật lọc càng lúc càng tinh vi, theo dơi các liên lạc điện tử và thiết lập cảnh sát tin học;
G. Xét rằng theo các tổ chức nhân quyền, một số lớn các nhà bất đồng chính kiến trên mạng đang bị cầm tù -phần lớn tại Trung Quốc- như Hao Wu, nhà thiết lập các trang blog và làm phim tài liệu, Yang Zili, nhà bất đồng chính kiến trên mạng, Shi Tao, kư giả nhật báo Dangdai Shangbao, Motjaba Sami-nejad, nhà thiết lập các trang blog người Iran, Mohammed Abbou, luật gia người Tunisia, Phạm Hồng Sơn, bác sĩ người Việt Nam và Habib Saleh, kư giả trực tuyến người Syria; trường hợp gần đây nhất là các nhà thiết lập trang blog người Ai Cập Mohamed Sharkawy và Karim Lel-shaer;
H. Xét rằng một số quốc gia có thể bị xem là kẻ thù của tự do ngôn luận trực tuyến, như báo cáo mới nhất của Phóng viên Không Biên giới chỉ rơ, gồm có Trung Quốc, Belarus, Miến Điện, Cuba, Iran, Libya, Maldives, Nepal, Bắc Hàn, Uzbekistan, Saudi Arabia, Syria, Tunisia, Turkmenistan và Việt Nam;
I. Xét rằng nhiều công ty có cơ sở tại các quốc gia dân chủ cung cấp một phần cho các nước trên những phương tiện để kiểm duyệt các trang Web và theo dơi liên lạc điện tử;
J. Xét rằng chánh phủ Trung Quốc đă thuyết phục thành công các công ty như Yahoo, Google và Microsoft dễ dàng hóa việc kiểm duyệt các dịch vụ của họ trên thị trường Internet Trung Quốc; cũng ghi nhận rằng nhiều chính phủ khác đă đ̣i được các phương tiện kiểm duyệt từ các công ty khác;
K. Xét rằng trang bị và kỹ thuật do các công ty phương Tây cung cấp như CISCO Systems, Telecom Italia, Wanadoo, một chi nhánh của France Telecom, đă được nhiều chính phủ dùng vào việc kiểm duyệt Internet nhằm ngăn cấm tự do ngôn luận;
L. Xét rằng các nhà làm luật Hoa Kỳ hôm tháng 2-2006 đă đưa ra một dự luật, Đạo luật Tự do Trực tuyến Toàn cầu (Global On-line Freedom Act), nhằm mục đích quy định các hoạt động của kinh doanh Internet khi vận hành tại các quốc gia đàn áp;
M. Xét rằng Liên Âu nên chứng tỏ rằng các quyền của những người sử dụng Interntet là tâm điểm mối ưu tư của ḿnh và sẵn sàng hành động để thăng tiến tự do ngôn luận trực tuyến;
Nghị viện Âu Châu
1. Tái xác nhận sự kiện: tự do ngôn luận là giá trị chủ yếu được mọi quốc gia Liên Âu chia sẻ và tất cả phải tiến hành các bước cụ thể để bảo vệ quyền nầy;
2. Do đó kêu gọi Hội Đồng và các quốc gia thành viên Liên Âu đồng ư một tuyên ngôn chung xác nhận sự cam kết của ḿnh nhằm bảo vệ các quyền của người sử dụng Internet và thăng tiến tự do ngôn luận trên Internet khắp thế giới;
3. Lặp lại cam kết của Liên Âu đối với những nguyên tắc đă xác nhận từ Hội nghị Thượng đỉnh Tunis, đó là:
- xây dựng xă hội thông tin trên nền tảng các nhân quyền và các tự do cơ bản,
- chiến đấu chống lại sự phân cách về kỹ thuật số và t́m kiếm tài nguyên cho các chương tŕnh hành động nhằm thúc đẩy sự phát triển,
- phát triển những thỏa thuận về quản trị Internet sao cho quân b́nh hơn, đa phương hơn và tiêu biểu hơn cho các quốc gia liên hệ, để bắt kịp các thách thức kỹ thuật mới (chống gởi thư rác, bảo vệ dữ liệu v.v…);
4. Cực lực lên án những hạn chế về nội dung Internet, dù áp dụng đối với việc phổ biến hay thu nhận thông tin, do các chính phủ áp đặt mà không phù hợp với sự bảo đảm quyền tự do ngôn luận; cực lực lên án việc quấy nhiễu và giam cầm các nhà báo và những người phát biểu quan điểm của họ trên Internet; do đó kêu gọi Hội đồng và Ủy hội Âu châu đưa ra các biện pháp cần thiết đối với các nhà cầm quyền của các nước liên hệ để trả tự do tức khắc cho mọi ai sử dụng Internet đang bị giam cầm;
5. Kêu gọi Ủy hội và Hội đồng thảo một bảng quy tắc hành xử tự nguyện có thể đưa ra những giới hạn cho hoạt động của các công ty tại những nước đàn áp;
6. Kêu gọi Ủy hội và Hội đồng duy tŕ sự hiện diện và sự tham gia tích cực của Liên Âu cũng như luôn tŕnh bày các lập trường chung đặc biệt với ECOSOC, ITU, UNESCO và UNDP;
7. Kêu gọi Hội đồng và Uỷ hội, mỗi khi cứu xét các chương tŕnh viện trợ cho các nước thứ ba, hăy lưu ư đến nhu cầu truy cập Internet không giới hạn của công dân các nước này;
8. Hoan nghênh bản Tuyên bố Liên doanh Đầu tư về Tự do Ngôn luận và về Internet theo sáng kiến của tổ chức Phóng viên Không Biên giới; nhấn mạnh rằng các tập đoàn công ty cung cấp các dịch vụ t́m kiếm, tṛ chuyện, xuất bản trên Internet và các dịch vụ khác nên có trách nhiệm bảo đảm sao cho quyền của người sử dụng được tôn trọng;
9. Chỉ thị cho Chủ tịch Liên Âu chuyển bản Nghị quyết nầy đến Hội đồng, Ủy hội và các chính phủ lẫn Quốc hội của các Quốc gia Thành viên.
uuuuuuuuuuu
Kính gửi
Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng,
Cộng Ḥa Xă hội Chủ Nghĩa VN
Kính thưa Thủ Tướng,
Chúng tôi viết bức thư này đến ông nhân dịp Quốc Hội tuyển chọn ông làm thủ tướng và việc thành lập một nội các mới tại Việt Nam. Chúng tôi hoan nghênh lời hứa của ông trong bài diễn văn nhậm chức về việc thúc đẩy nhanh chóng các cải cách hành chính để xây dựng một nhà nước pháp quyền và hướng đến dân chủ. Chúng tôi ghi nhận rằng c̣n rất nhiều việc cần làm trong các lĩnh vực này, nhưng nếu việc làm đi đôi với lời nói, đó sẽ là một sự đổi hướng rơ ràng và đưa đến một cơ hội quan trọng cho VN để mạnh dạn chứng minh việc tôn trọng các cam kết về Quốc Tế Nhân Quyền của ḿnh.
Trong những năm gần đây, người ta chứng kiến việc mở cửa dần dần của Việt Nam hướng đến cộng đồng quốc tế và nhịp độ thay đổi nhanh chóng về kinh tế và xă hội. Nền kinh tế Việt Nam nổi bật lên tại Á Châu như là một trong những nền kinh tế với mức tăng trưởng cao nhất. Đất nước của quư vị cũng đă tiến những bước quan trọng, như phản ảnh bởi các chỉ số phát triển con người UNDP của Liên Hiệp Quốc, trong các lĩnh vực về thu nhập, sức khoẻ, giáo dục, và xoá đói giảm nghèo.
Tuy vậy, nơi mà Việt Nam tụt hậu, một cách đáng quan ngại, sau các nước khác là trong việc tôn trọng các quyền làm người căn bản và mở rộng tới đa nguyên chính trị. Phát triển kinh tế, điều hành tốt, và nhân quyền luôn gắn chặt vào nhau một cách bất khả phân. Việc lănh đạo của ông trong những năm tới đây trên những vấn đề này sẽ có tính chất quyết định khi mà Việt Nam t́m cách tham gia tích cực hơn nữa vào nền kinh tế toàn cầu và trở thành một thành viên uy tín của cộng đồng quốc tế.
Chúng tôi thúc giục ông nắm lấy cơ hội này bằng cách bắt đầu các cải cách về chính sách và lập pháp -- được yểm trợ bởi các hành động cụ thể -- để thiết lập một cách chắc chắn việc tôn trọng nhân quyền như là nét chính của guồng máy hành chính dưới quyền ông. Hiện nay, Việt Nam đang có cơ hội khẳng định sự tôn trọng nhân quyền và các cam kết theo Công ước Quốc Tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (International Covenant on Civil and Political Rights-ICCPR) mà theo đó Việt Nam là một quốc gia thành viên và hiến pháp của Việt Nam đă nói rơ trong điều 69-70: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu t́nh theo quy định của pháp luật”.
Chúng tôi phác họa các lĩnh vực chính dưới đây, theo đó, chúng tôi kính cẩn yêu cầu nhà nước Việt Nam ưu tiên quan tâm đến để cải thiện việc cổ xúy và bảo vệ nhân quyền.
1. Kiểm soát tự do Ngôn luận và mạng Internet
Như ông biết, điều 19 của công ước ICCPR đảm bảo quyền tự do ngôn luận. Ngược lại, luật xuất bản của Việt Nam cấm tuyệt đối các ấn phẩm chống nhà nước, tiết lộ bí mật nhà nước, hoặc tuyên truyền các ư kiến phản động. Theo luật báo chí Việt Nam, vai tṛ của giới truyền thông là phục vụ như tiếng nói của Đảng và Nhà Nước. Không có cái kênh truyền thông tư hữu; tất cả các ấn phẩm được xuất bản bởi nhà nước, Đảng, hay các tổ chức ngoại vi của Đảng.
Thêm vào đó, nhà nước kiểm soát Internet bằng cách ngăn chặn các trang mạng được đánh giá là cần ngăn cản lại hay nhậy cảm về chính trị, theo dơi điện thư và diễn đàn trên mạng, và quy cho các chủ nhân các tiệm Internet trách nhiệm về nội dung truy cập hay chuyển tải trên mạng của khách hàng.
Các luật lệ và h́nh phạt gay gắt mới đă được phê chuẩn. Nghị định 56/2006/ND-CP quy định 2200 điều vi phạm luật pháp trong lĩnh vực văn hóa-thông tin. Có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7, nghị định này ra giá phạt tới 30 triệu đồng (2 ngh́n đô-la) cho việc lưu hành các tin tức “độc hại” bằng bất cứ phương tiện ǵ và vi phạm các quy định về văn hóa-thông tin, như là chối bỏ thành quả cách mạng, xuyên tạc nhà nước và các anh hùng quốc gia, in ấn các câu chuyện với nguồn tin vô danh, hay tiết lộ “bí mật đảng, bí mật nhà nước, bí mật quân sự và bí mật kinh tế”. Nó cũng đ̣i hỏi các kư giả thông qua các bài phỏng vấn với nguồn tin trước khi xuất bản, trong thực tế, cho phép việc kiểm duyệt trước khi lên khung báo. Nó cũng thắt chặt sự kiểm soát của nhà nước trên mạng Internet, như là phạt nặng các chủ tiệm Internet nào cho phép khách hàng tiếp cận các nội dung “độc hại”.
Nhiều người xử dụng Internet đă bị bắt giam v́ các tội danh tố cáo dính dấp tới an ninh quốc gia sau khi dùng Internet để phát tán các quan điểm bất lợi cho nhà nước hay tham dự vào các diễn đàn thảo luận cổ vũ dân chủ. Họ bao gồm Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ B́nh, Trương Quốc Tuấn, Trương Quốc Huy và Lisa Phạm.
Chúng tôi thúc giục nhà cầm quyền:
● Tu chính các điều khoản của luật H́nh Sự Việt Nam đang giới hạn và h́nh sự hóa quyền bất đồng chính kiến ôn ḥa, đặc biệt là trong các điều khoản liên quan tới an ninh quốc gia. Đưa luật báo chí vào việc tuân thủ điều 19 của công ước ICCPR.
● Băi bỏ các giới hạn trong việc xử dụng Internet và phóng thích những người bị giam giữ v́ việc phát tán ôn ḥa các quan điểm của họ trên mạng Internet.
2. Giới hạn Tự do Hội họp
Điều 21 của công ước ICCPR công nhận quyền tự do tụ họp ôn ḥa, và điều 22 đảm bảo quyền tự do lập hội đoàn với những người khác. Tuy vậy, tại Việt Nam, các đảng phái chính trị, công đoàn, và các tổ chức nhân quyền phi chính phủ độc lập với nhà nước, Đảng và các tổ chức ngoại vi của Đảng không được phép hoạt động. Biểu t́nh công cộng thật hiếm hoi, đặc biệt là sau khi nhà nước đàn áp các cuộc phản kháng của nhân dân Tây Nguyên năm 2001 và 2004. Nghị định 38/1005/ND-CP, phê chuẩn bởi thủ tướng vào tháng 3-2005, tăng cường các giới hạn trên tự do hội họp. Nó cấm đoán việc tụ tập trước các nơi hội nghị nhà nước, Đảng, và quốc tế được tổ chức và đ̣i hỏi người tổ chức việc tụ tập xin phép và được nhà nước cho phép trước đó.
Chúng tôi thúc giục nhà cầm quyền:
● Cho phép cá nhân quyền hội họp tự do và ôn ḥa với những người khác có cùng quan điểm bất luận quan điểm đó ngược lại quan điểm chính trị hay ư thức hệ chấp nhận bởi Đảng và nhà nước.
● Đưa các quy luật về tụ tập công cộng và biểu t́nh đến điểm tuân thủ công ước ICCPR
3. Tự do Tôn giáo
Nhà cầm quyền Việt Nam đă đi những bước quan trọng gần đây khi ra những nghị định mới về tôn giáo, thúc đẩy nhanh chóng yêu cầu đăng kư giáo hội và cấm chỉ việc chính thức cưỡng bức đổi đạo, hay từ bỏ đức tin. Pháp lệnh 2004 về Tín Ngưỡng và Tôn Giáo khẳng định quyền tự do tôn giáo, theo như điều 18 của công ước ICCPR. Tuy vậy, nó đ̣i hỏi tất cả các tổ chức tôn giáo đăng kư với nhà nước để trở nên hợp pháp, và cấm đoán tất cả các hoạt động tôn giáo được đánh giá là gây rối trật tự công cộng, nguy hại tới an ninh quốc gia, hay “gieo rắc chia rẽ”.
Tín đồ của những tôn giáo không đươc công nhận chính thức bởi nhà nước tiếp tục bị truy bức. Các viên chức an ninh giải tán các buổi hội họp tôn giáo, tịch thu các sách vở tôn giáo và triệu tập các chức sắc tôn giáo đến đồn công an để hỏi cung. Các tu sĩ Phật Giáo từ Giáo Hội Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam -Giáo hội ngoài ṿng pháp luật- kể cả đức Tăng Thống Thích Huyền Quang và vị lănh đạo thứ hai, Thích Quảng Độ, bị giam lỏng, mà không truy tố tại tu viện của họ trong nhiều năm, dưới sự giám sát của công an. Các viên chức nhà nước tiếp tục bắt nhiều người chối bỏ Tín Ngưỡng của họ cho dù đă có một nghị định năm 2005 cấm đoán những hành xử như vậy.
Chúng tôi thúc giục nhà cầm quyền:
● Chấm dứt những giới hạn trên việc hội họp của những tổ chức tôn giáo không đăng kư với nhà nước, phóng thích các tu sĩ Phật Giáo bị quản thúc tại gia, hủy bỏ việc bắt ép chối bỏ đức tin và áp lực tham gia các tổ chức tôn giáo đăng kư chính thức, và kết thúc việc công an theo dơi quá đáng và quấy nhiễu các lĩnh tụ tôn giáo và tín đồ.
● Mời đặc sứ Liên Hiệp Quốc về Khoan Dung Tôn Giáo, người đă từng thăm Việt Nam vào năm 1998, trở lại để theo dơi t́nh h́nh.
4. Giam giữ tùy tiện, Tra tấn và Xử án bất công
Điều 14 của công ước ICCPR khẳng định rằng không ai có thể bị bắt bớ hay giam giữ tùy tiện. Bất cứ ai bị bắt hay giam giữ với tội danh sẽ được đưa ra nhanh chóng trước một nhân viên tư pháp và có quyền được xét xử trong một thời gian vừa phải hay được phóng thích.
Hàng trăm tù nhân tôn giáo và chính trị c̣n sau chấn song, ngồi tù trên khắp Việt Nam, bao gồm tại các tỉnh Hà Nam, Đồng Nai, Phú Yên, Nghệ An-Hà Tĩnh, và Thanh Hóa. Có nhiều bằng chứng xác đáng về việc tra tấn và ngược đăi các tù nhân. Các điều kiện giam cầm vô cùng khắc nghiệt và rơi dưới mức tiêu chuẩn quốc tế. Chúng tôi đă nhận được các phúc tŕnh về việc biệt giam tù nhân trong những xà lim chật chội, tối tăm và thiếu vệ sinh; và việc công an đánh đập, đá, hay dùng roi điện trên tù nhân, hay cho các tù nhân hoặc băng đảng trong tù thi hành việc đánh đập các người tù đồng cảnh ngộ một cách vô can.
Công an thường bắt và giam giữ nghi can mà không cần trát thảo của ṭa án. Hệ thống tư pháp dễ bị nhà nước hay đảng xen vào và áp lực. Các phiên ṭa xử các người bất đồng chính kiến thường xử kín, không có công chúng chứng kiến, giới truyền thông và thường cả gia đ́nh của bị cáo. Bị cáo thường không được có cố vấn pháp lư độc lập. Dưới nghị định 31/CP, người ta có thể bị giam lỏng v́ cáo buộc các tội an ninh quốc gia cho tới 2 năm mà không cần ra ṭa.
Chúng tôi thúc giục nhà cầm quyền:
● Phóng thích những người đang bị giam giữ tại VN v́ biểu lộ ôn ḥa niềm tin chính trị hay tôn giáo của họ.
● Công bố danh sách tổng kết, công cộng về tên và nơi giam giữ của tất cả những người bị tạm giam, và tất cả những tội danh họ bị buộc tội, và tên, tội danh, bản án và nơi thi hành án của những người đă bị kết tội và tuyên án.
● Đ́nh chỉ nghị định Giam giữ Hành Chính 31/CP, cho phép bắt giam không cần xét xử cho đến 2 năm cho những người t́nh nghi đă vi phạm các luật an ninh quốc gia.
● Làm một lời hứa công khai chấm dứt việc tra tấn. Chỉ định một Ủy ban đặc biệt để điều tra về các lời cáo buộc về tra tấn tại Tây Nguyên và đề nghị truy tố và kỷ luật thích ứng cho bất cứ ai chịu trách nhiệm về việc tra tấn.
● Gia hạn lời mời thăm Việt Nam đến Nhóm Làm việc về việc Bắt giữ tùy tiện của Liên Hiệp Quốc, từng thăm Việt Nam năm 1994, và Đặc sứ về Tra Tấn, với quyền thăm viếng Tây Nguyên không bị cản trở.
● Xúc tiến các quá tŕnh giam giữ, pháp luật, ṭa án với độ minh bạch rơ ràng hơn và thái độ trách nhiệm hơn. Công bố phiên toà và tội danh trước quá tŕnh xét xử. Bảo đảm rằng phiên ṭa diễn ra theo đúng tiêu chuẩn xét xử công minh quốc tế được thiết lập bởi điều 14-công ước ICCPR. Phiên ṭa nên diễn ra công khai và mở ra cho công dân Việt Nam, quan sát viên quốc tế, và các người giám sát độc lập đều có thể dự. Bị cáo nên có quyền chọn lựa cố vấn pháp lư độc lập và sự giúp đỡ tự do của thông dịch viên nếu cần, như đă quy định bởi công ước ICCPR và Hiến Pháp Việt Nam.
Như thành viên của Công Ước Quốc tế về quyền Dân Sự và Chính Trị, Việt Nam bị ràng buộc phải bảo vệ các quyền cơ bản và tự do. Ông đă lên tiếng về quyết tâm cải cách của ông. Hiện nay, như là bằng chứng cho sự tôn trọng dân tộc của ông, chúng tôi yêu cầu ông chứng minh quyết tâm này bằng tất cả những nỗ lực giữ ǵn và cải thiện các ràng buộc quan trọng về quốc tế Nhân Quyền của Việt Nam.
Chúng tôi mong mỏi được thảo luận về các vấn đề này và các đề tài nhân quyền khác với ông và nhà nước trong tương lai.
Thành Thật
Brad Adams
Giám đốc điều hành
Vùng Á Châu
Bản dịch Việt ngữ của Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam, BBT/TDNL có điều chỉnh vài chỗ.
TỰ DO NGÔN LUẬN
Bán nguyệt san ra ngày 1 và 15 mỗi tháng
IN VÀ TẶNG TẠI VN
Địa chỉ liên lạc:
hbvn2006@gmail.com
truongsonvn81@gmail.com
Muốn đọc tờ báo trên mạng, xin mời ghé:
http://www.tdngonluan.com
www.tudodanchuvietnam.net
http://tudongonluan.atspace.com
Trong trang mạng 1 & 2 trên đây, Quư vị có thể t́m thấy
nhiều tài liệu đấu tranh cho dân chủ tại Việt Nam
Việt Nam, ngày 17-7-2006
Kính gửi :
Bà Condoleezza Rice,
Ngoại trưởng Hoa Kỳ.
Chúng tôi là những Công dân Việt Nam đang sống tại Việt Nam đă công bố bản Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt Nam 2006 trước công luận trong Nước và Quốc tế ngày 8-4-2006, gọi là Khối 8406. Theo tin từ Bộ ngoại giao của hai Nước Hoa Kỳ và Việt Nam, cuối tháng 7-2006 Bà sẽ đến thăm Đất nước chúng tôi. Chúng tôi nhiệt liệt chúc mừng Bà đến thăm Quê hương chúng tôi. Chúc Bà có một chuyến công tác đầy thành tựu tại Việt Nam.
Kính thưa Bà,
1- Mục sư Martin Luther King Jr. là người con ưu tú của Đất nước Hoa Kỳ, được rất nhiều người Việt Nam chúng tôi kính phục suốt gần nửa thế kỷ qua.
Ngày 23-8-1963, trong bài diễn thuyết lừng danh “Tôi có một giấc mơ” tại cuộc biểu t́nh ḥa b́nh tại Washington D.C, ông đă phát biểu rằng :
«… Thưa các bạn, mặc dầu chúng ta đang phải đương đầu với những khó khăn của hôm nay và ngày mai, nhưng tôi vẫn có một giấc mơ. Đó là một giấc mơ bắt rễ sâu trong Giấc mơ nước Mỹ. Tôi mơ rằng một ngày nào đó, quốc gia này sẽ đứng lên và thể hiện ư nghĩa đích thực của niềm tin ḿnh : “Chúng ta cho rằng những chân lư này là hiển nhiên : mọi người đều được tạo thành b́nh đẳng...”»
(Nguyên văn : And so even though we face the difficulties of today and tomorrow, I still have a dream. It is a dream deeply rooted in the American dream. I have a dream that one day this nation will rise up and live out the true meaning of its creed : "We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal…")
2- Hôm nay, khi giấc mơ “mọi người đều được tạo thành b́nh đẳng” của Mục sư Martin Luther King Jr. đă trở thành hiện thực trên Tổ quốc của ông, th́ với tuyệt đại đa số người dân Việt Nam chúng tôi, nó vẫn chỉ là một giấc mơ mà thôi. Mục tiêu Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc của chúng tôi tưởng đă được mở ra vào ngày 2-9-1945 ấy, nhưng rồi đă bị các thế hệ nắm thực quyền trên Đất nước thuộc Đảng cộng sản Việt Nam ngang nhiên đánh tráo thành mục tiêu cách mạng xă hội chủ nghĩa trong suốt 61 năm qua (1945 – 2006).
Chính sự đánh tráo đầy tà ư trên chứ không phải là cái ǵ khác đă chặn đứng và đóng lại – cho đến nay - mọi cơ hội xây dựng, phát triển của Đất nước và Dân tộc chúng tôi. Bởi v́, từ đó mọi quyền tự do căn bản của con người đều bị chà đạp ! Quyền tự quyết của Dân tộc cũng bị thủ tiêu ! Những cuộc bầu cử dân chủ thực sự là hoàn toàn vắng bóng ở Việt Nam. Hậu quả là Việt Nam hôm nay trở thành một trong những Nước chịu các tệ nạn bị áp bức, bất công, tham nhũng, đói nghèo, gian dối và tụt hậu bậc nhất thế giới. Chế độ nhất nguyên độc đảng, không có sự cạnh tranh trên chính trường Việt Nam, đă hoàn toàn bất lực trong việc giải quyết những vấn đề nền tảng trên của Dân tộc chúng tôi.
Chính v́ những lẽ đó mà hôm nay chúng tôi cũng có một giấc mơ ! Một giấc mơ được bắt rễ sâu trong ḷng Dân tộc Việt Nam từ bao thế kỷ. Giấc mơ đó là muốn chống được các quốc nạn áp bức, bất công, tham nhũng, đói nghèo, gian dối, tụt hậu ; hoàn thành những mục tiêu của một Nước Việt Nam mới hầu ḥa nhập tốt đẹp vào thế giới hiện đại. Để giấc mơ ấy thành tựu, ngoài con đường dân chủ tự do, đa nguyên đa đảng, Nhân dân Việt Nam không có con đường nào khác !
Với tinh thần tự lực, tự cường của ḿnh, Dân tộc Việt Nam chúng tôi quyết tâm biến giấc mơ trên thành hiện thực trong một tương lai gần, với sự giúp đỡ nhiệt t́nh và ngày càng có hiệu quả của thế giới tiến bộ và cũng như sự ủng hộ của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và của cá nhân Bà mà chúng tôi rất hy vọng.
Nhân đây chúng tôi xin gởi tới Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và cá nhân Bà những lời cảm ơn chân thành của chúng tôi, v́ những đánh giá thường niên rất chính xác của Quư Bộ về t́nh h́nh nhân quyền tại Việt Nam cũng như v́ việc nhiều năm đặt Việt Nam vào danh sách những nước cần quan tâm đặc biệt (CPC). Điều này đă và đang là một hỗ trợ lớn lao cho công cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ tại Đất nước chúng tôi.
Trân trọng kính chào Bà !
Đại diện lâm thời Khối 8406:
1.735 Chiến sĩ Hoà b́nh và
hàng vạn Công dân quốc nội :
Kỹ sư Đỗ Nam Hải, Sài G̣n.
Cựu Sĩ quan Trần Anh Kim,
Thái B́nh.
L.mục Nguyễn Văn Lư, Huế.
Gửi kèm :
1- Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006 ngày 8-4-2006 - Manifesto 8406
2- Tổng lược t́nh h́nh Quốc nội, Hải ngoại và Quốc tế ủng hộ Tuyên ngôn 8406 từ ngày 08-4-2006 đến 17-7-2006.
Vào lúc nhà cầm quyền Hà Nội vận động ráo riết xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO/OMC) và mong chờ Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush đến Hà Nội dự Thượng đỉnh APEC (Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái B́nh Dương), th́ cuộc đàn áp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vẫn tiếp tục gia tăng. Ngược với lời tuyên bố của các Phái đoàn Hà Nội đến vận động hành lang tại Hoa Thịnh Đốn mấy tháng qua, rằng Hà Nội đang thay đổi chính sách tôn giáo.
Viện Hóa Đạo trong nước vừa chuyển đến Pḥng Thông tin Phật giáo Quốc tế ở Paris bản Tường tŕnh về việc nhà cầm quyền Phường núi Sam kết hợp với Ban Trị Sự Gíao hội Phật giáo Nhà nước áp lực trục xuất Thượng tọa Thích Chơn Tâm ra khỏi chùa Tây Huê lần thứ 3 vào lúc 8 giờ 15 sáng ngày 17-7-2006.
Từ tháng tư 2006 đến nay, việc sách nhiễu Thượng tọa không ngừng tiếp diễn. Ngày 8-4-2006, Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Nhà nước ra Quyết định 036/2006/QĐ có hiệu lực trong ṿng 15 ngày "trục xuất Thượng tọa Thích Chơn Tâm khỏi chùa Tây Huê về quê quán để tu dưỡng đạo đức cá nhân". Sau đó, Giáo hội này tổ chức một "Khóa học bồi dưỡng trụ tŕ" 7 ngày (tức bồi dưỡng cách quản lư chùa viện và sinh hoạt tôn giáo), nhưng thực tế khóa học chỉ là diễn trường đấu tố trá h́nh nhằm bôi nhọ, vu cáo các thành viên và giáo phẩm thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN).
Sang tháng 5-2006, Ông Hà Minh Sang, Phó ban Dân Vận tỉnh An Giang mời Thượng tọa cộng tác với Nhà nước để cung cấp thông tin (t́nh báo) về sinh hoạt nội bộ GHPGVNTN. Ông Sang đưa ngay số tiền bốn triệu tám trăm ngàn (4,800,000) đồng Việt Nam, mà ông nói là công tác phí cho 1 năm. Ông nhấn mạnh Thượng tọa không cần phải viết tường tŕnh về việc Chi-Xuất, chỉ cần cung cấp thông tin về GHPGVNTN là đủ. Nhưng Thượng tọa Thích Chơn Tâm cực lực phản đối và từ chối. Nên ông Sang cho biết : "Thầy đừng ngại, đây không phải là việc chỉ riêng một ḿnh thầy làm đâu mà việc nầy CÁC TÔN GIÁO KHÁC ĐỀU CÓ NGƯỜI CỦA CHÚNG TÔI CẢ".
Không thành công chiêu dụ, ngày 10-6-2006 Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Nhà nước, tỉnh hội tỉnh An Giang, họp tại Chùa Viên Quang với đại diện chính quyền thành phố Long Xuyên lên án và áp đặt cho Thượng tọa Thích Chơn Tâm “cấu kết với các thế lực thù địch nước ngoài phản bội đất nước và dân tộc Việt Nam”. Rồi lấy quyết định sẽ có cuộc họp với các ban ngành tỉnh thực hiện việc trục xuất Thượng tọa ra khỏi chùa Tây Huê.
Việc xẩy đến vào lúc 8 giờ 15 ngày 17-7-2006, Công an mặc thường phục bao vây chùa Tây Huê tạo áp lực. Trong khi ấy một phái đoàn kết hợp giữa cơ quan nhà nước và các chức sắc thuộc Giáo hội Phật giáo Nhà nước vào chùa làm việc với Thượng tọa Thích Chơn Tâm. Phái đoàn gồm 11 người : Các ông Mai văn Ṭng, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc phường Núi Sam, Lại văn Tân, Chánh Văn pḥng Ủy ban Nhân dân phường Núi Sam, Ḥa Thượng Thích Huệ Tài, Phó thường trực Ban Trị sự (BTS), Gíao hội Phật giáo Nhà nước (GHPGNN), Ḥa Thượng Thích Thiện Minh, Phó BTS kiêm Trưởng Ban Tăng sự GHPGNN, Ḥa Thượng Thích Huệ Kỉnh, Phó BTS kiêm Trưởng Ban kinh tế - tài chánh GHPGNN, Thượng Tọa Thích Định Quang, Phó Ban Tăng sự BTS, GHPGNN, Thượng Tọa Thích Thiện Thống, Chánh thư kư BTS, GHPGNN, Đại đức Thích Thiện Thành, Chánh văn pḥng BTS, GHPGNN, Đại đức Thích Thiện Lợi, người được BTS chỉ định vào trông coi chùa Tây Huê, thay thế Thượng tọa Thích Chơn Tâm sau khi bị trục xuất, một vị Đại đức phụ trách chụp ảnh, và Sư cô Thích Nữ Huệ Liên, Ủy viên thủ qủy BTS, GHPGNN.
Nội dung buổi làm việc là đọc lại Quyết định số 036/2006/ QĐ. BTS ngày 8-4-2006 để thi hành trục xuất Thượng tọa Thích Chơn Tâm ra khỏi chùa và đưa Đại đức Thích Thiện Lợi vào thay thế. Bản Quyết định vừa đọc xong, Thượng tọa Thích Chơn Tâm liền đáp : "Tôi đă có Văn Thư hồi đáp Ban Trị sự về quyết định phi lư và phi pháp này rồi. Nếu có điều ǵ phát sinh mới th́ hăy ra Quyết định mới, việc cũ không bàn thêm ở đây nữa".
Ḥa thượng Thích Thiện Minh và Đại đức Thích Thiện Thống bào chữa rằng : "Chùa nầy là của BTS th́ nay thầy phải trả lại cho BTS thường trực. Nay BTS chỉ định Đại Đức Thích Thiện Lợi về trông coi chùa, thầy phải giao chùa cho Đại đức".
Thượng tọa Thích Chơn Tâm phản bác : "Chùa nầy không gia nhập Giáo Hội của Nhà nước. Chùa là sở hữu của tín đồ. Nay tín đồ mời tôi về trú tŕ th́ tôi về lo việc sinh hoạt tín ngưỡng cho đồng bào Phật tử. Tôi không đi đâu hết".
Thượng tọa Thích Thiện Thống lên giọng hăm dọa : "Người công dân th́ phải làm bổn phận người công dân. Trước kia vào những năm 1980 Thành Hội Phật giáo (tức Giáo hội nhà nước) giới thiệu, giúp đỡ Thầy đi du học, sao bây giờ Thầy không biết ơn ?".
Thượng tọa Thích Chơn Tâm phản đối : "Tu hành và du học là việc tiến thân của mọi Tăng sĩ hay mọi công dân. Việc này không có ǵ phạm pháp, cũng không mắc ơn ai cả. Trước kia thời thế khó khăn, sắt máu, hàng giáo phẩm chúng tôi bị khủng bố, cấm cố, tù đày, th́ tôi phải “nín thở qua sông”. Nay Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), là giáo hội truyền thống và lịch sử tuy c̣n bị Nhà nước làm khó dễ không cho hoạt động, nhưng Đức Tăng thống Thích Huyền Quang và Ḥa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, đă có Giáo lệnh kêu gọi các tỉnh hoạt động trở lại nên tôi trở về hoạt động với ngôi nhà Phật giáo truyền thống. Không có ǵ gọi là phi pháp và cũng không ai có quyền ngăn cấm tôi được...".
Đang nói, th́ Thượng tọa Thích Thiện Thống giận dữ chen vào : “Nín thở qua sông ! sao Thầy ngu quá vậy !" Thượng tọa Chơn Tâm lên tiếng nhận xét : "Tại sao trong cuộc họp đông người mà thầy không giữ ái ngữ, lại dùng lời lẽ khiếm nhă, mất văn hóa như thế ? Tôi không đồng ư cho Thầy Thống phát biểu nữa, v́ Thầy nói lời khiếm nhă. Nếu Thầy Thống c̣n dự họp th́ tôi tuyên bố không họp nữa".
Thượng tọa Thích Chơn Tâm nói tiếp : "Vấn đề pháp lư của GHPG VNTN không cần phải bàn ở đây. Nay BTS trục xuất tôi ra khỏi chùa Tây Huê th́ trước tiên, BTS hăy trả các cơ sở GHPGVNTN lại cho Giáo hội Thống Nhất trước đă. Như chùa Quảng Đức, Văn pḥng Ban Đại Diện tỉnh hội GHPGVNTN, như Trường Bồ Đề của chúng tôi, v.v...".
Tiếp đấy, Thượng Tọa Thích Định Quang đọc Biên bản buổi họp và yêu cầu Thượng tọa Thích Chơn Tâm kư tên xác nhận biên bản, Thượng tọa từ chối không kư. Nhưng lại tức khắc gọi điện thoại khẩn báo về Viện Hóa Đạo ở Saigon, về Thượng tọa Thích Thiện Minh, Chánh Đại diện GHPG VNTN Miền Khánh Anh (vùng Hậu Giang), và yêu cầu các nơi chuyển báo khẩn tin sang Pḥng thông tin Phật Giáo Quốc tế ở Paris để cấp thời can thiệp.
Trước sự quyết liệt phản đối của Thượng tọa Thích Chơn Tâm, và những thông tin khẩn báo đi khắp nơi ngay trước mặt họ, Phái đoàn 11 người tự động chấm dứt cuộc làm việc và rút lui.
Theo tin nhận được hôm nay, 19-7, th́ hiện trạng tại chùa Tây Huê vẫn căng thẳng do công an phong tỏa. Mặt khác, công an ngăn cấm chư Tăng và Phật tử đến chùa Tây Huê thăm viếng Thượng tọa Thích Chơn Tâm cũng như tạo áp lực để các cư sĩ làm công quả và lo việc bếp núc bỏ chùa. Dụng ư trắng trợn cốt không c̣n ai lo việc ăn uống cho Thượng tọa.
Thượng tọa Chơn Tâm kết thúc bản Tường tŕnh bằng 3 lời tố cáo :
1. Tố cáo chính quyền tỉnh An Giang đang ra sức đàn áp tôn giáo, đàn áp thành viên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, mà vụ trục xuất tôi, Thích Chơn Tâm, ra khỏi chùa Tây Huê lần 3 là một điển h́nh ;
2. Tố cáo trước Ủy Ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam có trụ sở tại Paris và yêu cầu Ủy ban liên hệ với Hội đồng Nhân quyền LHQ can thiệp ;
3. Tố cáo trước Ủy Hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới, các tổ chức Quốc Tế Nhân Quyền về việc đàn áp tôn giáo đang diễn ra tại tỉnh An Giang.
Người Việt Hải Ngoại
Vi Anh
-Trong Chiến tranh VN, chỉ cần có một phần hai mươi quốc tế vận của người Việt Hải ngoại như bây giờ ở Mỹ, chiều hướng lịch sử VN đă có thể đổi khác. Bây giờ hơn 3 triệu người Việt Hải ngoại ở khắp TâyAu, Bắc Mỹ và Uc châu. Một số đang làm những nhà ngoại giao b́nh dân, quốc tế vận liên tục qua các cuộc vận động hành lang chánh quyền, kư kiến nghị, đóng góp tiền, biểu t́nh, biểu dương lực lượng. Một số đang gián tiếp ảnh hưởng đến chánh sách của các siêu cường dùng lá phiếu , yễm trợ ứng cử viên thuận lợi, làm ra dân biểu nghị sĩ. Một số đang gởi tiền về giúp thân nhân gia đ́nh, tạo điều kiện cho cán bộ có chức có quyền rửa tiền gởi đi ngoại quốc "thu vén cuối đời" làm làm lụn bại nên tài chánh công, mất máu chỉ tệ mạnh của CS Hà Nội.
Do đó không có lư do ǵ để phải ớn CS Hà Nội cả. Người Việt Hải ngoại không bát bí CS Hà Nội là phước ba đời nhà họ rồi -- chớ đừng nói CS Hà nội bắt bí người Việt Hải ngoại. CS Hà nội sẽ ngất ngư cỡ nào nếu mỗi năm người Việt Hải ngoại chỉ cần gởi bớt đi phân nửa số tiền gởi về nước, nếu hàng trăm ngàn Việt Kiều không về thăm quê hương. Không có lư do ǵ phải lom khom găi đầu, găi tai, nhét năm mười Đô la vô sổ thông hành để qua "cửa khẩu". Người Việt Hải ngoại không về nước, CS Hà nội mất Đô la, mất thế tuyên truyền, mất đối tượng "gom bi, hốt ổ". Chớ người Việt Hải ngoại có mất ǵ đâu, chỉ hơi buồn một chút thôi, không nh́n được cảnh cũ người xưa thôi. Du lịch chỗ này không được th́ đi nơi khác có nơi c̣n rẻ tiền hơn, mà nhiều điều thưởng ngoạn như Au châu, Trung Quốc chẳng hạn.
CS Hà nội có chân trong Liên hiệp Quốc thật. CS Hà nội có bang giao, giao thương với các siêu cường người Việt Hải ngoai đang sinh cơ lập nghiệp thật. Nhưng CS Hà Nội chỉ là nhà cầm ngoại giao, đối tác kinh tế. Người Việt Hải ngoại là công dân, là cử tri của những nước ấy. C̣n lâu CS Hà nội mới đụng đến lông chân của người Việt Hải ngoại được. C̣n CS Hà nội nếu lớ mớ làm ǵ ngoài công tác ngoại giao, ngoài ṿng ngoại giao sẽ tức khắc bị trục xuất ngay.
Tương quan ngoại giao, tương quan giao thương không có nghĩa là đồng minh. Thời Chiến tranh Lạnh, Hoa kỳ và Liên xô đối đầu nhau nhiều nơi bằng quân sự. Nhưng những kỳ phùng địch thủ này vẫn có có toà đại sứ, có pḥng thương mại tại thủ đô với nhau. Khi Boris Yeltsin lật đổ được chế độ CS Liên xô, Mỹ thừa nhận không chút dè dặt và viện trợ hào phóng cho tân chế đô Nga. Nếu bây giờ thế lực nào lật được CS Hà Nội, Hoa kỳ cũng không làm khác - trái lại dang tay ra giúp mạnh nữa là khác.
Hơn nữa dù tương quan ngoại giao và thương mại nhưng CS Hà Nội vẫn bị chánh quyền và nhân dân các siêu cường coi là một chế độ không cùng chế độ chánh trị. Độc tài, đảng tri toàn diện là khắc tinh của tự do, dân chủ là chế độ truyền thống và hiện hành của các siêu cường Tây Au, Bắc Mỹ, và Uc châu.
Cho nên CS Hà nội muốn nắm "Việt Kiều" lắm để làm đội quân thứ năm tại các siêu cường Tây Phương nhưng chỉ ṃ trăng đáy biển. Nghị quyết "kiều vận" là nghị quyết do Bộ Chánh trị ban hành. Bộ Chánh trị là bộ quyền hành nhứt đảng, Nhà Nước CS Hà Nội. Thế mà chẳng có ăn nhầm ǵ đối với Việt Kiều cả. Thành phần đón gió trở cờ, hoà giải hoà họp bằng đầu gối với CS Hà Nội chẳng dám ngo ngoe vận động. Cán bộ ngoại giao, cán bộ nằm vùng của Hà nội núp càng kín hơn. Thủ Tướng CS Hà Nội Phan văn Khải là một thủ tướng đi tới đâu cũng bị đồng bào chống - nhiều và mạnh nhứt trên thế ǵới.
Tiền người Việt Hải ngoại gởi về cho bà con th́ có, đem về đầu tư không đáng kể so với người ngoại quốc. Hàng trăm ngàn người Việt Hải ngoại tang gia hữu sự, du lịch rẻ tiền về VN, nhưng ở lại th́ không. Kể cả các ông già Việt Kiều đầu hàng CS vẫn phải tuyên bố lung tung chỉ trích Việt Kiều, nhưng thỉnh thoảng cũng lén trở lại Mỹ khi hết thuốc hay bị Sở Xă hội đ̣i giấy tờ. Tiền trợ cấp an sinh xă hội Mỹ một tháng lớn hơn một năm làm việc của người Việt trung b́nh.
Quốc tế vận thành công; phát huy tinh thần tư do dân chủ mạnh mẽ để chống Cộng thành công; tập thể người Việt Hải ngoại ở riêng, đi riêng mà làm chung. Một Việt Nam Hải ngoại đang h́nh thành. Nhưng ai là người làm nên những kỳ tích đó?
Người Việt Hải ngoại không có lănh thổ, không có chánh quyền, không có ngân sách quốc gia, không có lănh đạo quốc gia được suy cử hay bầu cử. Người Việt Hải ngoại là một tập thể như những người Do Thái trên thế giới trước khi được Liên Hiệp Quốc cho thành lập quốc gia sau Đệ nhị Thế Chiến. Những người Do Thái hải ngoại hậu duệ trở về vùng Đất Hứa sau cuộc di tản vô tiền khoáng hậu trong lịch sử tránh khỏi hoàn cảnh và thân phận nô lệ cho vua quan Cỗ Ai cập, trước Chúa Ky tô giáng sinh. Ngựi Do Thái sau khi có quốc gia, từ Au Châu, Mỹ Châu, Liên xô rời các bục giảng đại học danh tiếng, các ngân hàng nổi danh, các công ty đang lớn, các khu phố, các cộng đồng thân yêu ở các nước về xây dựng đất nước. Giáo sư kinh tế học đi làm xă trưởng. Kỷ sư canh nông đi xây dựng kiz bút - một loại ấp tân sinh thời VN Cộng hoà. Bà giáo về làm chánh trị. Có người v́ nhiệm vụ với Tổ Quốc phải ly gia cắt ái, sống đời khổ hạnh với đất nước giữa biển hận thù của Thế Giới Á rập.
Không cần biện luận, ai cũng thấy kỳ tích của người Việt Hải ngoại trong thời gian tranh đấu cho một nước VN tự do, dân chủ, không CS - kỳ tích đó thuộc về người Việt không CS trong cũng như ngoài nước. Người Việt hải ngoại cũng như người Do Thái hải ngoại không có cộng đồng thống nhứt, lănh đạo tập trung như nhiều người mong muốn, nhưng có mẫu số chung. Mẫu số chung đối với người Việt hải ngoại nói chung là chống CS. Có thể đi riêng nhưng làm chung, qui tụ quanh chánh nghĩa, hơn là lănh tụ. Thực tế đă trả lời mô thức ấy là đúng. Cuộc vận động nào, măt trận nào, phong trào nào, chuyện ǵ chung có chánh nghĩa là được người Việt ủng hộ. Cuộc biểu t́nh chống đài truyền h́nh VC xâm nhập Uc, chống văn công đến tŕnh diễn ở Uc qui tụ hàng mấy chục ngàn người. Gây quỹ xây dựng Tượng Đài Chiến sĩ Việt Mỹ ở Westminster hàng triệu bạc, giúp thương phế binh VNCH ở nước nhà trong thời gian ngắn thu được gần 400 ngàn Đô la. Phong trào Cờ Vàng lên như gió; hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt điện thoại, điện thư, găp gỡ, vận động các nghị sĩ, dân biểu, nghị viên mới thành.
Đó là hồn thiêng sông núi Việt, là ḷng mẹ VN, Đó là kết tinh của hàng vạn bộ óc, con tim Việt hải ngoại. Đó là công tŕnh của tập thể người Việt mà công lao lớn nhứt là của số người Việt thầm lặng đóng góp nhân tài vật lực, khối óc và con tim. Trong âm thầm lặng lẻ; với đạo lư lâm nguy bất cứu mạc anh hùng. Làm mà không nói, đi riêng, sống riêng mà làm chung. Tích thiều thành đa. Làm liên tục. Xa luân chiến. Tràn ngập lănh thổ khi cần biểu t́nh hay biểu dương. Mọi người cùng làm, già trẻ, bé lớn, nam phụ lăo ấu đều làm, "tùy tài tùy sức nỗ lực hy sinh". Nhiều tay vỗ nên kêu; nước chảy đá ṃn, chân cứng đá ṃn; sá ǵ CS Hà nội.
Phương pháp đó đă tỏ ra hữu hiệu trong cuộc đấu tranh chánh trị của Tổ chức An Xá Quốc tế (Amnesty International), Quốc tế Nhân Quyền (Humans Rights Watch ). Đâu có bao nhiêu người, nhưng lên tiếng đều đều, can thiệp dài dài, nhà cầm quyền độc tài sừng sơ như CS, quân phiệt riết cũng mệt mỏi. Ap lực quốc tế siết độc tài như ṿng kim cô Phật Bà siết con khỉ độc tài muốn làm Tề Thiên Đại Thánh.
Xin Được Biết Ơn Những Tấm Ḷng Đại Nghĩa
Nguyễn Thái B́nhLiên tiếp trong 3 tuần qua (từ 28/6 đến 23/7/2006) nhóm bị cáo tại vụ trộm cổ vật Bắc Giang sau khi được tại ngoại đă liên tục lên tiếng, gửi đơn tố cáo tới khắp các cơ quan công quyền trong và ngoài nước, từ viện kiểm sát tối cao trung ương, đến bộ công an, văn pḥng luật sư Hà- Đăng (Đoàn luật sư Hà Nội) văn pḥng chính phủ cũng như toàn bộ hệ thống báo, đài hải ngoại, gồm đài RFA, báo Việt Nam News Network (VNN), Việt báo, Việt land đặc biệt là trang web "Dân lên tiếng", "Tổng nổi dậy" v.v. Chưa kể các đoàn khách Quốc tế sang Việt Nam, chứng kiến cảnh 50 nhà sư biểu t́nh thị uy trước cổng viện kiểm sát tối cao cũng giúp họ cất cao tiếng nói trên hệ thống loa đài khắp thế giới.
Nghĩa nặng t́nh sâu, biển khổ mênh mông, sau mỗi lá đơn tố cáo của họ - một người v́ 8 người và 8 người v́ một người - là những tiếng nức nở hồi âm vọng về. Người gọi điện thoại đến chia buồn, người t́m đến tận nhà an ủi sẻ chia từng đồng tiền, bát gạo. Bà con trong tổ dân phố hiểu rơ nỗi oan sai thống khổ của họ đằng đẵng ba năm trời cũng t́m đến chật nhà, dúi vào tay họ mỗi người năm ba chục, 100.000 đồng... để họ có tiền "đại tu toàn bộ cơ thể" kẻo bị đánh đập dă man như thế: Thịt với da, tim, óc sưng vù... c̣n ǵ là thân?
Trong số "nhiễu điều phủ lấy giá gương" đó phải kể đến những tấm ḷng đặc biệt của bà con Việt Kiều - những người tuy cách xa tổ quốc nửa ṿng trái đất, trên sứ xở tự do, nhưng vẫn không quên những người máu đỏ da vàng nở ra từ bọc trứng của mẹ Âu Cơ, để cùng đau chung với nỗi đau của đất nước đang bị bọn quỷ đỏ độc tài tiếm quyền, tróc xương rỉa thịt đánh đập dă man, bằng đủ các thủ đoạn đê hèn nhất: Nhục h́nh, tra tấn, chửi bới, lăng nhục. Người bị rút móng chân khiến cả đời sau phải đi lệch người (Lê Ngọc Hoà). Người bị đốt hết lông trên cơ thể, toàn thân bốc mùi khét lẹt, đến nỗi ra khỏi cửa nhà tù rồi nhưng hễ nh́n thấy lửa là sợ (cư sĩ Phạm Mạnh Hùng). Người bị buộc dây vào bộ phận sinh dục giật, kéo (Nhà sư Thích Tâm Thương tức Lê Văn Thương) cả đời không ra nổi nỗi ám ảnh bệnh hoạn là tiếng cười của bọn chó trước nỗi đau tê điếng v́ nhục nhă uất ức cùa ḿnh (vô cớ trở thành vật mua vui, tiêu khiển, tṛ đùa hèn hạ của các đồng chí Quang, Huy, Oanh, Túc). Người bị đánh vỡ cả hai hàm, đến mức mất cả răng (cư sĩ Tạ Minh Đăng) người bị tra tấn liên tục trong 5 tháng cả ngày lẫn đêm, dẫn đến mất mạng (thượng toạ Thích Đức Chính tức Phan Hữu Hường)... người bị dẫm đạp đến mức ói mửa vẫn phải ăn lại những thứ ḿnh vừa nôn ra, nếu không sẽ bị đánh đến chết. (Chú tiểu Thích Đạo Sơn tức Nguyễn Quư Đoan) người phải ăn chuột chết, gián chết, v́ không thể ăn được mà bị tra tấn, rút lưỡi đến mức lưỡi thè ra ngoài ṿm họng cả gang tay (cư sĩ Dương Phúc Thịnh) Người bị tra tấn vào dương vật đến toé máu, phọt tinh (Đại đức Thích Nguyên Kiên tức Dương Văn Trung) chỉ v́ cái tội gần 45 mà chưa nếm trải mùi vị đàn bà v.v và v.v. V́ vậy cảm nhận chung về trại giam Kế Bắc Giang của tất cả các bị cáo khi trả lời phỏng vấn các đài, báo nước ngoài vẫn là một sự kinh hoàng khủng khiếp: Trên đe, dưới nén. Đi ra gặp quỷ sứ, đi vào gặp quỷ sa tăng. Ngồi trong pḥng hỏi cung lại càng lắm quỷ, sẵn sàng... bấm huyệt, bóp cổ, bổ gậy xuống đầu, cho đến lúc nát bấy như 1 khúc thịt rữa, mất hết tri giác, cảm giác, phản ứng, phản xạ mới thôi... Tiếc thay đó lại là đặc điểm chung của các nhà tù Việt Nam trong thời đại xă hội chủ nghĩa, dưới sự lănh đạo tài t́nh của Đảng cộng sản Việt Nam và sự tận tuỵ trung thành mẫn cán của các cán bộ dưới quyền, đặc biệt là ngành công an nhân dân. Trại Giam Kế - chính là một mảnh gương con phản ánh vô cùng chính xác, rơ nét cái chế độ tham tàn, khốc liệt của nhà tù Việt Nam nói chung (từ Hà Nội, Thái Nguyên hay Bắc Giang, Vĩnh Phú, Ninh B́nh, thành phố Hồ Chí Minh...) đâu đâu cũng rứa. Không phải chỉ có ở Bắc Giang.
Hiểu rơ bể khổ hun hút trong ḷng họ nên ngay trong tuần đầu họ được tha, ông bà Phạm Huy Cường cùng nhóm bạn hữu ở Hoa Kỳ (thông qua ban đại diện Dân oan Việt Nam ở Mỹ) đă gửi 300 USD về để họ có tiền lo lắng chữa bệnh, ngay sau đó là ba anh Nguyễn Tuấn Vinh, Nguyễn Mạnh Phú, Lê Văn Thanh ở Mỹ, qua việc đọc các bài viết về vụ trộm cổ vật của phóng viên Lê Quư Dân (Đảng dân chủ nhân dân) Nguyễn Thái Hoàng (trang web Dân lên tiếng) đặc biệt là đơn tố cáo của đại đức Thích Tâm Thương, Phạm Mạnh Hùng v.v trên mạng toàn cầu, đă gửi thêm 300 USD cho cả 9 người trong điều kiện vừa chân ướt chân ráo ra khỏi tù, bệnh tật đầy người, tiền bệnh viện, tiền thuốc đắt ngang mạng sống.
Ngày 20/7/2006, Giáo hội phật giáo Việt Nam thống nhất, đứng đầu là Tăng thống Thích Huyền Quang và Hoà thượng Thích Quảng Độ (viện trưởng viện Hoá đạo) cùng thư kư Thích Không Tánh, qua theo dơi báo chí và dư luận người dân trong cả nước đă gửi 12 triệu đồng qua nhà văn Hoàng Tiến để hỗ trợ cho các bị cáo, trong đó 2 nhà sư bị nặng nhất là Thích Tâm Thương và Thích Nguyên Kiên được 3 triệu. C̣n lại 6 bị cáo khác được 1 triệu. Tổng cộng cả 3 đợt của tháng 7, người nhiều nhất được 5.200.000 (Sư Thương) ít nhất cũng được 1.600.000 (Thịnh, Đăng). Gia đ́nh thượng toạ Phan Hữu Hường cũng nhận được 3 đợt 2,5 triệu đồng để mua hương hoa cúng viếng và để dành cho việc thay áo vào tháng 3-2007 tới. Chú Tiểu Thích Đạo Sơn tức Nguyễn Quư Đoan - nguyên nhân của mọi sự bắt bớ đánh đập tra tấn để ra bằng được 8 bị cáo khác của vụ trộm cổ vật, cũng được chia 3 đợt 3 triệu đồng để dưỡng bệnh. (V́ sợ chết mà nhận bừa, khai ẩu, dắt dây ra cả một loạt người vô tội phải vào tù song Đoan lại là người bị đánh đập tàn bạo nhất) Trong khi các bị cáo khác chỉ phải đi cung đêm từ 9 đến 12, 18 tháng th́ Đoan với vai tṛ là nút thắt của vụ án, phải đi cung liền trong 2 năm, đến nỗi giữa tuổi đang xoan (Đoan sinh 1980) mà đầu đau, mắt mờ, tay run, phản xạ chậm chạp, động ăn là nôn, oẹ... Chính v́ thế mà bao nhiêu "thành tích" của Đoan, 7 bị cáo khác đều đồng ḷng nhường lại cho đảng cộng sản và bọn tay chân, công an nhân dân, "đầy tớ" của dân, để chia tiền, xẻ thuốc cho người đồng phạm...trẻ người, non dạ nhất của ḿnh.
Đại Đức Thích Nguyên Kiên, người duy nhất trong số 8 bị cáo không hề khai nhận bất cứ lời buộc tội nào của các điều tra viên nên phải chịu h́nh phạt nặng nề nhất. Tổn thương không chỉ năo bộ mà cả nội tạng, đặc biệt là căn bệnh đái tháo đường do thận suy, gan phù nề (hút kiệt sức khoẻ của đại đức từng ngày) cũng nhận được 4 triệu để dưỡng bệnh.
Một miếng khi đói bằng cả gói khi no, cầm những đồng tiền t́nh nghĩa tri ân tri kỷ của bạn bè từ Mỹ gửi về, từ Sài G̣n gởi ra, tất cả đều rưng rưng cảm động v́ người c̣n sống nhưng "đống vàng" của cả đại gia đ́nh th́ bị điều tra viên lấy lư do mua tượng đền vào trong chùa lấy đi mất rồi, trong lúc chưa biết lấy ǵ để phục hồi sức khoẻ th́ nhận được ba đợt tiền hảo tâm t́nh nghĩa này. Ngỡ ngàng như bắt gặp các tiên ông, phật bà từ cổ tích hiện ra trao vào tay họ những đồng tiền đặc biệt quư gía. Bởi chỉ riêng việc chụp cắt lớp, kiểm tra năo bộ xem xét sự tổn thương sau những cú liên tục bị đập đầu vào tường đă là 1.500.000 VND. Chụp tim, phổi, thử nước tiểu, gan, thận v.v hết từ 800 đến 1 triệu đồng, c̣n nằm bệnh viện, mỗi ngày hết cả trăm ngh́n như không? Một đợt nằm từ 1-2 tuần là cả chục triệu đi tong... Nhờ những bàn tay ch́a ra từ tổng giáo hội Việt Nam thống nhất và kiều bào Hải Ngoại mà nỗi đau trong ḷng họ phần nào được bồi, lấp, bệnh t́nh trong người họ dần dần tiêu tan. Họ quyết tâm đứng thẳng làm người, đương đầu với hệ thống Pháp luật của tỉnh Bắc Giang gồm cả viện kiểm sát, sở công an, toà án nhân dân v.v để đ̣i lại mọi danh dự, nhân phẩm, quyền lợi cho ḿnh, theo đúng phẩm chất, cốt cách của Hùng ṇi (ṇi giống vua Hùng): Vùng lên hỡi kiếp nô lệ ở xứ an nam, bao năm cực khổ, tù đầy, vùng lên...
Việt Nam: Dân Làm Chủ Hay Tham Nhũng Làm Chủ Dân?
Phạm Trần
- Hoa Thịnh Đốn.- Đảng Cộng sản Việt Nam phô trương “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền Xă hội chủ nghĩa, của dân, do dân, v́ dân”, nhưng người dân lại phải đút lót cho những kẻ có chức, có quyền th́ mới bảo vệ được cái “quyền làm chủ” của ḿnh.
Tính ngoắc nghoéo của nền dân chủ tự biên, tự diễn của Nhà nước Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam là như thế mà trong một cuộc thảo luận khoa học xă hội cấp Nhà nước mới đây, Trí thức Cộng sản Giáo sư, Tiến sỹ Đào Trí Úc lại cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền phát xuất từ yêu cầu và đ̣i hỏi “phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước Xă hội Chủ nghĩa và hệ thống chính trị Xă hội Chủ nghĩa.”
Tốt đẹp ở chỗ nào th́ không thấy các nhà trí thức nói ra mà họ chỉ lập lại những điều Đảng đă nói mà chưa hề làm, như là:
- Nâng cao năng lực lănh đạo, quản lư, điều hành của tất cả các khâu trong hệ thống chính trị; đấu tranh có hiệu quả chống quan liêu, tham nhũng, lăng phí, làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước.
- Thúc đẩy mạnh mẽ cải cách kinh tế - xă hội, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
- Tôn trọng và bảo đảm các quyền và tự do của con người, bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Đào Trí Úc giải thích: “Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nuớc của nhân dân, do nhân dân, v́ nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp. Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lí xă hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xă hội. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ dân chủ giữa Nhà nước và công dân, giữa Nhà nước và xă hội. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lănh đạo.”
Tại sao đă bảo là có Pháp quyền, trong đó “quyền làm chủ của nhân dân”, đứng đầu và trên hết mà lại “do Đảng Cộng sản Việt Nam lănh đạo” th́ ai làm chủ? Nhưng mà ai đă cho đảng cái quyền này? Hiến pháp ư? Đúng. Nhưng Hiến pháp cũng do đảng tự viết để tự phong cho ḿnh chứ dân có ư kiến ư c̣ ǵ đâu.
Bảo vệ cho lập luận “quyền làm chủ hờ ” của dân c̣n được phản ảnh trong bài viết “nói dối cùng ḿnh” của Trần Duy trong Tạp chí Quốc pḥng Toàn dân (6-2006). Duy bảo: “Thực hiện quyền dân chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đảng, Nhà nước ta luôn chủ trương xây dựng một xă hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thật sự là công bộc của dân, đặt ḿnh dưới sự kiểm tra giám sát của nhân dân.”
“Như vậy bản chất nền dân chủ của chế độ ta chính là lấy nhân dân làm chủ, nhưng nhân dân làm chủ không có nghĩa là dựa vào ư chí của mỗi một người dân để quản lư các công việc của quốc gia và xă hội, mà phải dựa vào ư chí của đại đa số nhân dân có tổ chức để quyết định các vấn đề trọng đại của quốc gia và cuộc sống xă hội.”
Nhưng thế nào gọi là những “nhân dân có tổ chức”? Có phải đó là những người nằm trong các tổ chức chính trị và xă hội do đảng lập ra, yểm trợ, nuôi ăn để phục vụ đảng như tổ chức dân chủ trá h́nh Mặt trận Tổ quốc?
Mỗi năm Mặt trận này đă tiêu phí của dân mất 24 tỷ đồng mà có làm được việc ǵ đáng đồng tiền bát gạo của dân đâu. Việc duy nhất tổ chức này đă làm hết ḿnh là bảo vệ quyền cai trị cho đảng từ Trung ương về Địa phương qua việc chọn các ứng cử viên cho dân bỏ phiếu vào các Hội dồng nhân dân và Quốc hội.
Thực tế đă chứng minh Mặt trận là một Đảng trong Đảng, một Chính phủ trong chính phủ v́ việc chọn lựa các cấp Lănh đạo Trung ương cũng phải có bàn tay lông lá của tổ chức này nhúng vào.
Các tổ chức nhân dân ở Phường, Ấp, Xă, Huyện lên đến Tỉnh,Thị xă cũng chỉ làm theo lệnh. Không ai dám nói ngược hay làm khác những chỉ thị từ trên đưa xuống.
V́ vậy mà Trần Duy mới khoe: “Nhà nước là tổ chức đại diện cho ư chí, quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà c̣n có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. V́ thế dân chủ là quyền lực của nhân dân; nước ta là nước dân chủ và Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, v́ dân.”
Trần Duy nói đi nói lại hai chữ “nhân dân” như một dấu ấn cùa chế độ nhưng thực tế lại không phải vậy. Từ bao nhiêu năm nay, có ứng viên nào được dân bầu mà không do Mặt trận “chấm điểm” trước cho nên nếu bảo những người đắc cử là đại biểu của dân là không đúng. Đảng đă “mượn” lá phiếu của dân để hợp thức hoá cho cái quyền lănh đạo độc tôn của ḿnh nên không thể nói rằng “nước ta là nước dân chủ” như Trần Duy tuyên truyền.
V́ vậy ở Việt Nam việc ǵ cũng do Đảng lănh đạo và Nhà nước qủan lư nên người dân đâm ra nhàn rỗi, có nhiều th́ giờ đi kiếm ăn, chắt bóp để đút lót cho được việc với cán bộ.
V́ vậy báo Dân Trí mới mỉa mai: “Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn coi trọng phẩm chất của cán bộ thanh tra. Người từng dạy, cán bộ thanh tra như cái gương cho người ta soi mặt. Thế nhưng gần đây, “cái gương” không ít vết hoen ố đến mức trong dân gian xuất hiện câu “ca dao” khá nổi tiếng: “Thanh cha (tra), thanh mẹ, thanh d́ (ǵ)... Nếu có “phong b́” là bác thanh kiu (thank you)”.
Ngay đến ngành Thanh tra mà cán bộ c̣n ham chuộng tiền trà nước đến thế th́ đảng viên, cán bộ không phải là thanh tra th́ c̣n tự do ăn uống đến mức nào?
Dân Trí viết: “Đặc biệt gần đây, những nghi vấn xung quanh Tổng thanh tra - Trưởng ban Dự thảo luật Pḥng chống tham nhũng Quách Lê Thanh nhận ba lần phong b́ 110 triệu đồng của Lương Cao Khải (Phó Vụ trưởng Vụ II - đă bị tạm giam) và xin cho hai người con cùng một người cháu vào ngành Dầu khí vào thời điểm Thanh tra Nhà nước đang tiến hành thanh tra đơn vị này, cũng như việc Phó tổng Thanh tra Trần Quốc Trượng bị tố cáo nhận hối lộ 10 triệu đồng và 3.000 USD như “cơn băo phong b́” gây sự rúng động dư luận xă hội.”
THAM NHŨNG ĐỂ SỐNG
Nhưng tham nhũng ở Việt Nam có h́nh thù đặc biệt hơn ở các nước khác không? Lê Kiên Thành, trưởng Nam của Lê Duẩn, Cựu Tổng Bí thư đảng CSVN đă từng nói với hăng tin VietNamNet: “Hiện nay, một số người buộc phải tham nhũng để tồn tại, để nuôi nổi ḿnh và doanh nghiệp phải coi đó là những chi phí b́nh thường, chi phí cho nền tảng xă hội này, khi nền tảng xă hội chưa ở mức b́nh thường, mà trong đó sự vô lư của đồng lương là một ví dụ điển h́nh"
Vào ngày 25-7 (06), Thành giải thích thêm sự "không b́nh thường" này với VietNamNet: “Ở ta, nên có cái nh́n thực tế để phân biệt công chức tham nhũng thành hai loại: Loại thứ nhất tham nhũng để làm giàu (dù có tiền rồi nhưng vẫn cứ tham nhũng cho giàu thêm, lợi dụng vị trí của ḿnh để đục khoét); loại thứ hai là tham nhũng để tồn tại. Nếu bỏ tất cả vào một "rọ" rồi gọi là tham nhũng th́ vô h́nh trung, chúng ta đă... chống gần như cả hệ thống công chức. Mà như vậy là không thực tế, mà rồi sẽ đẩy đến hệ quả: Công cuộc chống tham nhũng ch́ c̣n là hô hào, trên giấy tờ, trong các hội nghị.”
V́ quyền Hiến định của dân không được đảng và nhà nước tôn trọng nên người dân phải biết “khéo ăn th́ no khéo co th́ ấm” trong xă hội đă quen sống nhờ vào phong b́.
Thành nói tiếp: “Phong b́ là lệ. Lệ này có do những kẽ hở của những văn bản, pháp quy. Nếu những quy định trong văn bản pháp quy không sát với thực tế th́ bắt buộc người dân phải "lách" c̣n cơ quan quản lư th́ có cớ để "hành".
“Ví dụ như quy định bắt buộc đội mũ bảo hiểm trong nội thành: V́ không sát với thực tế nên quy định này đă bị phá sản nhưng khi mới ban hành, nếu ai đó vi phạm mà bị "tóm" th́ người ta sẽ đưa (nhận) và "tội" được xí xoá.”
“Rồi quy định đến kho bạc nộp tiền phạt vi phạm giao thông sẽ khiến những ai dù nghiêm chỉnh nhưng quá bận rộn sẽ cố năn nỉ để đưa phong b́ tại chỗ nhằm giải quyết công việc cho nhanh. Kể cả việc đăng kư kết hôn, ly hôn, khai sinh, nhập hộ khẩu... đều bị "nạn" phong b́ rất nặng.”
“V́ sao vậy? V́ những quy định rất rắc rối, và đôi khi không thực tế, hoặc ḷng ṿng khiến người dân phải dùng phong b́ để giải quyết.”
“Đó chỉ là công việc riêng lẻ của từng công dân, doanh nghiệp c̣n khổ hơn v́ họ phải "chạm" đến nhiều cơ quan công quyền. Việc doanh nghiệp phải dùng tiền để bôi trơn các cấp quản lư như thế nào th́ báo chí, sách vở cũng nói đến nhiều và anh biết, tôi biết, xă hội biết nhưng chỉ khi cơ quan nào đó có "chuyện", chuyện mới bị lôi ra. C̣n lại th́ người ta chấp nhận với việc "hành doanh nghiệp" như sống chung với lũ.”
“V́ sao vậy? Nhiều người nói rằng tiền bôi trơn là cách điều chỉnh thu nhập v́ lương công chức thấp quá! Nếu truy đến tận cùng th́ không một công chức nào sống bằng đồng lương thực sự cả. Tính ra, hai vợ chồng lương cộng lại khoảng 3 triệu đồng có thể mua xe, làm nhà, nuôi con đi học không?”
“Lương công chức chỉ là danh nghĩa nên việc cán bộ thuế, hải quan, công an, thanh tra... nhận tiền phong b́ cũng là b́nh thường (Mà có khi không nhận phong b́ mới là không b́nh thường). Đó là chưa kể đến những quy định, quản lư chồng chéo, phi lư khiến động vào doanh nghiệp nào cũng có chuyện. V́ thế nên nhiều doanh nghiệp thấy có "kiểm tra", "thanh tra" là toát mồ hôi, nghĩ đến chuyện đưa phong b́ cho xong chuyện.”
“Một khi người đưa và người nhận đều thoả hiệp cao rồi cho là đây là một chuyện rất b́nh thường th́ tôi cho là chúng ta phải nh́n nhận một cách thực tế hơn về hai vấn đề: văn bản, pháp quy và lương công chức.”
Nhưng tham nhũng bắt nguôn từ đâu, Nhà nước hay nhân dân?
Trả lới câu hỏi này, Báo Tuổi Trẻ đă t́m đến Tiến Sỹ Trần Đ́nh Thiên, phó viện trưởng Viện Kinh tế VN để hỏi chuyện và loan tin ngày 24-7 (06): “Tôi cho rằng TN ở VN có gốc rễ từ ba căn nguyên chính. Thứ nhất là đầu tư của Nhà nước trong những năm qua quá lớn. Phần lớn nguồn đầu tư này đổ vào các doanh nghiệp nhà nước mà đó là khu vực rất khó giám sát. Chúng ta phải chạy theo con số tăng trưởng nóng cho nên dù biết khó kiểm soát nhưng vẫn phải đổ tiền đầu tư.”
“Tôi chưa có con số thống kê chính xác, nhưng nhiều chuyên gia cho rằng tỉ lệ TN trong những năm qua tăng tỉ lệ thuận theo mức đầu tư nhà nước. Hiếm có một nền kinh tế thị trường nào mà đầu tư nhà nước lại chiếm tới quá nửa tổng đầu tư của toàn xă hội như ở VN. Nguồn đầu tư chia thành hàng ngh́n dự án lớn nhỏ từ trung ương đến địa phương và các bộ ngành.”
“Khả năng mất tiền ở các dự án ấy rất cao bởi tính sở hữu không rơ ràng, không minh bạch. Những người sử dụng vốn dự án không phải chịu trách nhiệm tương ứng về tính an toàn cũng như hiệu quả đồng vốn họ được giao. Trong khi đó năng lực điều hành và cơ chế quản lư chưa đuổi theo đà đầu tư nên nguy cơ thất thoát rất lớn.”
Trong một báo cáo năm ngoái, Chính phủ Việt Nam nh́n nhận lăng phí, thất thoát trong các Dự án Xây dựng Cơ bản đă lên tới trên 300 Tỷ đồng. Khoản tiền mồ hôi nước mắt của dân, đến nay, đă ra đi không hẹn ngày về!
“Căn nguyên thứ hai”, Trần Đ́nh Thiên nói tiếp, “là chúng ta đă thờ ơ với một nguyên tắc cực kỳ quan trọng trong quản lư kinh tế, đó là giảm thiểu giao dịch bằng tiền mặt. Tiền mặt chỉ cần chui vào túi ai là dễ dàng hóa thành của người đó, rất nhanh chuyển chủ sở hữu. Nếu giao dịch bằng phiếu, thẻ, tài khoản... th́ việc xác định nguồn gốc, tên tuổi, địa chỉ những “đời” chủ sở hữu rất rơ ràng, rất khó xóa dấu vết.”
“Căn nguyên thứ ba là đối tượng Tham Nhũng. Đó là những cán bộ trong hệ thống cơ quan nhà nước, đặc biệt là những người liên quan điều hành và sử dụng tài sản nhà nước. Sự cám dỗ vật chất, sự lỏng lẻo trong quản lư tài chính và quan trọng nhất là chính sách tiền lương phi lư đến mức không tưởng đă khiến bất cứ ai cũng có thể trở thành kẻ tham nhũng.”
“Khi CBCC không được trả lương một cách tương xứng công sức của họ th́ họ không thể măi tận tâm với công việc được. Tai hại hơn, khi đồng lương không cấp đủ cho CBCC sống một cuộc sống b́nh thường th́ với bản năng của ḿnh, họ phải t́m mọi cách để sống cũng như đáp ứng những nhu cầu khác mà họ đáng hưởng.”
“Với họ th́ không ǵ dễ kiếm chác bằng tài sản nhà nước. V́ vậy TN có cơ hội xuất hiện ở bất cứ CBCC nào. Thời bao cấp đời sống quá thiếu thốn do Nhà nước không đảm bảo được lương cho CBCC đă khiến ai cũng có thể trở thành kẻ ăn cắp tài sản XHCN. Và nó đă h́nh thành thói quen người ta thông cảm, xuê xoa cho nhau và rồi gần như không c̣n xấu hổ cho hành vi ăn cắp tiền của Nhà nước nữa.”
“Điều khó hiểu là 20 năm qua chính sách tiền lương vẫn không có thay đổi ǵ nhiều, chỉ điều chỉnh chữa cháy là chính. V́ vậy từ tệ ăn cắp tài sản công không biết xấu hổ đă phát triển thành nạn TN. Đó là TN kiểu VN.”
Qua những lời trần t́nh của hai ông Lê Kiên Thành và Trần Đ́nh Thiên, không ai c̣n nghi ngờ Việt Nam ngày nay c̣n tồn tại được không phải do tài cán của những cán bộ lănh đạo biết kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh mà nhờ vào Tham nhũng. V́ nhờ có Tham nhũng mà cán bộ, đảng viên “biết bảo vệ lẫn nhau” và tuyệt đối trung thành với chế độ v́ nhờ có đảng mà không phải lao động mà vẫn có đồng ra đồng vào.
Nhưng Quốc nạn này lại đang phá hoại quốc gia và làm suy thoái đạo đức con người Việt Nam. Khi nó đă ăn sâu vào huyết quản của cán bộ, đảng viên th́ nhân dân không c̣n đường nào thoát nạn nên đành phải hoà nhập vào “xă hội nói dối” để tồn tại.
Thành ra gian dối trong xă hội ngày nay không phải là chuyện đáng khinh v́ lănh đạo từ trên xuống dưới không c̣n ai biết xấu hổ nữa.
Vậy mà hôm 24-7 (06) vừa, Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư đảng vẫn lanh lảnh tuyên bố trước kỳ họp 3 của Ủy ban Trung ương đảng X: “ Về vấn đề đấu tranh pḥng, chống tham nhũng, lăng phí, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đă chỉ rơ: “Tích cực pḥng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lăng phí là đ̣i hỏi bức xúc của xă hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta nhằm xây dựng một bộ máy lănh đạo và quản lư trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống c̣n của chế độ ta”.
“Đại hội cũng đă định hướng các chủ trương lớn để đẩy mạnh cuộc đấu tranh pḥng và chống tham nhũng, lăng phí. Ban Chấp hành Trung ương chúng ta đặt ngay vào chương tŕnh làm việc của hội nghị lần này vấn đề tăng cường sự lănh đạo của Đảng đối với công tác đấu tranh pḥng, chống tham nhũng, lăng phí là thể hiện quyết tâm chính trị rất cao đó của đại hội, cũng là quyết tâm của toàn Đảng và mong muốn của toàn dân.”
“Chúng ta có trách nhiệm đề ra những biện pháp rất thiết thực và có hiệu quả để đẩy mạnh toàn diện cuộc đấu tranh đó nhằm tạo ra một bước chuyển biến rơ rệt và cơ bản ngăn chặn, kiềm chế và từng bước đẩy lùi tham nhũng, lăng phí, củng cố niềm tin trong Đảng và trong nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế-xă hội; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xă hội công khai, minh bạch, dân chủ, kỷ cương, đội ngũ cán bộ, công chức liêm chính.”
Người dân ở Việt Nam cũng chỉ mong Mạnh “nói lời thỉ giữ lấy lời, đừng như con Bướm đậu rồi lại bay”. -/-
Phạm Trần
(07-06)
Trước xu thế hội nhập, Việt Nam cần có một đội ngũ luật sư giỏi
Nam Nguyên, phóng viên đài RFA, Jul 27, 2006RFA - Người Việt Nam có truyền thống rất ngại đáo tụng đ́nh, ít muốn tranh chấp đụng chạm tới pháp luật. Thế nhưng trong một nền kinh tế tăng trưởng rất nhanh như hiện nay, xă hội Việt Nam cũng có nhiều nhu cầu mới về hoạt động liên quan tới tư pháp. Đội ngũ luật sư của Việt Nam hiện nay đă trưởng thành hay chưa cho nhu cầu ấy. Nam Nguyên tŕnh bày vấn đề này.
Phải tới năm thứ 31 sau khi thống nhất, trung tuần tháng 7 vừa qua Nhà nước cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam mới ban hành được một bộ Luật qui định về hoạt động hành nghề luật sư gọi là bộ luật luật sư.
Vào khi các qui chuẩn về nghề luật sư được pháp lư hoá bằng luật, th́ là lúc các giới chức có trách nhiệm trong nước nh́n thấy một lỗ hổng lớn, đó là sự kiện đội ngũ luật sư thiếu cả về chất lẫn lượng.
Thiếu luật sư
Với dân số 82 triệu người mà cả nước Việt Nam hiện nay chỉ có khoảng 4 ngàn luật sư hành nghề. Đây là con số chính thức được Thứ Trưởng Tư Pháp Hoàng Thế Liên đưa ra với báo chí ở Hà Nội nhân dịp Luật Luật Sư được ban hành hôm 19/7.
Ông Liên thêm rằng, đa số các luật sư tập trung ở Saigon và Hà Nội dẫn đến thực tế là nhiều tỉnh không có đủ số luật sư để thành lập Đoàn Luật Sư.
Theo những số liệu được công bố th́ cứ hơn 20 ngàn ngừơi dân Việt Nam th́ chỉ có một luật sư phục vụ. Mấy thập niên liền, hệ thống tư pháp ở Việt Nam mang nặng tính xă hội chủ nghĩa, vai tṛ luật sư chỉ là h́nh thức. V́ thế trường luật không phải là một chọn lựa ưu tiên đối với đa số sinh viên.
Nhưng ngày nay thực tế này đă đổi khác, một doanh nhân đă sống qua thời sinh viên ở TP.HCM nhận xét: “Lúc trước trong những năm 1980 cũng có trường luật nhưng ế lắm sinh viên không muốn học ngành này, v́ chương tŕnh đào tạo kém, học ra cũng không có việc làm.
Nhưng từ giữa thập niên 1990 đến nay t́nh h́nh có tốt hơn, nhiều người muốn học luật. Hơn nữa trong thời đại hội nhập hiện nay Việt Nam cần rất nhiều luật sư. Lúc trước v́ không có chuyên gia giỏi về luật thương mại quốc tế nên đă xảy ra hậu quả vụ Vietnam Airlines bị kiện bên Ư.”
Phép mầu
Theo các giới chức chuyên môn, ít ra Việt Nam phải có được từ 18 tới 20 ngàn luật sư hành nghề, tức là gấp 5 lần con số 4 ngàn hiện nay. Không thể có phép mầu nào thực hiện được điều này một cách nhanh chóng, lộ tŕnh đào tạo có thể mất hàng chục năm.
Luật sư Nguyễn Chiến thuộc Đoàn Luật Sư Hà Nội cho biết ư kiến của ông về hướng giải quyết sự thiếu hụt luật sư : “Chúng tôi tin tưởng với chính sách khuyến khích theo khu vực, miễn giảm học phí cho các cử nhân luật chưa có điều kiện tham gia đào tạo tại Học Viện Tư Pháp, lâu dần chúng tôi sẽ bù đắp sự thiếu hụt luật sư.
Hơn nữa trong xu thế hội nhập hiện nay, Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO, cần đội ngũ luật sư có đủ năng lực tŕnh độ đáp ứng sự hội nhập đó, chúng tôi đang chú trọng đào tạo bổ xung bồi dưỡng nghiệp vụ cho các luật sư trẻ.”
Đáp câu hỏi là các trường đại học luật ở Việt Nam đă có sự phát triển theo kịp đà hội nhập của Việt Nam hay chưa. Để có được một luật sư chuyên nghiệp th́ trước tiên phải có được một cử nhân luật với đầy đủ kiến thức đại học chuyên ngành.
Cải tổ
Luật Sư Nguyễn Chiến tỏ ra lạc quan về vấn đề này: “Xu hướng đào tạo của chúng tôi trong cải cách giáo dục nói chung sẽ phát triển đi lên, và sẽ khắc phục được những cái hạn chế trước đây.
Thậm chí các cử nhân vừa tốt nghiệp tham gia các khoá đào tạo cao học, hay các khoá đào tạo luật sư hay về kiểm sát, đào tạo các chức danh tại học viện tư pháp, th́ chúng tôi đều có những đóng góp chung cho việc đào tạo của trường đại học, cũng như kỹ năng cho các luật sư những người đă từ cái nôi ấy ra được hoàn thiện hơn.”
Việt Nam ngày nay đă thể hiện rơ mong muốn hội nhập vào sân chơi chung của thế giới, chính phủ Việt Nam nỗ lực nhiều cho mục tiêu gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới. Khi đă vào được WTO, th́ Việt Nam sớm muộn ǵ cũng tiến tới chỗ được công nhận là nền kinh tế thị trường.
Để đạt được mục đích đó, các chuyên gia trong nước nhận thức rơ là sẽ phải có sự cải tổ ở nhiều lănh vực kinh tế xă hội chính trị. Nền tư pháp Việt Nam tất nhiên cũng sẽ có nhiều thay đổi theo trào lưu đó với các luật lệ đă được được ban hành. Thị trường nhân lực cho nghề luật sư, cho chuyên viên ngành luật rơ ràng sẽ có nhiều hứa hẹn.
Các công ty ngoại quốc chiếm hơn 80% thị phần quảng cáo tại Việt Nam
Jul 27, 2006Tin từ báo chí trong nước cho hay, ngành kỹ nghệ quảng cáo của Việt Nam đă phát triển hơn 10 năm qua, nhưng tới nay các công ty trong nước chỉ chiếm khoảng 20% thị phần, c̣n lại 80% là của các công ty ngoại quốc. Chỉ có 50 doanh nghiệp ngoại quốc nhưng chiếm tới 80% thị phần trong khi đó, 20% c̣n lại chia đều cho khoảng 3,000 công ty trong nước đua tranh.
Doanh thu của thị trường quảng cáo Việt Nam năm 2005 khoảng 5000 tỷ đồng tức khoảng 315 triệu đô-la, dự đoán sẽ tăng lên đến 24,000 tỷ đồng trong 15 năm tới. Theo tính toán của các chuên gia, tốc độ tăng trưởng của thị trường quảng cáo Việt Nam là khá cao, khoảng 20 đến 30% một năm. Chính sự hấp dẫn của thị trường dịch vụ này đă thu hút ngày càng nhiều các công ty ngoại quốc tham gia và các công ty trong nước cũng ngày một nở rộ. Tính đến thời điểm hiện nay đă có tới 3000 công ty trong nước tham gia lĩnh vực quảng cáo. Tuy nhiên các doanh nghiệp trong nước chủ yếu chỉ làm gia công, cung ứng dịch vụ cho những công ty quảng cáo nước ngoài. Trong số 3000 đơn vị chỉ có khoảng 50 đến 100 công ty hoạt động đúng nghĩa là công ty quảng cáo. Trong số này, những công ty đủ khả năng thiết lập một chiến lược quảng cáo cho khách hàng chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Có nhiều lư do khiến các công ty trong nước hoàn toàn không thể cạnh tranh với các công ty ngoại quốc trong lĩnh vực này. Chẳng hạn như sự hạn chế về tŕnh độ và vốn. Tiếp theo, những công ty khi đầu tư vào Việt Nam thường kéo theo một công ty quảng cáo có quan hệ lâu năm với ḿnh. Ông Nguyễn Trần Quang, giám đốc điều hành công ty Golden Advertising, nhận xét chỉ tính riêng về tŕnh độ chuyên môn, các doanh nghiệp trong nước đă khó cạnh tranh. Nếu các công ty ngoại quốc này lại có thêm sự liên kết với các công ty quảng cáo toàn cầu th́ công ty trong nước chỉ c̣n biết đứng xa mà nh́n. Đại diện nhiều công ty quảng cáo nhận định khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, áp lực cạnh tranh về vốn sẽ tiếp tục tăng cao v́ thị trường sẽ có thêm nhiều đơn vị tham gia. Khi ấy vị thế của các công ty quảng cáo trong nước sẽ càng thấp.
(Theo SBTN)
Việt Nam cần thêm 12 tỷ đôla viện trợ phát triển
Jul 27, 2006Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam cần thu hút khoảng 12 tỷ đôla viện trợ phát triển ODA trong giai đoạn 2006-2010 để xóa đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp và nông thôn. Các chuyên viên Bộ Tài chánh Hà Nội cho biết thêm con số đó chỉ phản ảnh 10% toàn bộ ngân khoản mà Việt Nam cần dùng trong tổng số đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở.
Phía các nhà tài trợ th́ khuyến cáo Việt Nam nếu muốn đạt mục tiêu và được trợ giúp của quốc tế cần phải củng cố hệ thống pháp lư trong việc quản lư và sử dụng quỹ ODA. Cần làm sao cho minh bạch và cụ thể trong mọi tiến tŕnh, nhất là nâng cao khả năng quản lư của nhà nước đối với các khoản viện trợ. Tin tức cũng cho hay Cộng sản Việt Nam đang có kế hoạch xây dựng Trung Tâm Tài Chính Ngân Hàng có tầm vóc quốc tế tại Hà Nội. Dự án có chi phí 315 triệu đô la, dự trù sẽ hoàn thành vào năm 2010 và sẽ là trung tâm tài chính ngân hàng có quy mô lớn và hiện đại nhất Việt Nam, giúp Hà Nội phát triển một mạng lưới hạ tầng tài chính toàn diện. Các giới chức tài chính Việt Nam tuyên bố việc xây dựng cơ sở này đáp ứng nhu cầu thương mại cho giới đầu tư trong lẫn ngoài nước và xu thế phát triển, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và khu vực.
(Theo SBTN)