MẠN ĐÀM VỚI BS NGUYỄN TƯỜNG BÁCH (ngư ời trong h́nh)
Ngày 12/06/2006
TS .Lâm Lễ Trinh
Năm 1988, bác sĩ Nguyên Tường Bách và gia đ́nh di cư từ Trung quốc qua Californie. Một thời gian sau, chúng tôi có dịp tiếp xúc với nhau và trở nên đôi bạn tâm giao. Sau khi phổ biến năm 1995 quyển tiểu thuyếtù “Trên Sông Hồng Cuồn Cuộn”, Bs Bách cho ra mắt độc giả năm 1999 “VN, Một thế kỷ qua. Hồi kư cuốn một, 1916-1946”. Tiếp theo là tập kư ức phần 2 “Việt Nam, Một thế kỷ qua. 54 năm lưu vong Trung quốc (1946-1988) và Hoa kỳ (1988-2000) ” mà tôi đă nhận lời giới thiệu trong buổi ra mắt sách ngày 23.9.2001 tại Hội quán Little Sàigon Radio, Californie. Từ nhiều năm, hai chúng tôi là Cố vấn của tổ chức bất vụï lợi “Mạng Lưới Nhân quyềøn” thành lập tháng 11.1997.ø Bs Bách (NTB) là một thành viên trong nhóm sáng lập. Ngày 24.9.2005, anh chị Bách mới chấp nhận cho tôi (LLT) thực hiện một cuộc mạn đàm thân mật trên hai giờ đồng hồ tại tư thất của anh chị thuộc thành phố Westminster. Cuộc mạn đàm này được Đinh Xuân Thái, Đài Little Saigon TV, đích thân thu h́nh. Sau đây là những đoạn có thể tiết lộ trong cuộc phỏng vấn:
LLT: Xin anh vui ḷng cho biết vài nét chính về vị trí của anh trong gia tộc Nguyễn Tường.
NTB:Tôi sinh năm 1916 tại huyện Cẩm Giàng, Hải Dương. Con út trong một gia đ́nh 7 người con trong đó có Nguyễn Tường Cẩm, Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo), Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam) và Nguyễn Thị Thế, định cư và qua đời ở Hoa kỳ. Hai anh Tam và Long từng giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Kinh tế trong Chính phủ Liên Hiệp Kháng chiến VN thời Hồ Chí Minh. Anh Hai Nguyễn Tường Cẩm bị Việt Minh thủ tiêu khi mới 44 tuổi tại Bắc Việt mặc dù không từng tham gia đảng phái nào. Sau khi xong tiểu học tại Hải Dương và Thái B́nh, tôi về Hà Nôi, đường Hàng Vôi, để tiếp tục chương tŕnh sơ học. Tôi vào trường Bưởi, tức Chu Văn An, để luyện thi Tú tài nhưng sau một thời gian, tôi xin thôi, về nhà mua sách để tự học v́ không thích không khí giáo dục bảo hộ. Đổ Tú tài 1 Pháp lối năm 1930, tôi trợt Tú tài 2. Tại trường Albert Sarraut, ban Triết, tôi được Giáo sư Bourguignon chú ư v́ ông nhận thức tôi có một cái vốn Triết khá vững nhờ nghiên cứu riêng. Đậu hạng ưu, tôi ghi tên vào Trường Y khoa Hà Nội. Tôi thích văn chương hơn nhưng gia đ́nh khuyên nên có một chọn lựa thực tế, bảo đảm đời sống tương lai.
LLT: Lúc ấy, ngành y đ̣i hỏi mấy năm học? Anh thi đậu năm nào? NTB: Bảy năm, gồm có một năm chuẩn bị PCB. Tôi nạp luận án năm 1943 và qua năm sau lănh cấp bằng bác sĩ, trước ngày 3.9.1945 Nhựt đảo chính Pháp. Trong lúc học y khoa cũng như sau khi ra trường, tôi hoạt động hôi kín trong Đảng Đại Việt Dân chính, làm thơ, viết báo.với nhóm Tự lực Văn đoàn và phụ trách - trong cương vị hoặc chủ nhiệm, hoặc chủ bút - các tờ báo Ngày Nay Tập mới, B́nh Minh, Việt Nam Thời báo và sau hết, tờ Việt Nam, cơ quan ngôn luận của Việt nam Quốc Dân Đảng.
LLT: Căn cứ vào ba tác phẩm của anh kể ở đoạn trên th́ cuộc đời anh có thể chia ra thành ba giai đọạn: 1) thời niên thiếu và đấu tranh văn hóùa và cách mạng trong xứ (1916-1946) 2) giai đọan lưu vong tại Trung quốc (1949-1988) 3) di cư qua Hoa kỳ năm 1988 đến nay. Truớc hết, xin anh vui ḷng cho biết về chủ trương và hoạt động của nhóm Tự lực Văn đoàn, đặc biệt vai tṛ cốt cán của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. NTB: Lúc c̣n trẻ, anh Tam đă bắt đầu viết lách và được dân chúng biết qua hai sáng tác Nho Phong và Người Quay Tơ. Khi đi học ở Pháp về với bằng cử nhân vật lư, anh trở thành chủ nhiệm tờ Phong Hóa do một người bạn nhường lại năm 1932. Cùng với một số anh em gồm có Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ, Tú Mở, Cù Huy Cận, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Cát Tường tức hoạ sĩ Lemur...., anh thành lập Tự Lực Văn Đoàn. Chủ trương của TLVĐ là canh tân xă hội, chế diễu các tệ đoan và chống hủ lậu, phong kiến. Riêng về tôi (lúc đó là người trẻ nhất trong nhóm), tôi cũng tập tành làm thơ mới như Bàng Bá Lân, Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận.. Thơ của tôi đăng báo dưới bút hiệu Tường Bách. Bài thơ được chú ư nói về Tết. Tuy nhiên tôi không thể tiếp tục lâu. Phong Hoá bị đóng cửa. Tôi phải thay thế anh Nguyễn Tường Cẩm quản lư tờ Ngày Nay.
Hoàng Đạo có bằng cử nhân luật, làm tham tá lục sự, chuyên viết bài b́nh luận thời cuộc và nổi tiếng, đặc biệt trong giới thanh niên, với tác phẩm Mười Điều Tâm Niệm. Hoàng Đạo không liên hệ ǵ đến phong trào hướng đạo của Hoàng Đạo Thúy. Về sau, Thúy là cha vợ của Tạ Quang Bửu, Tổng trưởng Quốc pḥng Việt Minh, người thay mặt Bắc Việt kư vào Hiệp định Genève. Thạch Lam không làm chính trị, chỉ chuyên về văn chương, viết truyện ngắn và lo việc quản trị toà soạn. Thạch Lam chết sớm, lúc 33 tuổi, v́ bệnh phổi, trong hoàn cảnh thiếu thốn.
Nhất Linh là lănh tụ Đại Việt Dân chính. Tổ chức này hợp nhất với Việt Nam Quốc dân Đảng năm 1943. Năm 1945, VNQDĐ nhập với Đại Việt Quốc Dân Đảng dưới danh xưng chung Quốc Dân Đảng. Hoàng Đạo và Khái Hưng từng bị bắt và tra tấn ở Vũ Bản. Anh Tam cũng bị giam bốn tháng ở bên Tàu và được thả ra nhờ sự can thiêp của cụ Nguyễn Hải Thần.
LLT: Chúng ta hảy đề cập đến giai đọan 2: giai đoạn lưu vong. Trong trường hợp nào, năm 1946, với tư cách Chỉ huy trưởng Đệ tam chiến khu của Quốc Dân Đảng (gồm từ Vĩnh Yên tới Lào Kay), anh rút lên Yên Báy và từ đó, qua Trung Hoa? Chiến khu này có bao nhiêu quân? Tàn quân qua Tàu gồm có ai? Lúc đó, Nguyễn Tường Tam ở đâu? Anh giải thích như thế nào lực lượng Việt Minh có ảnh hưởng mạnh trong quần chúng? V́ sao phiá quốc gia năm 1946 tan răû mau chóng trước đám quân Việt Minh?
NTB: Tháng 8.1945, Việt Minh cướp chính quyền. Cùng với VN Cách Mệnh Đồng Minh Hội, VN Quốc Dân Đảng xuất hiện đấu tranh công khai. Tôi là ủy viên trung ương, phụ trách tờ Việt Nam để tuyên truyềán chống CS. Mặt khác, tôi tổ chức Quốc gia Thanh niên Đoàn. Tháng 6.1946, Việt Minh tăng cường áp lực. Sau khi cầm cự lối nửa năm, đảng trưởng Vũ Hồng Khanh, tôi và Lê Khang, trong Bộ Chỉ huy, phải rút lên Việt Tŕ, rồi Yên Báy và Lào Kay. Lực lượng Đệ tam khu lúc đó gồm có lối một ngh́n người: hai, ba trăm chí nguyện quân từ Trung Hoa về, cọng vớiø một số cựu lính khố xanh của Pháp, vơ trang khá thô sơ. Thành phần kể sau không có ư chí tranh đấu mạnh. Phiá ta không có đài phát thanh, thiếu phương tiện quảng bá, chỉ có tờ báo Việt Nam. Quân ta đóng chốt tại các tỉnh lỵ nên bị Việt Minh bao vây. Việt Minh không đông nhưng ảnh hưởng mạnh quần chúng vi họ có tổ chức, biết đọat thời cơ, tuyên truyền sâu rộng và lôi cuốn đồng bào với các chiêu bài ăn khách như đả thực, chống đế quốc và áp bức. Phiá quốc gia xích mich nội bộ, chủ quan, coi thường đảng CS và đặt hết niềm tin vào sự hổ trợ của quân đội Trung hoa nên thua là phải. Tháng 7.1946,khi hay tin Việt Minh nhóm đại hội tại Thái Nguyên và Nhật bản sắp đầu hàng, cánh quốc gia đă không tổng hành động kịp thời, tiến tới khởi nghĩa. Bị kẹt giữa Pháp và Việt Minh, các đảng quốc gia không chiếm được địa bàn đủ rộng và không có đủ sức chống lại hai thế lực đó từ Nam ra Bắc.
Một ngày cuối tháng 7.1946, toán anh em chúng tôi gồm có 8 người vượt qua cầu sắt Lào Kai - Hà khẩu để sang Trung hoa.. Khi ấy anh Tam đă có mặt tại Côn Minh. Như Nam Ninh và Quảng châu, Côn Minh là nơi ẩn thân của nhiều nhà đấu tranh VN. Hội nghị đảng viên bầu một Hải ngoại Bộ để tiến hành công tác ngoại vận và gây lại các cơ sở địa phương. Thành phần lănh đạo gồm có anh Nguyễn Tường Tam (chủ nhiệm), Nguyễn Tường Long (ngoại vụ) và Xuân Tùng (kinh tài).Tâm trạng chung lúc đó khá bối rối,phức tạp, có người tỏ ra thất vọng nhưng phần đông thông cảm t́nh thế khó khăn
LLT: Trung tuần tháng 10.1949,Quân đội Mao Trạch Đông “giải phóng” Trung Hoa lục địa, Tưởng Giới Thạch rút qua Đài Loan. Lúc đó anh đă kết hôn với một sinh viên người Việt gốc Hoa, có quốc tịch Pháp, tên Hứa Bảo Liên quen từ Hà Nội. Anh chị được giấy lưu trú tại Phật Sơn. Một dư luận cho rằng chị Bách đă thuyết phục anh ở lại Trung quốc. Đúng hay không? Lư do nào khiến anh không trở về tranh đấu ở Việt Nam? Sống 40 năm dưới chế độ Tàu Đỏ có phải là một sự phí phạm hay không?
NTB: Cô Hưá Bảo Liên là một t́nh nguyện viên Hoa kiều Việt Nam làm việc tại Nhà thương Phủ Doăn Hà Nội trong lúc tôi tập sự nơi đây cùng với Phạm Biểu Tâm, Trần Đ́nh Đệ... Cô cũng có hợp tác viết lách và phiên dịch trong các tờ báo do tôi phụ trách, v́ thế cô quen nhiều với gia đ́nh Nguyễn Tường. Cô là một phụ nữ có tinh thần phóng khoáng, tự lập và dấn thân. Lúc tôi vượt biên sang Trung hoa năm 1945 th́ cô đang học môn văn chương tại Đại học Côn Minh, CS chưa chiếm lục địa. Chúng tôi thành hôn ở thành phố này vào giữa năm 1947. Chuyện ở lại Trung hoa là quyết định cá nhân tôi, tôi không chấp nhận về nước sống trong khu Pháp kiểm soát. Nhà tôi nhiệt t́nh san sẻ kiếp lưu vong của chồng.
Tôi không nghĩ đă phí phạm cuộc đời ở Trung Hoa. Anh em đồng chí chúng tôi rút kinh nghiệm để nghiên cứu tại chổ một con đường đấu tranh mới trong thế bí của các phái quốc gia. Tháng 3.1949, chúng tôi thoát ly Quốc Dân Đảng và thành lập nhóm “Cách Mệnh Xă hội” với chủ trương chống chuyên chính vô sản và tư bản bốc lột; thực hiên một chế độ “xă hội chủ nghĩa” nhưng không độc tài theo lối Bắc Ââu.Tờ báo Cách Mệnh Xă hội ra được vài số rồi ngưng xuất bản.
Tháng 2.1950, tôi được nhận làm việc tại Đệ tam Y viện tỉnh Quảng Đông. Trước dó, năm 1948, Liên được tuyển dạy văn hoá và toán ở một trường tiểu học Phật Sơn, lương trả bằng gạo. Quy chế của chúng tôi là ngoại kiều cư trú, phải đi học tập chính trị. Đời sống chật vật v́ đông con. Tôi đă chứng kiến tận mắt tất cả các trận bảo táp của chế độ Mao: cải cách ruộng đất, kế hoạch đấu tố tư sản, phong trào học sinh lên núi xuống đồng, cuộc vận động “ba chống, năm chống”, Đại hội 8 của Trung cộng, Cách mạng văn hóa 1968, Đại Nhảy vọt về nông nghiệp, nạn đói kinh khủng, sự phản đối khuynh hướng “hữu khuynh, xét lại” v..v.. Năm 1963, Lê Duẩn ngả hẳn về phiá Bắc kinh. Trung Cộng tự phong là “hậu phương môi hở răng lạnh” với Bắc Việt. Dân Tàu lẫn Việt đồng hát vang “Việt Nam, Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông! ”
LLT: Nhất Linh nghĩ sao về đường lối chính trị và họat động của anh tại Trung Quốc? Xin cho biết chi tiết về cái chết của Nhất Linh và Hoàng Đạo. Quyết định tự vẫn của ông Tam có hợp lư hay không?
NTB: Tháng 7.1947, tôi rời Côn Minh đi Quảng châu để cùng với Nguyễn Hải Thần, hai anh Tam, Long và một số nhân vật đến từ VN như Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Bảo Toàn, Lưu Đức Trung..v..v... hội nghị với cựu hoàng Bảo Đại tại Hồng kông về những điều kiện thương thuyết của Cao ủy Pháp Bollaert. Phiên họp không đi đến đâu v́ một số - trong đó có chúng tôi - cho rằng thoả hiêp với Pháp là mất chính nghĩa. Giữa 1948, Trung ương Quốc Dân Đảng VN cử Vũ Hồng Khanh và tôi đi Nam kinh cầu viện với Chính phủ Tưởng Giới Thạch. Chúng tôi tiếp xúc với một số nhân vật Quốc Dân Đảng và Liên Minh Á châu chống Cộng, đặc biệt với Phó Tổng thống Lư Tôn Nhân. Chuyến đi này không đem lại kết quả v́, trước sự tấn công ồ ạt của CS, một số cơ quan chính phủ đă bí mật dọn đi Đài Loan.
Anh Tam chủ trương không thể cọng tác với Pháp dù là tạm thời và cũng không thể liên hiệp với CS dù là kháng chiến. Về ư kiến của chúng tôi đi t́m một sinh lộ mới cho Đất Nước, anh không tán thành hay phản đối. Xưa nay, anh không có thói quen áùp đặt quan niệm của ḿnh, có thể v́ thế mà anh không tổ chức được hàng ngũ đấu tranh c̣ kỷ luật chặt chẻ. Vả chăng, lúc ấy, anh Tam đă yếu, suy nhược thần kinh, đau dạ dày nên cần tịnh dưỡng một thời gian.
Tháng 8.1948, Hoàng Đạo qua đời đột ngột, lúc 42 tuồi, v́ bệnh tim trên chuyến xe lửa đi từ Hồng kông về Quảng châu sau khi gặp vợ ở VN đưa con qua thăm. Được thông báo tin dữ, anh Tam, tôi và năm đồng chí đến ga Thạch Long để nhận xác và tống tán với tất că ḷng đau xót và thương tiếc.
Tháng 7.1963, chúng tôi đột nhiên nhận được điện tín của một người bạn tên Vũ Đức Văn gởi từ Thượng Hải cho biết Nhất Linh đă tự vẫn ngày 6.tháng 7 tại Sàig̣n để phản đối chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Anh Tam đă trở về Việt Nam để viết sách và làm báo. Anh bị điều tra trong vụ đảo chính hụt Chính phủ nhưng không có bằng chứng. Sức khoẻ của anh không tốt, bệnh đau dạ dày hành hạ.ï Trong lúc khủng hoảng tinh thần, anh đă lấy một quyết định đáng tiếc. Trong thâm tâm, tôi không mấy tán thành. Anh Tam qua đời lúc 59 tuổi. Anh c̣n có nhiều khả năng giúp đở Quê hương. Rất uổng! Đám táng của anh khá trọng thể, quần chúng tham gia đông đảo. Cái chết của Nhất Linh, dù sao, làm giảm uy tín chế độ đương quyền giữa lúc vấn đề Phật giáo sôi sục.
LLT: Tháng 10.1977, anh có về Việt Nam sau nhiều thập niên lưu vong. V́ lư do ǵ? Tiếp xúc với ai? Anh nhận xét ra sao về Đất nước thời ấy? NTB: Đúng vậy, tôi vá đứa con trai có về VN hai tháng, đi bằng xe lửa, từ Bắc Kinh đến Hà Nội, qua ngả Mạc Tư Khoa. Lư do dăn dị là nhớ nhà, thăm mồ mả gia tiên và muốn biết thực trạng Quê hương. Tôi viếng nhiều chổ: Lạng Sơn, Bắc Giang, Nam Định..vv...Tại Hà Nội, tôi bùi ngùi thấy không c̣n bao nhiêu dấu vết củ của ngôi nhà từng được dùng làm toà soạn báo Phong Hoá, Ngày Nam và Viêt Nam. Quê hương nghèo đói, tụt hậu và rách nát thảm thê! Buổi giả từ họ hàng và thân hữu để trở về Phật Sơn thật vô cùng cảm động, tôi nhớ măi. Tôi không có tiếp xúc với ai cả ngoài bạn bè và thân quyến.
LLT: Bây giờ hảy nói đến giai đọan ba trong cuộc đời sôi nổi của anh chị: giai đọan định cư tại Mỹ. V́ sao lại chọn Hoa kỳ? Anh đă có những hoạt động văn hoá vá chính trị nào từ ngày đặt chân trên xứ này? NTB: Tháng 3.1988, sau 40 năm sinh sống tại Trung Quốc, vợ chồng chúng tôi quyết định di cư qua Mỹ để đoàn tụ với hai con Hứùa Anh và Hứa Chân. Lưu vong đâu nữa cũng là lưu vong. Tuổi tôi đă quá 72. Thủ tục giấy tờ phiền toái nhưng cuối cùng cũng vượt qua. Máy bay đáp xuống phi trường Los Angeles. Chúng tôi xúc động trùng phùng với người thân và đặt chân trên đất của Nữ thấn Tự do. Nơi đây tôi sẽ sáng tác theo ư muốn v́ đối với tôi, từ xưa nay bác sĩ là chức nghiệp, cách mạng là sự nghiệp, văn nghệ mới là ước nguyện chính. Thời gian đầu để dành đi thăm bá con và bạn bè tản lạc ở nhiều tiểu bang. Đăc biệt, tôi c̣n một người chị ruột là Nguyễn Thị Thế ở Virginia, gần 80 tuổi, chưa gặp quá 40 năm.
Sớm du nhập vào nếp sống Hoa kỳ, cập nhật hoá tin tức và nghiên cứu tài liệu là những nhu cầu khẩn thiết đối với tôi. Quốc tịch Hoa kỳ giúp làm thủ tục xin cho các con khác ở Trung Quốc sang định cư nếu chúng muốn.
Tôi bắt đầu viết lách lại và xuất bản được trong các năm 1995, 1999 và 2000 ba sáng tác kể ở phiá trên: một quyển tiểáu thuyết và hai hồi kư. Ngoài ra, tôi hợp tác với nhiều báo Việt ngữ dưới bút hiệu Viễn Sơn. Tôi cũng tiếp xúc với nhiều hội đoàn và tổ chức người Việt. Ngày 12 và 13 tháng chạp 1988, một Đại hội đảng phái quốc gia nhóm sơ bộ tại Santa Ana, Californie, chỉ định tôi tŕnh bày mục tiêu. Một Văn pḥng phối hợp ra đời để nghiên cứu và thảo kế hoạch. Ngày 16.9.1989, một Đại hội chính thức được triệu tâp, tôi đọc diễn từ khai mạc, Nguyễn Long Thành Nam thuyết tŕnh về mô thức kết hợp, Trần Đức Thanh Phong về lập trường chính trị và nội quy, Phạm Đ́nh Đệ về kế hoạch công tác. Ngày hôm sau, Đại hội biểu quyết lấy danh xưng là “Uỷ ban Điều hợp các tổ chức đấu tranh cho VN tự do”. Văn pḥng điều hợp Trung ương được thiết lập và một Thông cáo chung được thông qua. Ngày 25.5.1991, cũng tại Santa Ana, Mặt trận Dân tộc Dân chủ Việt Nam, gồm có 8 đảng và một số nhân sĩ, ra mắt quần chúng. Cơ quan ngôn luận của Mặt trận là tờ Tiếng Dân. Tiếc thay, về sau, một tổ chức trong Mặt trận vi phạm cương lĩnh bằng cách chủ trương thoả hiệp với cộng sản, đối thoại vô nguyên tắc, đầu cơ. Để tránh những xung đột vô ư nghiă giữa các thành viên, Mặt trận đă ngưng họat động vào năm 1995. Một lần nữa, giấc mơ kết hợp gây thất vọng.
LLT: Thành phần tham gia Đại hội gồm có đảng phái, chính khách nào? Tổ chức nào đă cổ động ḥa giải hoà hợp với CS. Sau hết, một cách vắn tắc, anh nghĩ sao về tương lai của Việt Nam?
NTB: Theo thứ tự trong biên bản, các tổ chức tham dự là VN Quốc Dân Đảng, Mặt trận VN Tự do, VN Dân chủ Xă hội Đảng, Liên Minh Dân chủ VN, Lực lượng VN Tự do, Liên Minh Toàn Dân VN Quốc gia, Tổ chức Phục Hưng, Cơ sở Dân quyền Canada, Tổ chức Phục Việt Aâu châu... Đại diện đảng và nhân sĩ gồm có Hà Thúc Kư, Nguyễn Ngọc Huy, Bùi Diễm, Lê Duy Việt, Lê Phước Sang, Trần Minh Công, Trần Văn Sơn, Nguyễn Văn Trần, Nguyễn Long Thành Nam, Hà Thế Ruyệt, Hoa Thế Nhân, Trầân Huỳnh Châu, Phạm Ngọc Lũy, Lưu Trung Khảo, Trần Đức Thanh Phong, Nguyễn Văn Tại..v..v..
Sau khi Gs Nguyễn Ngọc Huy qua đời, Liên Minh Dân chủ VN vỡ làm đôi. Cánh Stephen Young tiếp xúc với Hà Nội để t́m giài pháp thoả hiệp. Tôi tin tưởng CS không tồn tại lâu ở VN v́ chủ nghĩa Mác Lê đầy mâu thuẩn, tự diệt và xa dần quần chúng. Đấu tranh cho Nhân quyền có thể dấùy động đại chúng và thúc đẩy áp lực của quốc tế đối với Hà Nội. Bởi thế từ 1996, tôi nhiệt liệt cổ động việc thành lập “Mạng Lưới Nhân Quyền VN” Tổ chức này được hợp thức hóa trong Đại hội thế giới triệu tập vào tháng 10.1997 tại Californie và đang hoạt động hữu hiệu
Kết luận Sự hấp tấp quyên sinh của Nhất Linh và bốn thập niên cố t́nh ẩn tích của Bs Bách tại một nước CS láng giềng là những điểm nêu câu hỏi trong giới người Việt từng dành nhiều cảm t́nh cho gia tộc Nguyễn Tường. Gia tộc này đă hiến cho Đất nước những người con ưu tú trong lănh vực chính trị lẫn văn hóa. Hồi tưởng quá khứ, Bs Bách đă bộc trực thú nhận như sau trong quyển kư ức 2 “VN, Một thế kỷ qua, 54 năm lưu vong”, trang 417,: “... Dù sao việc ở lại Trung Quốc trong bốn mươi năm cũng không khỏi gây ra thắc mắc, hiểu lầm, thậm chí công kích từ một số người Việt quốc gia, trong đó có cả thân hữu. Tôi nghĩ việc này cũng là tự nhiên thôi. Mỗi người trong biến cố phức tạp của cuộc đời, có thể có những sai lầm nghiêm trọng.” Nơi trang 251 của tập Hồi kư 1 “VN Một Thế Kỷ qua”, anh Bách cũng không ngại nhắc đến câu Nhất thất túc thành thiên cổ hận, Lỡ một bước đành hận ngàn thu.
Thất bại tuy nhiên có thể là mẹ của thành công nếu biết rút những bài học thích đáng để sửa sai kịp thời. Chỉ có những kẻ khiếp nhược sợ hành động mới không bao giờ sai lầm. Bs Bách đă chọn dấn thân không sờn ḷng, không mệt mỏi. Trong một trang khác của Hồi kư nêu trên, anh viết - như một lời nhắn nhủ -: “Đời là một cuộc đấu tranh. Thua keo này, bày keo khác, đó là quy luật của cách mạng. Bỏ cuộc tức là chịu thua.” (trang 471).
Nguyễn Tường Bách đáng là tấm gương cho thế hệ trẻ trong công cuộc đi t́m con đường sáng để phục vụ lư tưởng và dân tộc.
TƯ LIỆU:
1- “Trên Sông Hồng Cuồn Cuộn”, của Nguyễn Tường Bách, nxb Tân Văn 1995, Californie
2- “VN Một thế kỷ qua. Hồi kư I (1916-1946) ” của Nguyễn Tường Bách, nxb Thạch Ngữ, Californie 1999
3- “VN Một thế kỷ qua, Hồi kư II. 54 năm lưu vong, Trung quốc (1946-1988) - Hoa kỳ (1988-2000)”, nxb Thach Ngữ 2000.
4- “Nguyễn Tường Bách và Tôi” của Hứa Bảo Liên, tác giả tự xuất bản, Westminster 2005.
5- “Hồi kư về Gia đ́nh Nguyễn Tường” của Nguyễn Thị Thế, nxb Văn Hoá Ngày Nay, 1996.
LÂM LỄ TRINH Thủy Hoa Trang Ngày 6.6.2006