"Nỗi thao thức chính yếu của ông Hồ vào lúc đó, không phải là vấn đề có thể sớm đạt được một nền độc lập hay không, mà chính là vấn đề bản thân của Việt Minh có thể đoạt thủ được chính quyển hay không" (Tưởng Vĩnh Kính, sách Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, trang 356 - 357). - Ít ai ngờ rằng ông Hồ từng tâm sự với cán bộ thân tín rằng "Thà để cho thực dân Pháp đô họ thêm 5, 10 năm nữa, c̣n hơn để các đảng phái quốc gia giành được chánh quyền một nước Việt Nam độc lập!Cố GS Hứa Hoành
HỒ CHÍ MINH "SAO Y BẢN CHÁNH" CÁCH MẠNG VÔ SẢN CỦA TRUNG CỘNG
"Nhằm tranh thủ quần chúng, ông (Hồ) dựng cờ chống Pháp và tranh thủ độc lập dân tộc, trong khi đó, ông lại bán rẻ và bài trừ các đảng phái chống Pháp và tranh thủ độc lập dân tộc chân chính khác... Ông tuyệt đối cần ngoại viện, nhưng ông không muốn cá nhân hoặc đảng phái nào nhận ngoại viện. Ông cũng cần tranh thủ quần chúng, nhưng không muốn cá nhân hoặc đảng phái nào tranh thủ quần chúng.....” (Sách đă dẫn, trang 373).
Những năm gần đây càng ngày càng có nhiều học giả khám phá thêm nhiều tài liệu lịch sử, làm sáng tỏ nhiều vấn đề từ trước tới nay ít người biết. Các sử liệu ấy đă đánh đổ nhiều huyền thoại về Hồ Chí Minh, mà đảng cộng sản của ông đă thêu dệt, bịa đặt để thần thánh hóa ông ta. Sự thật ông Hồ không có sáng kiến ǵ cả. Cái gọi là "sự vận dụng nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác Lê", chẳng qua là sự sao chép, cóp nhặt, vay mượn của người khác. Nếu không có cuộc cách mạng vô sản ở Trung Cộng, liệu ông Hồ có thành công ở Việt Nam hay không?
Ông Hồ chỉ học lớp 7 trung học phổ thông. Ông chưa biết hết khái niệm thông thường của khoa học thường thức. Tuy nhiên, v́ ra đời sớm, tự lập để mưu sinh bằng đủ thứ nghề: bồi tàu hạng bét, phu quét tuyết trên đường phố Luân Đôn, bồi khách sạn, thợ rửa ảnh.... ông Hồ có nhiều mưu gian mẹo vặt và thủ đoạn gian hùng. Ông sáng trí trong việc bắt chước. Ông không bao giờ nêu xuất xứ. Đó là thái độ thiếu minh bạch.
Hơn 20 năm làm cán bộ t́nh báo, gián điệp (1924 - 44), ông Hồ ăn lương, lănh phụ cấp, giấy thông hành của Liên Xô để qua các nước Á Châu hoạt động. Liên Xô không trả tiền để ông đi “giải phóng dân tộc” Việt Nam của ông. “Ai chi tiền, người ấy chỉ huy”, đó là một định luật. Ông Hồ ăn cơm chúa phải múa tối ngày. Những từ ngữ “đi t́m đường cứu nước”, “giải phóng dân tộc” là những huyền thoại mà đảng CSVN thêu dệt, bịa đặt thêm sau nầy, để tôn ông lên hàng "cha già dân tộc". Sự thật thủy chung ông Hồ vẫn là một cán bộ cộng sản quốc tế, có nhiệm vụ truyền bá chủ nghĩa CS sang các nước. Ông phải ngụy trang dưới chiếc áo dân tộc, để lừa gạt mọi người. Ông tới Trung Hoa trước sau 5 lần. Mỗi lần ông ở lại một thời gian khác nhau và lấy những bí danh khác nhau, để hoạt động gián điệp trá h́nh, và xuất cảng chủ nghĩa CS theo lịnh của nước chi tiền.
ÔNG HỒ KHÔNG THIẾT THA G̀ ĐẾN “ĐỘC LẬP DÂN T?C":
Những ai từng nghiên cứu về cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh cũng nhận ra một điều quan trọng: Đối với ông, không có t́nh yêu nước hay dân tộc. Tuy nhiên, lúc nào ông cũng ngụy trang, nép ḿnh dưới chủ nghĩa dân tộc để truyền bá chủ nghĩa cộng sản. Đó chính là lư tưởng suốt đời của ông. Nó thôi thúc ông trong bữa ăn, trong giấc ngủ. Nó biến thành một bản năng mănh liệt.
Vào năm 1941, từ biên giới Trung Quốc, ông lén lút về hoạt động, ngụ tại hang Pác Bó (Cao Bằng). Thấy ḿnh chưa có địa vị và quyền hành ǵ trong đảng CSVN, ông đă nghĩ ra mưu sâu kế độc “tiêu diệt trung ương đảng ở tại Nam Kỳ”. Ông bí mật chỉ điểm cho Pháp hốt trọn ổ trung ương đảng ở Nam Kỳ, rồi lập ra trung ương đảng mới, cử Trường Chính làm tổng bí thư. Theo sự nghiên cứu của các học giả Trung Quốc: "Nỗi thao thức chính yếu của ông Hồ vào lúc đó, không phải là "vấn đề có thể sớm đạt được một nền độc lập hay không mà chính là vấn đề bản thân của Việt Minh có thể đoạt thủ được chính quyền hay không?”
Với thực lực c̣n yếu kém, cho nên vào các năm 1942 - 43, ông Hồ đă nghĩ đến việc phải thương lượng bắt tay với kẻ thù chánh là Pháp. Hiệp ước sơ bộ ngày 6/3/46 của Hồ Chí Minh và Pháp sau nầy đă manh nha từ mấy năm trước.
Khi tiếp xúc được với đại diện phái bộ Đồng minh đi t́m phi công bị bắn rơi, ông Hồ t́m cách lợi dụng họ. Ông luôn che giấu bộ mặt thật cộng sản của ḿnh. ông c̣n tuyên truyền lừa bịp rằng "Việt Minh là một sự liên minh của các đảng phái quốc gia.....?"
Ông gấp rút lập một căn cứ địa trong rừng núi Việt Bắc để đón tiếp "phái bộ không trợ trên mặt đất của Mỹ” để xin viện trợ, xin cung cấp vơ khí và huấn luyện. Đổi lại, Việt Minh có cứu được vài phi công dẫn qua biên giới, trao cho đại diện của Đồng minh. Tại căn cứ, ông Hồ tỏ ra thân thiện với phái bộ Mỹ. Ông đă dùng điện đài của một viên trung sĩ Mỹ tại căn cứ nầy để liên lạc với đại diện của phe De Gaulle tại Côn Minh để xác nhận:
- Pháp phải hứa với ông (có giấy bảo chứng) sẽ trả độc lập cho VN từ 5 tới 10 năm nữa, th́ ông sẽ cộng tác với Pháp.
- Yêu cầu Pháp giúp vơ khí và huấn luyện.
Cũng qua các cuộc điện đàm, Hồ Chí Minh hứa sẽ thân thiện với Tây phương, đặc biệt là Pháp và Mỹ. Đồng thời ông tố cáo đảng Đại Việt (Đại Việt Duy Tân thân Nhựt) đang chĩa mũi nhọn vào người Pháp. Ông tiếp "Việt Minh sẽ ra lịnh cho hai triệu đảng viên và dân chúng ủng hộ, hăy đem hết khả năng đề pḥng cẩn mật, cùng ngăn chận kế hoạch phạm pháp nầy của đảng Đại Việt......” (Đối với Việt Minh, đảng Đại Việt đang chống Pháp là "phạm pháp", c̣n VM th́ bắt tay và ủng hộ Pháp!). Xem "Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, của Tưởng Vĩnh Kính, trang 359).
"Hồ Chí Minh nói xấu và bán rẻ đảng Đại Việt, không những để tranh thủ ân sủng của người Pháp, mà c̣n gián tiếp phản Hoa...." (Sách đă dẫn trang 359)...Trong một đoạn khác cùng tài liệu đă dẫn, cho biết: "Trước ngày Nhựt đầu hàng không lâu, John (Người Mỹ trong phái bộ Đồng minh đến căn cứ của ông Hồ) đă dùng điện đài của hắn đánh đi bức điện tín sau đây giùm ông Hồ:
”Đảng Đại Việt (chống Việt Minh) đang trù tính gây cuộc khủng bố chống Pháp đại quy mô và mưu toan giá họa cho Việt Minh..."
(Sách đă dẫn, trang 358).
Như vậy trong thâm tâm ông Hồ chẳng thiết tha ǵ đến độc lập dân tộc. Đó chỉ là chiêu băi để ông sử dụng trong giai đoạn. Ông chỉ băn khoăn lo sợ rằng các đảng phái quốc gia sẽ phỏng tay trên ông, cướp chánh quyền trước, cho nên ông sẵn sàng liên kết với kẻ thù để tiêu diệt anh em cùng chung một mục đích. Đó là mưu kế gian manh, phản trắc của ông Hồ và tập đoàn đảng CSVN. Hồ Chí Minh suốt đời chỉ ôm ấp một giấc mộng đem chủ nghĩa cộng sản du nhập vào nước ta, và biến dân tộc nầy trở thành chư hầu của Liên Xô, cho nên đi đâu và lúc nào nh́n ở đâu ông cũng thấy h́nh ảnh Các Mác, Lenin, Engels.... Khi về ẩn náu trong hang Pác Bó, ông đặt tên ngọn núi phía sau hang là "núi Các Mác", suối trước mặt là "Suối Lenin", c̣n rừng xung quanh là "rừng Engels", hoa dại ven rừng là "hoa vô sản"... Nh́n đâu, ông cũng thấy các lănh tụ cộng sản, các lư thuyết gia cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản đă thâm nhập vào đầu óc ông ta mấy mươi năm, cho nên ông đâu có màng ǵ đến độc lập, tự do của dân tộc? Nước ta đang bị hai từng áp bức bốc lột của Pháp Nhựt, dân chúng nhứt là miền Bắc và Trung đang rên xiết, oằn oại dưới sự bốc lột của thực dân, ông đâu có đau khổ......? Ông chỉ mượn các thảm cảnh ấy làm chiêu bài đấu tranh giai đoạn mà thôi.
Ít ai ngờ rằng ông Hồ từng tâm sự với các cán bộ thân tín rằng "Thà để cho thực dân Pháp đô hộ thêm VN 5, 10 năm nữa, c̣n hơn để các đảng phái quốc gia giành được chánh quyền một nước Việt Nam độc lập” (Sách đă dẫn).
Nếu như không t́nh cờ có cuộc “chiến tranh giải phóng” ở Trung Quốc, để đưa toàn dân Trung Hoa vào quỹ đạo cộng sản, liệu ông Hồ có t́m ở đâu cái khuôn mẫu để tổ chức kháng chiến ở Việt Nam?
Ngụy trang dưới chiêu bài quốc gia dân tộc, giấu bộ mặt thật cộng sản để lănh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp, rồi tiến hành cuộc cách mạng vô sản ở Việt Nam, giết biết bao nhiêu người vô tội cũng chỉ v́ yêu nước, theo kháng chiến, lập nhiều chiến công, rồi lại bị quy chụp là "giả vờ kháng chiến, leo cao, chui sâu vào hàng ngũ cách mạng để phá hoại....” Đó là cách kết tội những người đi theo kháng chiến trước khi hạ sát họ. Chiếm được phân nửa đất nước miền Bắc, ông Hồ dựng lên chiêu bài "Chống Mỹ cứu nước" (Lại bắt chước Trung Cộng "Kháng Nhựt cứu nước") để lừa bịp toàn dân vào cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt, chiếm cho bằng được miền Nam, mệnh danh là "giải phóng dân tộc?"
Chữ nghĩa đă bị cộng sản làm thay đổi ư nghĩa nguyên thủy. Nếu như không sống với cộng sản th́ không thể hiểu được tâm địa và mặt mũi họ. "Giải phóng" ǵ mà một nước nghèo nàn lạc hậu, dân trí thấp, đời sống cơ cực... đem quân chiếm một nước giàu có, phồn thịnh hơn ḿnh để cướp của, cướp tài sản.... th́ gọi là "giải phóng dân tộc đó ư?"
MẶT TRẬN VIỆT MINH (1914) VÀ "MẶT TRẬN GPMN", SAO Y BẢN CHÁNH CỦA TRUNG CỘNG:
Năm 1938, từ Liên Xô, ông Hồ trở qua Trung Quốc lần thứ 3. Tại căn cứ địa Diên An, ông Hồ gia nhập làm đảng viên của Trung Cộng do Mao Trạch Đông lănh đạo. Rồi ông gia nhập quân đội của Mao để làm lính đánh thuê cho Mao. Muốn thấy rơ tiến tŕnh hoạt động của ông Hồ, chúng tôi xin nhắc lại giáo điều của Cộng Sản Quốc Tế:
“Hồ Chí Minh đă rập khuôn các giáo điều của CSQT, đem cuộc vận động cách mạng VN chia làm 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Dùng chủ nghĩa dân tộc làm chiếc áo che ngoài, và thiết lập chính quyền dân chủ của giai cấp tư sản (Chính phủ liên hiệp hồi 1946 và "chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Ḥa miền Nam VN" 1973).
- Giai đoạn 2: thực sự đi vào cách mạng xă hội chủ nghĩa. Hồi đó báo "Thanh Niên" do "Đồng chí hội" phát hành, cũng là "tiếng nói của giai đoạn 1”. Nó không hề nói đến chủ nghĩa Mác Lê một cách trực tiếp, mà các luận đề thảo luận trước tiên về chủ nghĩa dân tộc, rồi khéo léo xen vào một vài giáo điều cơ bản cùng quan điển của Lénin, để “chuẩn bị chuyển hướng đến giai đoạn 2”. Trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, dùng làm tài liệu học tập cho cán bộ, ông Hồ công khai nói rơ chủ nghĩa Mác Lê....." (Sách đă dẫn, trang 96).
Nên nhớ vào năm 1935, trong kỳ Đại hội CSQT kỳ 7, đă chỉ thị cho Trung Cộng: “Phải thay đổi đường lối là sau khi Mao Trạch Đông chạy thoát cuộc bao vay của Quốc Dân Đảng, c̣n gọi "Vạn lư trường chinh", là phải thành lập "Mặt trận dân tộc", rồi dùng chiêu bài "Kháng Nhựt cứu nước". Tất cả các tổ chức "cứu quốc" của ông Hồ đều mô phỏng y chang tổ chức của Trung Cộng mà thôi....”Mặt trận dân tộc”, các tổ chức “Cứu quốc”, rồi căn cứ địa, khu giải phóng.... đều được ông Hồ bê y chang đem về VN để lập “Mặt trận Việt Minh”, và các tổ chức phụ thuộc cùng tên gọi với các tổ chức của Trung Cộng. Khi Nhựt vào VN, uy hiếp Pháp, ông Hồ lợi dụng thời cơ lập ra cái gọi là "Mặt trận Việt Minh", để xây dựng chính quyền địa phương và chuẩn bị cướp chính quyền y chang như bên Trung Cộng.
Trong thời gian làm lính đánh thuê cho Trung Cộng, ông Hồ học được nhiều kinh nghiệm về tổ chức huấn luyện cho binh sĩ, tổ chức các khóa học chính trị, và lập ra các tổ chức bịp bợm, ngụy trang dưới h́nh thức chính nghĩa. Ngoài ra, ông Hồ cũng học kinh nghiệm cùng phương pháp xâm nhập, lũng đoạn các tổ chức khác, để phá hoại lôi cuốn người của họ về phe ḿnh.
Có thể nói Mặt trận Việt Minh (1941 - 51) rồi "Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (1960 - 75) cũng như khẩu hiệu "chống Mỹ cứu nước" chính là bắt chước các tổ chức của Trung Cộng mà thôi. Sách lược của tổ chức nầy, ngoài mặt "kêu gọi đoàn kết rộng răi các dân tộc và đảng phái”, nhưng ư đồ sâu kín của họ là phân hóa hàng ngũ những người quốc gia, tiêu diệt các đảng theo hệ phái dân tộc chủ nghĩa, đồng thời khuếch xung lực lượng của riêng CS lớn mạnh thêm. Trước khi chọn danh xưng"Mặt trận Việt Minh", ông Hồ giả bộ thảo luận để chọn lựa từng chữ: “trước cục diện mới, vấn đề đoàn kết dân tộc càng quan trọng. Chúng ta phải cân nhắc kỹ để thành lập một mặt trận mà h́nh thức và tên gọi sao cho tuyệt đối phù hợp với cục diện đó”. “Chữ Việt Minh” do “VN Độc lập đồng minh”). (Sách đă dẫn, trang 186).
Từ đó, ông Hồ t́m sự mập mờ giữa các đảng “VN cách mạng Đồng Minh Hội” và “Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội” của những người quốc gia, có trước bên Trung Hoa, để lập ra “VN độc lập Đồng Minh” tức “Việt Minh”, rồi lại định nghĩa "Việt minh là sự liên minh các đảng phái quốc gia...."
Tưởng cũng nên nhắc lại rằng "VN Cách mạng đồng minh hội" là một tổ chức hợp pháp của các đảng theo xu hướng chủ nghĩa dân tộc, của các nhà cách mạng VN sống lưu vong tại Trung Hoa năm 1942. Thực chất "Việt Minh" là CS trá h́nh nhằm ngụy trang để lôi cuốn mọi từng lớp nhân dân. Khi mặt trận “Việt Minh” ra đời, ông Hồ đem các tổ chức “thanh niên cứu quốc”, “phụ nữ cứu quốc”, “công nhân cứu quốc”, “nông dân cứu quốc”......(đều bắt chước Mao) làm nồng cốt, núp dưới mỹ từ chính nghĩa "cứu quốc".
Các tổ chức mệnh danh là "cứu quốc" thật ra khủng bố đồng bào trong các vùng họ chưa thiết lập được chính quyền. Các tổ chức "cứu quốc" c̣n tranh công với phe quốc gia đang xả thân kháng chiến, rồi t́m cách tiêu diệt người quốc gia tiểu tư sản, bằng cách vu khống, chụp mũ, rồi thủ tiêu....
Khai sinh ra "Mặt trận Việt Minh" th́ ông Hồ nhằm mục đích lợi dụng danh nghĩa “VN Độc Lập Đồng Minh Hội”, để chiêu tập tổ chức quần chúng của tổ chức này, và đồng thời chiêu dụ tàn quân của phe thân Nhựt. Ông Hồ lợi dụng danh nghĩa "VN Độc Lập Đồng Minh Hội” để lôi cuốn phe thân Nhựt, cũng giống như việc ông lợi dụng danh nghĩa “Giải Phóng Đồng Minh Hội” của Trung Quốc, để lôi cuốn phe thân Hoa. Mục tiêu thật sự của ông nhằm phân hóa hàng ngũ đối phương và xây dựng thêm lực lượng riêng của ông ta. Có thể nói không lầm lẫn rằng: khi lập Mặt Trận "Việt Minh", ông Hồ muốn che giấu bộ mặt thật cộng sản của ḿnh và tổ chức của ḿnh. Lư do hai chữ "cộng sản" đă bị dân chúng ghét bỏ v́ nó đă tàn sát dă man người Việt trong vụ "cộng sản dậy năm 1940", mà sách của cộng sản gọi "Nam Kỳ khởi nghĩa". Mặt trận "Việt Minh" là sự ngụy trang chủ nghĩa dân tộc, bắt chước tổ chức "Mặt trận dân tộc" tung khẩu hiệu "Kháng Nhựt cứu nước", th́ mục đích chánh của nó không phải đánh Nhựt, mà chỉ làm tiêu hao lực lượng của chính phủ Quốc Dân Đảng, đồng thời khuếch trương lực lượng của riêng ông ta. Theo cách đó, ông Hồ lập “Mặt trận Việt Minh”, kêu gọi đoàn kết chống Pháp, nhưng mục tiêu thật sự của nó nhằm phân hóa hàng ngũ của phe quốc gia, để tiêu diệt họ. Khi mặt trận "Việt Minh" ra đời rồi, ông Hồ cũng bắt chước phương pháp của Trung Cộng để tiến hành:
- Cho cán bộ thụ huấn về chánh trị ở Tỉnh Tây làm ṇng cốt.
- Củng cố và phát triển căn cứ địa.
Ông nói: "Muốn củng cố th́ phải lấy huấn luyện chính trị làm cơ bản. Muốn phát triển phải tuyên truyền. Trong chế độ cộng sản, sự tuyên truyền (lừa bịp) là quốc sách hàng đầu....Khi chính phủ lâm thời tự phong đầu tiên trong rừng Thái Nguyên, ông Hồ có lập Bộ Tuyên Truyền, giao cho Trần Huy Liệu làm Bộ Trưởng. Cách tổ chức "chiến khu" thời kháng Pháp là bắt chước phương thức của Quốc Dân Đảng Trung Hoa thời kháng Nhựt. Hai chữ "chiến khu" thời kháng chiến như có ma lực, quyến rũ nhờ cách tuyên truyền qua các bài hát thịnh hành lúc đó:
"Chiều nay nhớ chiến khu,
"Trong rừng chiều....
Tôi chắc rằng quư vị ở tuổi cổ lai hi hôm nay, nhiều ngời c̣n nhớ bài hát rất được thanh niên ưa thích nầy. Chánh sách của Việt Minh gồm hai mặt: điểm và diện. Nói chỗ nầy nhằm tấn công chỗ khác. Nói thẳng ḿnh là cộng sản, và muốn làm cách mạng vô sản th́ phần đông dân chúng chán ghét, sẽ thất bại. ông phải “nói một đàng, làm một nẻo". Muốn vậy phải học tập chính trị, nhồi sọ "chính nghĩa giai đoạn" cho mọi cán bộ. Cán bộ sẽ bảo đảm thi hành đúng đường lối và chánh sách của đảng đề ra. Trong sách “Hồ Chí Minh tại Trung Quốc”, tác giả Tưởng Vĩnh Kính có nhắc tới: “Ông Hồ tỉ dụ: “Cuộc vận động cách mạng (không phải kháng chiến giải phóng đất nước như họ đă tuyên truyền), giống như thủy triều lên. Các phần tử trung kiên giống như hàng cọc đóng xuống đất cát; khi thủy triều xuống, hàng cọc nầy sẽ chận giữ đất cát lại, không để cho trôi đi” (Sách đă dẫn, trang 210).
Phương pháp tuyên truyền của VC trước sau như một: trước hết dùng lời lẽ ngọt dịu để quyến rũ. Sau đó, tới giai đoạn làm áp lực, buộc thanh niên nam nữ gia nhập các tổ chức. Ai không theo bị gán tội "Việt gian" sẽ bị giết bất cứ lúc nào và tịch thu gia sản. V́ lẽ đó, thời kháng chiến chống Pháp, nhiều gia đ́nh trung lưu phải bỏ vùng "giải phóng", để ra vùng Pháp chiếm mới bảo toàn được sinh mạng, tuy bị mang tiếng phản bội.
Hồi mới về tuyên truyền lập các căn cứ du kích tại vùng của dân tộc Nùng, Thái đâu biết ǵ đến “độc lập” “tự do”. Họ chỉ biết có một điều “cơm no, áo ấm", và cán bộ Việt Minh bảo họ cứ theo "Kê Hồ" tức có đủ hai thứ đó, thế th́ nhiều người theo. Tuyên truyền với dân tộc thiểu số rất dễ dàng, và ông Hồ nhờ đó thành công bước đầu.
Chẳng những ông Hồ nhập nhằng giữa danh xưng các tổ chức có sẵn để lợi dụng, mà ông c̣n xâm nhập vào các tổ chức có trước, để lũng đoạn, phá hoại. Khi ở Liễu Châu (1942 - 44), ông Hồ t́m cách gia nhập “VN Cách Mạng Đồng Minh Hội” (lập 10 - 1942) để t́m viện trợ của Trung Hoa Quốc Dân Đảng....Tuy nhiên, ông chỉ gia nhập với tư cách cá nhân, chớ không đem cái mặt trận Việt Minh của ḿnh theo. Về chiến thuật này, ông Hồ từng nói với cán bộ: "Ta phải lợi dụng cơ hội đó mà gia nhập "VN Cách Mạng Đồng Minh Hội” để biến tổ chức của địch làm tổ chức của ta. Ta cũng lũng đoạn tổ chức của họ, khiến nó phân hóa”. Thủ đoạn nầy được ông Hồ áp dụng triệt để trong thời chiến tranh Quốc Cộng Nam Bắc 1954 - 75.
Sách lược của ông Hồ là bất luận phe phái nào, tổ chức nào, miễn có lợi cho quyền lợi riêng của đảng CS, th́ ông không bao giờ bỏ qua. Ông lợi dụng triệt để, để tiến hành công tác riêng của đảng CS.
V́ không biết rơ tâm địa của Hồ Chí Minh, nhiều trí thức, đảng phải quốc gia chỉ trích ông ta “trước ở hải ngoại th́ cùng chung tranh đấu giành độc lập, nay về nước th́ phản bội". Thật sự, chủ trương của ông Hồ chỉ giả vờ “đoàn kết”, thế thôi, ông Hồ “đoàn kết cuội”, để lừa dối họ, chớ đâu có thiết tha ǵ đến độc lập!
Nỗi ưu tư lớn nhứt của ông hồ là làm sao nắm chính quyền hợp pháp. Cướp chính quyền tháng 8 - 1945, chỉ có giá trị bằng sức mạnh, nhưng thiếu tư cách pháp lư để quốc tế nh́n nhận. Ông cần tư cách ấy, để kết tội những kẻ chống đối bằng những tội trạng bịa đặt, vu khống rồi tiêu diệt hoặc thủ tiêu. Sau đó mượn chánh nghĩa "Kháng chiến" giành độc lập để tiến hành cuộc cách mạng vô sản, để trở thành một nước xă hội chủ nghĩa, chư hầu của Nga, Tàu.
Nói tóm lại, thái độ của ông Hồ và đảng CS thay đổi như cái chong chóng: Khi thân Hoa, khi thân Mỹ, khi thân Pháp....có lúc lại biến tất cả thành kẻ thù. Lại có khi "liên hiệp" với các đảng quốc gia, nhứt cử nhứt động của ông ta, đều là những cử chỉ, thái độ giả trá. Mục đích của ông là làm sao cho Việt Minh cướp được chánh quyền. Khi có danh chánh ngôn thuận, tư cách chánh phủ hợp pháp, ông Hồ liền loại tất cả những ai không ở trong tổ chức Việt Minh. Sau khi bầu cử quốc hội cuội xong, ông Hồ, với tư cách chủ tịch nước, được quốc hội phê chuẩn, liền dùng mánh khóe, chụp mũ, vu cáo "những người quốc gia làm loạn", giết người cướp của....rồi hạ lệnh cho bọn "tự vệ", "cứu quốc" lùng sục, bắt bớ, thủ tiêu. Mặt khác, ông Hồ cho liên tục mở các khóa huấn luyện chánh trị cho cán bộ, để làm cái nhân của Việt Minh CS. Lẽ ra. "kháng chiến", một cuộc chiến tranh chống xâm lăng như dưới đời nhà Trần, nhà Lê, nó đâu cần "nhồi nhét" lư thuyết chánh trị vào đầu óc cán bộ, binh sĩ. Kháng chiến tự nó đă có chánh nghĩa, chớ không phải “có chánh nghĩa giai đoạn” như Việt Minh đề ra. Vai tṛ làm b́nh phong và cũng để lừa gạt dư luận của các trí thức như các ông Nguyễn Văn Huyên, Trần Đăng Khoa, Trần Thiện Lộc, Bùi Bằng Đoàn, Hoàng Minh Giám, Đặng Phúc Thông.... bị gạt bỏ, khi sự lừa bịp đă bị phơi bày. Hồi mới sang sảng kêu gọi, thúc giục toàn dân kháng chiến của ông Hồ, thanh niên cứ đinh ninh có một điều: “ta chiến đấu để đuổi quân thù ra khỏi đất nước, để nư?c nhà độc lập, rạng rỡ, quang vinh. Nào ngờ, cuộc kháng chiến cứ đi ngoằn ngoèo từng giai đoạn. Đó là “chỉnh huấn”. Đó là "rèn cán chỉnh quân". Đó là "Cải cách ruộng đất”. Rồi phải học tập chỉ thị của đảng “đi theo cách mạng” (không c̣n kháng chiến nữa) là để cải tạo tư tưởng thối tha, để xưng đáng “là người của đảng, của xă hội mới”, chớ không phải kháng chiến để mong tới ngày độc lập như họ đă hứa, đă tuyên truyền mấy năm trước! Những cán bộ sau khi thụ huấn ở Tỉnh Tây về, trở thành những kẻ giảng dậy cho binh sĩ tân tuyển. Huấn luyện xong, cán bộ, binh sĩ trở thành "những kẻ bảo vệ quyền lănh đạo của đảng”. Họ được đưa vào Nam, để thay thế các chức vụ then chốt mà những người có tài, có khả năng, được binh sĩ, dân chúng kính trọng nắm giữ.... Xin nhắc lại nỗi bận tâm duy nhứt của ông Hồ và đảng CS tức Việt Minh không phải là vấn đề “VN có sớm được độc lập hay không, mà là vấn đề bản thân Việt Min có thể đoạt thủ chánh quyền hay không” (sách đă dẫn, trang 357). V́ thế, khi Nhựt đầu hàng, các đảng quốc gia từ Trung Quốc kéo về, bị Việt Minh liên tục chận đánh và tiêu diệt dọc đường. Từ tháng 5 - 1945, Việt Minh cũng đổi thái độ từ thân ra thù với Trung Hoa Quốc Dân Đảng, v́ sợ chánh phủ Tưởng Giới Thạch lănh đạo, sẽ giúp người quốc gia "hăm Việt Minh vào thế bất lợi."
Mở các khóa huấn luyện, ông Hồ bí mật cho phân loại thành phần xă hội những người đă theo Việt Minh để kháng chiến. Binh sĩ, cán bộ thuộc các gia đ́nh tiểu tư sản, con cháu quan lại cũ, công chức thời Pháp, các gia đ́nh điền chủ.... đều cảm thấy không c̣n chỗ đứng trong hàng ngũ kháng chiến nữa. Họ đă v́ yêu nước mà theo Việt Minh, đă lập nhiều chiến công để Việt Minh nổi tiếng, bây giờ đến lúc “phải anh dũng hy sinh trong các trận đánh với Pháp”. Mỗi khi lâm trận, con em các gia đ́nh tiểu tư sản bị dồn ra phía trước, làm bia đỡ đạn. Họ là những thành phần "phải xung phong trong chiến thuật biển người" của CS. Lợi dụng kẻ thù hy sinh cho đảng hưởng lợi là sách lược trước sau như một. Chánh sách nầy c̣n được tiếp diễn trong cuộc nội chiến Quốc Cộng (1954 - 75) và ngay cả tới ngày nay. Những người tị nạn CS, chạy thụt mạng trên biển Đông, bây giờ, trở thành "Việt kiều yêu nước", đem tiền bạc, trí tuệ về "xây dựng quê hương", tức vỗ béo cán bộ, đảng viên CS!
Từ khi Mặt Trận Việt Minh ra đời (5 - 1941) cho tới khi chiếm được chánh quyền (2 - 9 - 1945), đảng CS và bản thân ông Hồ, đều ngụy trang dưới h́nh thức chủ nghĩa dân tộc. Trong tiến tŕnh khuếch trương lực lượng để cướp chính quyền, ông Hồ có quá nhiều kẻ thù: Pháp, Nhựt, Trung Hoa Quốc Dân Đảng, Mỹ.... và các đảng phái quốc gia. Ông Hồ quỷ quyệt dùng nhiều thủ đoạn nay bạn, mai thù, sớm đầu tối đánh, khi thân, khi chống.... Ông c̣n giả vờ hợp tác với các đảng quốc gia trong “chánh phủ liên hiệp”, để phá hoại và tiêu diệt đối phương. Đời ông chỉ có hai nước mà thủy chung ông vẫn tôn thờ, sùng bái là Liên Xô, Trung Quốc. Tuy nhiên, lănh tụ các nước ấy khinh bỉ ông ra mặt. Năm 1949, Mao Trạch Đông là chủ tịch Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa. Ông Hồ cũng là chủ tịch nước Việt Nam 4 năm rồi. Vậy mà ông Hồ cầm đầu một phái đoàn đi xin viện trợ, phải băng rừng lội suối đến biên giới. Nhà cầm quyền Trung Cộng dùng một chiếc xe hàng (truck) chở phái đoàn lên Quảng Tây, bất chấp nghi thức ngoại giao không kèn, không trống. Sau đó, ông đi Liên Xô. Ông Lê Phát, thành viên của phái đoàn nầy kể lại: "....Sau nầy khi xem cuốn hồi kư "Memoires Inedites" của Nikita Kroutchev do nhà xuất bản Pierre Belfont dịch và in ở Paris, tôi biết thêm về chuyến "vi hành đầy gian khổ của ông Hồ. Tác giả (Nikita Kroutchev kể lại:
"Tôi nhớ Hồ Chí Minh đă đến Moscou để xin viện trợ vật chất và vũ khí để chống Pháp. Staline không tin vào cuộc chiến ở VN, nên đối xử với ông Hồ một cách nhục mạ. Tôi không thấy ở ông ta chút cảm t́nh nào đối với một người CS như Hồ......”Đáng lẽ phải kính trọng, biết ơn.... Tôi c̣n nhớ một việc khác xúc phạm đến Hồ. Staline nói với chúng tôi là Hồ xin được đón với tư cách là chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Staline không chấp nhận, đă trả lời Hồ: " Cơ hội ấy đă qua rồi. Ông đến Moscou không ai biết, không thể thông báo việc ông đến được”.......Hồ chỉ đề nghị Staline cho một máy bay và chuẩn bị diễn văn đón Hồ, có thể từ trên máy bay xuống, để được đón như chủ tịch nước. Staline từ chối và ông ta cười khoái trá khi kể cho chúng tôi nghe việc ấy......" (Hồi kư Lê Phát, Quê Mẹ, số 140).
Chúng tôi xin mượn lời kết của Tưởng Vĩnh Kính: "Nhằm tranh thủ quần chúng, ông (Hồ) dựng cờ chống Pháp và tranh đấu độc lập dân tộc, trong khi đó, ông lại bán rẻ và bài trừ các đảng phái chống Pháp và tranh thủ độc lập dân tộc chân chính khác. Khi cần thiết, ông thà từ bỏ nhu cầu độc lập, để mưu cầu sự sinh tồn và phát triển cho bản thân ông. Ông cũng tuyên truyền chống Nhựt, nhưng lại kết hợp và lợi dụng các thế lực thân Nhựt, thậm chí c̣n cùng với Nhựt hành động song hành, hiệp trợ nhau chống lại kẻ địch khác, chỉ cốt mưu cầu bành trướng thế lực của bản thân ông. Ông cũng bày tỏ thái độ thân Hoa, nhưng chỉ là lợi dụng tổ chức thân Hoa nầy, để bài trừ hoặc tiêu diệt các đảng phái thân Hoa khác. Lúc cần thiết, ông lại thực thi các hành động bài Hoa để đạt mục đích khác. Ông tuyệt đối cần ngoại viện, nhưng ông không muốn cá nhân hoặc đảng phái nào nhận ngoại viện. Ông cũng cần tranh thủ quần chúng, nhưng không muốn cho cá nhân hoặc đảng phái nào khác tranh thủ quần chúng. Ông lớn mạnh không phải từ những hô hào về chủ nghĩa cộng sản. ông đă dùng rất nhiều tên giả, lấy chủ nghĩa dân tộc để ngụy trang, lợi dụng tất cả các cơ hội có lợi, để bảo tồn và phát triển lực lượng bản thân ông. Ông cũng lợi dụng những nhược điểm của đối phương để làm cho lực lượng đối phương yếu đi, hoặc bị tiêu diệt hẳn... Bởi vậy, mỗi một hành động của ông đều cho thấy ông là một người theo cơ hội chủ nghĩa, chỉ biết lấy sự sinh tồn, lợi hại của bản thân ḿnh làm mục tiêu chính." (Sách đă dẫn, trang 373).
Hứa Hoành
Các bí danh của Hồ Chí Minh tại Trung Quốc:
Lư Thụy, Vương Sơn Nhi, Vương Đạt Nhân, Lăo Vương, Tống Văn Cơ, P.C. Lin, Hồ Quang, Lăo Trần, Hồ Chí Minh, Hoàng Quốc Tuấn, Thu Đại Gia.......
Tài liệu tham khảo:
- Sách "Hồ Chí Minh tại Trung Quốc" của Tưởng Vĩnh Kính, do Thượng Huyền dịch, nhà xuất bản Văn Nghệ phát hành, 1999.
- Hồi kư Lê Phát.
- Tư liệu của tác giả
GS HUA HOANH
Đến đây (1949) cuộc kháng chiến
chống Pháp, không c̣n là kháng chiến nữa. Nó trở thành cuộc đấu tranh giai
cấp trường kỳ...
“Kháng chiến chống Pháp là h́nh thức cao rộng của đấu tranh giai cấp,
nghĩa là cuộc đấu tranh lớn lao trên thế giới giữa giai cấp tư sản và giai
cấp vô sản”.
(Tổng Bí Thư Trường Chinh)
“Ông Hồ cứ đổ vạ cho người khác (Pháp) trong khi chính ông chủ trương gây
nội chiến và trường kỳ kháng chiến để nắm quyền hành và làm cách mạng vô
sản”.
Khác với những tài liệu, sách báo do Việt Cộng viết ra “...Đồng bào tôi và
tôi thành thực muốn ḥa b́nh. Chúng tôi không muốn chiến tranh. Cuộc chiến
tranh nầy chúng tôi muốn tránh bằng đủ mọi cách. Chúng tôi tha thiết với
nền độc lập... Nước Việt Nam cần kiến thiết, nước Việt Nam không muốn là
nơi chôn vùi hàng bao nhiêu sinh mạng. Nhưng cuộc chiến tranh ấy, nếu
người ta buộc chúng tôi phải làm th́ chúng tôi sẽ làm...”. (“Bác Hồ, những
ngày tháng Chạp 1946”, báo Nhân Dân số ra ngày 15/12/1986).
Tất cả sách báo bên nhà viết ra đều theo đúng lập trường như trên. Tuy
nhiên, nếu nghiên cứu lư thuyết Mác Lênin và những hoạt động của Lénin hồi
cáchmạng vô sản tháng 10/1917 tại Nga, th́ chúng ta nhận ra một sự thật
trái ngược. Ông Hồ không những không muốn tránh chiến tranh, mà c̣n cám ơn
Pháp đă xâm lăng Việt Nam, để ông có cơ hội cho đảng Cộng sản nắm chặt
quyền bính, cũng như ông đă chủ trương gây nội chiến để triệt hạ tất cả
những thành phần đối lập, thuộc giai cấp tiểu tư sản.
Bằng mọi thủ đoạn lừa dối, gian xảo, một nhóm đảng viên cộng sản vô nghề
nghiệp (thực chất lúc đó chỉ có 8 người), tụ tập giữa rừng sâu (Tân Trào),
tự phân chia vai vế với nhau (16/8/1945), âm thầm kéo về Hà Nội vào ban
đêm (24/8/1945), dùng báo tuyên truyền bịa đặt chuyện “Quốc Dân Đại Hội
Tân Trào” bầu ra chính phủ lâm thời. Vừa nắm chính quyền bất hợp pháp, ông
Hồ thi hành một chính sách hai mặt:
- Về công khai, ông kêu gọi mọi người “đoàn kết với Việt Minh” để ủng hộ
chính phủ lâm thời do ông lănh đạo.
- Trong bí mật, ông thi hành một chính sách khủng bố dă man, dùng như sách
lược của Lênin trong thời cách mạng vô sản ở Nga. Chính sách đó là “bắt
cóc, ám sát, thủ tiêu, mổ bụng, cắt tiết, buộc đá thả trôi sông, xảy ra
như cơm bữa từ thành thị đến thôn quê” (Phạm Văn Liễu, Trả Ta Sông Núi,
trang 88, Văn Hóa xuất bản 2002).
Những tháng kế tiếp, các ban ám sát Việt Minh đêm ngày lùng sục bắt bớ
những cán bộ các đảng phái yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc, những người có
chút tiếng tăm hay gia sản. Việt Minh chụp cho họ cái mủ “Việt Gian” để
biện minh cho những vụ thảm sát vô nhân đạo ấy”.
Hồ Chí Minh Gây Nội Chiến
Xin quư độc giả nhớ rơ một điều lúc nào Việt Cộng cũng xưng tụng “Chủ tịch
Hồ Chí Minh là một người học tṛ trung thành nhứt của Lênin, mới rồi báo
Nhân Dân c̣n ca tụng “Sự nghiệp vĩ đại của Lênin c̣n sống măi”. Những ǵ
Lênin đă làm cho dân tộc Nga hồi cách mạng vô sản 1917, đều được ông Hồ
đem áp dụng vào trường hợp Việt Nam.
“Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt
Nam không những là cái cẩm nang thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam,
mà c̣n là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng,
đi tới chủ nghĩa xă hội và chủ nghĩa Cộng Sản”. (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập
1, các trang 126 - 127).
Ngay từ khi mới chiếm được chính quyền, quan niệm của Lênin rất rơ: “Phe
Bolchevik cướp được và giữ được chính quyền là điều ưu tiên lớn nhứt, mọi
việc khác đều phụ, đều là thứ yếu, đều vặt vănh...” (Thành Tín, Về Ba Ôâng
Thánh, trang 54). C̣n ông Hồ? Tưởng Vĩnh Kính, trong tác phẩm nghiên cứu
“HCM tại Trung Quốc”, sau khi phân tích tỉ mỉ, đă đưa ra nhận xét: “Nỗi
thao thức chính yếu của ông Hồ vào lúc đó (1945/46) đă không phải là vấn
đề: có thể sớm đạt được một nền độc lập hay không, mà chính là vấn đề bản
thân của Việt Minh có thể đoạt thủ được chính quyền hay không?”. (Tưởng
Vĩnh Kính, sách đă dẫn, trang 356 - 57).
Hồi đó (1917 - 1918) vừa nắm chính quyền, Lênin liền tiến hành “chiến
tranh giai cấp, tiến hành nội chiến để tiêu diệt kẻ thù giai cấp”. (Thành
Tín, sách đă dẫn, trang 56). C̣n trong “Mác Anghen tuyển tập, NXB Sự Thật,
Mát xcơ va 1978, tập I, trang 555 th́ nói rơ: “Cuộc đấu tranh cho giai cấp
vô sản, dù về mặt nội dung không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng
lúc đầu phải thanh toán xong giai cấp tư sản nước ḿnh trước đă” (Dẫn lại
của LS Nguyễn Văn Chức). Như vậy buổi đầu mới nắm chính quyền, ông Hồ ngụy
trang trong mặt trận Việt Minh để mọi người lầm tưởng họ kohng phải là
cộng sản. Tuy nhiên trong hành động, th́ Việt Minh hiện nguyên h́nh là
“đấu tranh giai cấp” dùng bạo lực để củng cố chính quyền.”
Liền sau khi tuyên bố độc lập (2/9/45) một chiến dịch khủng bố bắt đầu:
- Trước đó một ngày 1/9/45, VM đem quân đánh một căn cứ Đại Việt ở Ninh
B́nh.
- Ngày 5/9/45, kư sắc lệnh giải tán các đảng Quốc Gia Xă Hội, Thanh Niên
Ái Quốc, Đại Việt Quốc Dân Đảng.
- Ngày 6/9/45 bắt thủ lănh Thanh Niên Ái Quốc Vơ Văn Cầm. Cùng ngày này
trong Nam cũng xảy ra khủng bố, bắt cóc.
- Ngày 10/9/45, Trần Huy Liệu họp báo thanh minh: “Đó không phải là khủng
bố, v́ bị bắt bao giờ cũng là những kẻ do sự điều tra, nhận thấy có phương
hại đến chính quyền của nhân dân.”
- Ngày 12/9/45 bắt nhiều cán bộ, các đảng quốc gia: Bùi Trần Thường, Đào
Chu Khải, Lê Ngọc Vũ...
- Ngày 13/9/45 bắt hai lănh tụ VNQDĐ Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Thế Nghiệp,
bắt hụt Nhượng Tống... sau đó cắt tiết hai ông Sơn và Nghiệp ở Chèm Vẻ,
thả trôi sông.
- Ngày 15/9/45, ông Hồ kư sắc lệnh an trí những người nguy hiểm cho cách
mạng... (Xem Chính Đạo. Việt Nam Niên Biểu, tập 1A, từ trang 255 tới 261).
Như vậy những ǵ ông Hồ đă làm chính là sao chép cái phương pháp của Lênin
đă áp dụng cho dân tộc Nga.
Nếu quư vị là thành viên hay lănh tụ các đảng phái yêu nước theo chủ nghĩa
dân tộc, bị khủng bố như vậy, liệu quư vị có phản ứng lại hay không? Các
đảng phái của những người yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc buộc ḷng phản
ứng lại, chống lại Việt Minh để sinh tồn, tức nội chiến xảy ra. Ai gây ra
nội chiến?
Để thấy những việc làm của ông Hồ chính là cái bản sao của Lênin trong
thời gian mới chiếm được chính quyền ở Nga, xin nhắc thêm: “Nhiều giấy tờ,
chỉ thị mang bút tích của Lênin đều xác nhận chính Lênin chủ trương “tiến
hành nội chiến” để “tiêu diệt kẻ thù giai cấp”. Điều này cũng đúng với lư
thuyết của Mác Anghen như đă dẫn ở trên.
Chúng tôi xin dẫn chứng thêm trên báo Cờ Giải Phóng, cơ quan tuyên truyền
cổ động trung ương đảng CS Đông Dương, xuất bản tại Hà Nội ngày 5/10/45,
có đăng bài “Kỷ Niệm Lần Thứ 28 Cách mạng tháng 10” đă cổ vơ nội chiến như
sau: “Giữa cơn băo lửa gầm thét khắp năm châu, Lênin, ... lên tiếng. Những
lănh tụ vô sản này đă kêu gọi quần chúng nhân dân các nước quay súng lại,
bắn vào đầu bọn tư bản trong nước, đổi “chiến tranh chống đế quốc ra nội
chiến”. Như vậy thâm ư của ông Hồ thay v́ chuẩn bị kháng chiến chống xâm
lăng, chống đế quốc Pháp, th́ ông quay ra gây nội chiến trước, đúng sách
lược Lênin. Và như vậy, thực dân Pháp chỉ là kẻ thù phụ, thứ yếu, c̣n kẻ
thù chính là giai cấp tiểu tư sản mà ông Hồ phải “tiêu diệt đương nhiên và
trước hết.”
Trong việc đấu tranh giai cấp để giành giựt chính quyền, ông Hồ có mô
phỏng cái phương pháp lừa dối của Mao Trạch Đông hay không?
Nên nhớ, từ năm 1938 - 1941, ông Hồ phục vụ trong Hồng quân Trung Quốc.
Ông khoe đă học được kinh nghiệm ấy như sau: “Nếu muốn giới thiệu những
kinh nghiệm của đảng cộng sản Trung Quốc, ngay những ngày (tôi) ở tại Diên
An thôi, th́ dù có dùng đến vài cây số giấy, cũng không thể viết hết
được”. (Tưởng Vĩnh Kính, sách đă dẫn, trang 152). Mà kinh nghiệm đó là ǵ?
Là nhờ Nhựt xâm lăng, để cộng sản Trung Quốc hô hào kháng chiến chống
Nhựt, không phải đánh Nhựt, mà nhằm làm tiêu hao lực lượng chính phủ Quốc
Dân Đảng để nắm quyền... Trong cuộc hội kiến lần đầu tiên với TT Nixon
ngày 21/2/1972, Mao thú nhận: “Nhựt Bản đă làm một việc có lợi cho đảng
cộng sản Trung Quốc là tấn công vào Trung Quốc hồi thế chiến thứ hai, tạo
nên sự hợp tác giữa Quốc Dân Đảng và cộng sản, làm cho đảng cộng sản mở
rộng được thanh thế về sau giành thắng lợi lớn.”
“Đến tháng 9/72, Mao tiếp thủ tướng Nhựt Bản Kakuei Tanaka tỏ lời xin lỗi
về cuộc xâm lược của Nhựt Bản, Mao liền đáp lại là chính nhờ vào việc tấn
công ấy mà đảng CSTQ giành được thắng lợi, để bây giờ có cuộc gặp lịch sử
nầy.” (Thành Tín, Về Ba Ông Thánh, trang 120).
Rập khuôn theo sách lược của Mao, ông Hồ dựng cờ chống Pháp buổi đầu,
không phải thực sự chống Pháp, mà bí mật hợp tác với Pháp để tiêu diệt
những đảng phái yêu nước khác Việt Minh. Có thể nói ông Hồ cám ơn Pháp, v́
nhờ có cuộc xâm lăng ấy, nên Việt Minh mới có cơ hội kháng chiến, mới có
chính nghĩa để nắm quyền, mới thi hành chính sách “đấu tranh giai cấp”,
mới tiến hành “nội chiến” để tiêu diệt “kẻ thù giai cấp”, đúng như chỉ thị
của học thuyết cách mạng vô sản”... Đương nhiên và trước hết giai cấp vô
sản phải thanh toán giai cấp tư sản nước ḿnh trước đả” (Sách đă dẫn ở
trên).
Nhờ đánh nhau với Pháp, ông Hồ mới có dịp “dựng cờ độc lập”, để vận động
quần chúng ủng hộ Việt Minh. Thời gian từ năm 1938 - 41, ông Hồ được cộng
sản quốc tế phái về hoạt động tại Diên An, rồi lần xuống Quảng Tây, Vân
Nam. Ông là một thành viên của đảng cộng sản Tàu, rút được ư nghĩa thật sự
của chiêu bài “Kháng Nhựt cứu quốc”, mà mưu đồ thật sự của họ không phải
đánh Nhựt, mà làm tiêu ṃn lực lượng của chính phủ Quốc Dân Đảng, để cho
lực lượng của ḿnh lớn mạnh lên. Cũng giống như vậy, khi lập “Mặt trận Dân
Tộc Giải Phóng Miền Nam”, với chiêu bài “chống Mỹ cứu nước”, thật sự không
phải để đánh Mỹ, mà nhằm phân hóa, lôi kéo các phần tử bất măn chính phủ
VNCH gia nhập MTDTGPMN. Đối với Pháp, ông Hồ cũng áp dụng cái công thức
đó, cho nên buổi đầu ông chỉ tuyên bố đánh Pháp hùng hỗ bằng... miệng,
nhưng lại bí mật tiếp xúc với Pháp, xin cộng tác. Kết quả của sự cộng tác
ấy là “Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/46”. Ngày nay theo các tài liệu lưu trữ có thể
thấy rơ hơn, hai điều sai lầm bỉ ổi nhứt của phái Bolchevik hồi ấy (1917),
là “làm mọi cách để nước Nga thua trận”, đi ngược lại nguyện vọng của nhân
dân và tổ quốc Nga, đâm đao vào lưng người lính Nga đang chiến đấu gian
nan chống đế quốc Đức bành trướng, rắp tâm thổi phừng lên ngọn lửa nội
chiến...” (Thành Tín, sách đă dẫn, trang 37).
Điều này cũng được ông Hồ áp dụng tại VN. Thứ nhứt ông cố tránh giao chiến
với Pháp, rồi c̣n kư hiệp ước “thân thiện rước quân đội Pháp vào VN...” là
một sự đầu hàng nhục nhă, bị dân chúng Hà Nội biểu t́nh, lên án, gọi Hồ là
“Việt gian bán nước”. Hồ cho lính đàn áp, phản biểu t́nh vào lúc 4 giờ
chiều trước Nhà hát lớn, tuyên bố “Tôi thà chết chứ không bao giờ bán
nước”. (Chính Đạo, VN Niên Biểu, tập 1A, trang 319). Đó là một thủ đoạn,
gây đau khổ tang tóc cho đồng bào, nhưng ông vẫn cam tâm chấp nhận miễn có
lợi cho đảng CS.
Thứ hai, trong lúc nhân dân, chiến sĩ Nam Bộ chiến đấu đẫm máu, hy sinh
nhiều sinh mạng để chống Pháp trở lại xâm lăng, th́ ông Hồ lại “ḥa với
Pháp”, ông c̣n đưa nội dung nghị tŕnh cho quốc hội (3/4 là Việt Minh)
thảo luận chấp thuận:
- Bảo vệ sinh mạng và tài sản của người Pháp sống ở...VN.
- Nhân dân VN không có thù oán ǵ với công dân Pháp (đang sống ở VN).
Để biện hộ cho hành động phản quốc này, Việt Cộng cho rằng kư hiệp ước
6/3/1946 là để “nhằm mục tiêu tạo điều kiện đi tới một cuộc thỏa hiệp với
Pháp. Mục đích trước mắt và ngay sau đó chưa phải đấu tranh cho một nền
độc lập hoàn toàn”. (Hoàng Văn Hoan, Giọt Nước Trong Biển Cả, trang 274).
Một lư do ngụy biện khác nữa là để chuẩn bị công cuộc kháng chiến (?).
Theo Vơ Nguyên Giáp “để đuổi quân Trung Hoa...” mà sự thật th́ Pháp Hoa kư
hiệp ước 28/2/46, để quân Trung Hoa rút về rồi!.
Tóm lại, những điều VC ngụy biện chối tội, đều hoàn toàn không có cơ sở.
Lư do chính của việc thương thuyết với kẻ thù, thông đồng với giặc Pháp,
phản bội tổ quốc của ông Hồ là để tiến hành cuộc nội chiến, tiêu diệt các
đảng đối lập, tiêu diệt kẻ thù giai cấp.”
Sau nầy tôi c̣n nghe vài dư luận về phía Việt Cộng biện hộ hành động bán
nước bằng “hiệp ước 6/3/46” ô nhục, chống chế, cho rằng “cần chịu thiệt để
có thời gian củng cố lực lượng, chấn chỉnh hàng ngũ cách mạng”. Sự thật mà
họ đưa ra là “đây không phải đầu hàng, không phải phản quốc, mà là sự cần
thiết để cúu chế độ Xô Viết vừa mới thành lập.”
Qua đó, chúng ta thấy rằng thay v́ yêu nước, tận dụng mọi khả năng chuẩn
bị tổ chức kháng chiến chống xâm lăng, th́ ông Hồ nhứt định gây nội chiến.
Từ đó ông thà chịu “gạt bỏ ḷng yêu nước chân chính, danh dự quốc gia và
khái niệm về nhân đạo” để lao vào tội ác khủng khiếp đối với dân tộc. Đối
với ông, ḷng yêu nước, nếu có phải đặt dưới mục tiêu cách mạng vô sản. So
sánh hai cuộc đời của hai lạnh tụ Lênin và HCM cũng có điểm giống nhau:
sau 30 năm bôn ba làm tay sai cho kẻ thù, cho cộng sản quốc tế, th́ đến
năm 1945, ông Hồ trở lại Hà Nội với cương vị chủ tịch nước, để nh́n thấy
tận mắt đồng bào của ông bị xiềng xích trói chặt, bị khủng bố dă man bởi
chính đồ đệ của ông và chính mệnh lệnh của ông. Từ đó, những người làm
cách mạng vô sản chuyên nghiệp chẳng c̣n nghĩ ǵ đến quyền lợi nhân dân và
đất nước. Đối với họ chỉ có quyền lợi của quốc tế cộng sản. CS đă nắm tất
cả quyền lực để đè bẹp tất cả mọi đối thủ.
Hồ Chí Minh chủ trương chiến tranh trường kỳ
Tất cả những lạnh tụ CS tốt nghiệp một trường: trường dậy phản bội tức
“Học viện thợ thuyền Đông phương” (thành lập 4/1921) tại Nga, và thuộc nằm
ḷng những huấn thị của CS như một thứ kinh thánh. Họ nhắc nhở cho nhau
phải thực hiện cho kỳ được. Cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp là một
sách lược của “đấu tranh giai cấp”, của học thuyết CS. Đấu tranh giai cấp
là một cuộc chiến trường kỳ, dai dẳng không ngừng nghỉ, cho đến bao giờ
thắng lợi hoàn toàn, tức xây dựng được thế giới đại đồng. Mấy chữ “cuộc
thánh chiến” được dùng trong chiến tranh chống Pháp (1945 - 54) cũng là mô
phỏng cuộc cách mạng vô sản ở Nga năm 1917. Đó là kế hoạch do Stalin đệ
tŕnh cho chính quyền Bolchevik để đối phó với ngoại xâm. Tất cả những ǵ
ông Hồ mô phỏng để thực hiện việc cướp chính quyền và giữ chính quyền đều
được đảng CS ca tụng “đi theo con đường cách mạng tháng 10 Nga”. C̣n nói
về sự giả bộ hợp tác với các đảng yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc khác
(Quốc Dân Đảng, Đồng Minh Hội) th́ trong “HCM toàn tập, tập 4 Lênin có
nói: “Đối với kẻ thù khi cần phải hợp tác th́ cứ hợp tác, và người CS
không được tỏ ra ngại ngùng trước chuyện phản bội.”
Một chỗ khác, cũng do sự nghiên cứu, đă đưa ra nhận xét: “Người CS kể cả
VC, khi cùng đối phương liên hiệp, không bao giờ chịu tôn trọng địa vị của
đối phương, mà chỉ biết lợi dụng đối phương làm công cụ của họ. Họ cũng
không muốn thế lực của đối phương tồn tại hoặc phát triển, v́ mục đích tối
hậu của họ chỉ nhằm tiêu diệt đối phương”. (Tưởng Vĩnh Kính, HCM tại TQ,
trang 206)
Chủ nghĩa CS xuất hiện là một thảm kịch của nhân loại. Từ lúc nó ra đời
(1917), cho đến khi giẫy chết (1991), đă có hằng trăm triệu nạn nhân đă
chết v́ nó. Gần đây một quyển sách mới xuất bản “Sổ đen của chủ nghĩa CS:
tội ác, khủng bố, đàn áp” do một tập thể tác giả gồm những học giả danh
tiếng như Stephane Courtoire, Nicolas Werth, Jean Louis Pane, Andrej
Paverkowski. .. vạch trần tội ác của CS: riêng tại Liên Xô đă có trên 20
triệu người bị giết. Nếu tính toàn thế giới, có đến 85 triệu sinh linh bỏ
mạng v́ nó, cao hơn số người chết trong hai trận thế giới đại chiến cộng
lại. Sở dĩ CS thắng được trong một thời gian dài, là nhờ kỹ thuật tuyên
truyền lừa bịp. Cán bộ CS, khi mở miệng th́ nói toàn “ḥa b́nh, độc lập tự
do, hạnh phúc, no ấm...” nhưng khi hành động th́ làm ngược lại.
Sau đây là một vài thí dụ để chứng minh. Khi mới kéo về Hà Nội, cái chính
phủ tự phong của ông Hồ trong rừng, liền quảng cáo: “Khắp trong khu Việt
Bắc ai cũng hiểu rằng UBND là chính quyền do dân chúng lập ra, để tự cai
trị lấy ḿnh. Ai cũng hiểu rằng nhờ có Việt Minh chỉ bảo, mà dân chúng mới
lập được chính quyền dân chủ ấy. “Ngay khi chính quyền của giặc Pháp bắt
đầu tan ră, tổ chức của Việt Minh ở địa phương liền đứng lên hiệu triệu
quần chúng già trẻ, trai gái hội họp để bàn các công việc, rồi bầu ra UBND
xă. Các thứ thuế cũ của giặc Pháp đặt ra, để bóp cổ dân chúng đều băi bỏ”.
(Cứu Quốc, Đi thăm các UBND tại chiến khu” số ra ngày 27/8/45). Sự thật
đối với những lời tuyên truyền ấy ra sao?
Ông Tưởng Vĩnh Kính viết trong “HCM tại TQ”, do Thượng Huyền dịch, trang
329:
“Sau khi thành lập chính quyền địa phương (UBND), Việt Minh dùng chính
sách khủng bố để thống trị. Các phần tử của các đảng khác, hoặc không
thuộc đồng đảng, hoạt động trong phạm vi thế lực của ḿnh, đều bị Việt
Minh giết hại thê thảm. Những người bị thảm sát, đều bị Việt Minh gán tội
“Việt gian”, “làm gián điệp cho địch”, hoặc “thân Nhựt”...Cái cách thức đó
của Việt Minh cũng lại hoàn toàn giống với Trung Cộng trong “khu giải
phóng” của họ.” C̣n khi tuyên truyền về cái chính phủ “được quốc dân đại
hội Tân Trào (bịp) “bầu ra” th́ ông Hồ viết: “Tóm lại trái với chính phủ
của bọn thực dân, là chính phủ áp bức bốc lột dân chúng, nên dân chúng chỉ
đợi cơ hội để lật đổ đi, c̣n chính phủ nhân dân (tức cái chính phủ ông Hồ
tự phong trong rừng kéo về) mưu độc lập, tự do hạnh phúc cho dân chúng...
dân chúng nhiệt liệt ủng hộ, thiết tha âu yếm như người mẹ đối với đứa con
yêu, có thể cùng chết cùng sống với đứa con đó...” (Báo “Cứu Quốc” số ra
ngày 27/8/45, bài “Chính quyền nhân dân”).
C̣n cùng một vấn đề, những kẻ khác th́ làm xấu xa, CS làm th́ đúng. Thí dụ
như “sự chuyên chính (dùng bạo lực) th́ “Chuyên chính của tư bản là chuyên
chính của thiểu số người, đi áp bức bốc lột, đè nén số đông nhân dân , để
duy tŕ chế độ người bốc lột người. Trái lại chuyên chính vô sản là chính
quyền của số đông nhân nhân, dựa vào vơ lực để đàn áp sức phá hoại của đám
người đi áp bức bốc lột vừa bị lật đổ. (Báo “Cờ giải phóng”, cơ quan tuyên
truyền cổ động của trung ương đảng CSĐD, xuất bản tại Hà Nội ngày
11/11/45).
Muốn thấy rơ ư đồ thầm kín chủ trương chiến tranh trường kỳ của ông Hồ,
chúng ta nh́n qua vài điểm căn bản của chủ thuyết Mác xít. Duy vật biện
chứng pháp chủ trương t́m hiểu mọi tiến tŕnh giải quyết mâu thuẫn để tiến
bộ. Theo mô thức ấy, xă hội tư bản có hai mâu thuẫn lớn, giai cấp tiểu tư
sản (TTS) và vô sản. Giai cấp vô sản phải làm cuộc cách mạng lật đổ TTS để
tiến tới thiên đường CS. Trong cuộc cách mạng bằng bạo lực ấy, giai cấp vô
sản là tiền phong, lănh đạo cuộc đấu tranh giai cấp liên tục, không ngừng
nghỉ, cho đến khi đạt tới thắng lợi. Như vậy chủ thuyết của Mác xít trong
cứu cánh, đâu có “độc lập”, “tự do”, “ḥa b́nh”? Những từ ngữ đó chỉ là
“sáng kiến riêng của ông Hồ”, để vận động quần chúng làm cuộc cách mạng
ấy. Nói theo chữ nghĩa của VC “Đảng ta chớp được thời cơ” là việc Pháp trở
lại xâm lăng hồi cuối năm 1945, và ông Hồ liền “dựng cờ độc lập”, rồi dùng
chiêu bài “giải phóng” để lừa bịp toàn dân. Như vậy, đối với ông Hồ, Pháp
không phải là kẻ thù chính, mà là ân nhân, đă giúp đảng CSĐD có cơ hội
“làm cách mạng vô sản để nắm chính quyền”. Như vậy, nếu Pháp xâm lăng, là
kẻ thù của dân tộc VN, th́ với ông Hồ, là đồng minh. Trong thâm tâm, ông
Hồ đă cảm ơn Pháp làm cuộc xâm lăng nầy. Đó là cơ hội ngàn năm một thuở để
đảng CSĐD làm cuộc cách mạng vô sản, nhưng lại ngụy trang dưới h́nh thức
“cuộc kháng chiến chống xâm lược”. Nhờ đó đảng mới khoác áo chính nghĩa,
mới được toàn dân ủng hộ. Nhưng tất cả một dân tộc bị đảng lừa dối. Cả một
dân tộc bị đảng đem làm bia đỡ đạn, đem hy sinh, để thực hiện chỉ thị của
quốc tế cộng sản.
V́ thế khi cuộc kháng chiến thành công rồi (1954), hay sau 30/4/75, CS đâu
có dừng lại đó, để xây dựng đất nước. CS phải thực hiện mục tiêu tối hậu,
tiến lên tiêu diệt thế giới tư bản. Cuộc chiến tranh đánh sang Cam pu
chia, được đảng mệnh danh là “làm nghĩa vụ quốc tế”, với trên 50.000 quân
hy sinh trên chiến trường.
Mỗi khi gặp khó khăn, CS đổi chiến thuật, mục tiêu vẫn giữ y nguyên: Các
chính phủ lâm thời (16/8 và 2/9/45), chính phủ liên hiệp (2/3/45), giải
tán đảng CSĐD (11/45), tái lập đảng Lao Động (1/51), lập MT Dân Tộc Giải
Phóng Miền Nam (1960), rồi những năm gần đây (thập niên 1990) có “phong
trào thống nhứt dân tộc và xây dựng dân chủ”, rồi “Ḥa hợp, ḥa giải”...
rồi “đổi mới” (đổi mới nhưng không đổi màu).
Hiện nay cuộc đấu tranh giai cấp đang tiếp diễn. Không có kẻ thù cụ thể,
“đảng ta” phải “sáng tạo ra kẻ thù”, các thế lực thù địch, “diễn tiến ḥa
b́nh”... để hù dọa, bắt dân chúng phải sống trong nỗi sợ hăi. VC luôn luôn
dùng những tập họp từ ngữ “sự độc lập của ta đang bị đe dọa”, quyền lợi
của nhân dân đang bị thử thách...” để răn đe, chụp mũ, khủng bố những cá
nhân hay đoàn thể nào muốùn tranh đấu cho tự do dân chủ, hay tự do tôn
giáo. Các vị lănh đạo các tôn giáo như Ḥa thượng Thích Quảng Độ, Linh mục
Nguyễn Văn Lư, cụ Lê Quang Liêm (Ḥa Hảo), cùng rất nhiều vị khác đang
tranh đấu cho dân tộc được hưởng chút tự do đă được đảng long trọng ghi
lên hiến pháp từ nửa thế kỷ qua, nhưng không thi hành. Đó là các ông Hà Sĩ
Phu, Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Vũ B́nh, Lê Chí Quang... đang trở thành tù
nhân của chế độ.
Ở Trung Quốc, sau khi chiếm được chính quyền rồi (1950), không c̣n kẻ thù
xâm lăng nữa, Mao sáng tạo ra phong trào “Trăm hoa đua nở”, “cải cách
ruộng đất”, “Bước nhảy vọt”, rồi “cuộc đại cách mạng văn hóa...” tất cả
chỉ là những thủ đoạn dùng bạo lực củng cố quyền hành. Hồi xưa, trong lịch
sử các chế độ phong kiến, những bạo chúa hành sử ra sao, các lănh tụ CS
làm giống hệt như vậy, chỉ có khác là những tên gọi các hành động ấy. Nhân
dân bị lừa, bị họ tráo “tội đồ dân tộc” bằng “công lao với nhân dân, quần
chúng”. Những ǵ Mao làm cho dân tộc Tàu, cũng như Lênin, Stalin làm cho
dân tộc Nga đều được ông Hồ làm cho dân tộc VN.
Hồi năm 1945 - 46..., ông Hồ cũng biết nhiều thuộc địa cùng hoàn cảnh như
VN, khôn ngoan thương thuyết giành độc lập không đánh nhau, hay chỉ đánh
nhau vài ba năm (Indonésia).. . nhưng ông cứ một mực “trường kỳ kháng
chiến” giành độc lập, tự do... chứ không chịu thương thuyết. Ông luôn luôn
che giấu ư đồ nuôi dưỡng chiến tranh, và nói ngược lại: “Đồng bào tôi và
tôi thành thực muốn ḥa b́nh, và nếu người ta (Pháp) buộc chúng tôi phải
làm (chiến tranh), th́ chúng tôi sẽ làm” (Bác Hồ những ngày tháng Chạp
1946), Nhân Dân số ra ngày 15/12/86). Ông cứ đổ vạ cho người khác, trong
khi sự thực th́ chính ông và đảng của ông chủ trương gây chiến tranh
trường kỳ để nắm chính quyền, để làm cuộc cách mạng vô sản. Ông biết trước
cuộc chiến tranh với Pháp sẽ khốc hại, nhưng ông sẵn sàng đưa dân tộc VN
ra chịu đựng, rồi c̣n giả vờ ngây thơ tuyên bố “thà chết chứ không chịu
mất nước”.
C̣n nói về vấn đề độc lập cho VN, xin nhắc lại những sự kiện chính:
- Ngày 8/3/49, tổng thống Pháp Vincent Auriol kư hiệp định Elysée với quốc
trưởng Bảo Đại, trả độc lập cho VN từ Nam Quan tới Cà Mau.
- Ngày 20/7/49, Pháp kư hiệp định trao trả độc lập cho vương quốc Lào.
- Ngày 8/11/49, Pháp kư hiệp định trao trả độc lập cho vương quốc Cao
Miên. Như vậy cả 3 nước Đông Dương đều độc lập trong năm 1949. Tuy nhiên
ông Hồ không nhận, v́ nếu nh́n nhận nước VN độc lập từ 8/3/49, CS không
c̣n lư do ǵ để kháng chiến nữa. Mà không kháng chiến th́ làm sao nắm giữ
chính quyền và làm cách mạng vô sản? Mời độc giả nghe nguyên văn hai câu
tuyên bố của ông Hồ và Trường Chinh về cái gọi là “kháng chiến” như sau:
“Kháng chiến là một bộ phận của mặt trận dân chủ nhân dân (tức CS) thế
giới, do Liên Xô lănh đạo” (HCM).
C̣n Trường Chinh th́: “Kháng chiến là một h́nh thức cao rộng của đấu tranh
giai cấp, nghĩa là cuộc đấu tranh lớn lao trên thế giới, giữa tư bản thế
giới và vô sản thế giới tức QTCS”. (Nguyễn Kỳ Nam, Tài liệu lịch sử 1945 -
54, trang 83).
Tới đây chúng ta thấy mục tiêu kháng chiến không c̣n đi tới “độc lập”, “Tự
do” nữa, mà trở thành cuộc đấu tranh giai cấp do QTCS lănh đạo. Cuộc kháng
chiến VN không phải để đánh Pháp nữa, mà trở thành một bộ phận của “mặt
trận dân chủ nhân dân” (mấy chữ mới ám chỉ QTCS) do Liên Xô lănh đạo. Nói
ngắn gọn, cuộc kháng chiến chống Pháp không phải của VN đánh đuổi Pháp, mà
nhân dân VN nhận chỉ thị của Liên Xô để làm cách mạng vô sản!
Từ ngày nước Pháp kư hiệp định long trọng trao trả độc lập cho VN là
8/3/49 đến ngày CS chiến thắng trận Điện Biên Phủ (7/5/54), ông Hồ phải
liên tiếp chiến đấu 6 năm ṛng, hy sinh hàng triệu binh sĩ, đồng bào vô
tội, tài sản vật chất khổng lồ, nhưng rồi ông Hồ vội vă kư hiệp định
Genève 20/7/54, để nhận một nửa VN độc lập (VN chia đôi, lấy vĩ tuyến 17
làm ranh giới), đó là thiệt hại lớn lao của dân tộc nhưng là “thắng lợi
riêng cho đảng CSĐD của ông Hồ... Người bàng quan, lấy công tâm nhận xét,
cũng như người quốc gia, thấy chuyện “Kháng chiến, hy sinh xương máu do
ông Hồ chủ trương quá vô lư, nhưng người CS thấy nó chí lư, v́ đảng CSĐD
“đă thắng lợi” là giành được quyền thống trị phân nửa nước VN, để đưa toàn
dân vào quỹ đạo CSQT sau đó.
Đối với CS không có độc lập, tự do. Những ǵ họ nói chỉ là tuyên truyền
lừa bịp, mị dân. Với CS cũng không có quốc gia, dân tộc, chỉ có quốc tế vô
sản. Từ đó CS đâu có tranh đấu cho quốc gia dân tộc, mà chỉ tranh đấu cho
quyền lợi quốc tế vô sản. Khi đảng của họ lâm nguy, họ kêu gào “đất nước
lâm nguy”, “tự do dân tộc bị lâm nguy”... rồi kêu gào mọi người “cứu nước”
tức cứu đảng CS!
Hứa Hoành