LÊ ĐỨC ANH LỘNG HÀNH,
BỘ CHÍNH TRỊ BẤT LỰC
Màn đêm trước Đại hội 10 - lộng quyền của Lê ĐứcAnh và sự bất lực của Bộ chính trị
Nguyễn Thế An



Trong thời gian gần đây vụ lộng quyền đến mức độ"siêu nghiêm trọng" của Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị (UV BCT), cựu Chủ tịch nước và Bộ trưởng Quốc pḥng đă làm chấn động hàng ngũ sĩ quan cao cấp Quân đội Nhân dân và nhiều thành phần cán bộ cách mạng lăo thành. Ngay cả những đảng viên c̣n giữ được chút liêm sỉ và tự trọng cũng rất đau ḷng. V́ sao vụ lộng quyền của Lê Đức Anh đă có chứng cớ và hồ sơ từ cuối Đại hội (ĐH) 6 của ĐCSVN vào đầu thập niên 90 và đă giao cho ba BCT các khoá 7, 8 và 9 mà tới nay 15 năm đă trôi qua không một ai dám đụng chạm tới thủ phạm? V́ sao các Tổng bí thư (TBT) Đỗ Mười và Lê Khả Phiêu các khoá 7 và 8 đă thoả hiệp với Lê Đức Anh? Mặc dầu Lê Đức Anh nay không c̣n giữ một chức vụ ǵ trong Đảng và Nhà nước, nhưng tại sao giới lănh đạo CSVN hiện nay, đứng đầu là Nông Đức Mạnh, vẫn chưa có một lời lên tiếng chính thức trước Trung ương đảng cũng như trứơc nhân dân? Có phải là những lời tố cáo của Đại tướng Vơ NguyênGiáp, Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, cựu UV BCT kiêm Trửơng ban Tổ chức TU Nguyễn Đức Tâm và nhiều nhân vật khác vẫn không có ảnh hưởng, v́ Lê Đức Anh đă nắm đầu được một số người chính trong BCT hiện nay, cho nên những người này sợ há miệng mắc quaỉ

Đại tướng Vơ Nguyễn Giáp khai hoả

Đại tướng Vơ Nguyên Giáp nay đă trên 90 tuổi, là một trong những ngừơi sáng lập ĐCSVN và là Tổng nguyên soái đầu tiên của Quân đội nhân dân, ngày 3.1.2004 đă viết một Bản điều trần 7 điểm gởi Nông Đức Mạnh, BCT và Ban chấp hành Trung ương đảng (BCH TUĐ) trong dịp Hội nghị TU 9 vào đầu tháng 1.04 để tổng kết nửa nhiệm ḱ khoá 9.[1] Trong điểm 7 ông đă nêu rơ vụ lộng quyền của Lê Đức Anh trong việc biến Tổng cục II của Bộ quốc pḥng phụ trách t́nh báo quân sự thành một cơ quan riêng dứơi quyền của Lê Đức Anh để theo dơi và vu khống nhiều UV BCT và nhiều nhân vật cao cấp khác của chế độ, cụ thể là qua "vụ T4". Có lẽ v́ muốn giữ thể diện cho BCT nên tướng Giáp đă không nêu đích danh tướng Anh ra, nhưng mọi người trong cuộc đều biết rơ những kết án của tướng Giáp là nhằm vào Lê Đức Anh: "Điển h́nh nghiêm trọng là vụ Tổng cục II thuộc Bộ Quốc Pḥng. Những người đứng đầu và những phần tử xấu trong Tổng cục II đă có những hoạt động phá hoại Đảng nghiêm trọng một cách có hệ thống, có tổ chức kéo dài hàng chục năm đặt máy nghe trộm các đồng chí lănh đạo và các cán bộ cấp cao, sử dụng những thông tin sai lệch để phá rối và chia rẽ nội bộ, cố t́nh gây ra bè phái trong Đảng, tạo ra chứng cứ giả để hăm hại những cán bộ tốt của Đảng, vi phạm nghiêm trọng đến điều lệ của Đảng, vi phạm pháp luật Nhà nước và kỷ luật của quân đội.Tôi đề nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương kiên quyết kiểm tra và xử lư nghiêm minh, dứt điểm. Không cho phép duy tŕ măi một tổ chức siêu đảng, siêu Chính phủ. Không thể để Tổng cục II tồn tại với quyền hạn quá rộng như Nghị quyết 96/CP đă cho phép, mà chỉ tập trung vào nhiệm vụ t́nh báo quân sự trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu như trước đâỵ" [2]
Tiếp đó tướng Giáp c̣n nêu hai trường hợp cụ thể mà Lê Đức Anh đă âm mưu vu khống hăm hại nhiều tướng lănh và UVBCT không ăn cánh với Lê Đức Anh và yêu cầu HNTU 9 phải xử lí ngay và nghiêm minh các thủ phạm và nhửng kẻ bao che: "Đặc biệt nghiêm trọng là vụ Sáu Sứ diễn ra cuối khoá VI trước thềm Đại hội VII mà Hội nghị Trung ương 12 và 13 khoá VI đă bàn giao cho Trung ương khoá VII giải quyết. Nghiêm trọng hơn nữa là vụ T4 mà Bộ Chính trị khoá VIII [Thời Đỗ Mười- Lê Khả Phiêu] đă bàn giao lại cho Bộ Chính trị khoá IX [Nông Đức Mạnh]. Bộ Chính trị khoá IX đă chỉ đạo Ban điều tra liên ngành tiến hành điều tra và Bộ Chính trị đă kết luận. T4 là một vụ án chính trị "siêu nghiêm trọng" vi phạm kỷ luật của quân độị Tôi đề nghị Hội nghị Trung ương 9 khoá IX xử lư kiên quyết, dứt điểm, nghiêm minh những vụ việc tồn đọng nói trên theo đúng điều lệ của Đảng, pháp luật của Nhà nước và kỷ luật của quân đội, dù người đó là ai, ở bất cứ cương vị nàọ Và thông báo công khai cho Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, cho các đồng chí uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Uỷ ban kiểm tra Trung ương các khoá trước. Kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước đ̣i hỏi không được phép bao che, né tránh, làm qua loa, mà phải kiên quyết xử lư cả những kẻ bao chẹ" [3]

Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh đánh trực diện

Lời yêu cầu chính đáng và khẩn thiết của một trong số những nhân vật sáng lập chế độ và cựu Tư lệnh đầu tiên QĐND đă rơi vào quên lăng trong BCT. Trứơc t́nh trạng mũ ni che tai, nhắm mắt làm ngơ của những người có thế lực nhất trong BCT và đứng đằng sau BCT, cho nên v́ danh dự của quân đội, nửa năm sau Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, nguyên UV TUĐ, cựu Phó Chủ nhiệm tổng cục chính trị QĐND và được phân công theo dơi một số vấn đề bảo vệ chính trị nội bộ, nhân dịp HNTU 10 (7.04) đă phải gởi một thơ cho Nông Đức Mạnh, BCT, BCHTỤ Trong thơ ngày 17.6.04 tướng Nguyễn Nam Khánh đă nêu đích danh tướng Lê Đức Anh đă lộng quyền như thế nào và dẫn chứng nhiều chứng cớ mà Tổng cục II, dứơi sự lănh đạo của Lê đức Anh, đă vu khống nhiều UV BCT, UVTUĐ, các sĩ quan cao cấp có liên hệ với CIẠ (Xem thư củ Thựơng tướng Nguyễn Nam Khánh trong DC&PT số này) Trong thơ này Tướng Nguyễn Nam Khánh đă thuật lại việc Lê Đức Anh khai gian lí lịch để vào đảng, vụ Xiêm Riệp 1983 khi Lê Đức Anh đang chỉ huy quân đội VN chiếm đóng Kampuchia, vụ Sáu Sứ 1991 phe Lê Đức Anh t́m cách ám hại tướng Vỗ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà và nhiều tướng lănh khác để Lê Đức Anh một ḿnh một chiếu! Nhưng quan trọng nhất là tứơng Khánh đă vạch rơ một cách có hệ thống, việc Lê Đức Anh đă lạm dụng chức vụ Chủ tịch nước từ đầu thập niên 90, với sự im lặng của Đỗ Mười lúc đó là Tổng bí thư, biến Tổng cục II trở thành một "tổ chức siêu đảng, siêu chính phủ" như thế nào, trong Bản điều trần của tướng Giáp mới chỉ nói tổng quát. Không những thế, tướng Khánh c̣n trích dẫn những bản tin của Tổng cục II dứơi quyền của Lê Đức Anh bịa đặt và thông tin sai lệch để hăm hại những ngừơi không cùng phe cánh và phân hoá ở trung ương , mà trong Bản điều trần của tướng Giáp đă nêu ra:"Sử dụng những thông tin sai lệch để phá rối và chia rẽ nội bộ, cố t́nh gây ra bè phái trong Đảng, tạo ra chứng cứ giả để hăm hại những cán bộ tốt của Đảng, vi phạm nghiêm trọng đến điều lệ của Đảng, vi phạm pháp luật Nhà nước và kỷ luật của quân đội" [4]
Lê Đức Anh đă tổ chức Tổng cục 2 thành một "tổ chức siêu đảng, siêu chính phủ như thế nàỏ
Tướng Lê Đức Anh được bầu vào BCT từ khoá V (1982) tới khoá VII (1996) và nắm chức Bộ trưởng Quốc pḥng từ 12.86 . Từ tháng 9.1992 Lê Đức Anh là Chủ tịch nước. Về vai tṛ lấn sân của Lê Đức Anh dưới thời Đỗ Mười làm TBT đă được tướng Nguyễn Nam Khánh ghi rơ: "Trong khoá 7, đồng chí Lê Đức Anh được bầu vào Bộ Chính trị và sau đó được bầu làm Chủ tịch nước, phụ trách cả An ninh, Quốc pḥng và Đối ngoạị Về lănh đạo quân đội, lúc đầu có ư kiến đề xuất đồng chí Lê Đức Anh làm bí thư Đảng uỷ quân sự Trung ương. Nhưng Tổng cục Chính trị không đồng ư, v́ không đúng với cơ chế Ban Chấp hành Trung ương đă ban hành. Do đó, đồng chí Lê Đức Anh lănh chức Phó bí thư thứ nhất Đảng uỷ quân sự trung ương. Đồng chí Đoàn Khuê, Bộ trưởng quốc pḥng làm phó bí thự Đồng chí Đỗ Mười, theo cơ chế, làm bí thư Đảng uỷ quân sự trung ương, nhưng trên thực tế, mọi việc chỉ đạo chung và cả điều hành cụ thể công tác quân sự, quốc pḥng là đồng chí Lê Đức Anh." [5]
Trong vai tṛ đó Lê Đức Anh đă t́m cách lộng quyền qua việc nâng Cục II trở thành Tổng cục II và bắt Chủ tịch Quốc hội (khi đó là Nông Đức Mạnh) và Thủ tướng (lúc ấy là Vơ Văn Kiệt) phải ban bố Pháp lệnh T́nh báo và Nghị định 96/CP trở thành một "tổ chức siêu đảng, siêu chính phủ" trong đó chỉ có Lê Đức Anh toàn quyền chỉ huy và sử dụng:"Được sự chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, Chủ tịch nước, Phó bí thư thứ nhất Đảng uỷ quân sự trung ương, Pháp lệnh t́nh báo và nghị định 96/CP đă được soạn thảo và chuyển qua quốc hội và chính phủ. Pháp lệnh t́nh báo do đồng chí Nông Đức Mạnh, thay mặt Uỷ ban Thường vụ Quốc hội kư ngày 14/12/96. Nghị định 96/ CP do thủ tướng Vơ Văn Kiệt kư ngày 11/9/1997."[6]
Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh nhận định về các mánh lới và thủ đoạn của những người chủ mưu trong hai văn kiện này:"Những kẻ soạn thảo đă cố t́nh đưa ra một khái niệm lẫn lộn, đánh đồng Bộ Quốc pḥng và Tổng cục t́nh báo, đánh đồng sự lănh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ đối với Bộ Quốc pḥng và Tổng cục t́nh báọ Sự pháp quy đó đă bị lợi dụng dẫn đến một sự hiểu lầm: "Tổng cục t́nh báo cũng đứng dưới sự lănh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của lănh đạo cấp cao, ngang hàng với Bộ quốc pḥng". Đó là một kẽ hở rất lớn dẫn đến sự lộng quyền"[7]
Và Thượng tướng Khánh đă dẫn chứng: "Từ nhiệm vụ quá rộng bao trùm lên toàn diện các lĩnh vực, cho nên điều 11, chương 2 [Pháp lệnh t́nh báo] xác định đối tượng của T́nh báo quân sự không chặt chẽ" và Nghị định 96/CP giao cho Tổng cục II quyền hành và phương tiện quá rộng răi: "Đối tượng và mục tiêu của lực lượng T́nh báo thuộc Bộ Quốc pḥng là những nơi có tin tức, có tài liệu liên quan đến nước CHXHCNVN, trong đó đặc biệt chú ư đến các quốc gia, tổ chức và cá nhân ở trong nước và ngoài nước có âm mưu hoạt đông đe doạ, chống lại Đảng CSVN, Nhà Nước CHXHCNVN"." "Nghị định 96/CP xác định: "Tổng cục T́nh báo Bộ Quốc pḥng được thiết lập kênh thông tin liên lạc với lănh đạo cấp cao của Đảng và Nhà Nước. " "Tổng cục T́nh báo thuộc Bộ Quốc pḥng trong trường hợp cần thiết được sử dụng danh nghĩa và phương tiện làm việc, con dấu các giấy tờ giao dịch của cơ quan Nhà Nước, tổ chức chính trị- xă hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xă hội""[8]
Thế rồi qua Điều 2, chương 1 của Pháp lệnh t́nh báo Lê Đức Anh đă mưu kế biến Tổng cục II thành một cơ quan riêng của Chủ tịch nước mà lúc đó ông ta đang giữ :"Lực lượng t́nh báo Việt nam là một trong những lực lượng trọng yếu, tin cậy của Đảng và nhà nước, đặt dưới sự lănh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của Đảng CSVN, sự thống lĩnh của chủ tịch nước, sự quản lư thống nhất của Chính phủ (gọi tắt là lănh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước)"[9]
Nói tóm lại, Pháp lệnh T́nh báo và Nghị định 96/CP đă hợp pháp hoá Tổng cục 2 trở thành một "siêu cơ quan" phụ trách công tác t́nh báo trong mọi lănh vực, kể cả quyền theo dơi các nhân vật đầu năo của chế đô.. Pháp lệnh T́nh báo và Nghị định 96/CP cũng c̣n hợp pháp hoá vai tṛ của Chủ tịch nước lănh đạo trực tiếp cái "siêu cơ quan" t́nh báo này, mà lúc đó là Lê Đức Anh! Nghĩa là Lê Đức Anh đă lợi dụng địa vị và quyền lực của Chủ tịch nước để bắt QH, chính phủ phải ra những luật pháp củng cố quyền hành cho ḿnh bằng cách là theo dơi, vu khống và chia rẽ trong hàng ngũ lănh đạo chế độ, nhất là những người mà Lê Đức Anh không ưa, hoặc sợ bị tranh quyền. Nói khác, Lê Đức Anh đă cai trị đất nước như một ông vua tham quyền một cách vô cùng thô bạo thời quân chủ!

Tại sao Lê Đức Anh có thể làm được như vậỷ

Đây là câu hỏi quan trọng nhất cho ngay những cán bộ cao cấp trong ĐCSVN. Theo Hiến pháp 1992 th́ quyền hạn của Chủ tịch nước không lớn và cũng không rô.ng. Mọi quyền quyết định tối hậu là BCT. Nhưng thực tế th́ việc vận hành quyền lực trong ĐCSVN từ trước tới nay lại rất khác:
1. Không phải mừơi mấy UV BCT đều có quyền ngang nhau, thường trong mỗi khoá chỉ có hai ba nhân vật có quyền lực lớn nhất và bao thầu tất cả.
2. Quyền hành thực sự của Chủ tịch nước tuỳ thuộc uy quyền của ông ta trong BCT của nhóm lănh đạo lúc đó. Nếu ở thế mạnh th́ ông ta có quyền sinh sát lớn, vô giới hạn.
3. Các luật pháp của chế độ sẽ được lập gia hoặc được giải thích rất tuỳ tiện theo hướng có lợi cho những người có quyền lực lớn nhất lúc đó.
Đây là qui luật vận hành quyền lực ở cấp cao nhất của chế độ CSVN trong các thập kỉ vừa quạ Nếu hiểu như thế th́ câu hỏi sẽ được tập trung là ai (hay những ai) là ngừơi có thế lực mạnh nhất từ ĐH 7 khi Tổng cục II trở thành một cơ quan "siêu chính phủ" và dàn dựng vụ T4?
Trong thơ của tướng Nguyễn Nam Khánh có nêu tên mấy chục nhân vật trong BCT, TUĐ, Tứơng lănh trong quân đội, công an và nhiều cán bộ cao cấp khác đă bị Tổng cục II dàn dựng trong vụ T4, vu khống cho những ngừơi này là có liên hệ với CIA và t́m cách đảo chính, thay đổi chế độ Những hành động mờ ám công khai này, theo tướng Vơ Nguyên Giáp trong Bản Điều trần của ông , đă "kéo dài hàng chục năm". "Những người đứng đầu và những phần tử xấu trong
Tổng cục II đă có những hoạt động phá hoại Đảng nghiêm trọng một cách có hệ thống, có tổ chức kéo dài hàng chục năm đặt máy nghe trộm các đồng chí lănh đạo và các cán bộ cấp cao, sử dụng những thông tin sai lệch để phá rối và chia rẽ nội bộ, cố t́nh gây ra bè phái trong Đảng, tạo ra chứng cứ giả để hăm hại những cán bộ tốt của Đảng, vi phạm nghiêm trọng đến điều lệ của Đảng, vi phạm pháp luật Nhà nước và kỷ luật của quân đội" [10]
Trong số mấy chục nhân vật có tên trong hồ sơ đen của vụ T4 lại không thấy tên một số nhân vật quan trọng trong BCT các khoá VII và VIIỊ Trong đó trước tiên phải kể tới Đỗ Mười, làm TBT khoá VII (6.91) và khoá VIII (7.96) cho tới tháng 12.97 (sau đó làm Cố vấn BCTTU cùng với Lê Đức Anh và Vơ Văn Kiệt). Một số nhân vật chủ yếu khác trong BCT khoá VII và VIII cũng không bị nêu trong danh sách của Tổng cục II, như Đào Duy Tùng (khoá VII), Phạm Thế Duyệt, Nguyễn Đức B́nh (khoá VII và VIII), hoặc các uỷ viên BCT khoá 8: Phạm Văn Trà, Lê Minh Hương, Nguyễn Tấn Dũng
Những ai theo dơi nội t́nh trong cấp cao nhất trong ĐCSVN thời gian qua th́ thấy rằng, có một sự liên hệ rất mật thiết của cặp đôi có quyền hành sinh sát lớn nhất từ đầu thập niên 90 là Đỗ Mười và Lê Đức Anh. Điều này đă được Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh nói rơ khi Đỗ Mười làm TBT và Lê Đức Anh làm Chủ tịch nước. Quan hệ mật thiết và quyền hành sinh sát của hai người này vẫn c̣n tiếp tục cho ngay cả khi họ không c̣n giữ chức vụ ǵ ở trung ương cả. Chính điều này đă được Vơ Nguyên Giáp và Nguyễn Đức Tâm, cựu UV BCT, kiêm Trưởng ban Tổ chức TU (khoá VI) nói về âm mưu của Đỗ Mười và Lê Đức Anh đảo chính Lê Khả Phiêu trong ĐH 9 (4.01) vừa quạ Vài tuần trước ĐH 9 Nguyễn Đức Tâm trong thơ gởi BCT va BCTTU ngay 1.3.91 đă báo động:"Nhưng những hoạt động gần đây của các đồng chí đó, chính là đồng chí Đỗ Mười và đồng chí Lê Đức Anh, xung quanh vấn đề nhân sự của Đại hội IX đă làm tôi suy nghĩ rất nhiều, nên tôi không thể không phát biểu ư kiến để đấu tranh với những hoạt động mà tôi cho là vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức của Đảng, là lộng quyền, là đặt ḿnh lên trên Đảng." Khi gặp tôi, anh Mười hỏi ngay: Anh Lê Đức Anh cho người thông báo với anh, anh có ư kiến ǵ? (tôi nghĩ ngay là hai người đă bàn bạc với nhau và phân công nhau đi thông báo) "Tôi thấy đây là cuộc vận động có chuẩn bị khá kỹ, có phân công rơ ràng, với ư đồ không trong sáng trước thềm Đại hội IX, là vi phạm nguyên tắc tổ chức của Đảng, vi phạm điều lệ Đảng, vi phạm thông báo số 554 ngày 29-11-2000 của Bộ Chính trị v́:
- Đă tổ chức cuộc vận động của cá nhân mấy người nhằm loại trừ một số cán bộ lănh đạo của Đảng và Nhà nước ra khỏi cương vị của ho..
- Nội dung cuộc vận động là đả kích nhằm buộc đồng chí Tổng Bí thư phải từ chức, thậm chí phải bị kỷ luật trước khi Đại hội họp, trong khi đó Bộ chính trị, Trung ương Đảng chưa có nhận xét kết luận ǵ về đồng chí Tổng Bí thư
- V́ sao cố vấn lại vi phạm đến mức này ? Không phải các đồng chí đó không hiểu nguyên tắc, các đồng chí buộc người khác về nguyên tắc th́ rất chặt chẽ.
- Có phải các đồng chí cố vấn tự cho ḿnh cái quyền cao hơn Bộ Chính trị, cao hơn Trung ương, cao hơn Đảng nên coi thường điều lệ không?
- Hay v́ quyền lợi cá nhân nào đó?
- Hay v́ muốn đưa những người "thân tín", "tin cậy" của ḿnh vào để dễ bề sai khiến, để theo cái gậy chỉ huy của ḿnh không?
- Hay c̣n v́ lư do sâu xa nào khác nữa ?..." [11] Về những câu hỏi "muốn đưa những người "thân tín","tin cậy" của ḿnh vào [BCT] để dễ bề sai khiến, để theo cái gậy chỉ huy của ḿnh không?" Và - "Hay c̣n v́ lư do sâu xa nào khác nữa ?...", ông Tâm đă kể nguyên nhân sâu xa hơn, có thể là nguồn gốc để Lê Đức Anh t́m cách thoán đoạt quyền hành ngay từ thời Lê Đức Thọ c̣n giữ quyền sinh sát : "Nhân đây tôi cũng xin báo cáo với Bộ Chính trị và Trung ương Đảng:
Ngày 27-2-2001, đồng chí Năm Thi ở trong Nam ra có đề nghị gặp tôi hỏi lại: Trước đây đồng chí có gửi cho đồng chí Lê Đức Thọ và tôi, và có gửi cho đồng chí Nguyễn Văn Linh khi đang làm Bí thư ở Thành phố Hồ Chí Minh một thư tố cáo đồng chí Lê Đức Anh nhiều vấn đề (6-7 vấn đề). Thư ấy đă được giải quyết ra sao, không được hồi âm mà đồng chí Lê Đức Anh lại ngày càng được lên cao để đến hôm nay gây rối cho Đảng?"[12]
Nguyễn Đức Tâm c̣n tiết lộ là, trứơc khi ĐH 6 (1986) đă có một số cán bộ cao cấp của đảng ở trong Nam như Năm Thi, Hai Xô và Đồng Văn Cống đă biết rơ các việc làm mờ ám của Lê Đức Anh v́ cùng hoạt động lâu năm với nhau ở miền Nam và đă viết thư thông báo cho Lê Đức Thọ lẫn Nguyễn Đức Tâm tố cáo "Lê Đức Anh nhiều vấn đề (6-7 vấn đề)".
Cũng trong thư trên Nguyễn Văn Tâm cho biết là đă tŕnh bày việc này với Lê Đức Tho.. Nhưng ông Thọ đă t́m cách tŕ hoăn lại và trả lời "Đây chỉ là vấn đề cần quan tâm, nhưng chưa đủ cơ sở để kết luận, sau này sẽ tiếp tục điều tra" (NĐT 1.3.01). Sau ĐH 6 Nguyễn Đức Tâm trở thành Trưởng ban tổ chức TU, đă đặt vấn đề này với tân TBT Nguyễn Văn Linh. Nhưng theo lời của ông Tâm th́ : "Anh Linh không giao trách nhiệm để tổ chức điều tra (lí do có thể rất phức tạp, tôi không dám viết ra đây, chỉ xin trực tiếp báo cáo với BCT hoặc Uỷ ban Kiểm tra TU".[13]
Đằng sau "Lí do có thể rất phức tạp, tôi không dám viết ra đây" mà Nguyễn Đức Tâm nói ở đây là ǵ? Có phải cái uẩn khúc chính của nó vẫn nằm trong việc Lê Đức Anh, đă vơ được trong hoàng cung Kampuchia số vàng, kim cương và nhiều quí vật khác, trong thời làm Tư lệnh Bộ đội t́nh nguyện VN tại Kampuchia từ cuối thập niên 70 của thế kỉ trước? Một phần của số này, ông Anh đă chia cho một số nhân vật có quyền thế nhất lúc ấy giữ trách nhiệm trực tiếp về vấn đề Kampuchia ở trong BCT lúc đó là Lê Đức Thọ, nhân vật số haị Khi ấy ông Thọ c̣n là Trửơng ban Tổ chức TUĐ, cơ quan nắm giữ tất cả hồ sơ những cán bộ cấp cao của chế đô.. Nếu đúng như thế th́ không phải chỉ Lê Đức Thọ biết và dính dấp vào vụ này, mà c̣n cả Nguyễn văn Linh cũng dây dám trong việc được chia phần. Hiện hai ngừơi này đă mất, nay chỉ c̣n Đỗ Mười, một người đă từng cầm chịch sân khấu chính trị từ hơn chục năm quạ Đỗ Mừơi là một ngừơi rất trung thành của Lê Đức Thọ và có quan niệm cực ḱ bảo thủ, bên ngoài tỏ vẻ sống b́nh dị, nhưng thực sự tự cho ḿnh cái quyền sinh sát như các vua chúa thời trước. Không những thế, Đỗ Mười c̣n coi một cách rất tự nhiên những tặng phẩm hay tiền bạc của bên ngoài biếu tặng người đứng đầu chế độ là tài sản riêng. Chẳng hạn khi đang làm TBT, ông đă sang thăm Đại hàn và được một số Cheabol (tập đoàn kĩ nghê.-tài chánh lớn) tặng 1.000.000 USD. [14] Sau khi Nguyễn Văn Linh bị ép phải thôi chức TBT th́ Đỗ Mười đă nắm chức vụ này và cùng với Lê Đức Anh chia quyền suốt từ ĐH 7 (1991). Cả đến khi v́ sức yếu phải nhường cho Lê Khả Phiêu chức vụ này, nhưng Đỗ Mừơi và Lê Đức Anh vẫn kềm kẹp và theo dơi Phiêụ Theo tứơng Vơ Nguyên Giáp và Nguyễn Đức Tâm th́ chính cặp Lê Đức Anh và Đỗ Mừời đă tổ chức đảo chánh ông Phiêu trong ĐH 9 và giao cho Nông Đức Mạnh, một ngừơi dễ sai bảo làm TBT.
Những ai hiểu nội t́nh trong cấp cao của ĐCSVN th́ đều biết, từ thời Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đă dùng mọi cách d́m Vơ Nguyên Giáp. Lê Đức Anh đă nham hiểm khai thác việc này theo cách có lợi nhất cho tham vọng quyền lực của cá nhân. Lê Đức Anh đă dùng một phần tài sản tịch thu trong hoàng cung Kampuchia để mua chuộc những ngừơi có thế lực nhất trong BCT lúc đó để nhẩy được vào BCT, nắm chức bộ trưởng Quốc pḥng, đây là cơ quan trụ cột của chế độ và sau đó lên làm Chủ tịch nước. Với sự thoả hiệp của Đỗ Mười, nên Lê Đức Anh đă lợi dụng quyền lực lớn của ḿnh và đă lộng quyền lập Tống cục II và dùng nó để dựt giây và kiểm soát BCT cả sau khi không c̣n giữ chức ǵ quan trọng trong đảng cũng như nhà nước. Nghĩa là Lê Đức Anh đă tự biến ḿnh thành ông vua không ngai, đưa ông Phiêu lên rồi lại loại ông Phiêu đi để chọn người dễ bảo hơn!
Chính v́ biết rơ những ai đă dính líu với Lê Đức Anh và đă để cho ông Anh lộng quyền, nên tướng Nguyễn Nam Khánh đă nói thẳng: "Tôi nghĩ rằng, nếu đồng chí Tổng bí thư [tức Nông Đức Mạnh], Nguyên Tổng bí thư [Đỗ Mừơi], các Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm tra, Uỷ viên Đảng uỷ quân sự Trung ương, các đồng chí nguyên cố vấn, đă biết các vụ này mà muốn cho qua, làm chiếu lệ cũng là bao che, ngăn cản, nói mà không là! "[15]
Gần đây trong cuộc gặp tướng Nguyễn Nam Khánh để giải thích về thái độ của BCT đối với thơ của tướng Khánh, người đứng thứ hai trong BCT hiện nay Phan Diễn đă cho biết những ngừơi cầm đầu trong BCT không dám động tới Lê Đức Anh và Đỗ Mười: "T4 là một vụ án nghiêm trọng, nhưng Bộ Chính trị phải chọn vấn đề ǵ trực tiếp ảnh hưởng đến nội bộ Đảng, Nhà nước, Quân đội mới làm, báo cáo cho Bộ Chính trị rơ chứ không báo cáo cho Trung ương, có việc không nói cụ thể cho Trung ương và không thảo luận."[16] Trong thơ thứ hai gởi Nông Đức Mạnh, BCT và BCHTU ngày 15.7 tướng Nguyễn Nam Khánh đă nhắc lại:"Trung thực mà nói, ngay trong số đồng chí nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Uỷ viên Ban Bí thư, cũng có người,
cá biệt dính líu đến các vụ của lănh đạo Tổng cục II hiện naỵ"
Và cuối cùng tướng Nguyễn Nam Khánh đă cảnh báo Lê Đức Anh và những ngừơi có dính líu : "Sự thật sẽ tự mở đường mà đi!"

Vẫn chuyện Tổng Cục 2
Lâm Phong (VNN, 31/12/04)

Lại một lá thư về Tổng cục 2, đề ngày 1 tháng 12 năm 2004, gửi cho ban chấp hành trung ương đảng CSVN khoá IX, xuất hiện tại hải ngoạị Bức thư kư tên Lương Đống, một đảng viên kỳ cựu 50 năm tuổi đảng, ghi điạ chỉ thuộc phường Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà nội, và bắt đầu với gịng chữ "Đề cao trách nhiệm chỉnh đốn đảng theo di chúc bác Hồ".
Lá thư nhắc lại các tội trạng của TC2 đă được nêu ra trong các bái tố cáo trước đây, kèm thêm một số nhận định cá nhân về các báo cáo của TC2. Là pha trộn các dữ kiện thật và giả để phá hoại đảng. Lá thư giới hạn số người trách nhiệm bao che TC2, gồm trực tiếp là Phạm Văn Trà, trên cao hơn là Lê Đức Anh, và gián tiếp là Phan Diễn im lặng đồng loă. Những người lănh đạo khác trong bộ chính trị bị coi là mờ mắt v́ những báo cáo thật giả lẫn lộn của TC2 tiếp tục được dùng, nên đă không có thái độ với TC2. Người kư tên Lương Đống đề nghị ban chấp hành trung ương đảng khoá IX phải giới hạn vai tṛ của TC2, không cho dẫm chân lên các bộ phận trách nhiệm an ninh khác, và không thể có quyền lực trùm lên trên cả đảng như là t́nh trạng cho tới nay nữạ
Quần chúng ngoài cuộc không ai biết Lương Đống có thật sự hiện hữu hay không. Nhưng điều này không mấy quan tro.ng. Quan trọng hơn là thư này cũng như các thư trước tố cáo TC2, cho người ta thấy một số vấn đề của lănh đạo đảng bật ra từ vụ TC2. Một là hệ thống an ninh trách nhiệm ḱm kẹp dân chúng của đảng có tranh chấp gay gọ Hai là Lê Đức Anh và Phạm Văn Trà không phải là những người đơn độc, không có quân. Ba là các báo cáo của TC2 vẫn được dùng. Bộ chính trị không phải là những người mờ mắt v́ các báo cáo thật giả lẫn lộn của TC2 như Lương Đống nêu ra, mà hiện chưa thể có quyết định nào chỉ v́ không có ai đủ uy tín lôi người khác theo ḿnh. V́ thế, có thể nói rằng lá thư Lương Đống cũng như những lá thư trước là nhằm sửa soạn dư luận dọn đường cho những thay đổi nhân sự trong kỳ đại hội đảng sắp tớị Tương tự như những lá thư tố giác Lê Khả Phiêu, Nguyễn hà Phan, và ngay cả Hồ chí Minh thời bộ ba Vơ Văn Kiệt, Lê đức Anh, Đỗ Mườị Sự tranh chấp hiện nay là hậu quả tất yếu của chính sách mở cửa ra ngoài, với những liên lạc làm việc ở nhiều lănh vực và nhiều cấp với các nước Tây phương, và đặc biệt là với Mỹ. Kể từ khi thiết lập bang giao hai nước, cựu đại sứ Peterson đóng vai tṛ làm yên ḷng những giới chức lănh đạo CS VN, đừng lo ngại về toan tính thù nghịch của Mỹ đối với ho.. Ông Peterson ra đi và để lại được t́nh trạng "không c̣n là thù địch, chưa phải là bạn" (no more ennemies, not yet friends). Đại sứ Mỹ tiếp theo, ông Burghard, đă mở rộng thêm nữa sự giao thiệp giữa giới chức lănh đạo Hà nội và Mỹ. Người biết ông Burghard là một nhân viên CIA kỳ cựu th́ dĩ nhiên là hiểu rằng kinh nghiệm nghề nghiệp của ông Burghard đă giúp ông không nhỏ trong nhiệm kư ông ở VN. Và đương kim đại sứ Marine là người đến để khai thác những xếp đặt đă thành. Người theo rơi thời sự c̣n nhớ rằng sau khi tin nhà ông Lê đức Anh bị bao vây và hai nhân vật cầm đầu TC2 trốn mất được loan đi ở các đài ngoại quốc th́ vấn đề TC2 mới trở thành lớn hơn và được nhắc đi nhắc lạị Nh́n một cách tổng quát th́ có thể biết trước rằng các lá thư như của Lương Đống sẽ c̣n tiếp tục. Cho tới khi những người có sự hỗ trợ ngoại quốc giữ được các vị trí quyền lực quan trọng trong đại hội toàn đảng sắp tớị Khi đó, bộ máy an ninh t́nh báo sẽ đổi tính chất, và đảng cũng đổi tính chất, với quyết định giảm vai tṛ của TC2.
Có người sẽ hỏi phải chăng kêu gọi giảm quyền TC2 là thực ḷng muốn "chỉnh đốn đảng theo di chúc bác Hồ" như Lương Đống viết? Khó mà khẳng định như vậỵ Tư tưởng và con người "bác Hồ" đă được lănh đạo đảng dùng như lá bùa để giữ thế chính thống. Nhưng thực tế th́ tất cả đều biết rằng huyền thoại bác Hồ đă tan tành v́ những chuyện thực về đời ông Hồ bị phanh phui bởi những tài liệu trong tài liệu và văn khố đảng CS Liên sô được mở ra cho các nhà nghiên cứu điều nghiên. Tương tự như vậy, nói "chỉnh đốn đảng theo di chúc bác Hồ" chỉ là để mà nói thôị



GIÁ TRỊ CỦA DÂN TỘC VN ĐI VỀ ĐÂU?
Giá trị của dân tộc VN đi về đâu ?
Hay hâu quả của chế độ Cộng sản độc taiø
Nguyễn thị Thanh Vân (VNN, 21/12/04)


Buổi chiều hôm ấy tôi c̣n nhớ măị Ngồi trên xe, tôi thoáng nghe đài RFI ở Paris loan tin có nhiều người VN đến Hồng Kông với vũ khí trong tay đă bị bắt và bị xử án tù hơn 20 tháng. Điều làm cho tôi chấn động hơn là khi họ nói về nguyên nhân mà những thuyền nhân này bị bắt : họ mang thật nhiều vũ khí để bị bắt ở tù càng lâu càng tốt v́ như thế bảo đảm có chỗ ăn chỗngủ !!!
Trăm ngàn dấu chấm than cũng không thể diễn tả đượ tâm trạng tôi lúc đó ! Và tôi đi t́m lại mẩu tin này trên internet, tôi t́m thấy được trong bản tin trên báo Người Việt online như sau :

"HONGKONG 05-11 (TH).- Nhà cầm quyền Hongkong bỏ tù 12 người đàn ông VN từ ngày 21 Tháng Mười đến 24 Tháng Mười với các cáo buộc nhập cảnh bất hợp pháp vào lănh địa này với vơ khí, theo tin của cơ quan tư pháp địa phương trong ngày Thứ Sáu 05 Tháng Mười Một 2004. Những người kể trên đă nhận tội, theo lời phát ngôn viên Bộ Tư Pháp Hongkong Felix Leung, và bị truy tố h́nh sự gồm sở hữu đạn dược bất hợp pháp, tàng trữ vũ khí tấn công bất hợp pháp và ở lậu tại Hongkong. Mười một người bị kêu án mỗi người 21 tháng c̣n một người bị 24 tháng, theo lời Leung. Các bị cáo nói trên nằm trong nhóm 39 người VN nhập cảnh bất hợp pháp và bị bắt hồi đầu năm. Hầu hết đều đi bằng ghe máy xuất xứ từ Hải Pḥng hoặc một điểm nào ở miền Bắc VN. Một số nhỏ th́ cư ngụ quá thời hạn của chiếu khán du li.ch. Khi bắt giữ những người trên, cảnh sát đă tịch thu 4 ống sắt, một số dao và một số đạn. Tuy nhiên không có khẩu súng nàọ

Nhật Báo Thanh Đảo ở Hongkong đặt giả thuyết rằng số người nói trên cố t́nh nhập cảnh lậu và để bị bắt với vơ khí để "được" ở tù. Bởi v́ trong tù, họ được ăn uống đầy đủ và c̣n được chữa bệnh không tốn tiền. Leung không b́nh luận ǵ về tin tức như vậỵ"

Với những sự kiện xảy ra như thế, tôi tự hỏi: người Việt ḿnh bây giờ không c̣n biết hai chữ "tự trọng" nữa hay sao ? Tại sao những người này có thể chấp nhận làm thân tù xứ người để chỉ đổi lấy hai bữa cơm ? Cho đến giờ có lẽ nhiều người trong chúng ta chưa hết xót xa với những câu chuyện nàng dâu Đài Loan, hay nạn buôn bán trẻ em đă từng làm chấn động dư luận quốc tế và đồng bào hải ngoại vào đầu năm naỵ V́ đâu mà dân tộc ta ra nông nỗi này ???

*

Có lần một vị chính giới Ba Lan đă nêu câu hỏi: "Tôi đă có dịp tiếp xúc với nhiều người Việt, tôi thấy quư vị hiền ḥa và nhân hậu quá, nhưng tôi không hiểu được v́ sao một chế độ tàn ác như chế độ CSVN vẫn tiếp tục tồn tại, ai là những người hỗ trợ họ?"

Thưa ông, chỉ có những người sống nhờ vào chế độ là những người ủng hộ đảng và nhà nước CSVN. Có lẽ nhân dân ai cũng quá khổ với chế độ này, cộng sản đi tới đâu th́ người dân ở đó đều phải t́m cách trốn chạỵ Tới nỗi nếu cột đèn có chân nó cũng chạy...

Điều tàn ác hơn nữa, là lúc nào người cộng sản cũng t́m cách lợi dụng những cuộc trốn chạy này để thủ lợi cho ḿnh, từ tài chính đến an ninh, chính trị, họ không từ chối điều ǵ hết.

- Năm 1954, đảng CSVN lên cầm quyền tại miền Bắc, với sự can thiệp của Pháp, gần 1 triệu người đă rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, bỏ lại mồ mả cha ông đi vào Nam để mưu t́m tự dọ CSVN đă t́m cách gài người vào đoàn di cư để vào lũng đoạn miền Nam.

- Năm 1975, đảng CSVN thống trị trên toàn cơi VN, hàng triệu người đă phải vượt biển vượt biên để mưu t́m một cuộc sống tự do, bất chấp những hiểm nguy một sống hai chết trên con đường đi t́m tự do đầy mạo hiểm. Điều oái oăm nhất là thấy người dân đổ xô đi t́m đường vượt biển, th́ chính những tay công an bộ đội đă đứng ra tổ chức các đường dây bán chính thức để bóc lột tiền của dân, và nhẫn tâm hơn hết là họ đă bắn vào dân khi ghe vừa rời bến.

- Kể từ cuối thập niên 80, khi các nước tự do không chịu nhận những người vượt biển tỵ nạn nữa, người dân lại t́m cách thoát khỏi VN bằng cách đi du lịch rồi t́m cách ở lại, đi làm lậu để kiếm ăn qua ngày trong khi chờ đợi được cứu xét đơn xin tỵ nạn. Lúc này th́ công an lại đi tổ chức những đường dây đưa người đi du lịch lậu, đưa người sang du lịch tại Nga, nơi mà sứ quán CSVN c̣n được quyền tự tung tự tác đối với kiều dân ở đây, họ đă tổ chức rầm rộ những chuyến du lịch VN - Nga bằng giấy tờ giả, rồi từ đây t́m cách đưa họ vượt biên giới để đến các nước đông âu cựu CS mà sinh sống như Tiệp, Ba Lan, Đức...
Và làn sóng người vượt biên kiểu này cứ tiếp tục cho đến naỵ Nhiều người đă phải đi vay để trả 5000 đô la một chuyến vượt biên mà họ không thể tưởng tượng được sự cam go như thế nào... Được đường dây tổ chức đưa tới Nga, sau đó họ được thả lỏng để tự vượt đường rừng sang Tiệp, sang Ba Lan, sang Đức...Một tiếng ngoại ngữ không biết, băng rừng trong đêm dưới những cơn mưa tuyết mùa đông, lắm khi bị cơ quan an ninh các nước này bắt nhốt tù vài tháng v́ nhập cư bất hợp pháp. Khi được thả ra, họ lại tiếp tục con đường chông gai để t́m đến những nơi tạm sống yên ổn. Nhưng khổ nỗi, định cư tại những nước này một cách bất hợp pháp, họ phải trốn chui trốn nhủi và đi làm lậu để kiếm sống. Họ kiếm ăn rất vất vả, chật vật lắm mới sống nổị Thế mà người ta vẫn tiếp tục đi như thế, ngay cả những người dân ở vùng quê của "Bác", vùng đất Nghệ An "oai hùng anh dũng của Bác"...

- Hễ cứ ngơ ngách nào mở đường cho người dân có lối thoát ra khỏi nước th́ dân cứ t́m cách để đị Người dân rủ nhau đi lao động ở nước ngoàị Đây là chính sách của nhà nước nên nhà nước tha hồ mà tổ chức những đường dây đưa người ra nước ngoài lao động mà không hề quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi của dân ḿnh. Mỗi người muốn đi lao động nước ngoài phải nộp tiền cho nhà nước không biết bao nhiêu mà kể, nhưng họ vẫn đi, v́ thà như vậy mà c̣n kiếm được chút đỉnh tiền gửi về giúp đỡ gia đ́nh.

- Một con đường khác để đi ra khỏi nước là du học hay tu nghiệp với những chương tŕnh trao đổi văn hóa giáo dục với các nước tiên tiến. Các vị có chức có quyền lại thêm một cơ hội lường gạt dân, tự đứng ra xưng là cơ quan trung gian để tuyển sinh, nhận tiền để đưa người đi mà không đi tới đâu hết như trường hợp nhóm Carlyle Group vừa mới bị phanh phui vào ngày 2/11 vừa quạ

- Và những con đường khác... ngày càng tồi tệ hơn. Cha mẹ bán con để sống, phụ nữ phải đi lấy chồng xứ lạ để có nơi nương tựa... Tất cả những đường dây này được tổ chức trên qui mô lớn th́ chắc chắn công an nhà nước đă được chia chác nhiều phần, điều này đă được xác nhận trước ống kính của báo chí và các cơ quan thiện nguyện quốc tế.

Trước sự kiện mới mẻ ở Hồng Kông lần này, có lẽ một vài anh công an đă có sáng kiến để đưa người ra nước ngoài theo kiểu mới, khỏi cần phải làm lụng kiếm ăn, chỉ chịu nhục mang án ngồi tù ở xứ người để được nuôi ăn nuôi ở và chăm sóc sức khỏe...

*

Dạy cho dân quên mất đi sự tự trọng, quên mất đi cái liêm sỉ của con người là cái tội không thể tha thứ được, và chỉ có đảng và nhà nước CSVN mới đào tạo ra những con người nhẫn tâm đưa dân tộc ḿnh xuống hố sâu đầy bùn nhơ như thế !


Nguyễn thị Thanh Vân
(VNN, 21/12/04)