Từ Nguyễn Tất Thành đến HCM
(Sự h́nh thành một chọn lựa)
Lữ Phương - Sài G̣n - 22.01.2007
Giới thiệu : Lữ Phương đă một thời rất sùng bái HCM, đă viết một số công tŕnh ca tụng HCM. Nhưng nay đứng trước một thực tế phủ phàng là “thần tượng HCM” đang bị bứng gốc từng mảng, Lữ Phương gần đây -với sự lương thiện cần thiết của người cầm bút- đă xác nhận một thực tế lịch sử không thể chối cải, mặc dù có vài điều ông cũng c̣n cố gắng gỡ tội phần nào cho HCM !!!
Thay cho lời nói đầu
Một số chương rời của cuốn sách mỏng này đă lần lượt xuất hiện trên tạp chí Thư Nhà ở Sài G̣n vào những năm 2001-2002 – một tạp chí ở Úc, gửi về Việt Nam đă được một số thân hữu tại Sài G̣n nhân ra nhiều bản – sau đó đă được tập hợp lại dưới nhan đề Từ Nguyễn Tất Thành đến HCM (với cái tên phụ là “Sự h́nh thành một chọn lựa”), sao chụp nhiều đợt, phổ biến như một tài liệu chuyền tay được nhiều người t́m đọc.
Được đưa lên mạng hải ngoại để dội về nội địa, cuốn sách đă được xem là một ấn phẩm chứa đựng một thứ nội dung chưa từng có đối với cái không gian chữ nghĩa trong nước : lần đầu tiên đă xuất hiện sự phê phán một cách công khai và có hệ thống điều thường được gọi là sự “chọn lựa xă hội chủ nghĩa” mà vị lănh tụ tối cao của chế độ đương quyền, là ông HCM, đă mang về cho Việt Nam trong quá tŕnh chống chủ nghĩa thực dân.
Do đă quan tâm đến đề tài này từ lâu (với một loạt bài viết về chủ nghĩa Marx) tôi có nhiều lần nhắc đến HCM, nhưng ư định t́m hiểu sâu hơn, đầy đủ hơn về quá tŕnh h́nh thành nên sự “chọn lựa” nói trên của ông – từ những ngày sang Pháp (1911) cho đến ngày ông về nước (1941) – chỉ nảy ra với tôi khi thấy những nhà ư thức hệ của ĐCSVN bắt đầu nói rất nhiều đến “tư tưởng HCM” để định hướng cho con đường phát triển của Đất nước, sau khi Liên Xô, Đông Âu sụp đổ.
Đối với người Việt Nam trong nước lẫn ngoài nước, ai cũng biết đây là một vấn đề gai góc, rất dễ gây ngộ nhận, chia rẽ. Và lư do th́ quá rơ : tuy HCM đă trở thành một nhân vật của quá khứ rồi, nhưng cái di sản nhiều mặt mà ông để lại cho những người c̣n sống th́ vẫn c̣n nguyên, dưới những sắc thái ngược nhau như lửa với nước. Sự sùng bái, thần phục tồn tại song song với những nguyền rủa, căm hờn, thái độ nào cũng diễn ra dưới những trạng thái cực đoan, dường như ngày càng nặng nề hơn.
Cảnh giác không để rơi vào những tranh căi nguy hiểm đó, tôi đă thử học theo phương pháp quen thuộc của những người theo trường phái hàn lâm : để cho những tài liệu nghiên cứu lên tiếng thay cho tư biện. Những tài liệu ấy, hầu hết là thứ cấp, và cũng chẳng thấm vào đâu, nhưng khi phê b́nh, đối chiếu, so sánh những ǵ t́m được, tôi nhận ra được tính hiện thực rất hiển nhiên của một số sự kiện có thể đính chính được khá nhiều sai lạc về cuộc đời và tư tưởng của HCM thường được lưu truyền từ trước đến nay.
Những đính chính ấy bạn đọc sẽ t́m thấy trong cuốn sách mỏng này. Không phải chỉ là những chi tiết thuộc về cuộc sống riêng tư, những t́nh huống thăng trầm trong hoạt động của ông mà quan trọng hơn hết là những kết quả tinh thần của cuộc dấn thân mà ông đă đem về cho Đất nước. Tôi hy vọng rằng những ư kiến mà tôi đưa ra để t́m câu trả lời cho những chủ đề rốt ráo ấy vẫn có khả năng điều chỉnh lại một số điều đă bị huyễn hoặc về những cái gọi là “công tội” mà người ta đă viết đă nói về sự nghiệp của ông.
Tôi hoàn toàn ư thức được những giới hạn trong công việc nhỏ bé của ḿnh. Việc nghiên cứu nghiêm chỉnh về vai tṛ lịch sử của HCM vẫn đang tiếp tục trong giới nghiên cứu. Với những tư liệu tập hợp được từ những nguồn đă có, tôi chỉ mong t́m ra một cách nh́n hiện thực hơn về một nhân vật đă từng đẩy tôi vào những ṿng xoáy lịch sử do ông tạo ra, không phải bằng sự b́nh thản của lư tính mà bằng những sôi bỏng của đam mê và huyền thoại. Ư định đơn giản này nếu được bạn đọc nhận ra qua những trang viết về nhân vật ấy, đối với tôi, thật sự là một điều mong ước.
Những ḍng “thay cho lời nói đầu” này tôi viết riêng cho lần “tái bản” cuốn Từ Nguyễn Tất Thành đến HCM gửi đăng trên Talawas. Một số hiệu đính, sửa chữa cũng đă được thực hiện, trong đó có thêm vào hai chương “Phụ lục”, vốn cũng là những bài rời liên hệ đến cùng một chủ đề.
Lữ Phương - Sài G̣n - 22.01.2007
Chương 1 :
Ra đi “t́m đường cứu Nước”
Những ai quan tâm đến tiểu sử của HCM đều biết cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch của Trần Dân Tiên, viết từ năm 1948, đến nay in đi in lại đă có cả chục lần rồi. Cuốn sách này đă đóng vai tṛ hết sức đặc biệt đối với giới nghiên cứu, giảng dạy về HCM trong chế độ Cộng sản Việt Nam từ đó đến nay : nó được mọi người coi như là tác phẩm do chính HCM viết về ḿnh dưới bút danh Trần Dân Tiên, một tài liệu được tác giả giới thiệu như một “tiểu sử trung thành, đúng đắn, sinh động, không thêu dệt, không bày đặt” [1] . Cuốn sách v́ thế đă thành một nguồn tham khảo căn bản, quan trọng nhất cho tất cả những công tŕnh biên khảo về HCM : các sự kiện về cuộc đời hoạt động của ông đă được đương nhiên coi là chính xác, không thể nói khác, nói ngược lại.
Tuy vậy, đọc kỹ sẽ thấy đó không phải là một “tiểu sử” đúng nghĩa. Nó được thể hiện theo h́nh thức một thứ truyện kể [2] , gián tiếp mượn người khác nói về ḿnh, và chỉ nói những ǵ tác giả cho là cần thiết, c̣n những điều rất quan trọng khác th́ lại được cố t́nh giấu đi bằng kỹ thuật gọi là “biệt tích” không rơ lư do của nhân vật chính. Nói chung là một cuốn sách rất gần với thể loại gọi là truyện kư “người thật việc thật”, chứa đựng khá nhiều những yếu tố hư cấu để tuyên truyền, rất tiêu biểu trong nền văn chương tuyên huấn cách mạng, v́ vậy những sự kiện ở đây đă không c̣n hoàn toàn là những cái mà chúng ta thường gọi là khách quan, sử học nữa.
Muốn có được cái nh́n trung thực hơn về các sự kiện trong đời hoạt động của HCM trong cuốn sách nói trên, thiết tưởng chúng ta không có cách nào khác là đối chiếu chúng với những nguồn tài liệu khác, những nguồn tài liệu này đă được giới nghiên cứu phát hiện khá phong phú trong suốt mấy chục năm qua.
Chúng ta hăy dừng lại ở một thời điểm khá quan trọng đối với cuộc đời cách mạng của HCM – đó là cuộc bỏ nước sang Pháp của ông năm 1911 – để thử làm công việc đó.
“Phê phán” trước khi ra đi ?
Trước hết, chúng ta hăy đọc lại đoạn văn nói về sự kiện ra đi nói trên trong “quyển truyện” của Trần Dân Tiên. Khi c̣n là người thiếu niên mười lăm tuổi, HCM“đă sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của Đồng bào. Lúc bấy giờ, Anh đă có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng Đồng bào. Anh đă tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc. Anh khâm phục các cụ Phan Đ́nh Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của người nào. V́ :
Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương. Anh nhận điều đó là sai lầm, chẳng khác ǵ đến xin giặc rủ ḷng thương.
Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác ǵ “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.
Cụ Hoàng Hoa Thám c̣n thực tế hơn, v́ trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo lời người ta kể th́ cụ c̣n nặng cốt cách phong kiến.
Anh thấy rơ và quyết định con đường nên đi. Cụ Phan Bội Châu vào bậc chú bác của Anh, Cụ Phan Bội Châu muốn đưa Anh và một số thanh niên sang Nhật. Nhưng anh không đi” [3] .
Vậy anh muốn làm ǵ ? Một nhân vật thuật lại lời anh như sau :
“Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp Đồng bào chúng ta” [4] .
Những ai không phải là người sùng bái HCM, khi đọc thêm những tài liệu khác sẽ dễ dàng nhận ra khá nhiều điều cần hiệu đính trong đoạn văn trên đây.
a. HCM lúc bấy giờ “đă tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc”. Không có bằng cớ xác nhận ông đă làm như vậy. Tất cả những tác giả, dù theo khuynh hướng nào, viết về HCM sau này chẳng ai nhắc lại để sử dụng cả. Sự kiện đó được liệt vào lĩnh vực hư cấu thuần tuư.
b. “Cụ Phan Bội Châu muốn đưa Anh và một số thanh niên sang Nhật. Nhưng Anh không đi”. Không đúng !
“Trong cuốn hồi kư Năm mươi bốn năm hải ngoại của Trần Trọng Khắc (tức Nguyễn Thức Canh) có đoạn : Tôi cùng cụ Sào Nam ở chung trong một thuyền. Chín mười ngày sau, lúc các đồng chí đă đến họp, bàn bạc xong, cụ lên đường ra Bắc, tôi cùng Ngư Hải tiên sinh đi cáo biệt với cách mạng đồng chí và t́m thanh niên xuất dương du học. Cụ Phó bảng Thái Sơn đương thời có tặng tôi một bài thơ xuất ngôn tuyệt cú để làm quà tiễn biệt. Chúng tôi trước tới nhà cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc rủ anh Nguyễn Sinh Cung đồng đi, nhưng anh Cung đă đi ra Bắc không được gặp” [5] .
c. Khen Hoàng Hoa Thám là “thực tế, v́ trực tiếp đấu tranh chống Pháp” nhưng lại cho rằng chủ trương của Phan Bội Châu nhờ Nhật đuổi Pháp là “chẳng khác ǵ đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau” là cố ư gác qua bên mối quan hệ giữa hai nhà yêu Nước này. Trước khi qua Nhật, Phan Bội Châu đă t́m gặp và muốn dựa vào Hoàng Hoa Thám để xây dựng lực lượng trong Nước. C̣n việc “Đông độ” “cầu viện” của nhà chí sĩ này (năm 1905) th́ đó không phải là một kế hoạch tự thân mà chỉ để phối hợp với những hoạt động khác trong Nước. Tuy nhiên, chủ trương này đă được điều chỉnh lại v́ khi sang Nhật, nghe lời khuyên của Lương Khải Siêu và một số chính khách Nhật, Phan Bội Châu đă chuyển sang cổ vũ phong trào du học. 1907, chủ trương này cũng lại không đi đến đâu v́ Nhật kư hiệp ước với Pháp cấm hoạt động. Bị trục xuất, Phan Bội Châu đă phải cùng các đồng chí chạy sang Thái Lan, Trung Quốc [6] . Chỉ có khoảng 5 năm, Phan Bội Châu đă chuyển đường lối nhiều lần : 1911, khi Nguyễn Tất Thành sang Pháp, Phan Bội Châu đă ở Trung Quốc và đă từ quân chủ lập hiến chuyển sang ủng hộ cộng hoà kiểu Tôn Dật Tiên rồi. Bốn mươi năm sau (1948) nh́n lại những ǵ đă xảy ra trên Đất nước mà chỉ xảy ra trong phong trào của Phan Bội Châu khía cạnh “Đông du cầu viện” để phê phán là rất thiếu sót.
d. Cho rằng chủ trương cải lương của Phan Chu Trinh là “sai lầm, chẳng khác ǵ đến xin giặc rủ ḷng thương” cũng không có ư muốn hiểu tới nơi tới chốn đường lối của nhà chí sĩ này. Sở dĩ Phan Chu Trinh không chấp nhận bạo động v́ ông đă thấy cái gương chiến đấu anh dũng nhưng tuyệt vọng của các chiến sĩ Cần vương. Cũng không tán thành chủ trương bạo lực của Phan Bội Châu v́ ông cho rằng khi chưa có đủ thực lực th́ chỉ dắt nhau vào cái chết vô ích.
Vấn đề cứu nước do Phan Chu Trinh đặt ra không đơn thuần là giành lại chủ quyền mà phải hiện đại hoá th́ vấn đề chủ quyền mới giải quyết triệt để được, v́ theo ông hiện đại hoá chính là nội dung của độc lập Dân tộc trong thời kỳ mới, khác hẳn với thời phong kiến trước đây. Cách đặt vấn đề này cũng không khác Phan Bội Châu, sự khác nhau chỉ là giải quyết như thế nào về mối quan hệ giữa độc lập và hiện đại hoá. Trong khi ṃ mẫm chưa hiểu rơ con đường hiện đại hoá, Phan Bội Châu đặt ưu tiên cho việc vũ trang khởi nghĩa, dựa vào cơ sở có sẵn c̣n lại của phong trào Cần vương phối hợp với một số hoạt động khác.
Phan Chu Trinh thấy rơ t́nh trạng lạc hậu thấp kém của xă hội truyền thống, cũng lại thấy phương thức dùng bạo lực là chưa có triển vọng nên đă chủ trương giành ưu tiên cho sự nghiệp nâng cao dân trí, học hỏi văn hoá Dân chủ sau đó mới từng bước tính chuyện giành lại độc lập [7] . Chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến” của ông đă dựa trên nhận định ấy. Chủ trương ấy không phải là không có cơ sở : trong nước Pháp Dân chủ, ông đă được khá đông những người thuộc phe tả (Đảng Xă hội, Hội Nhân quyền, những nhân vật cấp tiến trong bộ máy cầm quyền của nước Pháp…) giúp đỡ, ủng hộ, tạo áp lực với chính phủ Pháp đ̣i thay đổi chính sách thuộc địa. Xét về lâu dài, trước thực tế ngoan cố của thực dân Pháp, nếu kéo dài măi chủ trương ấy có thể sẽ đưa Nhân dân vào con đường thoả hiệp, nhưng trong cơn tăm tối của đầu thế kỷ XX, đó cũng là một cách t́m đường. Dùng mấy chữ “xin giặc rủ ḷng thương” đối với Phan Chu Trinh là không thể tất nhân t́nh.
e. Không có ǵ nghi ngờ chủ trương muốn đi sang Pháp và các nước khác, “xem xét họ làm như thế nào”, rồi “sẽ trở về giúp Đồng bào chúng ta” là chọn lựa của HCM vào lúc bấy giờ như chính ông (dưới cái tên mới là Nguyễn Ái Quốc) đă xác nhận trong các cuộc trả lời phỏng vấn khi sang Nga năm 1924:
“Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên nghe được ba chữ Pháp : Tự do, B́nh đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đă nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn t́m xem những ǵ ẩn đàng sau những chữ ấy. Nhưng trong những trường học cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người như dạy con vẹt. Chúng giấu không cho người nước tôi xem sách báo. Không phải chỉ sách của những nhà văn mới, mà cả Rousseau và Montesquieu cũng bị cấm. Vậy th́ phải làm thế nào bây giờ ? Tôi quyết định t́m cách đi ra nước ngoài” [8] .
Nhưng lời lẽ phát biểu có nhiều chỗ quá cường điệu so với kinh nghiệm và nhận thức của một thiếu niên 13 tuổi ! Giả sử như có mang chút ưu tư của một người trẻ tuổi sớm biết quan tâm đến thời cuộc th́ đó vẫn chỉ là những nghĩ ngợi bâng khuâng, những cảm nhận có tính chất trực giác trước t́nh trạng bế tắc chung của Đất nước, không có lư luận ǵ để có thể gọi là cao hơn những chủ trương đấu tranh của các vị tiền bối. Mới dự định đi ra ngoài “xem” người ta làm ǵ, nghĩa là chưa thấy ǵ chưa biết ǵ th́ làm sao có thể khẳng định chuyện này chuyện nọ ? Có ǵ bảo đảm rằng cứ phải sang Âu Châu người ta mới t́m ra phương cách “giúp đỡ Đồng bào” ? Vả lại nội dung của mấy chữ “giúp đỡ Đồng bào” lúc bấy giờ đă có ǵ rơ rệt, có ǵ gọi là vượt trội để có thể tự cho ḿnh đứng được ở vị trí cao hơn để gọi là “phê phán” [9] các bậc cha chú ?
“Phê phán” sau khi ra đi ?
Chúng ta hăy cứ giả định theo lời lẽ của Trần Dân Tiên cho rằng chủ trương sang Pháp để “xem” người ta làm ǵ rồi “sẽ về giúp Đồng bào” của Nguyễn Tất Thành đáng được gọi là “con đường nên đi” th́ điều đó thật sự cũng chẳng có ǵ là mới mẻ so với những chọn lựa của tiền bối. Ít nhất là đối với người tiền bối rất thân cận với gia đ́nh của Nguyễn Tất Thành, là phó bảng Phan Chu Trinh. Ngược hẳn lại những luận điệu gọi là “phê phán cha chú” của những người sùng bái HCM, chúng ta đă có rất nhiều tài liệu chứng minh rằng suốt cả một thời gian dài từ trong nước đến sau khi ra ngoài, HCM lúc ấy đă hoàn toàn phụ thuộc vào Phan Chu Trinh về sự bảo trợ và cả đường lối.
a. Bà Phan Thị Minh (cháu ngoại của Phan Chu Trinh) đă được ông Vũ Kỳ (thư kư riêng của ông Hồ từ Cách mạng Tháng Tám) xác nhận sự khẳng định của ông Hồ về mối quan hệ của ḿnh với Phan Chu Trinh như sau :
“Ḿnh biết Cụ từ trong nước rất sớm v́ Cụ là bạn thân của cha ḿnh. Sang Pháp là dựa vào Cụ để sống và hoạt động. Cụ Phan đă giúp ḿnh rất nhiều, thực sự là ngưới đỡ đầu ḿnh trong một thời gian dài khi ḿnh ở Paris …” [10]
Ông Phạm Văn Đồng cũng cho biết những điều tương tự :
“Tôi đă được Bác Hồ nói nhiều về cụ Phan. Bác cho biết cụ đă quư và giúp Bác nhiều. Trước khi lên đường đi Pháp đă được cụ hướng dẫn… Nhận một công việc thời đó cho là thấp kém để dễ qua mắt mật thám, dễ ra đi cũng là theo ư Cụ… Sang Pháp là tiếp xúc ngay với Cụ… Quan hệ Bác với Cụ rất gần gũi, thân thiết như ruột thịt. Đi xa sang Mỹ hay ở Anh, Bác đều viết thư cho Cụ và nhận được thư Cụ phúc đáp đều đặn. Thư viết phải thật vắn tắt v́ mật thám theo dơi chặt, nhưng có dịp là tranh thủ đến gặp Cụ để được bàn bạc và dặn ḍ mọi việc. Đi năm châu bốn biển để mở rộng kiến thức, học nhiều ngoại ngữ, đọc sách nhiều, giao tiếp rộng là những điều Cụ rất tâm đắc và khuyến khích…” [11] .
Căn cứ vào những lời chứng nhận trên đây, bà Phan Thị Minh đă khẳng định cái giả thuyết mà các nhà nghiên cứu trước đây đưa ra về việc ông Nguyễn Sinh Huy cùng Nguyễn Tất Thành đă kịp gặp Cụ Phan tại Mỹ Tho (nơi Cụ bị quản chế sau khi từ Côn Đảo về) hoặc tại Sài G̣n trước khi cụ Phan sang Pháp để bàn bạc kế hoạch ra đi của Nguyễn Tất Thành [12] . Không hề có dấu hiệu ǵ chứng tỏ Nguyễn Tất Thành đă “hoàn toàn không tán thành” cách làm của cụ Phan như sách của Trần Dân Tiên đă viết.
b. Bà Phan Thị Minh cũng cho biết rằng khi Nguyễn Tất Thành sang Pháp, ghé cảng Le Havre khoảng 40 ngày (do tàu cần sửa chữa), có thể Nguyễn Tất Thành đă về Paris (cách Le Havre khoảng 100 km) thăm Phan Chu Trinh nhân đó gặp Bùi Kỷ là người quen cũ [13] – về sau sẽ là thư kư của Hội Đồng bào Thân ái do Phan Chu Trinh và Phan Văn Trương lập ra năm 1912 – và có thể ở đây ông này đă gợi ư và thảo lá đơn xin vào học nội trú Ecole Coloniale cho Nguyễn Tất Thành chép lại tại Marseille ngày 15-9-1911 và gửi Tổng thống Pháp, trong đó có những ḍng sau đây : “Hiện tôi đang làm việc cho hăng Compagnie des Chargeurs Réunis (tàu Amiral Latouche-Tréville) để sinh sống.
Tôi hoàn toàn trắng tay nhưng rất ham muốn học hỏi. Đối với Đồng bào tôi, tôi mong muốn trở nên hữu ích cho nước Pháp đồng thời có thể làm cho họ hưởng được những lợi ích của học vấn” [14]. Có nhiều ư kiến ngược nhau về lá đơn này : người th́ cho rằng Nguyễn Tất Thành lúc đầu v́ chưa có ư định làm cách mạng nên đă tính đi làm cho Pháp (và chỉ đi làm cách mạng v́ không được đi làm cho Pháp !), người lại cho rằng lúc đó v́ đă có ư định làm cách mạng rồi nên Nguyễn Tất Thành đă chủ động “chui” vào Trường Thuộc địa để “xây dựng phong trào yêu nước ngay trong ḷng thực dân”. Tuy vậy, phần đông những người nghiên cứu đều cho rằng lá đơn trên đây đă phản ánh chủ trương rất rơ của Phan Chu Trinh : phải học văn hoá khai sáng và Dân chủ của Pháp để canh tân Đất nước.
c. Sau thời gian theo tàu đi các nơi đến năm 1913 dừng lại ở Anh, Nguyễn Tất Thành vẫn thường xuyên liên hệ với nhóm ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường. Ngoài những chuyện kiếm sống, học tiếng Anh, quan tâm chút ít đến Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất sắp nổ ra, không thấy Nguyễn Tất Thành cho biết đă t́m ra một cái ǵ mới hơn để tranh căi với Phan Chu Trinh [15] . Sự tranh căi chỉ xảy ra sau này khi từ Anh trở lại Pháp, lúc Nguyễn Tất Thành đă trở thành Nguyễn Ái Quốc, và cũng chỉ xảy ra sau khi mang tên Nguyễn Ái Quốc một thời gian khá dài. Sự bất đồng đó như thế nào, chúng ta sẽ có dịp nói đến, hiện giờ, qua những tài liệu trên, chúng ta có thể kết luận được mấy điều về cuộc ra đi của HCM thời c̣n mang tên là Nguyễn Tất Thành như sau :
Trước khi ra đi, Nguyễn Tất Thành chưa có được những hiểu biết vượt trội nào để gọi là “phê phán” hoặc “phủ định” các phương pháp tranh đấu của các vị tiền bối.
Người thanh niên ấy chỉ mới có ư định sang Pháp xem xét và học hỏi, nhưng chưa học được ǵ và xem được ǵ để có thể nói về những chuyện quan trọng hơn bản thân.
Sự chọn lựa ấy cũng đă bắt nguồn từ sự khuyên nhủ, chỉ vẽ, sắp xếp của Phan Chu Trinh, được Phan Chu Trinh giúp đỡ và cùng hoạt động trong một thời gian dài.
Ra đi không “phê phán” !
Có thể nói cuộc ra đi hiện thực của Nguyễn Tất Thành là một cuộc ra đi mà phần lớn sự định hướng ban đầu không phải do ḿnh quyết định với một ư thức phủ nhận mọi cái đă có một cách quyết liệt, sáng suốt như “quyển truyện” của Trần Dân Tiên đă viết và được những nhà sùng bái HCM khai thác. Cuộc ra đi ấy đă được định hướng theo một con đường đă cũ và đó chính là con đường “Tây du” kiểu Phan Chu Trinh. Nhưng có một yếu tố khác cũng đă góp phần không kém quan trọng để tạo nên kịch bản ra đi này là sự góp sức của ông Nguyễn Sinh Huy, thân phụ của Nguyễn Tất Thành.
a. Nguyễn Sinh Huy đậu phó bảng năm 1901 ; 1906 vào Huế nhậm chức thừa biện Bộ Lễ ; 1909 được cử làm tri huyện B́nh Khê (tỉnh B́nh Định), nhưng chỉ 7 tháng sau, tháng 1-1910, th́ bị băi chức và bị triệu hồi về Huế. Lư do : theo Sở mật thám ông đă uống rượu say và đánh chết người.
Nguyễn Sinh Huy phản bác (thừa nhận có đánh một tù nhân, nhưng cho rằng cái chết không phải do roi của ông), tuy thế do xét nghiệm cho biết người bị đánh đă phát bệnh mà chết, nên ông vẫn bị giáng bốn cấp và băi chức. Sự nghiệp tan vỡ, ông xin vào Nam, từ đó về sau lưu lạc rày đây mai đó, kiếm sống bằng đủ thứ nghề, khi viết câu đối, dạy chữ Nho, lúc bốc thuốc, làm cai đồn điền, đă từng đi bộ lên Đế Thiên Đế Thích ở Cambốt nhưng lại không bao giờ trở về Huế và về quê, cũng chẳng bao giờ gặp lại con cái. Cuối cùng dừng lại tại làng Hoà An, tỉnh Cao Lănh…, trước khi chết đă bị mật thám nghi ngờ có gia nhập một thứ tổ chức thần bí nào đó mang tên là Thiên Địa Hội.
H́nh ảnh thực tế của Nguyễn Sinh Huy qua những tài liệu do D. Hémery công bố [16] trên đây không hoàn toàn lư tưởng như người ta đă vẽ ra. Khá thân cận với những nhà nho tiêu biểu trong phong trào Duy Tân Đông du bấy giờ, bị mật thám theo dơi nhưng lại không bị liệt vào các phần tử nguy hiểm, do lẽ ông không trực tiếp dính líu đến các tổ chức chống đối. Không theo con đường từ quan tranh đấu của những bạn đồng khoa như Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, ông vẫn chấp nhận đi vào guồng máy cai trị thuộc địa một cách miễn cưỡng, cuối cùng có lẽ do buồn chán mà trở nên sa sút [17] , ông đă tự gạt ḿnh ra khỏi cái cái guồng máy quan lại cuối mùa để sống một cuộc sống giang hồ, cô độc. [18]
b. Ảnh hưởng của Nguyễn Sinh Huy với người con thứ ba của ḿnh ra sao, chúng ta không biết rơ. Nhưng có điều chắc chắn là việc bị băi chức của ông cũng đă kéo Nguyễn Tất Thành theo cùng số phận với ḿnh : anh không c̣n khả năng tiếp tục theo con đường học vấn kiểu “Pháp-bản xứ” để sau này gia nhập vào guồng máy cai trị của thực dân dưới một h́nh thức mới, trong chính sách khai thác thuộc địa đă qua thời b́nh định. Có thể Nguyễn Tất Thành chưa chắc đă đi vào quỹ đạo đó ; nhưng giả sử như anh c̣n giữ được ư định “giúp đỡ Đồng bào” th́ anh sẽ làm ǵ với mớ kiến thức kiểu thuộc địa mà anh đă thu lượm được? Có thể anh sẽ bỏ học để làm cách mạng Cộng sản, nhưng ai sẽ thay anh đóng vai Nguyễn-Người-Yêu-Nước để liên hệ với Đệ tam Quốc tế và liệu có xuất hiện được một mẫu người Cộng sản Việt Nam nào đó như anh ? Thật khó trả lời.
Nhưng cũng rất may, những câu hỏi giả định ấy đă không có cơ sở để đặt ra. Có lẽ để chuộc lại lỗi lầm, ông Nguyễn Sinh Huy đă đặc biệt quan tâm đến Nguyễn Tất Thành và đă không để anh phải bươn chải một ḿnh. Như chúng ta đă biết, sau khi bị cách chức, về quê xin phép vào Nam để “t́m kế sinh nhai”, nghe tin Nguyễn Tất Thành từ Quy Nhơn [19] vào Sài G̣n, ông đă xoay xở đi theo và có lẽ đă dẫn được Nguyễn Tất Thành đến gặp Phan Chu Trinh trước khi ông này sang Pháp (tháng 4-1911). Ông trông đợi ǵ nơi Nguyễn Tất Thành qua sự gửi gắm này với Phan Chu Trinh ? Cũng do ông biết rơ đường lối của người bạn đồng khoa của ông là như thế nào, chắc hẳn ông sẽ không thể nào tưởng tượng ra được một ngày nào đó người con của ông lại trở thành một nhân vật như Nguyễn Ái Quốc. Với tính cách của ông, có thể suy nghĩ sau đây không sai sự thật lắm : thiếu ǵ cách dùng học vấn của ḿnh để giúp đỡ Đồng bào, đâu nhất thiết phải làm cách mạng ? Dù sao ông cũng đă góp phần đẩy ra phía trước một người con sau này đă đi xa hơn kỳ vọng của ông rất nhiều.
c. Về phần Nguyễn Tất Thành lúc bấy giờ th́ điều mà chúng ta biết được tương đối rơ là suốt một thời gian dài anh luôn luôn nhớ đến cha và cố gắng thực hiện những mong đợi của cha khi gửi gắm anh cho Phan Chu Trinh.
Chúng ta đă biết lá đơn của anh gửi Tổng thống Pháp ngày 15-9-1911 xin được vào học Ecole Coloniale với ước muốn vừa có ích cho nước Pháp vừa làm lợi cho Đồng bào ḿnh. Điều chúng ta cần biết thêm là sau khi gửi bức thư đó, Nguyễn Tất Thành đă theo tàu trở về Việt Nam qua hành tŕnh Marseille–Sài G̣n–Hải Pḥng–Sài G̣n–Marseille–Le Havre… Tại Sài G̣n, anh đă gửi thư cho anh là ông Cả Khiêm (Nguyễn Sinh Khâm hoặc Nguyễn Tất Đạt) lúc ấy đang giúp việc vặt tại Khâm sứ Trung Kỳ, nhờ vận động xin vào Ecole Coloniale. Ông Khiêm đă gửi thư lên Toàn quyền Albert Sarraut và thư này được chuyển về Khâm sứ Trung Kỳ. Và như mọi người có thể đoán, Khâm sứ Trung Kỳ đă trả lời Toàn quyền Đông dương, với lư do bác bỏ như sau: muốn vào Ecole Coloniale phải đang học ở thuộc địa, và chỉ những thanh niên xứng đáng trong hàng ngũ quan lại cao cấp mới được chọn [20] . Qua sự khẩn khoản này, chúng ta thấy quyết tâm muốn t́m một chỗ học nhất định để ổn định cuộc sống của Nguyễn Tất Thành là như thế nào.
Sự quan tâm lo lắng của Nguyễn Tất Thành với cha cũng rất đáng chú ư với cách thức đặc biệt của anh. Cũng tại Sài G̣n nhân chuyến về nước nói trên [21] , cùng với việc gửi thư cho Nguyễn Sinh Khâm nhờ vận động vào Ecole Coloniale, ngày 31.10.1911, Nguyễn Tất Thành cũng đă gửi thư cho Khâm sứ Trung kỳ xin nhờ chuyển mandat 15 đồng (Đông Dương) cho cha, v́ cha anh không thể nhận mandat trực tiếp được [22] .
Suốt thời gian làm việc trên tàu, đi đây đó, nhưng nỗi lo lắng về cha vẫn làm Nguyễn Tất Thành bứt rứt: không phải chỉ gửi tiền giúp, anh c̣n có ư xin chính quyền thuộc địa phục chức hoặc t́m việc cho cha nữa. Bản khai của Bùi Quang Chiêu với Mật thám Sài G̣n ngày 21-9-1922 có nói đến việc ông gặp Nguyễn Tất Thành (mang tên Văn Ba) trên tàu Latouche-Tréville (ông nói đă quên tên) như sau :
“Anh đang làm việc trên tàu. Anh đến gặp tôi v́ tôi từng là giáo sư nông nghiệp dạy cha anh tại Huế khoảng 1901-1902. Anh nói với tôi rằng lần đầu tiên anh sang Pháp, mục đích là để khiếu nại cho cha anh về việc ông vừa mới bị băi chức. Anh muốn đến ở nhà thuyền trưởng Do-huu-Chan (?) đang công tác tại Marseille, với tư cách là người giúp việc nhà cho ông, để nhờ ông giúp đỡ trong việc khiếu nại đó” [23] .
Ngày 15-12-1912, khi qua Mỹ, thư gửi Khâm sứ Huế báo rằng trong ba cái mandat gửi cha, anh chỉ nhận được một thư trả lời, ấy là nhờ do lần ấy mandat đă được chính Khâm sứ chuyển trực tiếp. Lần này anh muốn gửi tiền hàng tháng cho cha, cũng nhờ Khâm sứ giúp đỡ và nhân đó xin Khâm sứ t́m việc làm cho cha nữa. Trong thư, có những đoạn lời lẽ như sau :
“Ôi ! Hoàn cảnh của tôi gay go biết bao ! Sống quá xa cha mẹ, rất hiếm nhận được tin tức của họ, muốn giúp đỡ họ mà không biết làm sao !
Thôi thúc bởi t́nh yêu của đứa con, tôi dám xin Ngài vui ḷng thuận cho cha tôi một công việc như là thừa biện ở các Bộ hay Huấn đạo giáo thư (?) để dưới tấm ḷng nhân hậu cao cả của Ngài, ông ấy có được kế sinh nhai” [24] .
Có một chi tiết đáng lưu ư : dưới thư, kư là “Paul Tatthanh”, Poste restante 1, rue Amiral Courbet, 1 – Le Havre. Tên “Paul” này đă được Nguyễn Tất Thành sử dụng lại có biến dạng đi một chút gọi là “Paul Thành” trong một bức thư từ Anh viết cho Toàn quyền Đông Dương, đề ngày 16.4.1915, qua lănh sự Anh tại Sài G̣n, nhờ chuyển cho cha, nhưng không đến tay v́ không t́m được địa chỉ [25] .
Qua thư gửi Tổng thống Pháp xin vào học Ecole Coloniale, các thư gửi Khâm sứ Huế hoặc Toàn quyền Đông Dương nhờ liên lạc chuyển tiền và t́m việc cho cha, tên kư có lúc là “Paul Tatthanh” (từ Mỹ, 1912), có lúc là “Paul Thành” (từ Anh, 1915), chúng ta thấy nơi sự ra đi của người con thứ ba của ông phó bảng Nguyễn Sinh Huy một cung cách ứng xử chưa có ǵ gọi được “cách mạng” cả. Lư tưởng đi học để về giúp Đồng bào theo chủ trương của Phan Chu Trinh chưa có điều kiện để bật lên thành mục đích chủ yếu, chế độ thực dân chưa thành đối tượng tố cáo, đả kích không khoan nhượng, t́nh nhà c̣n đè lên tâm tư nặng nề, cuộc mưu sinh của một thanh niên xa xứ cũng không kém phần bức xúc… Nói chung anh là một kẻ mới vào đời, tuy được những người thân hướng dẫn để đi xa, nhưng trong những ngày khởi đầu của cuộc hành tŕnh này, Nguyễn Tất Thành vẫn chưa xác định được một vị trí nào thật rơ rệt về cuộc sống tương lai cho ḿnh.
Hiện thực và huyễn hoặc
Sự so sánh trên đây cho chúng ta thấy rất nhiều khác biệt giữa h́nh ảnh của một Nguyễn Tất Thành dưới ngọn bút của Trần Dân Tiên năm 1948 với một Nguyễn Tất Thành trong hầu hết những tài liệu mới phát hiện về sau.
a. Nguyễn Tất Thành, trong cuốn sách của Trần Dân Tiên, đă được quan niệm như là tiền thân của những nhân vật Nguyễn Ái Quốc và HCM, không phải chỉ theo trật tự về thời gian mà c̣n là về lôgic : cái trước tất yếu dẫn đến cái sau, muốn hiểu cái sau phải biết cái trước và ngược lại. Cuộc đời HCM phải được quan niệm như một tổng thể cách mạng nhất quán và có ư thức từ đầu đến cuối. Trước khi trở thành HCM người yêu nước-Cộng sản, theo nghĩa mà những người Cộng sản quan niệm “chủ nghĩa yêu nước chân chính cũng là chủ nghĩa Cộng sản”, th́ Nguyễn Tất Thành tiền thân của HCM phải là người chuẩn bị : chưa t́m được đường đến với chủ nghĩa Cộng sản th́ tâm tưởng của anh phải là mảnh đất thuận lợi để nẩy mầm chủ nghĩa Cộng sản về sau – anh phải là người dọn đất, người phủ định, người “không tán thành” những phương cách yêu nước của cha chú ḿnh, nghĩa là phải làm được người đại biểu tiềm thể cho cuộc cách mạng tương lai mà HCM sẽ là đại biểu hiện thực. Khác hẳn với một Nguyễn Tất Thành thực tế – một Nguyễn Tất Thành như là Nguyễn Tất Thành con của ông Nguyễn Sinh Huy – mà các tài liệu sau này đă phác hoạ : tuy đă được định hướng để ra đi, nhưng cái hướng ấy không tất yếu phải là cuộc cách mạng sau này anh sẽ chọn lựa, bởi v́ để đến với cuộc cách mạng ấy, anh phải có được hàng loạt những cơ duyên khác xa với những ngày anh bỏ nước ra đi. Ở anh Nguyễn Tất Thành thanh thiếu niên ấy chưa có ǵ tất định báo hiệu anh sẽ là Nguyễn Ái Quốc hay HCM về sau.
b. Anh Nguyễn Tất Thành được Trần Dân Tiên giao cho cái nhiệm vụ tiền thân ấy, anh Nguyễn Tất Thành được xem là “h́nh ảnh của nhà ái quốc xứ Nghệ An rời quê mẹ ra đi t́m đường giải phóng Đất nước”, theo cách diễn tả của D. Hémery trong tài liệu đă kể, “chỉ thuộc về điều tưởng tượng huyễn hoặc của những năm sau 1945 hoặc sau 1920” [26].
Sau 1920, nhất là sau Đại hội Tours, khi Nguyễn Tất Thành đă vượt khỏi Phan Chu Trinh để trở thành người yêu nước - Cộng sản : cần phải đẩy thật mạnh việc tố cáo tội ác của thực dân để kêu gọi sự chú ư, sự giúp đỡ của những người hoạt động khuynh tả khắp nơi, đặc biệt thúc đẩy Đảng Cộng sản Pháp, và sau 1923, khi đă sang Nga, vận động Quốc tế Cộng sản, thiết thực ủng hộ phong trào chống thực dân ở Đông Dương. Những bài trả lời phỏng vấn của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc vào thời kỳ này đă bộc lộ rơ xu hướng ấy. Động cơ muốn xem văn minh Pháp được kích động thêm bởi tinh thần “chống đối về bản chất” của những người lính lê dương [27] – và chỉ như vậy mà thôi : đó là tất cả những ǵ Nguyễn Ái Quốc có thể nhớ lại về chuyến ra đi của Nguyễn Tất Thành để bày tỏ quan điểm chính trị mới của ḿnh. Đối với câu hỏi “Khi học xong, anh dự định làm ǵ ?”, mà trả lời là : “Dĩ nhiên là tôi sẽ trở về Tổ quốc để đấu tranh cho sự nghiệp của chúng tôi” [28] th́ cái động cơ “chống đối” nêu ra ở trên là không thể nào khác được. Không c̣n dấu vết ǵ của tờ đơn xin vào Ecole Coloniale, những lá thư gửi Khâm sứ Huế nhờ chuyển tiền, xin việc làm cho cha …
Sau 1945, khi Nguyễn Tất Thành đă trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với cái tên mới là HCM (Dân chúng chưa biết rơ lắm về lai lịch của cái tên này), 1948 đang ở chiến khu Việt Bắc kháng chiến chống Pháp : phải tạo cho ḿnh h́nh ảnh một “đấng bậc trưởng thượng” kiểu châu Á có uy tín vượt trội, vừa truyền thống vừa hiện đại, yêu Nước và mập mờ nhận là Cộng sản, tuy cuộc đời ba ch́m bảy nổi, ẩn hiện bí mật cao siêu, nhưng mục đích suốt đời không có ǵ khác hơn là hy sinh cho độc lập của Tổ quốc và hạnh phúc của Nhân dân, một con người trong sạch, giản dị, hoà ḿnh vào quần chúng, được bạn bè khắp hoàn vũ mến yêu giúp đỡ c̣n Đồng bào trong Nước th́ đặt h́nh lănh tụ của ḿnh lên bàn thờ [29] và tôn xưng là “Cha già của Dân tộc” v.v…
Cuốn “tiểu sử” viết về HCM của Trần Dân Tiên đă biểu lộ rất rơ cái nhu cầu năm 1948 mà HCM và cuộc cách mạng của ông đang muốn tạo ra cho phong trào yêu nước Cộng sản trước t́nh h́nh mới – một lĩnh tụ tuyệt vời và chỉ có lĩnh tụ đó mới là tuyệt vời thôi! Tất cả những ǵ tốt đẹp trong những thời kỳ hoạt động vinh quang nhất của vị lĩnh tụ này đều được mô tả chi tiết, c̣n đối với những cái khó nói và không nên nói trong những giai đoạn “quan trọng” đặc biệt – thí dụ như những năm sau khi thành lập Đảng 1930, bị xu hướng tả khuynh trong Đảng ở Việt Nam và Quốc tế Cộng sản đả kích, phê phán khá nặng nề đến nỗi bị lưu giữ để “học tập” một thời gian ở Liên Xô cho đến 1938 mới được cho phép đi ra hoạt động lại [30] – th́ lại cố t́nh giấu đi: phô bày những điều ấy ra chẳng những bất lợi cho h́nh ảnh của lănh tụ mà c̣n phá vỡ sự thống nhất cần thiết của Đảng do lănh tụ tạo ra.
c. Trần Dân Tiên có phải là bút danh của HCM như bấy lâu nay người ta vẫn cho là như vậy ? Gần đây, bà Phan Thị Minh đă đưa ra một thông tin mới rất đáng chú ư như sau : “Chiều 2.3.1993, tôi đă được gặp ông Vũ Kỳ là thư kư riêng của Bác từ Cách mạng tháng Tám đến ngày Bác qua đời và đă cùng một số người quanh Bác là đồng tác giả cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” với bút danh Trần Dân Tiên” [31] . Chưa thấy ông Vũ Kỳ nói rơ hơn về chuyện này nên chúng ta chưa biết ông cùng những người “quanh Bác” đă làm việc như thế nào để thực hiện cuốn Những mẩu chuyện… lừng danh ấy. Ông và những cộng sự có phải đi đây đi đó khắp nơi gặp gần 10 nhân vật đă được nhắc đến trong cuốn sách để phỏng vấn về mối quan hệ của họ với ông Hồ? Ḍng cuối cho ta biết sách viết xong vào mùa thu năm 1948, lúc bấy giờ ông Vũ Kỳ đă phải đi theo HCM lên chiến khu Việt Bắc (Tuyên Quang, Thái Nguyên), nếu theo cách đó th́ làm sao thực hiện được trong điều kiện kháng chiến đường xá cách trở? Cách tŕnh bày được mô tả trong sách – những nhân vật thay nhau kể chuyện – do đó có lẽ chỉ là một thủ thuật và đó là thủ thuật của những người viết tiểu thuyết nhiều hơn là “tiểu sử”.
Cứ tạm tin rằng cái “tiểu sử” dưới h́nh thức “truyện” ấy được chính Vũ Kỳ và những người cộng sự viết ra và kư là Trần Dân Tiên. Nhưng như vậy th́ lại gặp điều khó khăn phải giải thích tại sao cuốn sách tầm thường của một tác giả vô danh là Trần Dân Tiên ấy lại có thể trở thành một thứ tài liệu tham khảo quan trọng bậc nhất về HCM như đă xảy ra, đặc biệt trong giới nghiên cứu, giảng dạy ? Sự quan trọng ấy không thể nào có được nếu những ǵ đă viết về ông Hồ trong cuốn sách ấy (giả sử là của Vũ Kỳ) không được chính ông xét duyệt (Vũ Kỳ là thư kư riêng của ông), và một cách nào đó cũng đă làm cho người ta hiểu rằng chính ông đă muốn phổ biến cuốn “tiểu sử” có nội dung như vậy. Cuốn sách, do đó, dù cho có do Vũ Kỳ lấy tài liệu từ HCM để viết hoặc do chính HCM trực tiếp viết [32] (hay đọc cho Vũ Kỳ viết), thiết tưởng ư nghĩa cũng đều như nhau: sự xuất hiện của nó là “cái cần thiết” cho nhu cầu cách mạng của bản thân HCM sau 1945.
Vào thời điểm này, Nguyễn Tất Thành đă không c̣n là cá nhân một thanh niên 21 tuổi ngỡ ngàng trong cuộc bỏ nước ra đi năm 1911 nữa : anh đă về nước với tên HCM và tự cho ḿnh là biểu tượng của sự chọn lựa cuối cùng sau mọi chọn lựa của Đất nước – một Nguyễn Tất Thành trở thành Cộng sản, đă hoàn thành Cách mạng tháng Tám và đang lănh đạo kháng chiến bảo vệ cuộc cách mạng ấy để sau này đưa Đất nước tiến lên chủ nghĩa Cộng sản. Quá khứ của HCM hồi 21 tuổi có được tạo dựng lại cho phù hợp với vị trí của HCM khi 58 tuổi là điều không có ǵ khó hiểu : thực chất các sự việc không phải như vậy, có thể nói khác đi vào lúc khác, nhưng khi cần th́ vẫn có thể thêu dệt, tô vẽ lên để tuyên truyền – lợi ích của cách mạng buộc phải như thế. Nếu HCM không làm điều đó th́ cũng sẽ có những kẻ thay ông. V́ rất nhiều lư do khác nhau, những người sùng bái ông sau 1945 kể ra là vô số. @
[1]Trần Dân Tiên : Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Văn Học, (in lần thứ tám), Hà Nội, 1975, tr. 16.
[2]“Chúng tôi không có tham vọng viết một quyển tiểu sử của Hồ Chủ tịch, chúng tôi chỉ mong quyển truyện này giúp Đồng bào biết vài mẩu chuyện của vị lănh tụ đă xây dựng nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà” (Trần Dân Tiên : Sđd, tr. 138).
[3]Sách đă dẫn, tr. 10.
[4]Như trên, tr. 11
[5]Viện HCM: HCM, Biên niên tiểu sử 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, Chú thích 2, tr. 32.
[6]Xem “Phan Bội Châu niên biểu”, trong Phan Bội Châu toàn tập, tập 6, Thuận Hoá, Huế, 1990.
[7]Xem Vĩnh Sính : VN và Nhật bản, giao lưu văn hoá, Nxb Văn Nghệ, Tp HCM, 2001, tr. 300.
[8]Nguyễn Ái Quốc trả lời phỏng vấn báo Ogoniok (Liên xô) ngày 23-12-1923, trong HCM toàn tập, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 477.
[9]“Rơ ràng : trước khi bước chân xuống tàu rời Tổ quốc, Nguyễn Tất Thành đă chuẩn bị cho ḿnh những tiền đề tư tưởng bao gồm việc phê phán những con đường cứu nước của các bậc cha chú, lựa chọn những hướng đi và điểm tới của ḿnh” (Phạm Xanh : Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam (1921-1930), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 15).
[10]Phan Thị Minh : “T́m hiểu thêm về quan hệ của Bác Hồ với cụ Phan Chu Trinh trong những năm Bác chưa sang Pháp”, phụ lục trong Thu Trang : Nguyễn Ái Quốc tại Paris, Sđd, tr. 403.
[11]Như trên, tr. 404
[12]Như trên, tr. 409
[13]Ông Vũ Kỳ đă thuật cho nhà văn Sơn Tùng viết lại (Tạp chí Cầu Đường, Xuân Kỷ Măo) rằng HCM đă nói về ông Bùi Kỷ, nhân nghe tin ông này qua đời, nội dung như sau: “Thân sinh ông Bùi Kỷ là cụ Bùi Thức đă là bạn của cụ Sinh Huy từ khoa thi Hội 1898, làm quen nhau trong trường thi, lui tới với nhau trong khi đợi kết quả : cụ Bùi Thức đỗ Tiến sĩ, cụ Sinh Huy bị hỏng. Năm 1901, sau khi thi đỗ Phó bảng, cụ Sinh Huy có đưa Tất Thành ra Bắc t́m thăm cụ Bùi Thức tại xă Châu Cầu huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam. Hai cậu thiếu niên Tất Thành và Bùi Kỷ đă quen nhau từ thuở ấy. Anh thanh niên Bùi Kỷ mới hơn 20 tuổi đă đỗ Phó bảng. Anh nỗ lực học tiếng Pháp và được học bổng sang học trường Thuộc địa từ tháng 2-1911. Họ đă vui mừng tái ngộ tại nhà bác Phan trong các dịp Tất Thành đến thăm bác Phan tại Paris …” (Xem Phan Thị Minh: Phan Chu Trinh qua những tài liệu mới, Quyển 3, Nxb Đà Nẵng, 2001, tr. 190).
Bà Phan Thị Minh đă cho biết thêm về lư lịch của ông Bùi Kỷ như sau: “Chúng tôi đă kiểm tra trong hồ sơ trường Thuộc địa th́ đúng là trong danh sách học sinh đến Pháp tháng 2-1911 có ông Bùi Kỷ. Ông đă đỗ Phó bảng rồi học trường Thông ngôn sau đó sang học trường Thuộc địa và đă sớm gần gũi ông Trinh và con. Ông đă cùng ông Trường và ông Chuyên kèm cặp giúp Dật (con ông Trinh) học tiếng Pháp. Dật tôn trọng ông và gọi ông là “thầy Bảng Kỷ”. Ông đă làm thư kư Hội Đồng bào Thân ái và có thuyết tŕnh trong buổi họp về đề tài khoa học”. (Sđd, Chú thích 1, tr. 183).
[14]Xem Daniel Hémery : “Jeunesse d’un colonisé, genèse d’un exil. Ho Chi Minh jusqu’en 1911”, Approche-Asie, No. 11, 1992, Tài liệu số 6, tr. 131. Tất cả những tài liệu mà D. Hémery công bố và sử dụng trong bài viết nói trên đều có xuất xứ từ Trung Tâm Lưu trữ Hải ngoại Pháp (Centres des Archives d’Outre-mer - CAOM) tại thành phố Aix-en-Provence.
[15]Xem Thu Trang : Nguyễn Ái Quốc tại Paris, Sđd, tr. 29.
[16]D. Hémery : Sđd, Các tài liệu phụ lục, tr. 127-152
[17]Theo lời khai với Sở mật thám Trung kỳ của Nguyễn Thị Thanh, con gái lớn của ông Nguyễn Sinh Huy, th́ năm 1906, bà có dẫn một phụ nữ giúp việc ra Huế định ở với cha. Nhưng do không chịu nổi tật say rượu và thô bạo của ông (bà cho biết đă bị cha đánh nhiều lần) năm sau bà đă phải trở về Kim Liên. ( Xem D. Hémery: Sđd, tài liệu 18, tr. 149)
[18]Bùi Quang Chiêu đă khai với Mật thám Sài G̣n về Nguyễn Sinh Huy khi được hỏi về Nguyễn Ái Quốc như sau : “Từ Pháp về nước năm 1913, tôi đă gặp trên đường phố Sài G̣n một người trông quen, trên vai có một đ̣n xeo, mút đầu có treo một cái bọc. Đó chính là người cha của người thanh niên mà ta đang đề cập (Nguyễn Ái Quốc), ông đang đi qua Sài G̣n. Ông nói với tôi về những cực khổ của ḿnh. Đỗ cử nhân (Phó bảng mới đúng - LP) lúc khoảng 30 tuổi, năm 1901 hoặc 1902, học trường nông nghiệp ở đấy tôi đă từng là giáo sư. Sau đó được bổ nhậm quan huyện rồi bị băi chức (…). Ông ấy kể chuyện đó với tôi đầy vẻ oán hận. Tôi nhớ ông đă nói thêm: “một ngày nào đó tôi sẽ làm quan trở lại”. Tôi không gặp lại ông từ lúc đó”. (Xem D. Hémery: Sđd, tài liệu 19, tr. 151).
[19]Tháng 6-1909, Nguyễn Tất Thành theo cha vào huyện B́nh Khê (B́nh Định), được cha gửi đến Quy Nhơn học tiếng Pháp với thầy giáo Phạm Ngọc Thọ dạy tại trường tiểu học Pháp-bản xứ Quy Nhơn, theo chương tŕnh cours supérieur. Tháng 1-1910, cha bị cách chức và triệu hồi về Huế, tháng 9 năm ấy, Nguyễn Tất Thành vào Sài g̣n, hết tiền nên phải ghé qua Phan Thiết, vào trường Dục Thanh, dạy học một thời gian ngắn. (HCM biên niên tiểu sử, Sđd, tr. 39-43)
[20]D. Hémery: Sđd, Tài liệu 8, tr. 133
[21]Trong Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên đă mượn lời một nhân vật và viết: “Chúng tôi theo tàu lên Havre để sửa chữa. Chúng tôi được đưa sang làm việc ở một chiếc tàu khác, trở về Đông Dương. Anh Ba không muốn trở về” (Trần Dân Tiên: Sđd, tr. 16).
[22]D. Hémery: Sđd, Tài liệu 7, tr. 32
[23]Như trên, Tài liệu 19, tr. 151. Nhưng trong Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên lại viết về cuộc gặp gỡ của Nguyễn Tất Thành với Bùi Quang Chiêu trên tàu Latouche-Tréville như sau: “Hồi ấy, Bùi Quang Chiêu, kỹ sư canh nông vào làng Tây, đi tàu hạng nhất cùng với gia đ́nh. Ông ta đưa con sang Pháp học. Trông thấy Ba, ông ta gọi anh lại và thân mật bảo : Tại sao con lại làm cái nghề khó nhọc này ? Bỏ nghề này đi. Con nên chọn một nghề khác, danh giá hơn… Anh Ba lễ phép cảm ơn ông Chiêu, nhưng không nói đồng ư hay không” (Sđd, tr. 14-15).
[24]D. Hémery : Sđd, Tài liệu 9, tr. 134
[25]HCM biên niên tiểu sử, Sđd, tr. 58
[26]D. Hémery : Sđd, tr. 124
[27]“Trước dây tôi có đọc một số tờ báo phát hành sang nước tôi, một vài tờ có tính chống đối ở Annam, có những người lính lê dương do Poincaré gửi sang để cải huấn. Những người lính lê dương này đọc đủ thứ. Họ là những kẻ chống đối về bản chất. Họ cho tôi đọc các báo Pháp. V́ thế tôi nảy ra ư muốn sang xem “mẫu quốc” ra sao và tôi đă tới Paris. Khi trường Đại học Phương Đông ở Matxcơva mở, tôi bèn xin học”. (Nguyễn Ái Quốc: “Trả lời phỏng vấn của phóng viên báo L'Unità” (Ư), 15-3-1924, trong HCM toàn tập, Tập 1, Sđd, tr. 480)
[28]Như trên, tr. 482
[29]“Ông có biết anh Ba hiện nay thế nào không? – "Không, tôi rất tiếc là tôi không biết" – "Ông có muốn tôi nói cho ông biết không?" – "C̣n ǵ bằng nữa !" – "Ông quay lại xem, anh Ba ấy đây ḱa !" Tôi vừa nói vừa chỉ chân dung Hồ Chủ tịch treo trên bàn thờ giữa những b́nh hoa, b́nh hương, đèn nến”. ( Trần Dân Tiên: Sđd, tr. 19)
[30]Xem Sophie Quinn-Judge: Nguyen Ai Quoc, The Comintern and the Vietnamese Communist Mouvement (1919-1941) (Luận án). Luận án này đă được tác giả xuất bản với nhan đề HO CHI MINH The missing years, The University of California Press, California, 2002.
[31]Phan Thị Minh: “T́m hiểu thêm về quan hệ của Bác Hồ với cụ Phan Châu Trinh trong những năm Bác chưa sang Pháp”, trong Thu Trang: Nguyễn Ái Quốc tại Paris, Sđd, tr. 403. Trong cuốn Càng nhớ Bác Hồ của ḿnh (Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1999, tr. 10), Vũ Kỳ đă cho biết là ông về làm thư kư riêng cho “cụ Nguyễn Ái Quốc” bắt đầu từ ngày 27 tháng 8 năm 1945, sau Cách mạng tháng Tám chừng một tuần.
Thông tin trên đây của bà Phan Thị Minh hoàn toàn ngược lại với những khẳng định trước đó của nhiều tác giả – như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khánh Toàn, Hà Minh Đức… – về sự đồng nhất giữa Trần Dân Tiên và HCM (Xem sự khẳng định của Hà Minh Đức: Những tác phẩm văn của Chủ tịch HCM, Nhà xuất bản Khoa học Xă hội, Hà Nội, 1985).
[32]Theo William J. Duiker, cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch gần đây đă được giới quan chức Hà Nội xác nhận là của HCM và ấn bản đầy đủ nhất của cuốn tiểu sử này đă được xuất bản tại Thượng Hải năm 1949 bằng Trung văn (nhà xuất bản Ba Ywe, mang tựa Hu Zhi Ming Zhuan). Khác với những bản dịch ra ngoại văn xuất hiện về sau, cuốn này đă khẳng định HCM chính là tên giả của Nguyễn Ái Quốc. [Xem William D. Duiker: Ho Chi Minh, a life, Hyperion, New York, 2000, tr. 582].
Lữ Phương - Sài G̣n - 22.01.2007