The Ia Drang Valley campaign was a landmark for me, because it introduced me to the most brilliant tactical commander I'd ever known.
Colonel Ngo Quang Truong was General Dong's chief of staff. He did not look like my idea of a military genius: only five feet seven, in his mid-forties, very skinny, with hunched shoulders and a head that seemed too big for his body. His face was pinched and intense, not at all handsome, and there was always a cigarette hanging from his lips. Yet he was revered by his officers and troops-and feared by those North Vietnamese commanders who knew of his ability. Any time a particularly tricky combat operation came up, Dong put him in command.
The airborne was alerted to prevent the North Vietnamese regiments defeated in the Ia Drang Valley from escaping back into Cambodia . I was half asleep in my room at the Manor BOQ after a big meal of curried chicken and beer when the call came to get out to the airport. Truong had assembled an unusually large task force of some two thousand troops to go to the Ia Drang the following morning, and had chosen me as his advisor.
We flew in transports to the red clay strip at Duc Co, my old stomping ground, then by chopper south to the river valley. From the minute we stepped off our helicopters we were involved in skirmishes and firefights. The valley was about twelve miles wide at the point where the Ia Drang flowed westward into Cambodia -and somewhere in those miles of dense jungle the main body of the enemy was on the move. We had landed to the north, and Truong ordered the battalions to cross the Ia Drang and take up positions along the Chu Prong Mountains , which formed a series of steep ridges to the south. It was fascinating to watch him operate. As we marched, he would stop to study the map, and every once in a while he'd indicate a position on the map and say, "I want you to fire artillery here." I was skeptical at first, but called in the barrages; when we reached the areas we found bodies. Simply by visualizing the terrain and drawing on his experience fighting the enemy for fifteen years, Truong showed an uncanny ability to predict what they were going to do.
When we set up our command post that night, he opened his map, lit a cigarette, and outlined his battle plan. The strip of jungle between our position on the ridges and the river, he explained, made a natural corridor-the route the NVA would most likely take. He said, "At dawn we will send out one battalion and put it here, on our left, as a blocking force between the ridge and the river. Around eight o'clock tomorrow morning they will make a big enemy contact. Then I will send another battalion here, to our right. They will make contact at about eleven o'clock. I want you to have your artillery ready to fire into this area in front of us," he said, "and then we will attack with our third and fourth battalions down toward the river. The enemy will then be trapped with the river to his back."
I'd never heard anything like this at West Point . I was thinking, "What's all this about eight o'clock and eleven o'clock? How can he schedule a battle that way?" But I also recognized the outline of his plan: Truong had reinvented the tactics Hannibal had used in 217 B.C. when he enveloped and annihilated the Roman legions on the banks of Lake Trasimene .
But, Truong added, we had a problem: the Vietnamese airborne had been called into this campaign because of high-level concern that American forces in pursuit of the enemy might otherwise venture too close to the Cambodian border. He said, "On your map, the Cambodian border is located here, ten kilometers east of where it appears on mine. In order to execute my plan, we must use my map rather than yours, because otherwise we cannot go around deeply enough to set up our first blocking force. So, Thieu ta Schwarzkopf" -thieu ta (pronounced "tia-tah") is Vietnamese for "major"-"what do you advise?"
The prospect of letting an enemy escape into a sanctuary until he was strong enough to attack again galled me as much as it would any soldier. Some of these fellows were the same ones I'd run into four months earlier at Duc Co; I didn't want to fight them again four months from now. So why should I assume that my map was more accurate than Truong's?
"I advise that we use the boundary on your map."
Long after he'd issued his attack orders, Truong sat smoking his cigarettes and studying the map. We went over the plan again and again late into the night, visualizing every step of the battle. At dawn we sent out the 3rd Battalion. They got into position and, sure enough, at eight o'clock they called and reported heavy contact. Truong sent the 5th Battalion to the right. At eleven o'clock they reported heavy contact. As Truong had predicted, in the jungle below us the enemy had run into the 3rd Battalion at the border and decided, "We can't get out that way. We'll double back." That decision violated a basic principle of escape and evasion, which is to take the worst possible route in order to minimize the risk of encountering a waiting enemy. Had they climbed out of the valley up the Chu Pong Mountains , they might have gotten away. Instead they followed the low ground, as Truong had anticipated, and now we'd boxed them in. He looked at me and said, "Fire your artillery." We shelled the area below us for a half hour. Then he ordered his two remaining battalions to attack down the hill; there was a hell of a lot of shooting as we followed them in.
Around one o'clock, Truong announce, "Okay. We'll stop." He picked a lovely little clearing, and we sat down with his staff and had lunch! Halfway through the meal, he put down his rice bowl and issued some commands on the radio. "What are you doing?" I asked. He'd ordered his men to search the battlefield for weapons: "We killed many enemy, and the ones we didn't kill threw down their weapons and ran away."
Now, he hadn't seen a damn thing! All the action had been hidden by jungle. But we stayed in that clearing for the remainder of the day, and his troops brought in armful after armful of weapons and piled them in front of us. I was excited-we'd scored a decisive victory! But Truong just sat, smoking his cigarettes.
General H. Norman Schwarzkopf
It Doesn't Take A Hero (1992)
Chan thanh kinh thong bao tin buon den toan the cuu
Chien Si QLVN/CH:
Nguyen T/T NGO QUANG TRUONG vua qua doi hom nay luc
03:00 sang ngay 22 thang 1 nam 2007 tai Viginia, huong
tho 79 tuoi ta.
T/T sinh ngay thu sau 13, thang chap nam 1929 tuc la
ngay 13 thang 11 nam Ky Ty.
T/T NGO QUANG TRUONG da giu cac chuc vu: Tieu Doan, Lu
Doan & Tham Muu Truong SD/Nhay Du, TL/SD1/BB, TL/QDI &
TL/QDIV.
Sau day la chuong trinh tang le tong quat tai nha
quang Fair Fax Memorial Park, 9902 Braddock Rd,
Fairfax, VA 22032 Tel# (703) 425-9702
Thu tu, 01/24/2007:
10:00 a.m. - 12:00 a.m : Le phat tang
12:00 a.m. - 09:00 p.m : Tham vieng
Thu nam, 01/25/2007:
10:00 a.m. - 01:00 p.m. : Tham vieng
03:00 p.m. - : Le hoa tang tai nha
quang
Tran trong kinh thong bao.
Nguyen Van Ho'a, nguyen SQ/Tuy Vien TL/SD1/BB
Ngô Quang Trưởng (sinh năm 1932) là một trung tướng trong Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa, phục vụ trong những năm 1954–1975. Ông được xem là người hùng Quảng Trị khi đánh bậtViet Cong , tái chiếm Thành cổ Quảng Trị năm 1972.
Mục lục
[giấu]
[sửa] Con đường binh nghiệp
Ngô Quang Trưởng sinh năm 1932, tốt nghiệp Khóa 4 Liên trường Vơ khoa Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức năm 1954, ra trường được bổ nhiệm đại đội trưởng đại đội 1, Tiểu đoàn 5 Nhảy dù.
Năm 1955, ông tham gia cuộc tiễu trừ lực lượng B́nh Xuyên và được đặc cách thăng cấp trung úy tại mặt trận.
Năm 1963, ông thăng cấp đại úy.
Năm 1964, ông thăng cấp thiếu tá và được bổ nhiệm Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù (TĐ5ND). Cùng năm 1964, TĐ5ND do ông chỉ huy trực thăng vận nhảy vào mật khu Đỗ Xá, thuộc quận Minh Long, tỉnh Quảng Ngăi, phá vỡ căn cứ địa của Bộ Tư lệnh Mặt Trận B1 của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMNVN), tịch thu 160 súng đủ loại.
Năm 1965, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù do ông chỉ huy trực thăng vận nhảy vào mật khu Hắc Dịch, thuộc vùng núi ông Trinh, tỉnh Phước Tuy (Bà Rịa), căn cứ của Công Trường 7 MTGPMNVN. Sau hai ngày chạm súng và gây thiệt hại nặng cho hai Trung Đoàn Q762 và Q762 thuộc Công Trường 7, ông được đặc cách thăng cấp trung tá tại mặt trận và được tưởng thưởng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
Năm 1965 sau trận Hắc Dịch, ông được bổ nhiệm chức vụ Tham mưu trưởng Lữ Đoàn Nhảy Dù. Đến cuối năm 1965, bổ nhiệm Tham mưu trưởng Sư Đoàn Nhảy Dù.
Năm 1966, sau biến cố bạo động miền Trung, ông được bổ nhiệm tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh (SĐ1BB), dưới quyền chỉ huy của tư lệnh Quân đoàn I, thiếu tướng Hoàng Xuân Lăm.
Năm 1967, các đơn vị thuộc SĐ1BB do ông chỉ huy, gồm Đại Đội Hắc Báo Trinh Sát, cùng Chi Đoàn 2/7 Thiết Vận Xa M113, tăng phái Tiểu Đoàn 9 Nhảy dù do Thiếu tá Nguyễn Thế Nhă chỉ huy, tấn công và phá vỡ hạ tầng cơ sở và toàn bộ lực lượng du kích địa phương thuộc mặt trận Lương Cổ-Đồng Xuyên-Mỹ Xá thuộc quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Sau trận này ông thăng cấp chuẩn tướng.
Năm 1968, các đơn vị thuộc SĐ1BB do ông chỉ huy, tăng phái Chiến Đoàn I Nhảy Dù (gồm các Tiểu Đoàn 2, 7 và 9 Nhảy Dù) do Trung tá Lê Quang Lưởng chỉ huy đă pḥng thủ thành công tại Huế trong 26 ngày (30 tháng 1 đến 24 tháng 2, 1968). Các đơn vị này đẩy bật các đơn vị xung kích của Quân Giải phóng miền Nam, gồm Đoàn 5 (các Tiểu Đoàn K4A, K4B, TĐ 12 đặc công nội thành, Thành Đoàn Huế) Đoàn 6 (các Tiểu Đoàn K41, K6, TĐ 13 đặc công nội thành Huế, các Đại đội đặc công 15,16,17,18, tăng cường một đại đội súng pḥng không 37mm, hai đại đội du kích quận Hương Trà, Phong Điền, hai đại đội biệt nội thành Huế), và hai Tiểu Đoàn 416,418 thuộc Đoàn Cù Chính Lan (Đoàn 9). Tướng Trưởng và các đơn vị của ông đă giữ vững Huế và gây thiệt hại nặng nề cho các đơn vị tấn công Huế. Sau trận Mậu Thân ông được đặc cách thăng cấp thiếu tướng và được bổ nhiệm chức vụ tư lệnh Quân đoàn IV, Quân khu IV.
Năm 1970 ông được thăng cấp trung tướng.
Năm 1972, Quân Viet Cong và Cong San Bac Viet mở chiến dịch Trị-Thiên. Lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng ḥa tại Quân khu I đă bị nhiều tổn thất. Tướng Ngô Quang Trưởng được điều động vào chức vụ Tư lệnh Quân đoàn I và Quân khu I thay thế tướng Hoàng Xuân Lăm. Quân khu I được tăng cường toàn bộ lượng tổng trừ bị của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa và được sự yểm trợ tầm xa bởi Hạm đội 7 Hoa Kỳ, đẩy lui và tái chiếm Thành cổ Quảng Trị và tất cả các phần đất bị chiếm phía Nam sông Mỹ Chánh, gây nhiều thiệt hại cho các đơn vị Viet Cong và Cong San Bac Viet
Năm 1975, Quân Giải phóng miền Nam và Quân đội Nhân dân Việt Nam mở chiến dịch Huế-Đà Nẵng. Với chức vụ Tư lệnh Quân đoàn I và Quân khu I, ông được lệnh tử thủ Huế, nhưng sau ít lâu lại nhận lệnh di tản toàn bộ Quân đoàn I vào Đà Nẵng. Do thiếu chuẩn bị và sụp đổ tinh thần, cuộc di tản hoàn toàn thất bại, tổn thất toàn bộ lực lượng quân sự và cơ giới của Quân đoàn I trong thời gian rất ngắn, không v́ giao tranh nhưng v́ hỗn loạn và đào ngũ. Thiệt hại đáng kể nhất là việc quân đội Việt Nam Cộng Ḥa mất hoàn toàn quyền kiểm soát vùng lănh thổ có 3 triệu dân, và việc tan ră 4 sư đoàn quân chủ lực, trong đó có hai sư đoàn thuộc hàng thiện chiến nhất của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa là Sư đoàn 1 Bộ Binh và Sư đoàn Thủy quân Lục chiến, đưa đến sụp đổ toàn bộ miền Nam một cách nhanh chóng bất ngờ. Ông vào Sài G̣n và khai bệnh, dưỡng bệnh tại Sài G̣n cho đến khi Sài G̣n thất thủ. Ông di tản cùng gia đ́nh qua Hoa Kỳ, định cư tại tiểu bang Virginia.
Ông cũng là một trong số ít tướng lĩnh Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa được đánh giá là thanh liêm trong sạch "Nhất Thắng, nh́ Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng" .
Cung General Norman Schwarzkopf
[sửa] Các tác phẩm quân sự
Bắt đầu năm 1979, theo lời mời của Trung tâm Quân sử Quân lực Hoa Kỳ (U.S. Army Center of Military History), ông ghi lại kinh nghiệm chiến đấu qua 3 quyển sách hiện c̣n lưu trữ tại trung tâm kể trên.
"The Easter Offensive of 1972" (1983),
"Territorial Forces" (1984), và
"RVANF and US Operational Cooperational Coordination" (1984).
[sửa] Nhận định về Ngô Quang Trưởng
Trong hồi kư của Đại Tướng H. Norman Schwarzkopf, nguyên Tư lệnh Bộ chỉ huy Trung Đông và tư lệnh quân đội Đồng Minh trong chiến dịch Băo Sa Mạc 1991, tướng Schwarzkopf viết "....General Truong is the most brilliant tactical commander I'd ever known ...", tạm dịch "Trung Tướng Trưởng là người chỉ huy chiến thuật kiệt xuất nhất mà tôi từng được biết".
Trung tá George W. Smith, nguyên cố vấn Sư đoàn 1 Bộ binh, trong bút kư "The Siege at Hue" viết: "General Truong was tough, disciplined, and dedicated to his military profession. Unlike many of his contemporaries who had climbed the ranks through political influence, nepotism, or cold, hard cash, he had earned his stars on the battlefield. He was viewed as a self-starter, without a hint of corruption or ego. He was regarded by the Americans as unquestionably the finest senior combat commander in the South Vietnamese army."; tạm dịch "Tướng Trưởng là một người cứng rắn, kỷ luật, và hết ḷng với binh nghiệp. Không như một số đồng liêu của ông thăng quan tiến chức bằng quen biết hay lo lót, ông đeo sao trên vai bằng chiến công tại mặt trận. Ông là người cần mẫn, thanh liêm, và không tự cao tự đại. Người Mỹ cho rằng ai cũng phải nh́n nhận ông là người chỉ huy chiến đấu tài giỏi nhất của quân đội Nam Việt Nam."
Viết về cuộc lui quân của Quân đoàn I QLVNCH trong tháng 3 năm 1975, tiến sĩ Nguyễn Đức Phương, một cựu sĩ quan trong QLVNCH nhân định như sau: "...hệ thống chỉ huy của Bộ Tư lệnh Quân đoàn I đă không chu toàn trách nhiệm trong giai đoạn khó khăn nhất của một cuộc hành quân...", và nhận định "tướng Trưởng là vị tư lệnh quân đoàn thiếu khả năng điều động một bộ tham mưu hỗn hợp..."
Đại tá Phạm Huấn, nhà báo quân đội lăo thành của QLVNCH viết "...Những người ngưỡng mộ và kính phục tướng Ngô Quang Trưởng đều nghĩ rằng sự thảm bại này cuộc lui binh của Quân Đoàn I là hậu quả của quyết đinh sai lầm trong chiến lược 'đầu bé đít to' của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Nhưng theo thời gian, những bí mật được tiết lộ. Tướng Trưởng cũng là người phải chịu trách nhiệm nặng nề nhất đối với những đau thương, kinh hoàng trong hai cuộc rút quân tồi tệ, thê thảm từ Huế và Đà Nẵng..."
[sửa] Tham khảo
Chiến Dịch Trị Thiên năm 1972, Đại tá Vũ Trọng Hoan, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, báo Nhân Dân, Hà Nội, 12/2004
Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, Tiến Sĩ Nguyễn Đức Phương, nxb Làng Văn, Canada, 2001
Đề Cương Tuyên Truyền Kỷ Niệm 60 Năm Ngày Thành Lập QĐND Việt Nam, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương Đảng CSVN, Hà Nội, 2005
Decent Interval, Frank Snepp, Penguin Books, New York, 1980
Mùa Hè Đỏ Lửa, Phan Nhật Nam, nxb Sáng Tạo, Sàig̣n, 1972
Những Cột Trụ Chống Giữ Quê Hương, Phan Nhật Nam, nxb Nắng Mới Miền Nam, California, 2003
Những uất hận trong trận chiến mất nước 1975, Đại tá Phạm Huấn, tác giả tự xuất bản, San Jose, 1988
55 ngày & 55 đêm: Cuộc sụp đổ của VNCH, Chính Đạo, Houston: Văn hóa, 1999
It Doesn't Take a Hero, General H. Norman Schwarzkopf, Bantam Books, New York, 1993
The Easter Offensive of 1972, Lt. General Ngo Quang Truong, U.S. Army Center of Military History, Washington, D.C. - Indochina Monograph Series, 1979
The Siege at Hue, George W. Smith, Lynne Rienenr Publishing, London, 1999.
Lấy từ “http://vi.wikipedia .org/wiki/ Ng%C3%B4_ Quang_Tr% C6%B0%E1% BB%9Fng”
Thể loại: Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa | Trung tướng Việt Nam Cộng Ḥa | Chiến tranh Việt Nam | Sinh 1932