Khát vọng tự do

và chuyện chưa muốn kể của một người tù!

Nguyễn Khắc Toàn

Tôi viết câu chuyện này theo ư tưởng của một người bạn đồng niên và hiện đang sống cùng phố với tôi, anh tên thật là Phan Văn Phong, 50 tuổi ở nhà số 12 phố Tràng Tiền quận Hoàn Kiếm Hà Nội. Vợ chồng anh trước đây từng lao động ở Cộng hoà dân chủ Đức trong những thập niên 80 –90 của thế kỷ trước. Hiện nay gia đ́nh anh là chủ cửa hàng nhỏ chuyên làm nghề phôtocoppy, đóng sổ sách, in ấn tài liệu cho các co quan xung quanh khu vực Nhà hát lớn Hà Nội. Anh là người có tư tưởng tiến bộ, rất mong muốn đất nước sớm được dân chủ tự do. Những lúc ranh rỗi anh hay tụựựi thăm các vị trong phong trào dân chủ theo địa chỉ được ghi rơ cuối các bài viết kêu gọi dân chủ hoá đất nước. Từ năm 1999 đến năm 2001, tôi hay sang nhà anh chi. Nhưng chưa bao giờ tôi cho anh biết thật căn nhà tôi đang ở cùng với gia đ́nh, ở phía sau số 11 Ngơ Tràng Tiền v́ lúc đó tôi đang hoạt động nửa công khai nửa bí mật. Đầu năm 2002, khi tôi bị bắt rồi sau đó tin tức loang ra anh mới được biết tên thật và địa chỉ gia đ́nh tôi đang ở.

Trước khi tôi bị bắt ít tháng, Tổng cục an ninh - Bộ công an theo dơi anh rất gắt gao, họ cũng nghó anh là một nhân vật quan trọng hoạt động trong phong trào dân chủ. Trong thời gian 15 tháng tôi bị biệt giam ở trại B14 Thanh Liệt Hà Nội, ba só quan công an cấp bậc trung tá là Lê Thế Khánh, Lư Đức Chính và phó trưởng pḥng Nguyễn Văn Tung của Cục an ninh điều tra, thẩm vấn tôi liên tục nhiều ngày về mối quan hệ giữa tôi và Phan Văn Phong, cũng như những hoạt động của anh trong phong trào dân chủ. Kết cục họ chẳng lấy được một lời khai nào dù nhỏ nhất của tôi về anh. Và thực chất anh cũng chỉ là người có cam t́nh với những người hoạt động dân chủ. ấy vậy mà cuộc sống của gia đ́nh anh cũng gặp rất nhiều phiền lụy, sách nhiễu từ phía công an. Anh kể lai với tôi : trong thời gian tôi ở tù, canh sát khu vực là đại úy Trần Lực rất hay vào nhà anh săm soi, ngó nghiêng vào máy móc và những đống tài liệu, sổ sách bề bộn mà anh nhận in cho các c quan. Mấy năm gần đây, cnh sát khu vực mới là thiếu tá Trần Văn Trung cũng để mắt thường xuyên đến công việc mưu sinh hàng ngày của gia đ́nh anh. Nhiều hôm đêm đă quá khuya gia đ́nh anh Phong đă đi ngủ, ông cảnh sát này vẫn gọi anh Phong dậy photocopy một số giấy tờ, văn bản. Nhưng thực chất là để kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của cửa hàng photocopy này.. Trong suy nghó của công an Việt Nam, họ tưởng tượng ra có lẽ anh là co sở in ấn tài liệu của phong trào dân chủ. Những ngày gần đây thường xuyên có 2 só quan an ninh công an quận Hoàn Kiếm-Hà Nội là Trung tá Cường và Hà Mạnh Hoà hay đến gặp anh Phong vừa vận động rỉ tai cấm anh quan hệ với anh Nguyễn Khắc Toàn và cụ Hoàng Minh Chính… và vừa đe doạ, khủng bố anh Phong.

Thế mới biết, trong một xă hội mà chỉ có Đang cộng san nắm độc quyền chính trị th́ cuộc sống của mọi người dân được cai quan, được “chăm sóc cực kỳ chặt chẽ, cực kỳ cẩn thận” !!!.

Những người có tư tưởng cấp tiến và cởi mở, ủng hộ dân chủ như anh Phan Văn Phong ở Hà Nội có rất nhiều. Từ khi tôi ra tù, anh thường xuyên thăm hỏi sức khoẻ và giúp đỡ tôi. Ngay sau ngày tôi được ra tù mấy hôm, nghe tôi kể chuyện những năm tháng hoạt động trong phong trào dân chủ từ những năm 1993-1995 cho đến ngày tôi bị bắt đưa ra toà xét xử và thụ án tù giam, anh rất xúc động và đặt bút viết lại câu chuyện đó với tựa đề “chuyện thật như đùa hay chuyện đùa nhưng thật”. Anh đă đưa tôi xem ban tho và nhờ tôi bổ sung thêm những tư liệu có thật đă diễn ra trong tù. Nhưng do cuộc sống quá bận lo miếng com manh áo nuôi vợ con, nên anh đă không hoàn thành được ư tưởng này.

Mở đầu bài, anh viết thật ấn tượng, b́nh dị vừa mộc mạc: 

“16h30 chiều ngày 24/01/2006 vừa rồi. Một người đàn ông trung niên, dáng người đậm tầm thước có mái tóc đă ngả bạc nói với một người vừa quen biết trên hè phố Đinh Tiên Hoàng Hà Nội, đối diện bên kia là Hồ Hoàn Kiếm giữa ḷng Thủ đô : “Tôi vừa ở Nhà tù Cộng sản ra đây” ! Thật rơ như đùa nhưng đấy là chuyện có thật 100% . Đó là trường hợp anh Nguyễn Khắc Toàn, 50 tuổi, một cựu chiến binh của Quân đội miền Bắc Việt Nam đă từng tham gia cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam trước đây trong những năm từ 1972 đến 1976.

Anh Toàn, đă từng trực tiếp chiến đấu ở miền Tây Nam bộ thuộc địa bàn các vùng rừng U minh, Ḥn đất, Kênh Nam Thái Sơn thuộc 2 tỉnh Rạch giá và An Giang. Kết thúc chiến tranh, anh tham gia tiếp quản các cơ sở tài chính, kinh tế của chế độ cũ trên thành phố Long xuyên, Châu đốc và thị trấn Hà tiên …” 

Kết luận của bài này anh viết:

“Nước Mỹ vốn nổi tiếng là đất nước của tự do, dân chủ, là biểu tượng đầy đủ của xă hội dân chủ và phú cường. Nước Mỹ có truyền thống bênh vực, bảo vệ các quyền con người và ḥa b́nh cho thế giới, bênh vực tất cả các dân tộc đang can đảm dám đứng lên tranh đấu cho dân chủ, tự do.

Trong 1 lần trả lời phỏng vấn trên đài BBC, bà Condoleezza Rice ngoại trưởng Hoa Kỳ đă nói với các bạn trẻ Việt Nam rằng : “Nếu các bạn đứng lên đ̣i hỏi quyền tự do cho chính ḿnh, th́ nước Mỹ sẽ ủng hộ và luôn luôn ở bên cạnh các bạn ”. Nói sao làm vậy, trong buổi tiếp với các gia đ́nh tù nhân lương tâm trước khi anh Nguyễn Khắc Toàn được thả khỏi nhà tù Nam Hà chừng gần 1 tháng. Ông bà đại sứ Mỹ và 2 quan chức cấp cao cđa Ṭa Sứ Quán Hoa Kỳ tại Việt Nam đă hứa sẽ tiếp tục can thiệp mạnh mẽ yêu cầu chính phủ Hà Nội phải thả những tù nhân chính trị và lương tâm này (Nguyễn Khắc Toàn, Nguyễn Vũ B́nh, Phạm Hồng Sơn). Đại sứ Michael Marine cho biết chính phủ Mỹ sẵn sàng tiếp nhận những người này nếu họ được thả để sang Hoa Kỳ định cư và tị nạn chính trị, nếu họ muốn.

Ngay sau khi được thả ra khỏi tù ít ngày, trả lời phỏng vấn đài BBC, SBS, VOA … anh Toàn nói trước hết cảm ơn Chính phủ Hoa Kỳ, ông bà đại sứ Mỹ và các vị quan chức Hoa Kỳ tại VN về đề nghị tốt đẹp trên. Và anh Toàn cho biết sẽ quyết định ở lại VN để tiếp tục tranh đấu đ̣i hỏi quyền tự do dân chủ cho nhân dân VN. Anh Toàn vẫn kiên quyết đứng ở trận tuyến cùng anh em dân chủ trong nước để đ̣i Đảng CS và nhà nước VN, phải từng bước dân chủ hóa toàn diện đời sống chính trị, kinh tế, xă hội, văn hóa … Dù cho con đường đó có lắm chông gai và vô cùng hiểm nguy”. 

Phần giữa bài nội dung anh viết rất sơ sài, do tư liệu anh thu thập chưa đầy đủ, thiếu chính xác so với những ǵ đă diễn ra trên thực tế. Bài viết của anh dở dang đến đó không thể tiếp tục được nữa, anh nhờ tôi tiếp tục hoàn thành nốt phần câu chuyện bị gián đoạn c̣n lại ngay trước tết nguyên đán Bính Tuất vừa rồi. 

Bài viết của anh đă được tôi hoàn tất trong những ngày trước và sau tết trong hoàn cảnh như vậy.

Đề tài câu chuyện mà anh đưa ra kể cũng thật lư thú, nhưng do tôi cũng quá bận v lại cũng ốm đau suốt từ khi được trở về nhà, nên không thể hoàn thành bài viết như mong muốn của anh. Nếu bút kư này được hoàn thành sớm trước Tết th́ có rất nhiều ư nghóa, v́ nó là món quà tôi tặng nhiều người trong dịp mùa xuân Bính Tuất. Nay bài viết này đă được hoàn thành tuy hoi chậm, nhưng vẫn là một món quà có giá trị viết dâng lên mẹ tôi, hưong hồn cha tôi, tặng các anh chị em trong gia đ́nh và tất ca bạn bè tôi. Đặc biệt Kính tặng hưong hồn Lăo tướng Trần Độ. Vị Tướng tôi rất kính trọng mà tôi đă gắn bó với ông và đă giúp ông một số những hoạt động tranh đấu dân chủ trong năm tháng cuối cùng. Và bút kư này tôi cũng kính tặng những nhà đấu tranh cho dân chủ vẫn đang trên tuyến đầu như Cụ Hoàng Minh Chính, cụ Lê Hồng Hà, Ông Phạm Quế Dưng, nhà văn Hoàng Tiến, LM Nguyễn Văn Lư, LM Nguyễn Hữu Gii, LM Phan Văn Lợi, nhà nghiên cứu Hán Nôm Trần Khuê, nhà th Bùi Minh Quốc, nhà văn Tiêu Dao Bao Cự, nhà văn Trần Mạnh Hao, TS Hà Sỹ Phu, GS Nguyễn Chính K, nhà văn Dương Thu Hương, BS Nguyễn Đan Quế, LM Chân Tín, ḥa thượng Thích Quảng Độ, TS Nguyễn Thanh Giang…

Tôi cũng thân tặng thi sỹ Nguyên Hoàng Bảo Việt – hội viên trung tâm văn bút Thụy Sỹ Pháp thoại và ông János Benyhe Tổng Thư kư Trung tâm Văn bút Hung ga ry (Magyar PEN Club) đă kết nạp tôi là Hội viên danh dự của Tổ chức Văn bút này.

Tôi mến tắng các bạn trẻ hiện vẫn c̣n trong ngục tù như Phạm Hồng Son, Nguyễn Vũ B́nh và các bạn như kỹ sư Phưong Nam Đỗ Nam Hai, cựu só quan quân đội Trần Anh Kim, nhà báo Phan Thế Hải, luật sư Nguyễn Văn Đài, kỹ sư xây dựng Bạch Ngọc Dương… Tôi cũng thân tặng tất ca những ai yêu chuộng tự do, công bằng và lẽ phai.

Hiện nay cuộc sống của tôi trong ṿng quản chế ngặt nghèo, o ép mọi mặt của công an và chính quyền Hà Nội. Khu nhà tôi đang ở cùng gia đ́nh ở giữa trung tâm Thủ đô th́ bị công an theo dơi, ŕnh rập suốt ngày đêm. Các phương tiện thông tin liên lạc đều bị công an phong tỏa, ngăn chặn. Hoàn cảnh sống của tôi và kéo theo cả gia đ́nh chẳng khác nào sống trong trại giam mà có ḿnh tôi phải chịu đựng trước đây. Tôi chủ yếu ở nhà chữa bệnh nên tranh thủ hoàn thành nốt bài bút kư mà anh bạn hàng xóm thân yêu của tôi đă khai mào…

*****

NH̀N LẠI HƠN 30 NĂM TRƯỚC

 

Thấm thoát thế mà đă 1 phần 3 thế kỷ đă trôi qua, kể từ khi thế hệ chúng tôi những thanh niên Hà Nội rời ghế nhà trường vượt dăy Trưong Son hàng ngàn cây số vào Nam chiến đấu.

Cuộc chiến tranh “Huynh đệ tương tàn - nồi da nấu thịt” ấy đă để lại trong tôi những chấn thương về cả tinh thần lẫn thể xác. Về phương diện tinh thần, tôi đă có cái nh́n rất khác so với nhiều đồng đội của ḿnh là những người xuất phát đa phần từ nông dân, sinh trưởng từ nông thôn miền Bắc Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu.

“ Rằng đây là cuộc chiến tranh cách mạng nhằm giải phóng miền Nam khỏi đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ ngụy quyền tay sai ! ! ? ? ? ”

“ Rằng đây là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân Miền Nam khỏi ách ḱm kẹp của Mỹ Ngụy và đây là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thiêng liêng...”, như bộ máy tuyên truyền vó đại ở miền Bắc hô hào ngày đêm !!! ? v…v… và v…v…

Sau ngày kết thúc cuộc chiến 30-4-1975, tôi có dịp cùng đơn vị vào tiếp quản các thành phố và thị trấn như : Long xuyên, Châu đốc, Hà tiên, Cần thơ, Rạch giá tận mắt chứng kiến cuộc sống của đồng bào vùng miền Tây Nam bộ trên cả mặt trái và phải. Cả ngày và đêm 30-4-1975, tôi cùng đồng đội tiến vào các thị xă, thị trấn thuộc tỉnh Long Châu Hà (là địa danh của 2 tỉnh Long xuyên-Châu đốc và thị trấn Hà tiên mà quân đội miền Bắc gọi tắt). Ngồi xuồng gắn máy đuôi tôm trên đường vào thị xă Long xuyên, tôi nhận thấy ở vùng sông nước, kênh rạch chằng chịt này dấu vết chiến tranh ít hiện hữu và cuộc sống của người dân thật hiền ḥa và trù phú. Dọc bờ sông Hậu Giang, cũng như trên các kênh rạch nhà cửa người dân miệt vườn san sát, cây trái sum xuê tróu quả nào măng cụt, dừa, chôm chôm, mận, xoài . . . nào ghe thuyền đầy ắp hàng hóa tấp nập chạy xuôi ngược . . . Lác đác tôi cũng thấy những túp lều tranh của những gia đ́nh nông dân nghèo khổ soỏng bên hai bờ kênh.

 
NKT tại Thị xă Long Xuyên sau 1975

T́nh trạng những gia đ́nh nông dân nghèo khổ lam luừ chủ yếu tập trung ở những vùng chiến sự ác liệt. Chẳng hạn như ở ni c quan chúng tôi đóng căn cứ sâu trong rừng Tràm thuoọc xă Nam Thái Sn huyện Châu Thành tổnh An Giang là một ví dụ.

Cuối năm 1975, tôi được đưa lên Sài g̣n (lúc đó đă được chế độ mới đỉi tên là TP Hồ Chí Minh) nằm chữa bệnh ở tầng 9, pḥng dành riêng cho cán bộ, chiến sỹ quân đội miền Bắc bị thương tại bệnh viện Chợ Rẫy- Sài g̣n. Thời gian chữa bệnh ở thành phố hoa lệ được mệnh danh là ḥn ngọc Viễn đông này, tôi c̣n choáng ngợp và sửng sốt hơn nữa về cuộc sống ở đây: cửa hàng cửa tiệm buôn bán tấp nập nhịp sống của người dân hối hả. Ở ngoại ô thành phố, khu công nghiệp Biên Ḥa của các nhà tư sản dân tộc Việt và Hoa các xí nghiệp, nhà máy san sát chạy dài hàng chục cây số. Tôi có cảm giác như lạc vào một thành phố công nghiệp sầm uất nào đó của một quốc gia tư bản ở Á châu. Tôi cũng đă tới những khu nhà ổ chuột tồi tàn của người dân nằm hai bên bờ kênh hôi thối ở Nhiêu Lộc – Quận 4, những khu lao động nghèo ở xóm Củi, ở Thị Nghè, ở Kênh Tàu Hủ … Tôi tận mắt chứng kiến cuộc sống cơ cực, nghèo khó của người dân ở giữa đô thành Sài G̣n phồn hoa.

    Nhưng tôi nghĩ, nếu đất nước này không có những cuộc chiến tranh dài hơn 30 năm v́ ư thức hệ, v́ dùng bạo lực nhằm thống nhất giang sơn và áp đặt lên tồn bộ đất nước: 1 chế độ chính trị XHCN vừa xơ cứng, giáo điều, vừa phản tiến hóa và lỗi thời theo học thuyết Mác-Lênin, th́ chắc chắn miền Nam nói riêng và cả Việt Nam nói chung sẽ có nhiều cơ hội, điều kiện để xây dựng thành quốc gia thịnh vượng phú cường về kinh tế, dân chủ tự do về chính trị và xă hội. Và thể chế chính trị của nhà nước Việt Nam Cộng Hịa tồn tại và sẽ tiếp tục là một quốc gia có chế độ chính trị dân chủ, tiến bộ phù hợp với trào lưu chung của cả nhân loại ngày nay.Về phương diện kinh tế và đời sống xă hội của nhà nước Việt Nam Cộng Hịa, chắc chắn sẽ là một quốc gia cơng nghiệp phát triển và thịnh vượng nằm trong số những “Con rồng Châu Á” mà cả thế giới biết đến như các nước Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo, Thái Lan, Hồng Kông.

    Mô h́nh chế độ chính trị Nhà nước Việt Nam Cộng Ḥa trước đây, khi ở miền Bắc tôi được nghe tuyên truyền rằng, đó là một loại h́nh chủ nghóa “thực dân kiểu mới” do đế quốc Mỹ dựng nên làm tiền đồn và bàn đạp để tấn công miền Bắc và phe XHCN do Liên Xô và Trung Quốc là những nứơc anh em đứng đầu. Và các cơ quan tuyên truyền ở miền Bắc c̣n nói: về kinh tế, Miền Nam Việt Nam là một thị trường để tiêu thụ hàng hóa tư bản ế thừa của các nước phương Tây. Đây cũng là nơi mà bọn tư bản và đế quốc nước ngoài vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động rẻ mạt của nhân dân. Về đời sống văn hóa, xă hội, giáo dục… , th́ mảnh đất màu mỡ ở miền Nam Việt Nam là nơi để gieo mầm cho văn hóa nô dịch của đế quốc, ngoại bang nảy nở, phát triển. Trên báo, đài phát thanh, sách văn học, sách giáo khoa dạy trong các trường học ở miền Bắc th́ đầy dẫy những tuyên truyền về miền Nam là cả “một nhà tù lớn, một trại tập trung khổng lồ”. Ở nông thôn th́ nông dân bị ḱm kẹp trong các ấp chiến lược với lớp lớp hàng rào dây thép gai bao quanh, với nhiều cḥi canh có lính được trang bị súng đạn tối tân canh gác đêm ngày v.v . và . v.v … 

    Nhưng trên thực tế, khi tôi đă tiếp xúc với rất nhiều người bà con gia đ́nh hai bªn nội, ngoại di cư từ quê hương miền Bắc vào miền Nam từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954. Qua việc đó, giúp tôi có một nhận thức rất khác về đời sống xă hội, kinh tế và chế độ chính trị ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Đó là một xă hội mà cuộc sống nhân dân được hưởng nhiều cởi mở và tự do. Người dân từ nông thôn đến thành thị được sống tự do dân chủ, được hưởng rất nhiềøu quyền Con người căn bản hơn, như : Có tự do báo chí, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do biểu t́nh - mít tinh, tự do hội họp, tự do sinh hoạt đảng phái chính trị, tự do xuất dương và cư trú trong nước, tự do mưu sinh, tự do ứng cử và bầu cử… Ngay tại đô thành Sài G̣n có tới hàng chục tờ báo được tự do phát hành, những chủ báo phần lớn là của tư nhân với mọi chính kiến khác nhau kể cả chính kiến đối kháng mạnh mẽ với chính thể nhà nước Việt Nam Cộng Ḥa, như các báo: Đuốc nhà Nam, Thủ đô, Điện tín, Tiếng nói dân tộc, Bút thần, Tin sáng, Đại dân tộc … 

    Trong Hạ nghị viện ( Quốc hội ) của chế độ ở Sài g̣n lúc đó có nhiều đảng phái được tham gia sinh hoạt chính trị như : Đảng Đại Việt, Đảng Quốc dân, Đảng Dân chủ, Đảng Cộng ḥa, Đảng Việt Nam Cách mạng … 

Ở các vùng thôn quê thuộc đồng bằng sông Cửu Long nơi tôi công tác, tôi thấy c̣n rất nhiều những áp phích, bích chương và h́nh ảnh các ứng cử viên ra tranh cử Hội đồng chính quyền các cấp trong các cuộc bầu cử địa phương được treo, dán la liệt khắp nơi công cộng để dân chúng xem và lựa chọn. Về đời sống kinh tế, thương mại tôi thấy dân chúng được tự do buôn bán, làm ăn. Cuộc sống của họ ở cả thành thị và thôn quê rất sung túc, khung cảnh sầm uất và trù phú.

Thời c̣n là học sinh ở Hà Nội, tôi đă đọc trên báo chí của Đảng CS (khi đó c̣n gọi là Đảng lao động Việt Nam) ở miền Bắc đưa tin về các phong trào đấu tranh biểu t́nh của học sinh, sinh viên miền Nam chống chế độ Sài G̣n rầm rộ trên khắp các đô thị lớn lúc đó, như ở Huế, Đà Nẵng và đặc biệt ở đô thành Sài G̣n. Ấn tượng nhất là những phong trào “ Hát cho đồng bào tôi nghe”, “Nói cho đồng bào tôi nghe”, các phong trào băi khóa của sinh viên đại học Sài G̣n, của sinh viên đại học Vạn Hạnh phản đối tṛ bầu cử độc diễn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. các phong trào đấu tranh của các phật tử sôi sục trên các đô thị ở miền Nam, tiêu biểu như vụ tự thiêu của Hoà thượng Thích Quảng Đức ở Phú Nhuận Sài G̣n chống chế độ Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Phong trào băi thị của bà con giới tiểu thương phản đối sưu cao thuế nặng ở chợ Bến Thành Sài g̣n, chợ Đông ba Huế chống chế độ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. . .

    Tôi đối chiếu, so sánh với cuộc sống ở Hà nội và cả miền Bắc XHCN th́ những thứ “ Tự do dân chủ ” và đời sống khá giả ấy quả là một sự xa xỉ và hoàn toàn xa lạ đối với người dân miền Bắc. Không bao giờ những nhà lănh đạo Cộng Sản miền Bắc muốn xây dựng, cũng như “nhân giống” cho nảy mầm phát triển sự tự do đó trên mảnh đất phía bắc khô cằn, khổ hạnh và nghèo khổ này…

    Và bi kịch lớn của dân tộc ta, đất nước ta là ở chỗ cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn” đă tốn biết bao núi xương, sông máu của nhân dân cả nước nhằm hủy diệt một chế độ đa đảng dân chủ, tự do, và một nền kinh tế thị trường đă từng tồn tại ở miền Nam VN trước năm 1975, mà giờ đây nhân dân chúng ta đang phải đấu tranh để được đi lại đúng con đường này.

SAU NGÀY RA TÙ

Cuộc chiến tranh “ nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn ” đă kết thúc hơn 30 năm về trước. Nhưng hậu quả đă để lại nhiều di chứng nặng nề cho tôi về sức khỏe, mà tổn thương lớn nhất là bị chấn thương cột sống nghiêm trọng sau một trận oanh kích của không quân Việt nam Cộng ḥa trong dịp gần tết năm 1974 tại căn cứ rừng tràm U minh thượng thuộc tỉnh Rạch giá. Và nay, qua hơn 4 năm lao tù gian khổ với điều kiện giam cầm rất khắc nghiệt, bệnh t́nh của tôi càng trở nên nghiêm trọng hơn, việc đi lại khó khăn, thường xuyên đau nhức cột sống và đau dây thần kinh 2 chi dưới nặng nề. Tôi chỉ đi bộ trong phạm vi 200m trở lại là phải ngồi nghỉ, không thể đứng lâu trên đôi chân của ḿnh quá mươi phút. Ngoài ra tôi c̣n mắc thêm nhiều chứng bệnh mới như : huyết áp cao thường xuyên gây đau đầu, chóng mặt căng thẳng thần kinh, viêm phế quản măn, viêm gan, máu nhiễm mỡ và tiểu đường nặng … Chiều ngày 24-01-2006 ra tù, tôi vẫn c̣n sốt cao 38,50C. Ngày 30 và ngày mùng 1 tết Bính Tuất này tôi nằm ly b́ ở nhà v́ cảm sốt triền miên. Gia đ́nh phải lo cho thuốc uống, tôi mới cắt sốt, dâïy đi lại trong nhà được từ sáng ngày mùng 2 tết …

Trưa ngày 25-01-2006, các bạn hữu như nhà văn Hoàng Tiến, cựu đại tá, nhà báo quân đội Phạm Quế Dương, nghệ sỹ Dương Hùng, anh Vũ Chí Dũng (em ruột nhà văn Vũ Thư Hiên) … đến thăm tôi vừa ở tù ra, dù c̣n sức khỏe c̣n yếu nhng tinh thần của tôi vẫn mạnh mẽ, đầy khí thế vµ lạc quan … Trong lúc mọi người đang hỏi thăm, tôi đă trả lời phỏng vấn đài BBC do phóng viên Hồng Nga thực hiện từ Băng Cốc qua điện thoại. Đấy là cuộc trả lời phỏng vấn đầu tiên của tôi với báo giới quốc tế.

 

Liên tiếp các ngày sau tôi đă trực tiếp trả lời phỏng vấn nhiều đài phát thanh và hăng thông tấn nước ngoài như : BBC, RFA, VOA, SBS, hăng tin Đức DPA, AFP, đài phát thanh Litte Sài G̣n ở Hoa Kỳ … Qua làn sóng phát thanh truyền đi khắp thế giới và các bài đăng trên mạng Internet, tôi vẫn khẳng định chọn lựa con đường tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền ngay trên Tổ quốc Việt Nam. Dù rằng đó là con đường rất gian khổ, lâu dài và muôn vàn nguy hiểm. Mối hiểm nguy đó không chỉ ŕnh rập ngày đêm và có thể giáng xuống bất cứ lúc nào không chỉ cho riêng tôi, mà cho cả gia đ́nh t«i. Bạn bè, anh em họ hàng không dám tiếp xúc công khai gặp gỡ tôi đàng hoàng v́ họ lo sợ bị vạ lây do công an có thể gây khó khăn cho họ bất cứ khi nào.

 

HỒI TƯỞNG NHỮNG NĂM THÁNG THAM GIA ĐẤU TRANH GIỮA L̉NG THỦ ĐÔ

Những năm tháng trớc đây toơi hoạt động âm thầm lặng lẽ cho dân chủ và tự do, các bài viết kêu gọi dân chủ phải kư tên dới nhiều bút danh khác nhau để bảo toàn lực luợng cho phong trào dân chủ c̣n non nớt và c̣n để làm đợc nhiều việc hơn, hiệu quả hơn cho phong trào dân chủ. V́ thế bạn đọc trong và ngoài nớc không mấy ai biết đến tên tuổi tôi, ngoại trừ những vị đứng đầu phong trào. 

 

 

Trong những năm từ 1993-1995, sau sự kiện hàng loạt các nước ở Đông Âu và Liên xô sụp đổ. Tôi lấy bí danh là Trần Lê Hoàng, hay Lê Hoàng nguyên cựu chiến binh hay thường xuyên lui tới các nhà riêng của các vị : Tướng Trần Độ, Cụ Hoàng Minh Chính, Cụ Nguyễn Hữu Đang, cựu đại tá công an Lê Hồng Hà, TS. Nguyễn Thanh Giang, nhà văn Hoàng Tiến, cựu trung tá quân đội Phạm Vũ Sơn … để t́m đọc tài liệu dân chủ, đ̣i hỏi nhà nước thực thi công bằng xă hội và trao đổi t́nh h́nh đất nước. Khi được giác ngộ cao hơn nữa về các vấn đề dân chủ, tự do, nhân quyền, tôi được các vị đứng đầu phong trào dân chủ nói trên tin tưởng, giao phụ trách việc in sách, tài liệu Dân chủ cho Tướng Trần Độ, Cụ Hoàng Minh Chính, Ông Nguyễn Thanh Giang, nhà văn Hoàng Tiến. . . và phân phát các bài viết kêu gọi đ̣i dân chủ cho nhân dân ở Hà Nội và 1 số tỉnh trong nước.

Những dịp trở lại Miền nam thăm chiến trường xưa, tôi c̣n gặp gỡ chắp nối sợi dây liên lạc với các văn nghệ só, trí thức đấu tranh cho dân chủ trên cao nguyên ở Đà Lạt, như nhà thơ Bùi Minh Quốc, nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự, tiến sỹ Hà Sỹ Phu, ông Mai Thái Lónh . . .

 

Mấy năm gần đây, trước khi bị bắt tôi được giao trọng trách giới thiệu và phổ biến các bài chính luận của các anh em Dân chủ trong nước lên mạng Internet toàn cầu. Ngoài ra tôi c̣n tham gia trực tiếp viết nhiều bài kêu gọi dân chủ và cải cách, như :

 

Ngoài những việc đó, tôi viết những bài báo tố cáo công an Hà Nội và công an VN đàn áp phong trào dân chủ và biên tập các bản tin về các cuộc biểu t́nh sôi động của họ đang diễn ra ở Hà Nội cho thế giới biết, kèm theo những h́nh ảnh rất sinh động, như :

(Hiện các bài trên vẫn c̣n lưu ở trang website Thông điệp xanh, lmvntd, ư kiến, dân chủ, Việt nam đi tới, cánh én, tia sáng, thông luận . . . ).

 

    Những tháng cuối năm 2001, việc hoạt động của tôi trong phong trào dân chủ ở Hà Noọi không giữ được sự kín đáo và bí mật cần thiết. Tổng cục an ninh Bộ công an Việt Nam phát hiện vai tṛ quan trọng của t«i, các vị đứng đầu phong trào dân chủ chỉ đạo tôi tạm ngừng mọi hoạt động. Nhưng khi đến vườn hoa Mai Xuân Thưởng, nơi có Văn pḥng tiếp dân TW ĐCS VN và trước các tư dinh TBT Nông Đức Mạnh, Thủ tướng Phan Văn Khải, và trước cả ṭa nhà Quốc hội Việt Nam ở khu vực lăng Hồ Chí Minh … tôi chứng kiến nông dân các tỉnh miền Nam, miền Trung, nông dân Thanh Hóa, Phú thọ ở miền Bắc tụ tập hàng trăm người biểu t́nh khiếu kiện đ̣i công bằng, đ̣i đất đai tổ tiên bị các chính quyền địa phương chiếm đoạt làm tôi rất xúc động, thương cảm và muốn chia sẻ nỗi khổ đau với họ. Người dân thấp cổ bé miệng, bị đè nén áp bức dồn đến cùng cực nhờ tôi viết đơn gửi các cấp Đảng và Nhà nước ở TW Hà Nội và báo chí trong nước.

 

    Ở trong nước, , các co quan nhận được đơn th́ đùn đẩy trả về “ địa phương giải quyết ”. Báo chí tại Hà Nội th́ im lặng hoặc cùng lắm lại kính chuyển đến các cơ quan có trách nhiệm và thẩm quyền. Rồi việc ǵ đến sẽ phải đến, người dân nhờ tôi chuyển đơn lên mạng, nơi có báo chí của hải ngoại, họ nhận đăng công khai đơn khiếu nại và tố cáo của bà con để công luận trong nước và thế giới biết đến nỗi thống khổ của nhân dân.

 

    Điển h́nh nổi bật là vụ vợ chồng Thương binh- Đảng viên ĐCS VN, bà Trần Thị Xanh và ông Trần Hồng Phương ở thị trấn Sơn Tịnh- Quảng Nam bị ṭa án địa phương xử bấùt công cướp đoạt mấùt nhà cửa. Gia đ́nh bà Xanh tan cửa nát nhà phải sống cảnh màn trời chiếu đất hơn 10 năm. Bản thân bà Xanh phải ra Hà Nội hơn 6 năm, sống vất vưởng ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng, phải đi nhặt rác để kiếm sống và tiếp tục kêu đ̣i công lư cho gia đ́nh ḿnh. Trong thời gian đi khiếu kiện ở Hà Nội, mẹ con bà Xanh sống lay lắt, đói khát từng ngày vô cùng khổ sở lấy nhà vệ sinh công cộng ven Hồ Tây cạnh tượng đài “Anh hùng Lư Tử Trọng – người cộng sản trẻ tuổi” làm nơi trú thân hàng đêm. Và cuộc sống khốn khổ, cùng cực này của mẹ con bà Xanh suốt 10 năm trời cũng diễn ra ngay sát cạnh Phủ Thủ Tướng, Lăng CT Hồ Chí Minh, Ṭa nhà quốc hội và Phủ Chủ tịch nước Cộng ḥa XHCN Việt nam hiện nay.

    V́ cuộc sống quá khổ cực như vậy, nên con gái bà suy kiệt sức khỏe mắc bệnh viêm phổi nặng và đă chết mà chưa nh́n thấy công lư. C̣n Hồ sơ của bà đă gửi đến rất nhiều các cơ quan có thẩm quyền và báo chí trong nước, nhưng không hề được giải quyết. Sau nhờ có tôi chuyển giúp vụ kiện đ̣i nhà của bà Xanh tố cáo lên mạng Internet, đă dÊy nªn sự xúc động và bất b́nh mạnh mẽ của dư luận rộng kh¾p thế giới trưôùc thảm cảnh này. Sự kiện trên cũng chấn động đến báo chí trong nước như tờ Tiền phong cũng đă lên tiếng, phản ánh cảnh ngộ đau thương, bi thảm của gia đ́nh bà Xanh và dư luận nhân dân trong nước cũng hết sức bất b́nh và phẫn nộ. 

    Cho nên cuối năm 2005, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phan van Khai đă phải trực tiếp can thiệp và gia đ́nh bà Xanh đă trở về căn nhà cũ. Tin này tôi được biết qua báo Nhân dân khi đang ở trong tù và cũng được gia đ́nh cho hay bà Xanh và nhiều người dân oan đi khiếu kiện nhà ở Đồng Nai, Sóc Trăng, Phú Thọ… đă đến nhà tôi, thăm hỏi và cám ơn về việc tôi đă làm giúp họ. 

    Những trường hợp oan khuất, đau khổ, mất nhà cửa, ruộng đất như gia đ́nh bà Xanh không phải hiếm ở trên đất nước này, hiện nay đầy dẫy đang chầu chực khiếu kiện trước các cơ quan công quyền của Đảng và Nhà nước CSVN tren khap ca nuoc va dang un un keo ve Thu Do Hanoi. Nhiều trường hợp người dân quá uất ức đă t́m đến cái chết, tự thiêu để cảnh tỉnh bộ máy đầy quyền lực của Đảng CSVN và đánh động dư luận xă hội về t́nh trạng thối nát, áp bức đè nén dân lành của các quan chức Việt Nam, mà sự lộng hành của các quan lại này được sự bao che của Đảng CS do người dân không có quyền dân chủ, tự do. 

Thật ra những việc tôi làm, nếu trong một xă hội có tự do dân chủ chỉ là việc b́nh thường của một nhà báo, một phóng viên độc lập hoàn toàn với hệ thống báo chí “quốc doanh” do nhà nước kiểm soát, khống chế.

 

The nhưng ở đây, mọi hành động của tôi đều bị theo dơi chặt chẽ sát sao ngày đêm. Bộ công an Việt Nam lập chuyên án bí số 8-11X (chuyên án bắt đầu được thành lập ngày 8-11-2001). Tối 28-12-2001, nhà riêng của gia đ́nh tôi ở số 11 Ngơ Tràng Tiền – Hà Nội, bị bao vây tứ bề, tôi không thể gửi tiếp tin bài lên mạng. Sau khi trao đổi ư kiến với cụ Trần Độ và ông Nguyễn Thanh Giang, được hai người góp ư, tôi đọc toàn văn đơn tố cáo của 2 chị em cô Vũ Thanh Phương, Vũ Thiên Trang ở Xuân Lộc – Đồng Nai và một số phụ nữ khác là nạn nhân của vụ đàn áp tại TP Hồ Chí Minh xảy ra cuối năm 2000 qua điện thoại di động cá nhân cho báo chí bên ngoài của hải ngoại ghi âm và đăng báo.

Lá đơn tố cáo này làm tôi rất cảm động, tôi đă đưa cho cụ Trần Độ, cụ Hoàng Minh Chính và ông Nguyễn Thanh Giang xem trước đó vài ngày và mọi người đọc xong đều có xúc cảm giống tôi. Người nhận thông tin về nội dung đơn và các bản tin ngắn về các cuộc biểu t́nh ở Hà Nội của tôi tối hôm đó là ch̃ Nguyễn Thị Thanh Vân, phụ trách tờ báo Dân chủ của LMVNTD ở Paris. Nội dung đơn tố cáo việc Công an TP Hồ Chí Minh thời Giám đốc Bùi Quốc Huy và Chủ tịch thành phố Vơ Viết Thanh đă điều động hàng trăm cảnh sát đàn áp, đánh đập dă man 69 phụ nữ căng băng rôn, biểu ngữ kêu oan trước trụ sở Ban tiếp dân của Đảng và chính phủ VN trên đường Lê Duẩn trước dinh Độc lập cũ ở Sài g̣n.

Trong khi tôi đọc toàn văn lá đon này trên tầng 3 nhà tôi, th́ ở dưới đường hàng chục công an tay lăm lăm bộ đàm gọi điện đi các ni để xin ư kiến bắt tôi. T́nh h́nh lúc đó cực kỳ căng thẳng ngột ngạt. Toàn bộ cuộc điện thoại này đă bị công an ghi âm lén lút và lấy làm chứng cứ quan trọng, để sau này Ṭa án nhà nước VN buộc tội tôi tại phiên ṭa của chế độ Cộng sản. 

 

Nhờ những hoạt động trên, tôi không ngờ đă được một số anh em trong nước và báo chí quốc tế đánh giá tôi là người đi tiên phong trong việc phơi trần sự bất công, áp bức xảy ra trong ḷng đất nước trước cộng đồng thế giới trên mạng Internet. Và giờ đay toi không đon thưong độc mă trong công việc của ḿnh, nhiều người dân bị oan khuất trong nước đă biết gửi đơn thư tố cáo lên mạng Internet toàn cầu khá rầm rộ, nhiều trang Website của hai ngoại đă mở cac mục “Dân oan” để chuyên tiếp nhận những đon thư tố cáo của nhân dân trong nước!

Bây giờ tôi đă được dư luận thế giới và trong nước biết đến và ủng hộ rất mạnh mẽ. Với tất ca những sự kiện đă xay ra cho tôi và gia đ́nh tôi, toi có quyền nói rằng tôi là 1 tù nhân lương tâm, 1 tù chính trị trong những người tù chính trị ở Việt Nam như : bác sỹ Nguyễn Đan Quế, tiến sỹ Hoàng Minh Chính, ḥa thượng Thích Quảng Độ, giáo sư Nguyễn Đ́nh Huy, linh mục Nguyễn Văn Lư, TS. Hà Sỹ Phu, cựu đại tá Phạm Quế Dương, cựu đại tá công an Lê Hồng Hà, mục sư Nguyễn Hồng Quang, GS.Đoàn Viết Hoạt, GS.Trần Khuê, TS.Nguyễn Thanh Giang, nhà báo Nguyễn Vũ B́nh, bác sỹ Phạm Hồng Sơn, và c̣n rất nhiều gương mặt khác …

*** 

CUỘC ĐẤU TRANH QUYẾT LIỆT TRƯỚC TOÀ ÁN

Khi mới bị bắt, Nhà nước Cộng Sản VN gán cho tôi tội “Tuyên truyền chống nhà nước XHCN” theo điều 88 Bộ luật h́nh sự. Đến tháng 8-2002, họ chuyển đổi truy tố tôi tội danh “Tội gián điệp” theo điều 80 Bộ luật h́nh sự. Tại trại giam B14 tôi tuyệt thực 11 ngày (từ ngày 13-8-2002 đến ngày 23-8-2002) đấu tranh phản đối việc bắt giam và truy tố tôi phi pháp. Trong cả 2 cấp xét xư,û sơ thẩm ngày 20-12-2002 và phúc thẩm ngày 1-4-2003, víi lư lẽ chắc chắn, viện dẫn từng điều luật của Bộ luật Tố tụng h́nh sự, của Bộ luật h́nh sự và của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, tôi chứng minh hùng hồn và đanh thép rằng Đảng và nhà nước cùng với các cơ quan gọi là bảo vệ pháp chế XHCN ở Việt Nam không tôn trọng các quyền con người, quyền công dân. Việc bắt giam và xét xử bỏ tù t«i, thực ra chỉ là vụ đàn áp những người khác chính kiến với ĐCS VN. Và thực tế gọi là xét xử theo pháp luật của Ṭa án nhà nước cộng sản chỉ là hành vi “ Lấy cường quyền thay cho luật pháp”, “Lấy chuyên chế độc tài thay cho công lư ” ! 

Trước 1 ngày, ở cả 2 cấp xét xử - sơ thẩm ngày 19-12-2002 và phúc thẩm ngày 30-3-2003 tại trại giam B 14 của Tổng cục an ninh c̣n gọi là “Trung tâm thẩm vấn an ninh quốc gia” ở xă Thanh liệt huyện Thanh tŕ ngoại thành Hà Nội. Đại tá Nguyễn Ngọc Phi giám thị trại trưởng, theo lệnh trên, đă gặp riêng t«i, ở pḥng thẩm vấn 318 và 214 để mặc cả và đe dọa : “ Nếu anh đưa sự thật vụ án ra trước ṭa, th́ án sẽ nặng lên từ 18-20 năm trở lên. Ngược lại, nếu anh chỉ khai trước ṭa đúng như cáo trạng và kết luận của cơ quan an ninh điều tra viết, th́ án chỉ bằng Lê Chí Quang hoặc hơn 1 chút, khoảng 5-6 năm là cùng ! ” .

 

Đứng trước t́nh thế đó, tôi không he nao núng ư chí và bác bỏ tất cả các điều kiện mà viên giám thị Đại tá đưa ra và nói ngay : “ Sự thật có thế nào tôi công khai nói như thế. Các anh làm sai, vi phạm luật tố tụng nghiêm trọng. Bây giờ lại kéo tôi cũng sai phạm theo sao !? Trong vụ án này c̣n có rất nhiều người tham gia chỉ đạo phong trào đấu tranh dân chủ như tướng Trần Độ, Cụ Hoàng Minh Chính, cựu đại tá Lê Hồng Hà, tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang, cựu đại tá Phạm Quế Dương … Nhưng chính Đảng và Nhà nước không dám đụng vào những nhân vật này mà ngược lại c̣n ra sức “ bảo vệ ” họ. Do vậy, vụ án này là hoàn toàn phi pháp !”. Tôi chỉ ra cho viên só quan đại tá giám thị trưởng Trại B14 Thanh Liệt Hà Nội từng điểm chiểu theo Bộ luật H́nh sự, Luật Tố tụng h́nh sự và Hiến pháp của chính nước CHXHCNVN mà các cơ quan tham gia tố tụng đă vi phạm luật pháp một cách đặc biệt nghiêm trọng. Va đă làm viên đại tá này bối rối không thể thuyết phục hay bác bỏ được bất cứ điều ǵ đối với tôi nữa ,đành buộc phải để tôi trở lại buồng giam một cách bất lực…

Và mỉa mai thay, tất cả những nhà tranh đấu dân chủ có tên được nêu trong hồ sơ vụ án của tôi như Tướng Trần Độ, Cụ Hoàng Minh Chính, ông Lê Hồng Hà, ông Phạm Quế Dương, ông Hoàng Tiến đều đ̣i được vào đứng trước vành móng ngựa của ṭa án để cùng chịu sự xét xử như t«i. Nhưng trước khí phách ngoan cường của các nhà dân chủ đang đứng ngoài toà án, nhà nước CS VN với những tính toán của ḿnh ra sức ngăn cản không cho họ vào dự phiên xét xử t«i, dù là tư cách bị cáo hay là người có liên đới đến vụ án.Hai người em ruột của tôi là Kỹ sư Nguyễn Thế Hưng bay từ thành phố Sài G̣n ra và Nguyển Xuân Phúc đă làm đầy đủ các thủ tục theo đúng những quy định của “Ṭa án Nhân dân thành phố Hà Nội” đă hướng dẫn để được vào dự phiên ṭa va øđồng thời làm “Bào chữa viên Nhân dân” theo đúng các quy định của pháp luật. Nhưng ngay sau đó, cả 2 người em ruột của tôi đă bị chính cái “Ṭa án Nhân dân TP Hà Nội” và Bộ công an VN,Tổng cục An ninh, Cục A 42 chỉ đạo gây khó khăn, ngăn cản không cho các em của tôi lọt vào dự cái gọi là xét xử “Công khai vụ án Nguyễn Khắc Toàn phạm tội gián điệp theo điều 80 Bộ luật H́nh sự của nước CHXHCN VN” !!! Mà hệ thống Báo chí và Truyền h́nh của Đảng và nhà nước la lối, quảng cáo om x̣m….. (Trong bản kết luận điều tra của công an có nêu tên Tướng Trần Độ lúc đó c̣n sống ,ông Hoàng Minh Chính,ông Lê Hồng Hà,ông Phạm Quế Dương và ông Nguyễn Thanh Giang cùng một số người khác…..Tôi sẽ công bố toàn văn các văn bản này như : Cáo trạng của Viện Kiểm sát ,Bản án h́nh sự sơ thẩm và phúc thẩm của ṭa án ,Kết luận điều tra của cơ quan công an…. trong thời gian tới đây để dư luận rộng răi tỏ tường một phần sự thật bí hiểm được che dấu mấy năm qua)

Ngay Tướng Trần Độ lúc đó c̣n sống, tôi cũng thông báo cho ông từng ngày từng giờ việc toơi bị theo dơi gắt gao và có thể sắp tới sẽ bị bắt. Trước khi toơi bũ baột ít ngày Tướng Trần Độ đă nói: “Tôi sẵn sàng ngồi trên xe lăn ra ṭa cùng với Nguyễn Khắc Toàn, để tra lời trước toà án nhà nước về những việc tôi giao cho anh Toàn làm và toơi đă cùng làm với anh Toàn”. !!!

Tại phiên xử phúc thẩm ngày 1-4-2003, khi phần thủ tục mở đầu phiên toà kết thúc, chủ tọa Nguyễn Quốc Cường đă đưa ra 1 đề nghị quan trọng : “Bị cáo có quyền đề nghị đ́nh chỉ vụ án”. Nếu chấp nhận như vậy, tôi không phải tŕnh bày ǵ nhiều các t́nh tiết của toàn bộ vụ án và chủ tọa có thể tuyên bố “tạm tha bị cáo” ngay tại phiên ṭa. Nhng điều đó không lay chuyển được ư chí của tôi và tôi đă khẳng định đây là 1 phiên ṭa dối trá, đáng xấu hổ cho nền tư pháp VN XHCN v́ tất cả những ǵ ghi trong nội dung cáo trạng và kết luận điều tra chỉ là 20% sự thật so với những ǵ đă diễn ra trên thực tế của toàn bộ vụ án chính trị.

Mot lần nữa, tôi lại tiếp tục bác bỏ đề nghị đó của thẩm phán chủ tịch hội đồng xét xử và tranh luận gay gắt với toàn bộ” Hội đồng xét xử”. V́ thấy việc xét xử vi phạm luật tố tụng, các c quan tham gia tố tụng có dấu hiệu vi phạm luật h́nh sự, không vô tư khách quan. Nên toơi đ̣i thay đổi toàn bộ “Hội đồng xét xử”. Trước toà án toơi tuyên bố những hoạt động của toơi v́ dân chủ, v́ quyền công dân, v́ quyền con người là hoàn toàn phù hợp với các quyền tự do dân chủ của công dân được quy định cụ thể trong Hiến pháp của Nước CHXHCN VN. Đồng thời nó cũng phù hợp với các điều được quy định trong Công ước quốc tế về quyền con người mà Nhà nước Việt Nam tham gia kư và cam kết thực hiện từ năm 1982. Toơi cũng khẳng định ủng hộ kiên quyết cuộc đấu tranh bằng phưng pháp bất bạo động, đ̣i dân chủ hoá toàn diện đất nước mà các nhà lăo thành cách mạng tiền bối, giới trí thức và nhiều tầng lớp khác là hoàn toàn chính nghóa. Cuộc tranh đấu ấy nó giống như sự nghiệp tranh đấu chống Thực dân Pháp và phong kiến, đ̣i độc lập dân tộc của các chí só như các Cụ Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Lưng Văn Can, Nguyễn An Ninh… trước đây.

Khi “hội đồng xét xử” đặt câu hỏi anh nghó thế nào về ĐCS VN ? Toơi đă tr lời: “ĐCS VN trước đây được sn sinh ra từ dân tộc, đấu tranh v́ mục tiêu độc lập dân tộc, là một đng yêu nước. Trên hành tŕnh lịch sử của ḿnh ĐCS VN đă có một số đóng góp cho độc lập dân tộc và sự phát triển đất nước. Nhưng ĐCS VN cũng đă có rất nhiều sai lầm nghiêm trọng làm tổn hại cho nhân dân và đất nước. Giờ đây thời đại đă thay đổi dân chủ hoá toàn cầu đang lan rộng khắp ni, ĐCS VN đă không theo kịp bước tiến bộ của thế giới đă để cho đất nước tụt hậu về mọi mặt. V́ thế đă gây nên sự bức xúc lớn cho xă hội và nhân dân. Đối với đất nước ta trước mắt chỉ có con đường dân chủ hoá và không có con đường nào khác để tiến lên trở thành một quốc gia văn minh, tiến bộ, thịnh vượng. Phong trào đấu tranh trong nước đ̣i dân chủ hoá, đ̣i xây dựng một xă hội đa nguyên và hệ thống chính trị đa đng là đúng đắn, hoàn toàn chính nghóa laứ ủoứi thửùc hieọn daơn chuỷ thửùc sửù. C̣n đối với ĐCS VN th́ chủ trưng xây dựng và duy tŕ CNXH, dân chủ tập trung kiểu Mác-Lênin đă quá lạc hậu và lỗi thời”…Truoc cau tra loi nhu vay “Hoi dong xet xu” da khong the bac bo duoc gi doi voi toi va tat ca chi im lang ma thoi ….

Cịng tại phiên phúc thẩm này, tôi đă yêu cầu Ṭa án phải xét xử song song 2 vụ án cùng một lúc th́ mới đảm bảo tính triệt để và đúng pháp luật :

Vụ án thứ 1 : Ṭa án phải xét xử những người bất đồng chính kiến đấu tranh chống lại ĐCS VN, đ̣i dân chủ hóa đất nước bao gồm từ tướng Trần Độ, ông Hoàng Minh Chính, TS. Nguyễn Thanh Giang, ông Lê Hồng Hà, ông Phạm Quế Dương … và cùng với Nguyễn Khắc Toàn.

Vụ án thứ 2 : Ṭa án phải xét xử những người và những cơ quan đă tham gia tố tụng vụ án chính trị này v́ đă vi phạm vào các điều luật “xâm phạm hoạt động tư pháp” theo Bộ luật h́nh sự của nước CHXHCN VN và các điều luật quy định bắt buộc theo thủ tục tố tụng của Bộ luật tố tụng h́nh sự. Cụ thể họ đă vi phạm 8 tội danh sau :

1/ Điều 125 : Tội xâm phạm các bí mật hoặc an toàn thư tín điện thoại, điện tín của người khác.

2/ Điều 132 : Tội xâm phạm quyền khiếu nại tố cáo của công dân.

3/ Điều 293 : Tội không truy cứu trách nhiệm h́nh sự người có tội.

4/ Điều 295 : Tội ra bản án trái pháp luật.

5/ Điều 296 : Tội ra quyết định trái pháp luật.

6/ Điều 297 : Tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái luật pháp. 

7/ Điều 299 : Tội bức cung.

8/ Điều 300 : Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án.

Cả 2 cấp xét xử trên, ṭa án Nhà nước CS vi phạm pháp luật của chính ḿnh đặc biệt nghiêm trọng và việc đọc bản án bỏ túi đă viết sẵn kết án 12 năm tù giam và 3 năm quản chế không hề làm tôi run sợ. Ngược lại đứng trước phiên ṭa xét xử, tôi trả lời dơng dạc những hoạt động của tôi là hoàn toàn phù hợp với các quyền công dân được quy định ở điều 69 Hiến pháp Nước CHXHCN VN. Các quyền tự do dân chủ đó cũng phù hợp với Công ước Quốc tế về nhân quyền mà nhà nước Việt Nam đă tham gia kư kết. Cho nên tôi đă kiên quyết yêu cầu ṭa án Hà Nội và Ṭa án tối cao VN xét xử theo đúng luật pháp và tôi không hề xin sự khoan hồng, cũng như không quan tâm đến việc kết án tôi bao nhiêu năm tù giam.

Tại phiên ṭa, tôi đă yêu cầu mạnh mẽ 2 luật sư hỗ trợ cho tôi về mặt tư pháp, vạch rơ vụ án xét xử là hoàn toàn trắng trợn và phi pháp. Đặc biệt 2 luật sư tham gia bào chữa cho tôi là LS. Trần Lâm và LS. Đàm Văn Hiếu là những đang viên CS VN kỳ cựu hơn 50 tuổi đảng và cũng là những người đă chứng kiến toàn bộ diễn biến trong 2 phiên ṭa đó. Hai luật sư đă khai thác những điểm vô lư lộ ra trong hồ sơ vụ án, trong nội dung cáo trạng, trong kết luận điều tra, và cụ thể trong các bản cung để chất vấn lại hội đồng xét xử làm toàn bộ hội đồng xét xử lúng túng và bẽ bàng. Trong lời nói cuối cùng trước khi hội đồng xét xử tuyên án, tôi xin phép được nói không hạn chế thời gian theo quy định đúng với luật Tố tụng h́nh sự và tôi đă phát biểu như sau: “ Đây là một vụ án hoàn toàn phi pháp, nó chà đạp trắng trợn lên chính luật pháp của Nhà nước. Cách hành xử của Toà án là chỉ mang một ḿnh tôi ra để xét xử, tôi thấy thật là đáng xấu hổ thay cho ca một bộ máy công quyền. Người ta không lạ ǵ mấy chục năm qua Đang và Nhà nước VN đă vu cáo những người yêu chuộng dân chủ tự do và quyền con người. Gán ghép cho họ nào là : tội phan bội tổ quốc, tội âm mưu lật đổ chính quyền, tội chia rẽ, phạ hoai chính sách đoàn kết, tội tuyên truyền chống nhà nước XHCN, tội gián điệp t́nh báo cho nước ngoài … Nếu nước ta là một nước có chế độ dân chủ, tôn trọng các quyền con người căn bản th́ tôi hoàn toàn vô tội. Nếu đem tôi xét xử th́ Nhà nước phải tôn trọng triệt để luật pháp của chính ḿnh. Nhà nước không nên lạm dụng quyền lực của ḿnh để đàn áp, khủng bố riêng một ḿnh tôi...”

Trước sự phát biểu thẳng thắn của tôi như vậy, chủ toạ phiên toà đă ra lệnh cho 2 cảnh sát ngồi cạnh toơi trước vành móng ngựa dùng vũ lực xốc nách đưa toơi vào căn buồng bên cạnh không cho toơi nói lời cuối cùng của vụ xét xử. Sự việc đó diễn ra trước mặt mẹ toơi là bà Tran thi Quyet, em trai toơi là Nguyễn Xuân Phúc và gần trăm người dự phiên toà hôm đó tai Tru so toa an Toi cao cuoi pho Doi can Quan Ba Dinh Ha noi 

 

Và cần phải nói thêm rằng, trong những lần được gặp luật sư tại trại giam B 14 để chuẩn bị ra Ṭa, tôi đă công khai cổ vũ và động viên mạnh mẽ cả 2 luật sư Trần Lâm và Đàm Văn Hiếu hăy đứng hẳn về phía những người đấu tranh cho dân chủ, bênh vực công lư và lẽ phải trước sự giám sát của sỹ quan trại giam thiếu tá Thế Kiệt. 

Vụ xử án đó đă diễn ra cách đây gần 4 năm, nhưng dư âm và những h́nh ảnh sôi động tranh đấu tại toà án vẫn c̣n in đậm măi trong trí nhớ của tôi. Tôi có được sức mạnh như vậy là nhờ noi theo gương đấu tranh dũng cam vô uư của Tướng Trần Độ, Cụ Hoàng Minh Chính , Hoa Thuong Thich Quang Do và các bậc tiền nhân khác. 

***

MẤY NÉT VỀ CUỘC SỐNG TRONG LAO TÙ

Sau hơn 15 tháng bị giam cầm tại xà lim B 14 và đưa ra các ṭa án ở Hà Nội “xét xử” , đến ngày 25-4-2003 tôi bị chuyển sang trại giam Ba Sao - Nam Hà, tỉnh Hà Nam để lao động khổ sai. Trước khi vào buồng 6 phân trại 3, trại giam Nam Hà tôi bị khám xét đồ đạc và bị tịch thu toàn bộ hồ sơ vụ án mà các cơ quan tố tụng ở Hà Nội đă giao cho tôi, như kết luận điều tra của công an, các lệnh giam, cáo trạng của Viện Kiểm sát, bản án sơ và phúc thẩm, các đơn thư tố cáo gửi Đảng và nhà nước… Ngay ở trại giam B 14 và khi bị chuyển đến trại giam Nam Hà, tôi liên tục viết đơn tố cáo vụ bắt giam và xét xử phi pháp, đàn áp các quyền con người của các cơ quan gọi là bảo vệ luật pháp ở VN.

 

Tại trại giam Ba Sao - Nam Hà, tôi luôn đứng đầu các cuộc đấu tranh đ̣i cải thiện chế độ lao tù, bênh vực anh em bị tù cùng ḿnh đặc biệt là anh em bà con dân tộc người Thượng ở Tây Nguyên. V́ hành động này, tôi đă bị Ban giám thị trại giam Nam Hà khép tội vi phạm nội quy trại giam. Ngày 11-7-2003, tôi bị kỷ luật cùm chân và biệt giam một ḿnh ở trong xà lim tối tăm có 4m2 trong h¬n 3 th¸ng và bị tước đoạt nốt chút quyền sống tối thiểu của người tù. Cụ thể trong thời gian này có suốt tuần lễ liền tôi không được cung cấp nước sạch làm vệ sinh cá nhân, như : không cho tắm rửa, không đánh răng rửa mặt. Sau giai đoạn này, nhiều ngày không được cho ăn muối, rau xanh, không cho đọc sách, báo, không cho nhận thư, quà cũng như viết thư và gặp gia đ́nh. . . Người duy tŕ cai quản lệnh kỷ luật biệt giam tôi trong suốt thời gian này là Thượng uư Vũ Văn Tài, quê gốc Hải Hậu – Nam Định. Viên só quan trẻ, đảng viên ĐCS VN sinh năm 1974 cũng đồng thời là quản giáo trực tiếp tôi tại buồng giam số 6 phân trại 3- trại giam Nam Hà c̣n có rất nhiều đối xử hành hạ khác đối với tôi từ ngày tôi bị chuyển từ trại B14 Hà Nội đến đây, cho tới ngày 16-12-2003 tôi lại chuyển sang buồng số 1 và 2 phân trại 1, trại giam Nam Hà. Ở phân trại này tuy cùng bị giam một chỗ với LM Nguyễn Văn Lư, Nguyễn Vũ B́nh và Phạm Hồng Sơn, Trương Văn Sương… nhưng chúng tôi bị tách ra mỗi người một nơi và cấm không được gặp nhau, liên lạc với nhau dù chỉ là nh́n nhau qua khe cửa buồng giam khi được đi ra ngoài gặp gia đ́nh hoặc khi đi gặp cán bộ công an… 

Toàn bộ đơn từ của toi, gửi các cấp lănh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ như gửi Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, Thủ tướng chính phủ Phan Văn Khải. Và đồng kính gửi các cơ quan luật pháp như ông Hà Mạnh Trí Viện trưởng Viện Kiểm sát ND tối cao, ông Nguyễn Văn Hiện chánh án Ṭa án ND tối cao, Đại tướng Lê Hồng Anh Bộ trưởng Bộ công an và các cơ quan thông tấn báo chí trong nước, theo quy định cua luat phap th́ đều bị tịch thu, xé bỏ. Ban giám thị trại giam Nam Hà liên tục tổ chức khám buồng giam để tịch thu giấy, bút viết và 3 cuốn sách luật pháp do gia đ́nh gửi. Ba cuốn sách đến nay vẫn bị Ban giám thị trại giam giữ, chưa trả lại là các cuốn : Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng h́nh sự và Bộ luật H́nh sự của Nhà nước CHXHCN VN, mặc dù hiện nay tôi đă ra tu duoc may thang roi. 

 

ÁP LỰC QUỐC TẾ VÀ DƯ LUẬN TIẾN BỘ

Trong suốt hơn 4 năm tôi bị nhà nước VN giam cầm, nỗ lực tranh đấu của phong trào đấu tranh đ̣i thả tôi và những người đấu tranh dân chủ khác khỏi nhà tù ở bên ngoài rất mạnh mẽ, kiên tŕ và bền bỉ, tạo áp lực lớn lên Chính phủ Việt Nam. Nhiều chính phủ tiến bộ trên thế giới, nhiều tổ chức phi chính phủ khác như : Tổ chức theo dơi nhân quyền HRW, Tổ chức Ân xá quốc tế, Ủy ban bảo vệ các nhà báo quốc tế CJP, Tổ chức kư giả không biên giới, Tổ chức luật sư quốc tế... đă lên tiếng phê phán nhà cầm quyền Hà Nội và đ̣i trả tự do cho tất c những người tranh đấu dân chủ vô điều kiện, trong đó có tôi.

Ngày 17-10-2002, Tổ chức luật sư quốc tế ở Hoa Kỳ – INTER-PACIFIC LAW GROUP, INC co tru so o thanh pho Oakland, California, đă có văn bản gửi Chủ tịch nước Trần Đức Lương đề nghị được sang Việt Nam để bào chữa cho tôi và các trí thức dân chủ trẻ tuổi khác là Nguyễn Vũ B́nh và Phạm Hồng Sơn…..

 

Đoàn luật sư của Việt kiều ở hải ngoại do LS Trần Thái Văn ( Nam Cali ) kiêm phó thị trưởng thành phố Garden Grôve dẫn đầu cùng 2 LS khác là Nguyễn Tâm ( Bắc Cali ) và LS Hoàng Duy Hùng ( Houston ) đă làm các thủ tục đ̣i sang Việt Nam để bào chữa cho tôi, nhưng bị chính phủ CS Việt Nam ra sức ngăn cản.

 

Nghị viện Châu Âu EP ra nghị quyết tháng 5-2003, đ̣i hủy bỏ bản án và trả tự do cho tôi và Lê Chí Quang. Sau đó liên tiếp trong các năm 2004-2005, Nghị viện Châu Âu EP ra nhiều nghị quyết đ̣i trả tự do cho tôi và các nhà báo Nguyễn Vũ B́nh, bác sỹ Phạm Hồng Sơn, Linh mục Nguyễn Văn Lư, baực syừ Nguyễn Đan Quế, ông Phạm Quế Dưng, ông Trần Dũng Tiến...

 

Ngày 21-9-2002, ở Châu Âu và nhiều nước trên thế giới đă tổ chức biểu t́nh tuyệt thực trước Toà đại sứ của Nhà nước CS VN từ Oa-sinh-tn, Pais, Rôma, Luân đôn, Madrid, Moskva, Brussels, Pretoria… Và có 117 dân biểu thuộc Quốc hội Liên Âu đă kư tên vào bức thư chung gửi chế độ Hà Nội và nhiều chính phủ khác trên thế giới, đồng thời tham dự các cuộc biểu t́nh tuyệt thực. Nhiều nhân vật tranh đấu cho nhân quyền nổi tiếng như ông Nguỵ Kinh Sinh người Trung Quốc, ông Oliver Dupuis dân biểu Quốc hội Liên Âu, ông Sergei kovaliev, bà Lutmila Alekseeva, ông Nguyễn Văn ái… đă tham gia biểu t́nh tuyệt thực và phan đối đàn áp nhân quyền ở Việt Nam. 

Ngày 8-01-2004, các Hạ nghị sỹ, Thượng nghị sỹ Hoa Kỳ như ông Christopher H. Smith, ông Sam Brownback đă cử các trợ lư của ḿnh sang tận Hà Nội, Liên minh châu Âu EU đă cử các bí thư chính trị và báo chí của các Ṭa Đại sứ Italia, Hà Lan, Anh . . . Các vị này đă tới nhà riêng ở Hà Nội gặp mẹ tôi là bà Trần Thị Quyết – 80 tuổi và các em trai là Nguyễn Xuân Phúc, kỹ sư Nguyễn Trung Dũng thăm hỏi gia đ́nh và cam kết sẽ can thiệp với chính phủ Việt Nam để đ̣i trả tự do cho t«i.

Ngày 24-9-2003, Tổ chức phóng viên không biên giới - trụ sở ở Paris đă gửi thư cho Bộ trưởng tư pháp Việt Nam ông Uông Chu Lưu, phản đối việc bắt giam các nhà báo Trần Khuê, Nguyễn Vũ B́nh, Nguyễn Khắc Toàn, Nguyễn Đan Quế… và đ̣i trả tự do cho họ.

 

Các vị dân biểu Ôstrâylia là ông Jack Snelling, nghị sỹ Sato Santoro, các vị dân biểu Pháp và Âu châu, 5 vị dân biểu Mỹ là Loretta San chez, Chiristophe Smith, Ellen Tan Scher, Elijah Cummigs và Edward Royce đă lên tiếng trước Quốc hội và đă gửi thư cho Nhà nước VN phan đối vụ đàn áp những người dân chủ và đ̣i tha tự do cho họ, trong đó có tôi.

Nhiều nhà báo quốc tế sang Việt Nam và trong cả dịp sang đưa tin về hội nghị ASEM –5 hoi thang 10 nam 2005 đă tới gia đ́nh tôi t́m hiểu nội dung vụ án lấy tư liệu viết báo công bố với thế giới về t́nh trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam.

Làn sóng biểu t́nh rầm rộ của đồng bào hải ngoại ở khắp nơi trên thế giới đă nổ ra không chỉ ở các quốc gia có truyền thống dân chủ tự do như nước Mỹ, Pháp, Na Uy, Bỉ, Ôâââstrâylia, Hµ Lan, CHLB Đức … mà c̣n diễn ra ở các nước khác thuộc khối XHCN cũ như Matscơva – CHLB Nga, Ba Lan, TiƯp kh¾c … đ̣i trả tự do cho các nhà dân chủ trong đó có t«i.

 

Ngày 18-01-2003, ông Amor Đại diện Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp quốc đă gặp Cộng đồng người Việt Nam ở Châu Âu và hứa với phái đoàn sẽ tiếp tục áp lực lên Hà Nội để Linh mục Nguyễn Văn Lư, Đại lăo ḥa thượng Thích Huyền Quang, ḥa thượng Thích Quảng Độ, cụ Lê Quang Liêm, Nguyễn Khắc Toàn và các tù nhân lương tâm khác sớm ra khỏi chốn tù đầy…(Theo Vietnam Voice Of Democracy và Vietbao.com ngày 20-1-2003).

 

“Từ ngày 2 đến ngày 6 tháng 3-2004, 144 tổ chức nhân quyền họp Đại hội nhân quyền thế giới ở thủ đô Quito- Equya Đor Trung Mỹ đă ra nghị quyết bênh vực cuộc đấu tranh đ̣i tự do tôn giáo, ủng hộ các hoà thượng Thích Huyền Quang, Thích Qung Độ và linh muùc Nguyeón Vaờn Lyự trong đó có nêu vieọc đ̣i tr tự do cho Nguyễn Khắc Toàn vaứ nhửừng ngửụứi ủaỏu tranh daơn chuỷ treơn maùng. Cần nhắc lại rằng từ những năm 20 của thế kỷ trước Liên đoàn đă đ̣i chế độ thực dân Pháp phá bỏ bn án tử h́nh cho cụ Phan Bội Châu, bênh vực giai thoát cho cụ Phan Châu Trinh ra khỏi nhà tù Côn Đo. Và từ 20 năm qua Liên đoàn đă không ngừng lên tiếng ủng hộ sự nghiệp đấu tranh v́ nhân quyền và dân chủ ở VN”. (theo tư liệu của LMVNTD)

Trong bức thư phúc đáp ngày 15-11-2004, của ông János Benyhe Tổng Thư kư Trung tâm Văn bút Hunggary (Magyar PEN Club) gửi thi sỹ Nguyên Hoàng Bảo Việt – hội viên trung tâm văn bút Thụy Sỹ Pháp thoại có đoạn viết:

“Chúng tôi thật vô cùng xúc động, bàng hoàng khi được bạn cho biết những tin tức liên quan đến thân phận đau thương của nhà viết tiểu luận và nhà báo Nguyễn Khắc Toàn. Văn hữu của chúng ta bị giam nhốt từ 2 năm qua chỉ v́ đă lên tiếng bảo vệ nhân quyền và dân quyền ở Việt Nam… Trường hợp văn hữu Nguyễn Khắc Toàn đă khiến chúng tôi rất bất b́nh và công phẫn. Để phản đối sự nhốt tù bất công đối với văn hữu Việt Nam, Trung tâm Văn bút Hunggary chúng tôi quyết định trao tặng danh hiệu và quy chế Hội viên danh dự của Magyar PEN Club cho nhà văn kiêm nhà báo Nguyễn Khắc Toàn. Chúng tôi cũng biết thêm rằng văn hữu tù nhân Nguyễn Khắc Toàn c̣n được sự ủng hộ của Ân Xá Quốc Tế, Tổ chức Quan Sát Nhân Quyền, Phóng Viên Không Biên Giới, Hiệp Hội Báo Chí Thế Giới, Uûy Ban Bảo Vệ Kư Giả cũng như Hội Văn bút Quốc Tế của chúng ta.

Quyết định của chúng tôi sẽ được thông báo ngay cho bà Sara Whyatt, Giám đốc Chương Tŕnh của Uûy Ban Văn bút Quốc Tế bênh vực nhà văn bị cầm tù”.

 

Ngày 10-8-2005, ôââng Michael Marine đại sứ đặc mệnh toàn quyền Hợp chủng quốc Hoa Kỳ tại Hà Nội đă gửi thư cho 3 gia đ́nh, bức thư viết:

“ Xin cảm ơn quư vị đă gửi cho tôi bản sao lá thư đề ngày 10-6-2005, mà quư vị đă gửi cho Tổng thống Bush và Thủ tướng Phan Văn Khải.

Tôi rất xúc động bởi những t́nh cảm mà quư vị bày tỏ trong bức thư và chia sẻ hy vọng của quư vị là con trai và chồng của quư vị, ông Nguyễn Khắc Toàn, bác sĩ Phạm Hồng Sơn và ông Nguyễn Vũ B́nh sẽ sớm được phóng thích. Tôi và các viên chức Đại sứ quán thường xuyên đề cập đến các trường hợp liên quan đến thân nhân của quư vị cũng như những tù nhân bất đồng chính kiến khác trong các cuộc gặp với các quan chức Chính phủ Việt Nam.

Chúng tôi sẽ tiếp tục thúc giục Chính phủ Việt Nam phóng thích những tù nhân bất đồng chính kiến và cải thiện t́nh h́nh nhân quyền tại Việt Nam.”

Ngày 17-8-2005, từ Washington, D.C. ông Scot Marciel – giám đốc văn pḥng phụ trách nhân quyền của các nước Miến Điện, Căm pu chia, Lào, Thái Lan và Việt Nam thuộc Bộ Ngoại giao Hoa kỳ đă gửi một bức thư tới 3 gia đ́nh chúng tôi thăm hỏi vấn an và cam kết sẽ can thiệp mạnh mẽ với Chính phủ Việt Nam để những tù nhân này sớm được trở về nhà.

Tháng 11-2005 Ông bà đại sứ Michael Marine và ông Nathaniel G.Jensen, Bí thư thứ 2 cùng tham tán chính trị sứ quán Hoa Kỳ đă ân cần tiếp đón các gia đ́nh tôi và gia đ́nh bác sỹ Phạm Hồng Sơn … Thật vô cùng cảm động về những t́nh cảm ủng hộ của đông đảo dư luận thế giới đứng đầu là chính phủ Mỹ, các giới chức Mỹ và Liên minh Châu Âu - EU đă lên tiếng kịp thời, mạnh mẽ đ̣i chính phủ VN thả các tù nhân lương tâm và chính trị mà trong đó có tôi. 

 
NKT và ông Nathaniel G.Jensen

Ở trong nước, những cánh chim đầu đàn của phong trào tranh đấu đ̣i tự do dân chủ đă ngay lập tức và thường xuyên viết bài lên tiếng bênh vực tôi và các bạn t«i. Đồng thời tố cáo Đảng và nhà nước Việt Nam vi phạm các quyền con người, đàn áp dân chủ tự do. Điển h́nh như các vị : ông Hoàng Minh Chính, ông Lê Hồng Hà, nhà văn Hoàng Tiến, ông Phạm Quế Dương, TS. Nguyễn Thanh Giang, lăo cựu chiến binh Trần Đại Sơn, nhà báo Nguyễn Vũ B́nh lúc đó chưa bị bắt cũng lên tiếng và tích cực tham gia vận động nhiều người kư đơn tập thể đ̣i trả tự do cho tôi và BS. Phạm Hồng Sơn,nha bao Nguyen Vu Binh …

 

Tháng 10-2005, cụ Hoaứng Minh Chính nhân chuyến đi sang Mỹ chữa bệnh cụ đă được mời đọc diễn văn về vấn đề nhân quyền và dân chủ ở VN trước ủy ban đối ngoại Quốc hội Hoa Kỳ. Trong diễn văn này cụ đă đ̣i tr tự do cho ba chúng tôi là nhà báo Nguyễn Vũ B́nh, BS Phạm Hồng Sn và tôi.

Không kể sao cho hết những tấm ḷng của bè bạn trong và ngoài nước hết ḷng ủng hộ công cuộc đấu tranh đ̣i dân chủ hoá đất nước đang dâng trào cuồn cuộn suốt từ Bắc tới Nam. Con đường tranh đấu dân chủ c̣n rất lâu dài, đầy gian nan nhưng vô cùng vẻ vang và nhất định thắng lợi hoàn toàn. Toơi vinh dự được đứng trong hàng ngũ những chiến só dân chủ và góp sức nhỏ bé của ḿnh vào sự nghiệp chung đó. Toơi cũng xin chân thành cm n tất c những tấm ḷng của bạn hữu ở khắp ni đă dành cho ḿnh trong thời gian qua và hiện nay. Sự yểm trợ quư báu vô giá ấy của lương tri loài người tiến bộ trên khắp hành tinh, thật sự là nguồn cổ vũ động viên lớn lao cho phong trào tranh đấu v́ mục tiêu cao cả của tất cả các lực lượng dân chủ không chỉ ở trong nước mà cả đồng bào ta ở hải ngoại.

 

TRỞ VỀ ĐỂ TIẾP TỤC TRANH ĐẤU

Ngày 24-01-2006, trước sự đấu tranh mạnh mẽ của dư luận trong và ngoài nước, tôi đă được tạm thời phóng thích khỏi nhà tù Ba sao – huyện Kim bảng – tỉnh Hà Nam. Tôi đă trở về với gia đ́nh sum họp trong dịp Tết cổ truyền năm 2006. Tôi đă trở về với Hà Nội, thành phố thân yêu sau hơn 4 năm xa cách. Tôi cũng trở về để tiếp tục đứng vào đội ngũ những chiến sỹ đấu tranh v́ dân chủ, tự do cho Đất nước và cuộc sống ngày mai tươi sáng hơn của cả dân tộc. 

Những năm tháng bị giam cầm, đọa đầy không làm toơi chùn bước. Toơi đă từng bị giam cầm, mất tự do gần 1500 ngày đêm nên toơi càng cm thấy tự do quư giá biết bao. Toơi ư thức được rằng tự do dân chủ không phi là những thứ mà ta cầu xin được. Tự do dân chủ là những giaự trũ thieơng lieơng chúng ta phi đấu tranh giành lấy.

Câu chuyện này đă được tôi viết trong những ngày trước và sau tết, tôi đă nhiều lần mang bản thảo cho hai cụ Hoàng Minh Chính và Lê Hồng Ngọc xem và góp ư. Toơi băn khoăn, nấn ná măi mới viết xong vi` thực ḷng tôi chưa muốn viết câu chuyện trên. V́ muốn để dành câu chuyện đó vào trong cuốn hồi kư kể về những năm tháng tham gia đấu tranh và thời gian trong chốn lao tù, mà tôi sẽ hoàn thành trong thời gian tới. Những ghi chép của tôi trên đây là một dạng tùy bút nên bố cục và nội dung c̣n có thể chưa hoàn chỉnh rat mong bạn đọc cảm thông. 

Viết xong bản thảo lần thứ nhất giao thừa Bính Tuất 30-1-2006,  
và kết thúc ngµy 25-4-2006 

 

Nhà báo tự do, cựu tù nhân chính trị

 

Nguyễn Khắc Toàn 

Số 11 Ngơ Tràng Tiền

- Quận Hoàn Kiếm – Hà Nội

Mọi liên hệ với tôi theo Email: gopydtbcct2006@yahoo.com

 

Ghi chú:

Điện thoại cố định của gia đ́nh: 04. 8 260 244. Mobi: 0904 665 439 và Internet của toi đă bị cắt sau khi gửi thư góp ư Đại hội ĐCS VN, tham gia kư Lời kêu gọi ủng hộ công nhân đ́nh công, tham gia kư Lời Kêu gọi Tự do thành lập và sinh hoạt đng phái chính trị ngày 6-4-2006, tham gia vận động và kư Tuyên Ngôn Dân Chủ Tự Do 8-4-2006, tiếp ông Nathaniel G.JenSen, bí thư thứ hai Đại sứ quán Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ tại Việt nam ngày 2-3-2006, tiếp phái đoàn của Uûy ban quốc tế về quyền con người – Comité internationale des droits de l’homme ngµy 10-3-2006, tham gia cùng ông Hoàng Minh Chính tiếp phái đoàn Liên minh Châu Âu tại VN ngµy 12-3-2006…

 

May dong viet them:

Xin các bạn lưu ư, bài viết này do lỗi kỹ thuật v́ máy tính, nên trong bài viết có sử dụng nhiều font chữ khác nhau khá phức tạp, các bạn hăy kiểm tra lại và xử lư đưa về cùng một font Unicode giúp tôi, rồi phổ biến rộng răi để độc giả có thể dễ dàng đọc được. Xin chân thành cám ơn các bạn!

Đến ngày 26 tháng 5 vừa qua Bộ công an Việt nam đă chỉ đạo bưu điện Hà nội khôi phục tạm thời điện thoại cố định số 048 260 244 cho tôi,nhưng bị phá sóng gây ù chói tai thường xuyên,liên tục khi trao đổi với bạn bè.Mobi thi bị phá hủy 4 lần hiện nay đang tạm thời dùng số 091 256 7336 và được “chăm sóc sát sao” 24/24h chặt chẽ.Riêng đường kết nối Internet cá nhân của tôi vẫn chưa được khôi phục trở lại như ban đầu mặc dù tôi đă có đơn khiếu nại, tố cáo với bưu điện Hà nội từ ngày 26/5/2006.