Chuẩn bị cho Hiến pháp Lâm Thời

của Việt Nam (2)

    Tự do cá nhân trong Thể chế
    Nhân bản và Dân chủ
    Gs Nguyễn Học Tập - Cuối 2006

- Tự do cá nhân bất khả xâm phạm.

- Mỗi người có quyền được bảo toàn mạng sống, toàn vẹn thân thể và danh dự của ḿnh.

- Mỗi người được Tự do triển nở hoàn toàn con người của ḿnh, miễn là không làm tổn thương đến quyền lợi người khác, không vi phạm thể chế hiến định và lề luật luân lư.

- Không thể chấp nhận bất cứ mọi h́nh thức bắt giam, lục xét, điều tra, cầm giữ, trưng thu, hoặc các h́nh thức giảm thiểu Tự do cá nhân nào, nếu không có án trác có lư do của tư pháp, trong các điều kiện và theo thể thức luật định.

- Bất cứ ai tạm thời bị bắt giam v́ t́nh nghi phạm pháp, nội trong ngày hôm sau phải được đem đến trước quan ṭa. Vị quan ṭa phải thông báo cho đương sự lư do bị bắt giam, nghe đương sự tŕnh bày hay làm cách nào để đương sự có thể biện minh. Sau đó quan toà hoặc phải đưa ra trác án giam giữ có lư chứng, hoặc phải ra lệnh phóng thích tức khắc. Nhân viên công lực tự ḿnh, không có quyền giam giữ ai.

- Mọi áp bức, bạo lực, khủng bố đối với thể xác và tinh thần của người bị giảm thiểu Tự do đều sẽ bị trừng phạt.

A. Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ đứng ra bảo đảm cho Tự do cá nhân, sau khi xác nhận phẩm giá con người ở địa vị tối thượng và trung tâm điểm trong tổ chức Quốc gia ở bài trước.

    Với câu "Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ nh́n nhận và bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm của con người, con người như cá nhân hay con người như thành phần xă hội trung gian nơi mỗi cá nhân phát triển con người của ḿnh..." (Cf. PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG THỂ CHẾ NHÂN BẢN VÀ DÂN CHỦ). Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ nh́n nhận con người như là giá trị tối thượng trên các giá trị nền tảng của Thể Chế, trên đó một Quốc Gia văn minh, tôn trọng con người được xây dựng. Đối tượng nguyên tắc nền tảng đang bàn của Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ, là bảo vệ Tự do cá nhân :

- "Tự do cá nhân bất khả xâm phạm. Mỗi người có quyền được bảo toàn mạng sống, toàn vẹn thân thể và danh dự của ḿnh". Quan niệm Tự do cá nhân phải được bảo vệ được đă có từ ngàn xưa, từ lúc có con người.

- Tự do cá nhân nói riêng và các quyền căn bản bất khả xâm phạm của con người nói chung, được viết thành văn bản và có hệ thống từ thề kỷ XVIII, với Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ 1776 và Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Quyền Công Dân Cách Mạng Pháp 1789. Nhưng dấu vết của ước vọng con người cho ḿnh có được Tự do, chúng ta có thể t́m thấy trước hơn nữa, trong sắc lệnh của hoàng gia Anh "Habeas Corpus". Hoàng gia Anh dành cho ḿnh quyền giải thoát các thần dân bị cáo khỏi uy quyền của các lănh chúa và đem về xét xử bằng toà án của triều đ́nh, để cứu sống họ. Dần dần nguyên tắc trên trở thành tập tục cho quyền của cá nhân được bảo toàn mạng sống khỏi bị hành hạ, ngược đăi bằng bạo lực, theo cách hành xử tùy lúc, tùy hứng của các lănh chúa. Dấu vết Tự do cá nhân được bảo vệ, chúng ta có thể t́m thấy trong "Habeas Corpus", như vừa nói, nhưng ước vọng con người được Tự do khỏi áp bức, hành hạ, giết chết không phải chỉ mới phát xuất từ đó, mà hiện hữu từ lúc có con người. Hơn ai hết, người Anh đă xác tín điều đó, nên nền tảng Dân chủ và nhân bản của Quốc Gia đối với họ không phải chỉ là những ǵ được ghi trên các văn bản viết ra, mà c̣n cả những ǵ tiềm tàng trong ư thức của con người, được thể hiện trong niềm tin và cách thức hành xử của con người theo tập tục qua bao thế hệ. Người Anh gọi niềm tin và lối hành xử đó trong tập quán là "Common Laws" (Luật lệ chung của mọi người, theo tâp tục).

    Bởi đó chúng ta không lạ ǵ những tuyên ngôn, thỉnh nguyện, văn bản về nhân quyền như Magna Charta Libertatum 1215, Petition of Rights 1628, Bill of Rights 1689, trên thực tế là những bản văn Hiến Pháp liệt kê các quyền và Tự do người Dân đ̣i buộc giới đương quyền phải tôn trọng, được người Anh viết ra như là những ǵ họ chỉ nhắc lại, nh́n nhận và xác quyết những điều đă có sẵn trong "Common Laws".

B. Tự do cá nhân là ǵ ?

    Tự do cá nhân hay những quyền bất khả xâm phạm của con người trong Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ, là những sản phẩm của trí khôn con người, lược lọc, đúc kết, cô đọng lại qua bao nhiêu ước vọng và kinh nghiệm thực tế (nhiều khi cả những kinh nghiệm đau buồn, tan tóc, bất hạnh) mới có được. Hiểu như vậy, Tự do cá nhân không phải là một ư nghĩ đơn sơ có thể trả lời bằng mấy ḍng định nghĩa. Hegel đă viết lên một ư nghĩ chí lư :

    "Không có một tư tưởng nào có tính cách đại chúng và bất định như vậy, đa nghĩa và đa dạng, thích hợp để dễ lầm lẫn, như tư tưởng về Tự do", (G.W.F. Hegel, Enciclopedia delle Scienze Filosofiche (1817), trad. it., Bari, 482). Tự do được gán cho nhiều ư nghĩa khác nhau, tích cực có, tiêu cực có, lạc quan có mà bi quan cũng có. Tự do : sự khiếm diện hoàn toàn của quyền lực và mọi điều kiện ảnh hưởng đến ư muốn cá nhân, ư thức và tự ư ḥa hợp ư muốn cá nhân vào trật tự của vũ trụ hoặc vào nguyên lư thiết yếu điều khiển mọi vận hành của vũ trụ, không lệ thuộc bất cứ một luật lệ nào, tuân phục lề luật chính đáng và hợp lư, tham dự vào đời sống cộng đồng và chính trị, rút lui khỏi thế giới bên ngoài và ẩn ḿnh vào chính bản ngă của ḿnh, hành động theo khuynh hướng tự nhiên, bản năng tự nhiên của ḿnh, kềm chế bản năng và khuynh hướng tự nhiên theo lẽ phải...

1- Tự do theo quan niệm luật tự nhiên.

    Một ư thức dễ cảm nghiệm, ai trong chúng ta cũng thấy được, đó là định nghĩa Tự do cá nhân trùng hợp với không bị cản trở, không bị ảnh hưởng bất cứ từ đâu đến.

    Tự do là khoản trống không (vacuum) : không bị vướng líu với bất cứ vật ǵ, bất cứ ai, bất cứ tư tưởng hay mệnh lệnh nào ràng buộc (J.G. Gill, v The Definition of Freedom, Ethics, 1971, vol. 82, 1).

    Định nghĩa Tự do vừa kể là định nghĩa theo quan niệm siêu h́nh học.

    Tự do cá nhân được xem như là một phần của tổng thể nguyên lư thiết yếu điều hành vũ trụ, là Tự do theo quan niệm luật tự nhiên.

    Trong quan niệm vừa kể, Tự do được phát biểu ở dưới h́nh thức tiêu cực :

- Tự do là không bị áp bức, bắt buộc, không lệ thuộc quyền lực ngoại tại, không chấp nhận quyền lực tổ chức Quốc Gia và hiệu lực của bất cứ một luật lệ nào, nếu không phải là hiệu lực của nguyên lư của vũ trụ. Trong triết học và thần học, tổng thể Tự do đó có thể là thiên nhiên hay Thiên Chúa.

    Tư tưởng vừa kể là tư tưởng định hướng cho quan niệm về Tự do qua bao nhiêu thế hệ. Nh́n về phía cá nhân, Tự do được quan niệm như vừa kể là Tự do của con người như cá nhân biệt lập và tự tại, của con người trừu tượng không liên hệ với xă hội và không chấp nhận bất cứ một luật lệ nào của tổ chức xă hội. Con người biệt lập, chỉ là thành phần của thiên nhiên và chịu hấp lực hướng dẫn bằng luật thiên nhiên.

    Con người đó chỉ được quan niệm theo bản tính nội tại của ḿnh, chỉ liên hệ với chính lương tâm và ư chí của ḿnh và chỉ có mối tương giao duy nhất với tổng thể vũ trụ thiên nhiên, hay nói như H. Kelsen : "die Frage der Willensfreiheit sei (ist) lediglich eine Angelegenheit des Selbsbewussten" : vấn đề về ư chí Tự do chỉ là vấn đề tự ư thức lương tâm của chính ḿnh (H. Kelsen, Kausalitaet und Zuerechnung, in OezoeR, 1955, 133s, 137).

    Qua câu nói vừa kể của H. Kelsen, chúng ta thấy được rằng Tự do cá nhân là một thứ Tự do hoàn toàn bất định hay Tự do của một chủ thể tự là nguyên cớ Tự do của chính ḿnh : một chủ thể không chấp nhận mệnh lệnh của ai khác hơn là của chính ḿnh (N. Abbagnano, Dizionario di Filosofia, Torino, 1960, 511. 514).

    Quan niệm Tự do là khả năng của chính ư chí ḿnh, có thể ra lệnh điều khiển các hoạt động của ḿnh, đă có ảnh hưởng rộng lớn đến các hoạt động kinh tế trong kinh tế tư bản và kiện toàn thể chế hiến định ở Hoa Kỳ và Anh Quốc trong thế kỷ XIX : Tự do tư hữu là viên đá nền tảng của toà nhà lập pháp và xă hội.

    Trong khi đó th́ ở các Quốc Gia Âu Châu c̣n lại, khoảng thời gian vừa kể là thời gian của độc tài chuyên chính, khó ai có thể định nghĩa được Tự do cá nhân là Tự do của một chủ thể tự lập, tự quyết và chính lương tâm của ḿnh điều khiển chính hành động của ḿnh.

    Bởi đó Tự do cá nhân được định nghĩa như là ư chí của cá nhân đồng thuận với ư chí thượng đẳng của Quốc Gia. Quốc Gia được quan niệm như là một nhân vật có ư chí lănh đạo cho tất cả (État-persone) . Một quan niệm khác phát xuất từ Cách Mạng Pháp 1789, thay v́ quan niệm Quốc Gia là một chủ thể nhân vị như vừa kể, cho rằng cộng đồng Quốc Gia có ư muốn chung (Volonté générale), (không biết có khác với quan niệm "tinh thần Dân tộc" của chúng ta không), làm ư hướng chỉ đạo và quyết định cho mọi vấn đề của Đất nước.

    Cá nhân chỉ có thể thực sự Tự do, nếu ư muốn của cá nhân phù hợp với ư muốn chung đó. Và rồi từ "Quốc Gia nhân vị" và "Quốc Gia ư muốn chung" vừa kể, chúng ta sẽ không thấy khó khăn nào Quốc Gia được tổ chức theo phương thức "Quốc Gia ban hành luật pháp " (État de légalisation) . Trong "Quốc Gia ban hành luật pháp" Tự do cá nhân chỉ có chổ đứng ở những khoảng trống (vacuum), nơi mà uy quyền công cộng của Quốc Gia không can dự hay không muốn can dự vào (trong lănh vực riêng tư), hoặc Tự do cá nhân phải phù hợp với ư muốn của "Quốc Gia nhân vị" hay với "Quốc Gia muốn chung ".

    Lằn ranh giữa những lănh vực thuộc quyền lực công cộng và thế giới riêng tư là biên giới bất định. Hơn nữa Tự do cá nhân và các quyền bất khả xâm phạm của con người được các Hiến Pháp lúc đó nêu lên ở Tiền Đề (Préambule). Và do đó các cơ quan lập pháp (Hội Đồng Lập Hiến, Quốc Hội, Ủy Ban Tu Chính Hiến Pháp) có quan niệm rằng những điều tuyên bố đó chỉ có tính cách tuyên bố để tuyên bố (hay tuyên bố trên thuyết lư, formelle), tuyên bố như chương tŕnh hoạt động (programmatique) , tuyên bố như lời hứa đơn thuần chớ không phải là những chỉ thị (préceptives) có tính cách bắt buộc (Ạ Esmein, Elements de droit constitutionel français e comparé, V ed., Paris, 1909, 492s).

    Hiểu được t́nh trạng bấp bênh đó của việc bảo vệ Tự do cá nhân, chúng ta sẽ hiểu được tại sao trong quá khứ Tự do cá nhân được tuyên bố dưới h́nh thức tiêu cực, như là để nhấn mạnh, Tự do có nghĩa là không bị áp chế, cản trở, xâm phạm vào lănh vực cá nhân, không bị đặt điều kiện, dọa nạt bất cứ từ đâu đến. Tự do là lănh vực cá nhân, là khoảng trống không bị vướng líu đối với bất cứ việc ǵ (J.G. Gill, cit., id.).

2. Tự do trong quan niệm khế ước.

    Ngoài quan niệm luật tự nhiên vừa kể, ở Hoa Kỳ các quyền bất khả xâm phạm của con người nói chung và Tự do cá nhân nói riêng là một tập hợp ḥa lẫn giữa hai luồng tư tưởng luật tự nhiên và quan niệm Tự do theo khế ước (contractualisme) . Việc tập hợp và ḥa lẫn hai quan niệm trên bắt đầu từ Anh Quốc, kết quả của những tranh chấp về tôn giáo ở Anh, để biến thành một hệ thống suy tư duy nhất (J.W.Allen, A History of Political Thought in the Sixteen Century, London, 1928, 210).

    Hệ thống suy tư đó đă được các cộng đồng di cư từ Anh sang lập nghiệp ở Hoa Kỳ ǵn giữ, mang theo và canh tân hoá để giải thích trong cuộc chung sống đa chủng với nhiều niềm tin dị biệt. 
Theo quan niệm khế ước th́ nền tảng của các luật lệ chung sống với nhau trong một Quốc Gia là kết quả của một khế ước xă hội, một sự trao đổi long trọng v́ lợi ích hỗ tương cho nhau, được kư kết giữa những con người Tự do như nhau.

    Tuy nhiên khi giao ước với nhau, có những giá trị cá nhân hay những quyền căn bản bất khả nhượng, không thể đem ra thương lượng để đi đến kết quả chung, thành luật lệ nền tảng cho cuộc chung sống văn minh, bởi v́ đó là những quyền liên hệ mật thiết với nhân phẩm, phát xuất từ bản tính con người : "quyền được toàn vẹn thân thể, được bảo toàn mạng sống, t́m kiếm hạnh phúc, là những quyền thượng đẳng" (Tiền Đề Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ 1776).

    Và những quyền bất khả thương lượng và bất khả nhượng đó được phần lớn Hiến Pháp Hoa Kỳ đặt trên nền tảng của một luật lệ siêu việt, được Thiên Chúa viết vào tâm khảm mỗi người khi sinh ra (các quyền bẩm sinh) :

- "Tất cả mọi người được sinh ra b́nh đẳng như nhau.

- Tất cả đều được Đấng Tạo Hoá ban cho một số quyền bất khả nhượng,

- Trong các quyền này, quyền được bảo toàn mạng sống, quyền t́m kiếm hạnh phúc là những quyền thượng đẳng" (Tiền Đề Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ 1776).

    Đôi khi một vài quan niệm khác với đặc tính khế ước cũng được thể hiện ở một vài đoàn thể tôn giáo đến định cư ở Hoa Kỳ.

    Theo họ th́ Quốc Gia là một cộng đồng hợp nhất, liên kết thiêng liêng với nhau có mục đích thực hiện và tôn trọng những điều Chúa dạy, bảo đảm các quyền Tự do lương tâm và Tự do tôn giáo như là những quyền tối thượng và bất khả xâm phạm.

    Dù sao đi nữa th́ quan niệm Tự do ở Anh Quốc là những điều khoản được viết trong các "Charters of Rights" như là những điều tuyên bố long trọng về các đặc ân và miễn nhiễm của những con người Tự do, kết quả của những thoả ước giữa các quyền lực chính trị có thế giá trong lănh thổ Quốc Gia (nhà vua, quân tước).

    Nhưng những thoả ước vừa kể, chính danh hóa Tự do cá nhân trong lănh vực chính trị và luật pháp được người Anh xem như là những điều khoản công nhận các quyền con người vẫn đă có trong tập tục cổ xưa (Common Laws) (Ẹ Burke, Works, III, London, 1983, 321s).

3. Tự do trong pháp luật thực định.

    Chúng tôi vừa tŕnh bày sơ qua những quan niệm chính về Tự do trong quá khứ. Chắc chắn những gịng tŕnh bày của chúng tôi c̣n có nhiều thiếu sót. Nhưng mục đích của chúng tôi không hải là tŕnh bày đầy đủ tiến tŕnh lịch sử của các qua niệm về Tự do, cho bằng xét qua những tư tưởng đă qua để đánh giá đúng đắn hơn quan niệm Tự do trong nền tảng Nhân Bản và Dân Chủ đa nguyên hiện tại.

    Mục đích của quan niệm Tự do trong Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ hiện tại không phải là phê b́nh để chấp nhận hay đả phá các quan niệm Tự do dựa trên luật thiên nhiên hay quan niệm Tự do theo khế ước, cho bằng biến quan niệm trừu tượng về Tự do của con người với những giá trị của nhân phẩm thành những giá trị của hệ thống luật pháp thực định (lois positives), làm nền tảng cho cuộc chung sống cộng đồng Quốc Gia.

    Con người trong quan niệm luật thiên nhiên là con người biệt lập, đứng riêng rẻ. Là con người của quan niệm tiền luật pháp, trước khi có tổ chức chính trị.

    Địa vị cao cả của con người đó phát xuất từ nguồn gốc con người được dựng nên giống h́nh ảnh Thiên Chúa, là con Thiên Chúa hay là thành phần của tổng thể vũ trụ hoàn hảo, tham dự vào lư trí siêu việt (Raison) cai quản vũ trụ hay không, tiến tŕnh hội nhập con người với những giá trị đó vào hệ thống luật pháp thực định không đặt thành vấn đề. Bởi lẽ những ư niệm vừa kể là những ư niệm thuộc lănh vực tôn giáo hay siêu h́nh học trong triết học.

    Mối quan tâm về Tự do của con người trong các Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ là làm thế nào sắp xếp con người đó có chỗ đứng, có Tự do trong cộng đồng xă hội, giữa các chủ thể khác có cùng một địa vị như ḿnh và xác định các giá trị đó bằng hệ thống luật lệ thực định, làm nền tảng cho thể chế để tổ chức cuộc sống Quốc Gia. Với những câu văn như :

- "Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ công nhận và bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm của con người, con người như cá nhân hay con người như thành phần xă hội, nơi con người phát triển con người của ḿnh" (Cf. PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG THỂ CHẾ NHÂN BẢN VÀ DÂN CHỦ).

- "Các quyền bất khả xâm phạm của con người được kể sau đây là những quyền có giá trị bắt buộc trực tiếp đối với lập pháp, hành pháp và tư pháp" (Cf. id.), con người và Tự do của ḿnh không c̣n là những giá trị và địa vị trừu tượng của quan niệm luật thiên nhiên, của tôn giáo và triết học. Con người với địa vị của ḿnh là giá trị tối thượng được Thể Chế xác định bằng hệ thống luật pháp thực định, được luật pháp công nhận, bảo vệ và quy trách cho tổ chức Quốc Gia có trách nhiệm phải thực thi để bảo vệ con người như là những giá trị tối thượng, nền tảng của Quốc Gia.

    Như vậy Tự do cá nhân mà chúng ta muốn phát hoạ thành đồ án trong Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ cho Việt Nam không phải chỉ là những lời tuyên bố lư tưởng, ư thức hệ, được ghi lại ở Tiền Đề của Hiến Pháp chỉ để long trọng tuyên bố, mà là những quan niệm của lư tưởng về con người, được đặt vào chính thân bài của Hiến Pháp và tuyên bố như là những đạo luật thực định (lois positives), quy trách cho tổ chức Quốc Gia phải bảo đảm và tạo điều kiện thuận lợi để người Dân được hưởng :

    - "Những quyền căn bản và bất khả xâm phạm sẽ được kể sau đây là những quyền bắt buộc đối với lập pháp, hành pháp và tư pháp, như là quyền có giá trị trực tiếp " (Điều 1, đoạn 3 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức).

    Và v́ Tự do con người được luật pháp thực định công nhận và bảo vệ cùng chung với những chủ thể khác cũng đồng đẳng với ḿnh, nên Tự do của con người trong thể chế Dân chủ đa nguyên là  
" Tự do có giới hạn và bị tương đối hoá" (V.H. Kelsen, La Democrazia,
trad.it., Bologna, 1966, 8. 150s). Việc biến đổi quan niệm Tự do từ thể chế tiền Dân chủ đến thể chế Dân chủ, bắt buộc chúng ta phải định nghĩa lại những vấn đề then chốt (Hautprobleme) như bản chất của Quốc Gia, thế nào là luật pháp thực định và ư nghĩa của Tự do cá nhân.

    Không phải Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ chối bỏ tính cách tôn giáo hay siêu h́nh học của quan niệm con người, nhưng v́ Thể Chế có mục đích tổ chức và sắp xếp cho cuộc sống chung của nhiều chủ thể con người trong cuộc sống xă hội được trôi chảy và thuận lợi, nên không thể đặt nền tảng của ḿnh trên luật lệ trừu tượng, siêu đẳng (luật của Thiên Chúa) hay trên luật tự nhiên (Raison, lư trí siêu việt), mà trên nền tảng giá trị pháp luật thực định cao đẳng (loi positive supérieure), tức là Hiến Pháp. Nói một cách đơn sơ, Hiến Pháp là một khế ước thực định tổng hợp (actum associationis) gồm những giá trị và những nguyên tắc căn bản phải tuân giữ để xác định cuộc sống chung của một cộng đồng Dân chúng được tổ chức theo một thể chế đă được Dân chúng đồng thuận phê chuẩn hay kư kết.

    Con người như cá nhân với nền tảng tự nhiên, siêu h́nh học và thần học là con người với nhân phẩm của ḿnh là chủ thể của các giá trị, được thiên phú cho các giá trị bất khả xâm phạm và bất khả nhượng do bản tính nhân loại của ḿnh, để bảo đảm cho ḿnh có được một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm của ḿnh. Nhưng trong cuộc sống xă hội, con người với giá trị của ḿnh không phải chỉ là con người đơn độc, hoàn hảo, tṛn trịa như một trái banh billard, không liên hệ, không ảnh hưởng và không chịu ảnh hưởng từ bất cứ ai, bất cứ từ đâu đến. Con người trong quan niệm căn bản của Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ là con người với những giá trị thiên phú của ḿnh, được đặt vào trong môi trường xă hội, chung sống với các chủ thể khác đồng đẳng với ḿnh.

    Nói cách khác, Văn Bản Nền Tảng của Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ là một văn bản ghi lại con người với địa vị và giá trị tối thượng của ḿnh bằng hệ thống luật pháp thực định. Các giá trị đó được xếp đặt theo một bậc thang giá trị cùng với giá trị của các chủ thể đồng đẳng khác, làm nền tảng cho thể chế Quốc Gia. Con người trong quan niệm luật tự nhiên, với nhân phẩm và giá trị tối thượng của ḿnh, là con người hoàn hảo nhưng biệt lập. Con người trong quan niệm của Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ là con người, có nhân phẩm và giá trị của ḿnh được tôn trọng, chung sống với những con người khác.

    Do đó, mặc dầu không có bất cứ điều khoản nào của Hiến Pháp cho phép vi phạm nhân phẩm của con người, Tự do cá nhân phải được đặt trong một hệ thống giá trị liên hệ với Tự do của người khác.  
Trong Hiến Pháp của Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ, Tự do cá nhân là Tự do có giới hạn và tương đối. So với các văn bản tuyên ngôn về quyền hạn của người Dân, Bill of Rights hay các Hiến Pháp của các Quốc Gia trước thời Dân chủ, trước thế chiến II (chẳng hạn Hiến Pháp Weimar 1919 Đức Quốc), chúng ta sẽ thấy rằng các văn bản trên tuyên bố Tự do và các quyền bất khả xâm phạm con người như là những nguyên tắc tổng quát và nhường quyền lại cho lập pháp thường nhiệm (Quốc Hội) nhiệm vụ soạn thảo ra các đạo luật áp dụng.

    Đọc các văn bản trên chúng ta thấy các thành ngữ như : "các quyền... được bảo đảm...", "... trong giới mức luật lệ hiện hành...", "quyền... là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm, không ai có thể bị truất hữu, nếu không do luật pháp ấn định".

    Những thành ngữ vừa kể đă trở thành những cơ hội cho Hitler, Mussolini và nhiều nhân vật và chế độ độc tài khác "... hiện hành và ấn định" tùy hỷ cho cách cai trị khát máu của họ đối với hàng chục triệu người bị hành huyết và xử tử trong các ḷ sát sinh.

    Hiến Pháp hiện hành của các Quốc gia Dân chủ đa nguyên là những Hiến Pháp dài và cứng rắn, chứa đựng những điều kiện gia trọng khó khăn đối với những ai muốn sữa đổi, tu chính, những nguyên tắc bất di dịch, và tuyên bố các điều khoản thành những đạo luật thực định, có gía trị bắt buộc (cf. Nguyễn Học Tập, CON NGƯỜI TRONG HIẾN PHÁP NHÂN BẢN TÂY ÂU).

    Nhưng điều nổi bật liên quan đến đề tài chúng ta đang bàn là Tự do được đặt trong hoàn cảnh tương đối hoá, để có thể tổ chức cuộc sống chung xă hội. Điều chúng tôi vừa nói được nêu lên một cách rơ ràng như :

- "Mọi người có quyền phát triển con người của ḿnh, miễn là không vi phạm đến quyền của người khác, đến thể chế hiến định và lề luật luân lư" (Điều 2, Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).

- "Quyền Tự do phát biểu và truyền bá tư tưởng được xác định bằng các luật lệ tổng quát và theo chỉ thị có mục đích bảo vệ thanh thiếu niên và quyền của con người được tôn trọng trong danh dự của ḿnh " (Điều 5, đoạn 2, id.).

- "Sáng kiến cá nhân trong lănh vực kinh tế không thể được thực hiện ngược lại với xă hội hoặc có phương hại đến an ninh, Tự do và nhân phẩm con người " (Điều 41, đoạn 2, Hiến Pháp 1947 Ư Quốc). 
Những câu văn vừa kể cho thấy Tự do cá nhân là giá trị tối thượng trong tổ chức Quốc Gia Dân chủ, được tương đối hoá với những giá trị tối thượng của các chủ thể khác. Tự do cá nhân không phải chỉ là không bị ảnh hưởng, áp chế, không bị giới hạn bởi quyền lực công cộng, theo quan niệm Tự do tiêu cực. Tự do trong Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ c̣n gồm cả việc tổ chức Quốc Gia, nhất là Hành Pháp, Tự do hành động một cách chính danh và hợp pháp với thẩm quyền và trách nhiệm của ḿnh, để tạo điều kiện thuận lợi giúp cho người Dân đạt đến mục đích, hưởng và phát triển các quyền Tự do của ḿnh, hay Tự do tích cực :

    "Bổn phận của Quốc Gia là dẹp bỏ những chướng ngại vật về phương diện chính trị, kinh tế và xă hội, là những chướng ngại, trong khi thật sự giảm thiểu Tự do và b́nh đẳng của người Dân, không cho phép họ phát triển hoàn hảo con người của ḿnh và tham dự một cách thiết thực vào tổ chức chính trị, kinh tế và xă hội của xứ sở" (Điều 3, đoạn 2, Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).

    Tự do cá nhân trong Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ không phải là Tự do của một cá nhân biệt lập, mà là Tự do của con người đối với chính ḿnh, đối với anh em ḿnh cùng chung sống trong xă hội con người với ḿnh, là Tự do đối với các hành động của ḿnh để mưu ích cho ḿnh và cho cộng đồng xă hội anh em ḿnh, là Tự do trong liên hệ của ḿnh đối với Đấng Tối Cao, Đấng đă ban cho ḿnh có thân xác, lư trí, ḷng yêu chuộng Tự do và ước vọng hạnh phúc vô tận, động lực làm cho ḿnh vui sống và hăng say dồn mọi khả năng để t́m hạnh phúc.

    Con người trong ư Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ là một nhân vị, con người hoàn hảo có ba chiều hướng để triển nở : triển nở nội tâm cho chính ḿnh, triển nở chiều cao liên hệ với Đấng Tối Cao và triển nở chiều rộng trong liên hệ với anh em (J. Maritain. Umanesimo Integrale, trad.it., Torino, 1962, cap.IV).

C. "Mỗi người được Tự do triển nở hoàn hảo nhân phẩm của ḿnh, miễn là không làm tổn thương đến quyền của người khác, không vi phạm thể chế hiến định và lề luật luân lư".

    Tính cách tương đối hóa và giới hạn của Tự do cá nhân trong cuộc sống chung của Cộng Đồng Quốc Gia, chúng ta vừa có dịp đề cập đến ở trên.

    Nhưng đọc phần 2 của câu văn, "... miễn là không làm tổn thương đến quyền của người khác, không vi phạm thể chế hiến định và lề luật luân lư ", chúng ta có cảm tưởng rằng Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ chỉ cho phép việc "triển nở hoàn hảo nhân phẩm" dưới h́nh thức tiêu cực. Nhân phẩm hay con người của cá nhân bị "quyền của người khác..., thể chế hiến định và lề luật luân lư" giới hạn.

    Suy nghĩ kỹ hơn, ư nghĩa của quan niệm căn bản Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ không phải chỉ có ư nghĩa như vậy.

    Trong cuộc sống chung với người khác và liên hệ với quyền của người khác, không hẳn Tự do cá nhân để phát triển hoàn hảo con người của ḿnh chỉ có điều bất lợi là bị giới hạn. Sống chung với người khác và liên hệ với quyền của người khác cũng giúp chúng ta phát triển chính con người của chúng ta.

    Cuộc sống chung trong xă hội là cuộc sống trong đó hiểu biết của người khác giúp chúng ta mở mang hơn, hoạt động của người khác đem lại lợi ích cho họ mà cũng cho cả chúng ta, cho mỗi người chúng ta và cho công ích.

    Cũng vậy, "thể chế hiến định và lề luật luân lư" không phải chỉ là những khuôn viên bó buộc chúng ta không thể vượt thoát ra bên ngoài, mà là nền tảng Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ, với sự tôn trọng phải có, như là những điều kiện thuận lợi để chúng ta có thể phát triển con người của chúng tạ  
Nói cách khác, thể chế hiến định và nền tảng luân lư là khuôn sườn, là ngôi nhà bảo bọc, bênh vực con người, chống lại mọi yếu tố tác hại, nghịch cảnh để con người có môi trường và điều kiện phát triển hoàn hảo chính ḿnh và giúp phát triển cho Đồng bào ḿnh.

    Bởi đó, Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ, tôn trọng con người và tôn trọng phương thức Dân chủ đa nguyên, đa dạng xây dựng Đất nước, nhưng không phải là thể chế mềm nhũng không xương sống :

    "Không thể chấp nhận bất cứ một sự sửa đổi nào đối với Hiến Pháp này, có liên quan đến sự tương quan giữa Liên Bang và các Tiểu Bang, đến sự tham dự của các Tiểu Bang vào quyền lập pháp hay đến các nguyên tắc đă được nêu ra ở điều 1 và điều 20" (Điều 79, đoạn 3 Hiến Pháp 1949 Cộng Ḥa Liên Bang Đức). (Điều 1, liên quan đến phẩm giá bất khả xâm phạm của con người và điều 20, định nghĩa Cộng Hoà Liên Bang Đức là Quốc Gia Cộng Hoà, Liên Bang, Dân Chủ và Xă Hội).

    Như vậy, dù Nhân Bản và Dân Chủ, chúng ta cũng có những nguyên tắc nền tảng bất di dịch của Thể Chế phải tôn trọng để bảo đảm cho con người.

    Thiếu Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ và lề luật luân lư làm nền tảng cho Thể Chế, là độc tài, khuynh đảo, lạm dụng quyền bính để phục vụ đảng phái và lối sống mọi rợ, nếu không phải là lối sống thú vật (con người hơn con vật bởi con người có tư cách sống theo lư trí, luân lư, không phải chỉ biết hành động theo bản tính).

    Với cuộc sống xă hội làm môi trường cho cuộc sống liên đới hỗ tương, Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ hiến định và lề luật luân lư làm điều kiện thuận lợi và giềng mối, con người được đặt vào hoàn cảnh và điều kiện sống thích hợp, hợp với bản tính tự nhiên của ḿnh (xă hội tính, Dân chủ và b́nh đẳng và phương cách hành xử xứng đáng với nhân phẩm con người), để Tự do phát triển con người của ḿnh, tung tăng như cá Tự do bơi lội trong nước.

    Trong những hoàn cảnh và điều kiện thuận lợi đó, con người Tự do phát triển nhân phẩm và năng khiếu của ḿnh theo ba chiều hướng đă đề cập : chiều hướng nội tâm, hướng thượng và huớng tha.

C. "Không thể chấp nhận bất cứ h́nh thức bắt giam, lục xét, điều tra, cầm giữ, trưng thu hoặc các h́nh thức giảm thiểu Tự do cá nhân nào, nếu không có án trác, có lư do của tư pháp, trong các điều kiện và theo thể thức luật định".

    Đoạn văn vừa kể của những nguyên tắc nền tảng Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ, được viết ra dưới h́nh thức h́nh thức nổi bật "dành quyền tuyệt đối cho tư pháp" (riserva assoluta al potere giudiziario) . Là đoạn văn quăn trọng, liên quan đến bản thân con người, để bảo toàn thân thể và tinh thần của mỗi cá nhân, đoạn văn của Hiến Pháp tương lai được viết ra bằng tất cả các phương thức bảo đảm luật pháp thông dụng của các Hiến Pháp văn minh, nhất định bảo đảm cho con người, trung tâm điểm và có địa tối thượng trong tổ chức Quốc Gia.

    * Dành quyền hạn chế cho luật pháp (riserva di legge) : đoạn cuối cùng của câu văn, "trong các điều kiện và theo thể thức luật định", là h́nh thức bảo chứng tương đối thông thường "hạn chế cho luật pháp", được hầu hết các văn bản Hiến Pháp đều áp dụng. Đó là h́nh thức dành quyền cho luật pháp hay chính xác hơn là dành quyền cho Quốc hội, cơ quan Dân cử duy nhất, có quyền "lập pháp", "chuẩn y hay bác bỏ" các điều khoản luật, biến các dự thảo, đề án luật thành đạo luật thực định có hiệu lực bắt buộc… Nói các khác, không ai có thể can thiệp vào con người, "...bắt giam, lục xét, điều tra, trưng thu hay giảm thiểu Tự do", nếu không được luật pháp do Quốc Hội thường nhiệm đă "chuẩn y hay bác bỏ" cho phép.

    * Dành quyền hạn chế tăng cường đối với luật pháp (riserva rinforzata di legge). Như vậy, Hiến Pháp giao cho Quốc Hội thường nhiệm "lập pháp", soạn thảo, "chuẩn y hay bác bỏ" luật pháp và thiết định "các điều kiện và theo thể thức" nào nhân viên công lực phải hành xử, không được như bọn công an phi nhân và kém văn minh chửi bới, đánh đập, đả thương, trấn nước và giết chết người Dân.

    Nói như vậy, nhưng không phải Hiến Pháp "khoán trắng" cho Quốc Hội muốn "lập pháp" cách nào, "trong các điều kiện và theo thể thức luật định" thế nào cũng được, mà chính Hiến Pháp đứng ta "thiết định" trước "các điều kiện và theo thể thức luật định", như là lằn mức không thể vượt qua.

    Nói cách khác, Hiến Pháp đă "thiết định" cho Quốc Hội phải "thiết định", luật pháp, "trong các điều kiện và theo thể thức luật định" đă được Hiến Pháp "thiết định", không thể vi phạm, đi ra ngoài hay loại bỏ những ǵ Hiến Pháp đă xác định, nếu không muốn các đạo luật ḿnh "chuẩn y hay bác bỏ" bị Viện Bảo Hiến phán quyết là vi hiến và trở thành vô dụng (Điều 93 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức).

    Đó là phương thức "hạn chế tăng cường đối với luật pháp" (riserva rinforzata di legge). Và đó là ư nghĩa của đoạn văn chúng ta ghi lại ở đầu bài :

- "Mọi áp bức, bạo lực, khủng bố trên thể xác và tinh thần của người bị giảm thiểu Tự do, đều sẽ bị trừng phạt". Quốc Hội không thể "lập pháp", cho phép bất cứ ai "đảng và Nhà nước ḿnh" hay công an hống hách ở phường xóm cũng vậy, hành xử ngược lại đối với lằn mức được Hiến Pháp xác định. Bởi v́ đó là nguyên tắc nền tảng của toà nhà Nhân Bản và Dân Chủ :

- "Phẩm giá con người bất khả xâm phạm" (Điều 1, đoạn 1 Hiến Pháp 1949 CHLB Đức).

- "Nền Cộng Hoà nhận biết và bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm của con người, con người như cá nhân hay con người như thành phần xă hội, nơi mỗi cá nhân phát triển con người của ḿnh" (Điều 2, Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).

- "Mọi áp bức, khủng bồ trên thân xác và tinh thần của người bị giảm thiểu Tự do, đều sẽ bị trừng phạt". "Không có bất cứ trường hợp nào, một quyền căn bản của con người bị vi phạm đến nội dung thiết yếu của nó" (Điều 19, đoạn 2 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức).

    Như vậy sự việc công an "bề hội đồng", xúm nhau đánh đập kỹ sư Đỗ Nam Hải mới đây ở đồn công an ; xung vào tư gia, chửi bới, mắng nhiếc, đánh đập, giết chết và bắt bỏ tù "bọn Tin Lành" khi "tụi nó" họp nhau tại tư gia để thờ phượng Chúa, v́ "nhà thờ tụi nó bị ủi sập" ; cũng như trên 50 công an, xúm lại áp đảo và trấn nước "mụ Úa" ở Kiên Giang mới đây làm cho những ai c̣n có lương tri con người phải đặt câu hỏi về giá trị của Hiến Pháp 1992 XHCN "không có con người", như Hiến Pháp 1977 Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết, (Hortz S.J, La Nuova Costituzione Sovietica, in Civiltà Cattolica, 1978, 340) cách "lập pháp" quái đảng của Quốc Hội ḿnh, hay là về cách hành xử "cóc cần luật pháp", mọi rợ của "đảng và Nhà Nước ḿnh" đồng loả với công an ?

    * Dành quyền tuyệt đối cho tư pháp. Phương thức thứ ba được Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ nêu lên trong câu trích dẫn ở phần đầu của đoạn đang bàn, đó là phương thức "dành quyền tuyệt đối cho tư pháp", (riserva assoluta al potere giudiziario) để bảo vệ Tự do cá nhân :

    - "Không thể chấp nhận bất cứ một h́nh thức giam giữ...nếu không có án trác có lư chứng của tư pháp". Giả sử Chính quyền và cánh tay quyền lực của Chính quyền đă vượt qua hai trạm kiểm soát đầu tiên, được Quốc Hội chuẩn y ban hành luật pháp để áp dụng và luật pháp của Quốc Hội tuân theo những điều khoản "không thể vượt qua" đă được Viện Bảo Hiến phán quyết và cho phép thi hành (Điều 100, đoạn 1 Hiến Pháp Cộng Hoà Liên Bang Đức), Chính quyền và công an các cấp của Chính quyền cũng chưa v́ cầm được cuốn luật trong tay, hoá mắt thiên hạ để xông vào tư gia, ṃ mẫm trên thân thể, lột quần lột áo Dân chúng để lục xét, chớ đừng nói ǵ chửi bới, đánh đập, đả thương, bắn giết, bắt bỏ tù.

    Bởi lẽ đó là những động tác liên hệ, ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân cá nhân của người Dân, nên Hiến Pháp Nhân Bản và Dân Chủ "dành quyền tuyệt đối cho tư pháp", chỉ có khi nào cơ quan tư pháp ra án trác có lư chứng, ra lệnh và cho phép cơ quan Chính quyền mới được sử dụng : "Không thể chấp nhận bất cứ h́nh thức giam giữ, lục xét, điều tra, giam giữ, trưng thu hoặc các h́nh thức giảm thiểu Tự do nào khác, nếu không có án trác có lư chứng của tư pháp".

    Bởi lẽ, "tính cách chấp nhận được và thời gian giảm thiểu Tự do chỉ có vị thẩm phán mới có quyền ra lệnh. Dù sao đi nữa, việc truất hữu quyền Tự do không do quyền tư pháp quyết định, phải thôi thúc tư pháp quyết định liền sau đó. Cảnh sát không có quyền bắt giữa ai quá ngày hôm sau khi bị bắt giữ..." (Điều 101, đoạn 2 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức). "Ai bị tạm thời bắt giữ v́ t́nh nghi can phạm tội trạng, có cùng lắm là ngày hôm sau phải được tŕnh diện trước quan toà, để quan toà báo cho biết lư do anh ta bị bắt giữ, hạch hỏi anh ta và lắng nghe đương sự tŕnh bày lư do phản cung. Vị quan toà phải tức khắc ra lệnh bắt giữ với án lệnh được viết thành văn bản và có lư chứng, nếu không phải ra lệnh thả lập tức" (Điều 101, đoạn 3, id.).

    Và rồi "án trác có lư chứng đó của tư pháp", nếu người Dân cho là oan ức, không xác thực, tự ḿnh hay cùng với người khác có thể kháng cáo lên các cơ quan có thẩm quyền : "Bất cứ ai vị cơ quan công quyền vi phạm các quyền của ḿnh, đều có thể đệ đơn tố cáo đến cơ quan tư pháp thường nhiệm" (Điều 19, đoạn 4 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức). "Mỗi người tự ḿnh hay cùng chung với người khác có quyền đệ tŕnh thỉnh nguyện thư hay đơn tố cáo đến các cơ quan có thẩm quyền hay đến cơ quan đại diện dân chúng" (Điều 17, id.). Và các cơ quan có thẩm quyền hay đại diện Dân chúng đó có thể là :

- Tổng Thống Cộng Hoà (Điều 87 và 90, Hiến Pháp 1947 Ư Quốc),

- Lưỡng Viện Quốc Hội (Điều 50, id.),

- Tối Cao Pháp Viện (Điều 103, id.),

- Viện Bảo Hiến (Điều 136, đoạn 1, id.).

    Tưởng cũng nên nhắc lại rằng những nguyên tắc nền tảng được Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ tuyên bố là những điều khoản luật thực định để tổ chức Quốc Gia, có giá trị bắt buộc phải thi hành (precettive) , chớ không phải chỉ là những lời tuyên bố suông, hay những câu tuyên bố có tính chương tŕnh hành động (programmatiche) . Bởi lẽ ngay ở quan niệm nền tảng đầu tiên của văn bản Thể Chế đă xác định : "Các quyền căn bản được kể sau đây có giá trị bắt buộc đối với các cơ chế Quốc Gia, lập pháp, hành pháp và tư pháp, như là những quyền đ̣i buộc trực tiếp" (Cf. PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG THỂ CHẾ NHÂN BẢN VÀ DÂN CHỦ).

    Vậy th́ những "h́nh thức bắt giam, lục xét, điều tra, cầm giữ, trưng thu hoặc các h́nh thức giảm thiểu Tự do cá nhân nào... đều không thể được chấp nhận ", là một điều khoản luật "có giá trị bắt buộc trực tiếp đối với các cơ chế Quốc Gia". Nói cách khác, bất cứ ai, tư nhân cũng như cơ chế Quốc gia nào hành xử ngược lại, là cách hành xử vi phạm vào các điều khoản nguyên tắc nền tảng của Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ, nền tảng trên đó chúng ta ao ước xây dựng Quốc Gia trong tương lai, không những phạm pháp mà c̣n là hành động vi hiến, bát cứ chủ thể đó là ai.

    Và v́ là quyền "có giá trị bắt buộc trực tiếp" được chỉ định các chủ thể bị quy trách (lập pháp, hành pháp và tư pháp), nên người Dân có thể tố cáo (actionable) đ̣i buộc quyền Tự do của ḿnh phải được tôn trọng, đến các cơ quan có thẩm quyền được Hiến Pháp chỉ định.

    Điều đó cho thấy rằng Tự do cá nhân trong Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ là những quyền thực hữu (diritti sostanziali) , được bảo vệ bởi luật lệ thực định (legge positiva), có chủ thể được quy trách (soggetti imputati) rơ ràng, là những qui luật bắt buộc (precettive) .

    Ngoài ra trong câu "... hoặc các h́nh thức giảm thiểu cá nhân nào...", Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ cũng lưu ư đến những trường hợp khác trong đó Tự do cá nhân không phải chỉ bị giảm thiểu bằng áp bức, giam cầm, cưỡng bách, lục soát, trưng thu trên thân thể, mà c̣n cả những trường hợp bị dọa nạt, đặt điều kiện và lường gạt gian dối làm cho con người không có khả năng đủ để xử dụng Tự do của ḿnh. Trong lao tù và trong các bệnh viện, nhất là bệnh viện chuyên về thần kinh, cá nhân có thể bị dọa nạt, đặt điều kiện, bị áp đặt phải chịu chữa trị theo phương pháp này hay theo phương pháp khác, trái với ư muốn của ḿnh.

    Ở những trường hợp vừa kể cá nhân đương cuộc có thể đệ đơn tố cáo những ai có trách nhiệm các nhà giam và bệnh xá vi phạm Tự do cá nhân đến tư pháp. Và cơ quan tư pháp có thể xét xem chủ thể đương cuộc có là những chủ thể thực sự nguy hiểm đến "... lợi ích xă hội, phương hại đến an ninh, Tự do và nhân phẩm con người" (Điều 41, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc), định giá tương xứng giữa nguyên nhân và hậu quả để có những phán đoán cân nhắc tương xứng.

    Cũng trong tinh thần vừa kể để bảo vệ Tự do cá nhân, người đương cuộc có thể tố cáo những trường hợp gian xảo lường gạt, làm biến chất hóa thức ăn (adulterazione alimentare) chẳng hạn, bằng cách trộn vào thức ăn, đồ uống, thuốc hút, dầu thơm để làm cho người tiêu thụ bị nguy hại thân thể, bị nghiện ngập phải t́m mua loại nhu yếu vừa kể.

    Trường hợp vừa đề cập làm cho cá nhân không c̣n đủ khả năng để sử dụng trí óc sáng suốt để Tự do lựa chọn của ḿnh. Những trường hợp đang bàn đă và đang xảy ra ở các Quốc gia tân tiến, và tổ chức Quốc Gia có bổn phận "nhận biết và bảo vệ "quyền bất khả xâm phạm của người Dân như là những quyền "có giá trị bắt buộc đối với lập pháp, hành pháp và tư pháp, như là những quyền có giá trị bắt buộc trực tiếp".

D. "Trong các trường hợp cần thiết và khẩn cấp được luật pháp quy định rơ, nhân viên công lực có thể thi hành những biện pháp tạm thời, nhưng phải thông báo cho tư pháp trong ṿng hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau đó. Và nếu trong ṿng hai mươi bốn tiếng đồng hồ kế tiếp, cơ quan tư pháp không xác nhận biện pháp được áp dụng, biện pháp phải được coi là bị thu hồi và vô hiêu lực.

    Nhưng dù sao đi nữa th́ : "Mọi áp bức, bạo lực, khủng bố đối với thể xác và tinh thần của người bị giảm thiểu Tự do đều sẽ bị trừng phạt". Với đoạn văn vừa kể Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ tuyên bố phương thức bảo vệ Tự do cá nhân dưới h́nh thức "dành quyền tương đối cho luật pháp"(riserva relativa di legge), Quốc Hội thường nhiệm có thể soạn thảo ra những đạo luật xác định trường hợp và thể thức can thiệp phải tuân theo : "trong các truờng hợp cần thiết và cấp bách, nhân viên công lực có thể..." do t́nh trạng cần thiết và khẩn cấp đ̣i hỏi. Cần thiết và khẩn cấp để làm ǵ ?

    Để bảo vệ thể chế Dân chủ, Tự do và nhân bản hiến định, ngăn chận những hành động nguy hiểm đối với "lợi ích xă hội, có phương hại đến an ninh cá nhân, Tự do và nhân phẩm con người" (Điều 41, đoạn 4, Hiến Pháp 1947 Ư Quốc). Nói cách khác, trong trường hợp cướp giựt, phạm pháp sát nhân, khủng bố, chiến tranh hay có thể gieo rắc bệnh truyền nhiễm nguy hại sức khỏe Dân chúng...

    Trong các trường hợp đại để như vậy, các nguyên tắc căn bản của Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ cho phép cơ quan công lực có quyền áp dụng tạm thời các phương thức giảm thiểu Tự do.

    Và dù cho Tự do cá nhân bị giảm thiểu trong trường hợp "dành quyền tuyệt đối cho cơ quan tư pháp" hay "dành quyền tương đối cho pháp luật pháp", chính Hiến Pháp đứng ra xác định những lằn mức không thể vượt qua : không có bất cứ trường hợp nào Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ cho phép dùng "Mọi áp bức, bạo lực, khủng bố trên thân xác và đối với tinh thần của người bị giảm thiểu Tự do, đều sẽ bị trừng phạt", hay nói như Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức :

    - "Không có bất cứ một trường hợp nào, trong đó một quyền căn bản có thể bị xúc phạm đến nội dung thiết yếu của nó" (Điều 19, đoạn 2 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức). Bởi lẽ điều đó đi ngược lại với nguyên tắc tối thượng nền tảng đầu tiên mà Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ tuyên bố : "Phẩm giá con người bất khả xâm phạm. Bổn phận của mọi quyền lực Quốc Gia là nhận biết và bảo đảm nhân phẩm đó" (Điều 1, đoạn 1 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức). @

    Gs Nguyễn Học Tập