HẠN CHẾ VÀ TƯỚC ĐOẠT NHÂN QUYỀN
L.S. NGUYỄN HỮU THỐNG
TẠI SAO QUỐC GIA PHẢI TÔN TRỌNG NHÂN QUYỀN?Từ khi con người biết sống hợp quần trong xă hội để thành lập quốc gia, giữa người dân và quốc gia có những nghĩa vụ hỗ tương phát sinh từ một khế ước mặc nhiên mệnh danh là khế ước xă hội. Chiếu nguyên tắc quân b́nh giữa quyền lợi và nghĩa vụ, người dân có nghĩa vụ phải đóng thuế để nuôi dưỡng quốc gia, phải đi lính để ǵn giữ bờ cơi của quốc gia.Để đáp lại những hy sinh về tài sản và sinh mạng của người dân, quốc gia cũng có nghĩa vụ phải bảo đảm cho người dân những quyền căn bản như quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Đó là những dân quyền xuất phát từ tư cách công dân.Nhân quyền bao quát hơn và có trước dân quyền.Nhân quyền là những quyền bẩm sinh, tự nhiên, thiêng liêng và bất khả chuyển nhượng do Tạo Hóa ban cho con người. Nhân quyền xuất phát từ nhân phẩm, từ giá trị nội tại của con người.Với tư cách công dân, người dân có quyền tham gia chính quyền. Chỉ công dân mới có quyền bầu cử và ứng cử vào các chức vụ công cử trong bộ máy chính quyền.Trái lại, bất cứ ai sống trong lănh thổ quốc gia, dầu là công dân hay không công dân, cũng có quyền tự do thân thể, tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do đi lại v..v... Đó là những nhân quyền được thừa nhận cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, mầu da, tôn giáo, ngôn ngữ, nam nữ, chính kiến hay thành phần xă hội.Năm 1945, tại San Francisco, 50 quốc gia hội viên sáng lập Liên Hiệp Quốc kư Hiến Chương Liên Hiệp Quốc nhằm bảo vệ ḥa b́nh cho các quốc gia và đề xướng nhân quyền cho con người. Chiếu Điều 56 Hiến Chương, các quốc gia hội viên cam kết cộng tác với Liên Hiệp Quốc trong việc thực thi nhân quyền trên toàn cầu. Từ đó nhân quyền không c̣n là một vấn đề quốc nội mà đă được quốc tế hóa. Các quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc không thể chủ trương rằng việc họ thủ tiêu hay đàn áp các công dân của họ chỉ là vấn đề nội bộ.Nhân quyền là quyền của người dân mà quốc gia có nghĩa vụ phải bảo vệ. Vi phạm những quyền này, quốc gia phải trả lời trước Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc. Đại Hội Nhân Quyền Vienna năm 1993 ra Tuyên Ngôn nhắc nhở các quốc gia kư kết các Công Ước Quốc Tế phải tôn trọng chữ kư của ḿnh : “Các quốc gia vi phạm luật quốc tế nhân quyền phải chịu trách nhiệm quốc tế về những hành động vi pham của họ “Khi kư kết tham gia vào Công Ước về những Quyền Dân Sự và Chính Trị, các quốc gia cam kết KHÔNG ĐƯỢC LÀM một số hành động vi phạm nhân quyền, như không được bắt bớ và giam cầm trái phép, không được tra tấn hành hạ, không được cản trở việc hành sử quyền tự do tôn giáo, tự do báo chí, tự do hộp họp, tự do lập hội, tự do tuyển cử, tự do đi lại v..v... “Cấm làm” chỉ đ̣i hỏi những hành vi tự chế, không tùy thuộc vào điều kiện kinh tế quốc gia. Do đó Công Ước về những Quyền Dân Sự và Chính Trị có hiệu lực chấp hành tức thời.Khi kư kết tham gia vào Công Ước về những Quyền Kinh Tế, Xă Hội và Văn Hóa, các quốc gia kết ước có nghĩa vụ PHẢI LÀM tuần tự, tùy theo các điều kiện kinh tế tài chánh được phát triển do những chương tŕnh kế hoạch quốc gia hay do sự hợp tác quốc tế và sự hỗ trợ của Liên Hiệp Quốc qua Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân Hàng Thế Giới, Ngân Hàng Phát Triển Á Châu v.v...VIỆC HÀNH SỬ NHÂN QUYỀN CÓ THỂ BỊ GIỚI HẠN KHÔNG ?Chiếu nguyên tắc quân b́nh giữa quyền lợi và nghĩa vụ, bất cứ việc hành sử quyền hạn nào trong xă hội cũng đ̣i phải có nghĩa vụ và giới hạn. Muốn mọi người tôn trọng tự do của ḿnh, th́ ḿnh cũng phải tôn trọng tự do của người khác. Theo tôn chỉ Liên Hiệp Quốc, quyền tự do phát biểu, tự do ngôn luận không được hành sử để cổ vơ chiến tranh, kích thích bạo động, gieo rắc hận thù và kỳ thị giữa các quốc gia, các chủng tộc, các giai cấp và các tôn giáo.Chiếu Điều 29 Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền “trong khi hành sử những quyền tự do của ḿnh, ai cũng phải chịu giới hạn do luật pháp đặt ra, ngơ hầu những quyền tự do của người khác cũng được tôn trọng, những đ̣i hỏi chính đáng về đạo lư, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xă hội dân chủ cũng được thỏa măn”.Chiếu Điều 2 Công Ước về những Quyền Dân Sự và Chính Trị, các quốc gia cam kết tôn trọng và bảo đảm thực thi những quyền con người được thừa nhận trong Công Ước. Các quốc gia cũng cam kết sẽ ban hành các đạo luật theo các điều khoản của Công Ước để những quyền này có hiệu lực.Chiếu Điều 5 Công Ước, các quốc gia không có quyền giải thích [xuyên tạc] Công Ước để cho phép họ làm những hành vi nhằm tước đoạt hay tiêu diệt những quyền tự do đă được Công Ước thừa nhận. Các quốc gia cũng không được ban hành các đạo luật để giới hạn những quyền tự do này quá mức ấn định trong Công Ước.Tại các quốc gia không theo chế độ dân chủ pháp trị, ṭa án không độc lập, và chính quyền thường có khuynh hướng hạn chế nhân quyền quá mức. Kết quả là những quyền căn bản của người dân đă bị vi phạm, tước đoạt hay tiêu diệt.Đối với những quyền tự do tinh thần và tự do chính trị, chỉ có 5 hạn chế được Công Ước Quốc Tế chấp nhận v́ nhu cầu bảo vệ:1. An ninh quốc gia2. Trật tự công cộng3. Sức khỏe công cộng4. Đạo lư công cộng (thuần phong mỹ tục)5. Tự do và danh dự của người khác.Đây là những nhu cầu cần thiết trong sinh hoạt xă hội dân chủ. Ngoài 5 hạn chế kể trên, Công Ước Quốc Tế không chấp nhận thêm bất cứ hạn chế nào khác. (No restrictions other than...)Nghị Định 56/ CP/2006 ngày 6-6-2006 hiển nhiên bất hợp pháp. V́ Công Ước Quốc Tế không cho phép cơ quan hành pháp tự tiện hạn chế việc hành sử những quyền tự do dân chủ bằng một nghị định của thủ tướng (decree). Chỉ có một đạo luật (law) do cơ quan lập pháp biểu quyết và ban hành mới có quyền quy định những hạn chế này (limitations prescribed by law). (Điều 18 khoản 3 Công Ước Dân Sự Chính Trị về quyền tự do tôn giáo; Điều 19 khoản 3 về quyền tự do phát biểu, tự do thông tin ngôn luận; Điều 21 về quyền tự do hội họp, và điều 22 khoản 2 về quyền tự do lập hội và lập đảng).Trong chế độ dân chủ ư nguyện của người dân được coi là căn bản của mọi quyền lực quốc gia. Khi hành sử quyền dân tộc tự quyết, người dân có quyền bầu lên các đại biểu của ḿnh trong các cơ quan công quyền như quốc hội. Và chỉ có quốc hội mới có quyền soạn thảo và ban hành những đạo luật liên quan đến những quyền tự do căn bản của người dân như tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do tuyển cử v... v..Do đó, những cấm đoán và hạn chế ghi trong Nghị Định 56/CP/2006 về quyền tự do tư tưởng và tự do phát biểu, như truyền bá tư tưởng phản động, thông tin mang nội dung độc hại, tiết lộ bí mật của Đảng, Nhà Nước, hay các bí mật khác do pháp luật quy định, xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, xúc phạm anh hùng dân tộc, hay xúc phạm uy tín của các cơ quan tổ chức v..v... đều là những hạn chế bất hợp pháp v́ vượt quá giới hạn ấn định trong Công Ước Quốc Tế. Dầu rằng những hạn chế này được quy định thành văn trong một đạo luật do quốc hội biểu quyết và ban hành, th́ đạo luật này cũng vi phạm luật pháp quốc tế.HUỐNG CHI ĐÂY CHỈ LÀ MỘT NGHỊ ĐỊNH CỦA MỘT ÔNG THỦ TƯỚNG TỰ TIỆN TƯỚC ĐOẠT QUYỀN TỰ DO THÔNG TIN NGÔN LUẬN CỦA TOÀN THỂ MỘT DÂN TỘC.Như vậy nghị định này bất hợp pháp v́ tiếm quyền Quốc Hội, vi phạm Hiến Pháp (Điều 69), và vi phạm Công Ước Quốc Tế về những Quyền Dân Sự và Chính Trị (Điều 5 và Điều 19).Cách đây 9 năm, ông thủ tướng Vơ Văn Kiệt cũng kư Nghị Định 31/ CP/1997 ấn định quy chế quản chế hành chánh để tước đoạt những quyền tự do căn bản của người dân.Sự quản chế hành chánh vi phạm quyền của ngưới dân được suy đoán là vô tội, quyền không bị bắt giam độc đoán, quyền được ṭa án xét xử công bằng, quyền được luật pháp bảo vệ, quyền tự do cư trú và đi lại, quyền riêng tư, quyền làm việc, quyền tự do phát biểu, tự do hội họp, tự do lập hội và lập đảng, tự do tuyển cử và quyền tham gia chính quyền.Về việc thực thi nhân quyền, người Cộng Sản nói một đằng làm một nẻo. Miệng nói th́ tự do dân chủ mà làm th́ đàn áp khủng bố. Sách Trắng về Nhân Quyền 2005 khẳng định Nhà Nước chủ trương đề xướng, bảo vệ và phát huy nhân quyền, đặc biệt là quyền tự do thông tin ngôn luận.Điều 69 Hiến Pháp công nhận người dân có quyền tự do phát biểu (tự do thông tin ngôn luận, tự do báo chí), tự do hội họp (mít tinh), quyền biểu t́nh và quyền tự do lập hội. Trong những quyền này, quan trọng nhất là tự do phát biểu. V́ nếu không có tự do phát biểu, trao đổi tin tức ư kiến, dầu có hội họp hay lập hội th́ cũng như không.Mặc dầu vậy, trên thực tế Đảng Cộng Sản đă vận dụng nhiều kỹ thuật và thủ đoạn để hạn chế và tước đoạt tất cả 26 nhân quyền và những quyền tự do căn bản của người dân, đặc biệt là quyền tự do phát biểu. Họ đă vận dụng cả 3 cơ quan, lập pháp, tư pháp và hành pháp để định tội, truy tố và bắt giam những người đối kháng có dũng cảm đứng lên đ̣i tự do, công lư, dân chủ và nhân quyền:1. Đảng đă vận dụng quốc hội (đảng cử dân bầu) để quy định thành văn một số tội h́nh sự giả tạo, không t́m thấy trong các bộ luật h́nh sự của các quốc gia văn minh trên thế giới, như các tội phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia, tuyên truyền chống chế độ, tuyên truyền chống nhà nước, tội trốn đi nước ngoài nhằm chống chính quyền (nhân dân), tội lợi dụng quyền tự do dân chủ v...v...Đồng thời quốc hội c̣n quy định thành văn những yếu tố cấu thành tội trạng quá bao quát và mơ hồ để mở đường cho ṭa án tuyên phạt bị can theo chỉ thị của Đảng.Trong chiều hướng đó, sẽ phạm tội phản bội tổ quốc (mà h́nh phạt có thể đến tử h́nh), những ai cấu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại, không phải cho quốc gia, mà cho chế độ xă hội chủ nghĩa.Tội phản nghịch chỉ đ̣i hỏi yếu tố thành lập hay tham gia một tổ chức nhằm lật đổ chính quyền. Trong các nước dân chủ th́ tổ chức này chính là các đảng đối lập công khai và hợp pháp: Dân Chủ chống Cộng Ḥa, Lao Động chống Bảo Thủ v..v...Chỉ cần cung cấp cho nước ngoài những bí mật nhà nước (không nhất thiết là bí mật nguyên tử hay bí mật quân sự) để nước ngoài sử dụng chống lại quốc gia (không nhất thiết sẽ gây nguy hại cho quốc gia) cũng cấu thành tội gián điệp mà h́nh phạt có thể đến tử h́nh.2. Đảng đă vận dụng ṭa án (công cụ) để giải thích xuyên tạc luật pháp căn cứ vào những yếu tố cấu thành tội trạng quá bao quát và mơ hồ để kết án oan uổng những người đối kháng ôn ḥa bất bạo động trong việc hành sử những quyền tự do căn bản, đặc biệt là quyền tự do phát biểu:Năm 1991, Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế đă hành sử quyền tự do phát biểu bằng cách công bố Lời Kêu Gọi đ̣i thực thi quyền dân tộc tự quyết cho người dân thiết lập chế độ dân chủ pháp trị thay thế chế độ độc tài đảng trị. Mặc dầu vậy ông đă bị kết án 20 năm tù về tội phản nghịch hay “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”.Năm 1996, sau khi công khai phủ định chủ nghĩa cộng sản (chia tay ư thức hệ), thay v́ tội tuyên truyền chống chế độ, Hà Sĩ Phu đă bị truy tố và kết án 1 năm tù về tội bịa đặt “tiết lộ bí mật nhà nước”, bí mật này chỉ là bản phúc tŕnh của ông Vơ Văn Kiệt gửi Trung Ương Đảng Bộ Cộng Sản.Một tháng sau vụ Đại Khủng Bố ngày 11-9-2001, Linh Mục Nguyễn Văn Lư đă bị kết án 15 năm tù về tội giả tạo “phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia” và tội “vi phạm quyết định quản chế hành chánh”, chỉ v́ đă gửi bản điều trần đến Quốc Hội Hoa Kỳ tố cáo những vi phạm tự do tôn giáo của nhà cầm quyền Hà Nội.Năm 2002, sau vụï phát giác Đảng Cộng Sản nhượng đất biên giới và bán nước Biển Đông cho Trung Quốc, Lê Chí Quang đă công bố lời Cảnh Giác Bắc Triều, và đă bị kết án 4 năm tù về tội “tuyên truyền chống nhà nước”.Cũng trong thời gian này Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn và Nguyễn Vũ B́nh đă bị truy tố và kết án 12 năm tù, 5 năm tù và 7 năm tù về tội lố bịch “gián điệp”.Nguyễn Khắc Toàn chỉ phổ biến ra nước ngoài tin tức về nhữơng cuộc mít tinh biểu t́nh của nông dân 2 miền Nam Bắc kéo về Hà Nội đ̣i lại các ruộng đất tài sản đă bị chính quyền địa phương tước đoạt trái phép.Nguyễn Vũ B́nh chỉ gửi bản điều trần đến Quốc Hội Hoa Kỳ để tường tŕnh về những vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. Ngoài ra anh c̣n đ̣i thành lập Đảng Tự Do Dân Chủ, băi bỏ chế độ độc đảng và độc quyền lănh đạo của Đảng Cộng Sản,Bác Sĩ Phạm Hồng Sơn cũng bị kết tội gián điệp chỉ v́ đă xuất bản cuốn “Thế Nào Là Dân Chủ?” dịch từ một tài liệu thông tin của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ!Năm 2004, hai nhà trí thức lănh đạo nhóm Dân Chủ là Phạm Quế Dương và Trần Khuê đă bị kết án 19 tháng tù về tội “lợi dụng quyền tự do dân chủ”, chỉ v́ đă lên tiếng tố cáo Đảng Cộng Sản nhượng đất biên giới và bán nước Biển Đông cho Trung Quốc. Ngoài ra hai ông c̣n đ̣i thành lập Hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng.3. Đảng Cộng Sản c̣n vận dụng hành pháp (cơ quan thừa hành) để tiếm quyền quốc hội bằng cách công bố những nghị định của thủ tướng chính phủ để tước đoạt nhân quyền và những quyền tự do căn bản của người dân.a. Như đă tŕnh bầy, Nghị Định 31/CP/1997 của Vơ Văn Kiệt cho phép cơ quan hành chánh (cấp tỉnh) bắt giam pḥng ngừa và quản thúc tại gia tới 2 năm những phần tử đối kháng không phạm tội h́nh sự nào. Nghị Định này hiển nhiên vi hiến v́ đi trái Điều 72 Hiến Pháp, theo đó mọi người được suy đoán là vô tội và không phải chịu h́nh phạt khi chưa có bản án kết tội của Ṭa Án đă có hiệu lực chấp hành.b. Nghị Định 38/CP/2005 của Phan Văn Khải quy định những biện pháp tước đoạt quyền tự do hội họp, tổ chức mít tinh biểu t́nh quy định nơi Điều 69 Hiến Pháp, viện cớ bảo vệ trật tự công cộng, Nghị Định buộc người dân phải đăng kư tập trung từ 5 người trở lên ở nơi công cộng như vỉa hè, ḷng đường, quảng trường, các cơ sở kinh tế văn hóa, các trung tâm sinh hoạt cộng đồng, trụ sở các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị xă hội v..v..c. Nghị Định 56/CP/2006 cũng của Phan Văn Khải chỉ thừa nhận “tự do ngôn luận theo định hướng xă hội chủ nghĩa”, và đă đề ra những vi phạm quy tắc quản lư nhà nước trong lănh vực văn hóa thông tin với những h́nh phạt hành chánh đến 30 triệu đồng (khoảng 2 ngàn mỹ kim).Viện dẫn Điều 4 Hiến Pháp, Đảng Cộng Sản giành độc quyền lănh đạo Nhà Nước và xă hội. Điều này đi ngược lại tinh thần và bản văn của Điều 2 và Điều 6 Hiến Pháp theo đó “quyền lực Nhà Nước thuộc về nhân dân, của nhân dân, do nhân dân và v́ nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà Nước thông qua Quốc Hội là cơ quan đại diện cho ư chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”.Muốn sử dụng quyền lực nhà nước, người dân có quyềnï tham gia chính quyền, trực tiếp bằng cách ứng cử vào các chức vụ công cử trong guồng máy quốc gia, hay gián tiếp bằng cách bầu ra các đại biểu của ḿnh trong Quốc Hội. Do đó, Quốc Hội phải thừa hành và thực hiện ư chí và nguyện vọng của người dân, và không được vi phạm và tước đoạt nhân quyền và những quyền tự do căn bản của người dân.Kinh nghiệm cổ kim Đông Tây nói về sự cần thiết của kết hợp hay đoàn kết do việc hành sử quyền tự do hội họp, tự do lập hội, tự do phát biểu:Hợp quần gây sức mạnh (L’union fait la force).Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên ḥn núi cao.Có thảo luận mới t́m ra ánh sáng (De la discussion jaillit la lumière).Có quyền hội họp, thảo luận, trao dổi tin tức ư kiến mới nh́n thấy các khía cạnh của những vấn đề quốc gia xă hội (thường khi phức tạp và nan giải). Đặc biệt từ thời chiến tranh ư thức hệ, vơ khí chiến lược là thông tin tuyên truyền (thường khi xuyên tạc và phóng đại).Từ 3 thế kỷ nay nhân lọai văn minh đă ư thức tầm quan trọng đặc biệt của quyền tự do tư tưởng và tự do phát biểu.Năm 1789, các nhà Cách Mạng Pháp ra Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền thừa nhận “quyền tự do phát biểu là một quyền cao quư nhất của con người”. Đây cũng là một quyền quan trọng nhất để xây dựng dân chủ.Chúng ta chỉ đơn cử một thí dụ điển h́nh:Sau cuộc Cách Mạng Âu Châu 1848, Các Mác công bố tại Luân Đôn bản Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản, kêu gọi vô sản toàn thế giới đứng lên đấu tranh vơ trang để lật đổ chế độ tư bản (mà Anh Quốc là nước dẫn đầu bằng cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ). Mặc dầu vậy Ṭa Án Luân Đôn đă không truy tố Các Mác về một tội h́nh sự nào. V́ ṭa án chỉ trừng phạt về tội phản nghịch (hành động nhằm lật đổ chính quyền) nếu các bị can đă tập hợp vơ trang và đă khởi sự hành động nhằm lật đổ chính quyền. Nếu chỉ tuyên truyền kêu gọi trên lư thuyết (abstract doctrine) th́ không phạm tội phản nghịch. Tuyên truyền không phải là một tội h́nh sự. Tuyên truyền chỉ là việc hành sử quyền tự do tư tưởng và quyền tự do phát biểu được nhân loại văn minh trân trọng.Trong giả thuyết Anh Quốc áp dụng luật pháp và chính sách của nhà cầm quyền Hà Nội ngày nay th́ Các Mác sẽ có thể bị truy tố và kết án về những tội đại h́nh sau đây:l. Phản nghịch hay “hành động nhằm lật đổ chính quyền” mà h́nh phạt có thể đến tử h́nh. Nguyễn Đan Quế, Đoàn Viết Hoạt và Nguyễn Đ́nh Huy đă bị kết án 20 năm tù và 15 năm tù về tội này.2. “Tuyên truyền chống nhà nước” hay “tuyên truyền chống chế độ”. Đoàn Thanh Liêm, Trần Vọng Quốc và Lê Chí Quang đă bị kết án 12 năm tù, 8 năm tù và 4 năm tù về tội này.3. “Phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia”. Linh Mục Nguyễn Văn Lư, Ḥa Thượng Thích Quảng Độ và cụ Hoàng Minh Chính đă bị kết án 13 năm tù, 5 năm tù và 1 năm tù về tội này.4. “Lợi dụng quyền tự do dân chủ”û. Phạm Quế Dương và Trần Khuê đă bị kết án 19 tháng tù về tội này.5. Ngoài ra Các Mác c̣n có thể bị nhà cầm quyền Bá Linh đ̣i dẫn độ về Đức để trả lời về “tội trốn đi nước ngoài nhằm chống chính quyền” với h́nh phạt từ 3 năm tù đến tù chung thân.6. Nếu Phạm Hồng Sơn đă bị kết án 5 năm tù về tội “gián điệp”chỉ v́ đă xuất bản cuốn “Thế Nào Là Dân Chủ?”, th́ Các Mác cũng có thể bị tuyên phạt về tội này sau khi công bố bản “Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản” và xuất bản cuốn “Tư Bản Luận”.Trong chế độ Dân Chủ, ṭa án và luâït pháp được thiết lập và ban hành để ban phát công lư cho người dân, và bảo vệ con người về sinh mạng, tự do, danh dự và tài sản.Trong chế độ Cộng Sản, ṭa án và luật pháp được Đảng và Nhà Nước dùng làm công cụ để đàn áp đối lập và củng cố chế độ độc tài toàn trị.Kinh nghiệm 60 năm cho biết Luật Pháp Cộng Sản là Luật Rừng Xanh (Jungle Law), và Ṭa Án Cộng Sản là Ṭa Án của Loài Đại Thử (Kangaroo Court).Luật Sư Nguyễn Hữu Thống(Tháng 7, 2006)