Phác thảo chân dung

Chiến sĩ Dân chủ Hoà b́nh Việt Nam hôm nay

Lm Tađêô Nguyễn Văn Lư - 30.4.2006 - Bổ sung 27.01.2007

Mọi người thiện chí khắp nơi trên thế giới và mọi người Việt Nam trong cũng như ngoài Nước có tâm huyết với Quê hương đều cháy bỏng khao khát có một Tổ quốc VN biết chôn vùi thành công cách văn minh, ôn ḥa chủ nghĩa và chế độ cộng sản vĩnh viễn vào quá khứ để toàn Dân sống an b́nh, đạo đức, thịnh vượng. Muốn đạt được điều nầy, cần phải có một thế hệ chiến sĩ ḥa b́nh đích thật. Người viết xin đề nghị một số nét phác thảo chân dung lớp người Chiến sĩ Dân chủ Ḥa b́nh (NCSDCHB) thích hợp cho Đất nước Việt Nam hiên nay.

1- Có một đời sống tâm linh và khiêm tốn vững chắc : Ḥa b́nh không phải là hết chiến tranh. Ḥa b́nh không phải chỉ là có đủ cơm ăn, áo mặc, nhà ở, xe cộ, bệnh viện, trường học, sân vận động, nhà hát,... Ḥa b́nh trước hết và trên hết là một trạng thái tâm hồn an vui thanh thản với bản thân, từ ḥa và nhân ái với người khác cận kề xung quanh trong một môi trường xă hội đạo đức lành mạnh và thân mật tâm giao với Thượng Đế là Cha Nhân Từ vô cùng và thật sự của ḿnh. Do đó, NCSDCHB đích thực, trước khi có khả năng đưa hoà b́nh đến cho Dân tộc, phải là người ḥa b́nh thực sự từ trong tâm khảm sâu xa của ḿnh ; phải có một đời sống thiền định - cầu nguyện ổn định bền vững : mỗi ngày ít nhất phải có 30-60 phút dành cho việc tâm sự với Đấng Tạo Hóa, hồi tâm nhận định lại bản thân và sám hối. Không có việc tối thiểu nầy, dứt khoát không thể làm chiến sĩ ḥa b́nh được, mà chỉ là người ảo tưởng chỉ muốn dựa vào nỗ lực nhân bản để giải quyết vấn đề ḥa b́nh, thậm chí chỉ thích la lối, thóa mạ người khác và khi có điều kiện th́ đương nhiên thích đấm đá và dùng bạo lực để nói là xây dựng ḥa b́nh chứ thực ra là chỉ tạo nên lầm lạc, xáo trộn, bất ổn, bất công và chiến tranh mà thôi (kinh nghiệm vô cùng xót xa của cách thức dùng bạo lực chiến tranh để giải quyết vấn đề ḥa b́nh cho Việt Nam từ 76 năm qua hẵn đă quá đủ cho chúng ta rồi). Cần có một thứ tự ưu tiên về thời giờ và công việc hoà b́nh : Thượng Đế, Tha nhân và Bản thân. Đảo ngược lại chắc chắn sẽ chỉ dẫn đến ích kỷ, khủng hoảng và thất bại ngay không biện minh được.

Chính nhờ đời sống tâm nguyện và khiêm tốn mà NCSDCHB kiên vững trong mọi thử thách, biết vượt qua các trở ngại, phục hồi khi vấp sai lầm, không sợ hăi bất cứ đe dọa nào, kể cả các lầm lỗi của chính bản thân. NCSDCHB có đời sống tâm nguyện không sợ bị tra tấn, đánh đập, đói khát, tù đày, khủng bố, vu khống, mạ lỵ,... chỉ sợ một điều duy nhất là chính ḿnh làm điều sai trái. Nhưng tội lỗi cũng không đáng sợ, v́ đă có đời sống sám hối giúp phục hồi đời sống tâm giao thân mật với Thượng Đế và đồng loại rồi. Cuối cùng, NCSDCHB không c̣n bất cứ đối tượng nào để sợ.

Ai tự hào rằng ḿnh tự nỗ lực để tự giải quyết các vấn đề nầy, người đó đă thất bại ngay từ đầu. Cần khiêm tốn nhận ra giới hạn rất mong manh của bản thân để luôn coi ḿnh là hèn kém, phải có sự soi dẫn nâng đỡ của Thượng Đế và của tập thể cộng đồng. Càng khiêm tốn càng là chiến sĩ ḥa b́nh.

2- Sống công bằng, trong sạch và nhân từ : Một vấn đề nhạy cảm vào bậc nhất là các cộng sự viên cũng như quần chúng rất quan tâm đến tính công bằng ngay thẳng trong vật chất và các quyền lợi của người khác. Do đó, điều đầu tiên NCSDCHB cần lưu tâm là lo sao cho ḿnh được uy tín trong ngân khoản và tài sản chung. Cần hiểu cho thật đúng rằng : tài sản là của nhân loại, những ǵ ḿnh có trong tay là của muôn người được Tạo Hóa kư thác cho ḿnh quản lư và phân phối sao cho công minh, chứ không phải ḿnh được toàn quyền phung phá mặc sức. NCSDCHB phải luôn sống giản dị, tiết kiệm, gần gũi với Đồng bào nghèo, nếu không th́ chỉ là lợi dụng Đồng bào nghèo làm bàn đạp khi đấu tranh và sẽ t́m hưởng thụ ngay khi thành đạt. Khi có nhiệm vụ quản lư th́ hiểu rằng ḿnh chỉ là cái máng chuyển thông tài sản : máng th́ phải dốc để tài sản lưu thông nhanh. Lưu thông xong là máng phải khô không tồn đọng. Ngoài việc phải sống công bằng về của cải vật chất là điều dễ thấy, c̣n cần công bằng về các tài sản khác như danh dự, t́nh cảm, ngôn ngữ là giá trị c̣n quí giá hơn vật chất gấp ngàn lần. Công bằng trong mọi lănh vực chính là sống trong sạch ngay từ trong tâm ư : Chính ư, chính niệm, chính ngôn, chính hành. Công bằng là không gây ra bất công cho ai. Nhưng như vậy chưa đủ. Sống tốt với người xung quanh c̣n cần phải từ ḥa : nhân từ và khoan ḥa. Nếu phê phán cộng sản là gian ác mà chúng ta thiếu nhân từ th́ khi đă có quyền lực chúng ta cũng sẽ gian ác không kém. Nếu phê phán cộng sản là độc tài mà chúng ta thiếu khoan ḥa th́ khi nắm quyền chúng ta cũng sẽ độc tài như thế hoặc tệ hại hơn. Chỉ biết đ̣i công bằng mà thiếu nhân từ th́ chắc chắn sẽ tạo nên bất công khác và xă hội lại mất ổn định. Nhờ ḷng nhân ái như hoa trái mà công bằng trở thành công minh, tức công bằng trong sáng suốt. Cuộc sống an vui nhờ ḷng nhân từ, hơn là chỉ nhờ công minh.

3- Có nhận thức và thái độ chuẩn xác với chủ nghĩa và chế độ CSVN : Đây là vấn đề phức tạp và khó khăn nhất không chỉ đối với toàn Dân, những người Dân b́nh thường mà ngay cả giới trí thức, sĩ phu, chức sắc các Tôn giáo (TG) và đối với cả chính cấp lănh đạo cộng sản nữa.

® Chủ nghĩa và chế độ CSVN tốt hoặc xấu đến mức nào ? Phải có thái độ đúng đắn nào với chủ nghĩa và chế độ ấy ? Bao nhiêu năm, bao nhiêu người mơ hồ và ảo tưởng về vấn đề nầy, dẫn đến nhiều lựa chọn lầm lạc, tác hại không những cho bản thân mà c̣n cho cả Dân tộc đến những hơn 70 năm qua. Đây cũng chính là thảm họa của các TG tại VN. Lẽ ra các TG phải là đuốc soi đường cho toàn Dân lựa chọn, nhưng đáng tiếc là v́ nhiều lư do rất phức tạp, hầu hết các TG tại VN đă chưa làm được điều nầy, chẳng những khiến cho TG ḿnh bị phân hóa lắm khi rất trầm trọng, mà c̣n làm cho toàn Dân lầm lạc theo. Lẽ ra các TG phải thống nhất nhận thức và thái độ đối với chủ nghĩa và chế độ CSVN cách vững chắc và đầy đủ, rồi mới nghĩ đến việc phát triển. Thực tế, hầu hết các TG tại VN đều đă làm ngược lại, là đang khi chưa thể t́m ra con đường thống nhất nhận thức và thái độ đối với chủ nghĩa và chế độ CSVN, mà lại chỉ quá hăng say muốn phát triển. Kết quả là sự lựa chọn rất tùy tiện của từng nhà lănh đạo đơn lẻ đă làm cho việc thỏa hiệp với Cộng sản ngày càng trở nên phổ biến. Thay v́ cần làm ĐÚNG VIỆC, ai nấy đều chỉ thích làm ĐƯỢC VIỆC dù phải trả các giá quá đắt di lụy lâu dài và rất trầm trọng cho lịch sử muôn đời. Quá nhiều người, kể cả một số Chức sắc TG, sử dụng “bao thư”, “lót tay”, “bôi trơn” ; tham dự các buổi họp h́nh thức vô bổ hoặc tác hại, hiện diện các “meeting trọng thể”, phát biểu, làm văn,... ca tụng không biết ngượng... một cách quá tự nhiên, thông thạo, thành nếp coi như là đương nhiên phải thế, không thể khác !!! Sử dụng các từ “giải phóng, ngụy quân, ngụy quyền” một cách quen thuộc thiếu ư thức không c̣n sỉ diện ǵ nữa, dù “cha mẹ ḿnh, chú bác ḿnh, bạn hữu ḿnh,...” vốn là các Chiến sĩ anh dũng gian khổ trăm bề đă từng đổ xương máu bảo vệ ḿnh một thời b́nh yên để ăn học, tu luyện... trong mấy chục năm trời !!!

® Ngày nay, với những bằng chứng quá rơ về sự sai lầm của CSVN, không chỉ trong một số công việc, mà sai lầm tận trong bản chất học thuyếtphạm các tội ác đặc biệt nghiêm trọng cách có hệ thống và kéo dài gần cả thế kỷ, như Nghị quyết 1481 ngày 25-01-2006 của Nghị viện Hội đồng Châu Âu gồm 46 Nước vừa khẳng định, thế mà nhiều người vẫn được coi là “trí thức, sĩ phu” vẫn chưa dứt khoát được trong nhận thức là CSVN thực sự tốt hay xấu ? Một hệ thống bạo quyền như vậy mà tiếc thay một số người vẫn c̣n mơ hồ cho là cần thiết sao ? Thực ra nó đă quá hăi hùng cho toàn Dân VN rồi !!!

® NCSDCHB, dựa vào những kiến thức quân b́nh, xác thực, những thông tin rộng răi đa phương, nh́n thẳng vào thực tế Việt Nam hôm nay (2006), b́nh tĩnh t́m mọi phương cách ôn ḥa - văn minh, chỉ nguyên bằng lời nói và chữ viết (không la lối, thóa mạ, cường điệu, chửi rủa...), để quyết tâm nỗ lực chấm dứt CSVN, chuyển đổi Quê hương theo kinh nghiệm thành công của đại đa số các Nước văn minh toàn cầu, đặc biệt là các Nước Bắc Âu.

4- Có tâm hồn luôn hoà b́nh nhân từ : NCSDCHB không có hận thù với bất cứ ai. Kiên quyết lên án tội ác, độc đoán, nhưng luôn đầy cảm thông và trắc ẩn đối với Nhân viên của Bạo quyền. Với các Anh hùng Dân tộc chính danh, CNSHB luôn cảm phục. C̣n đối với các đối tượng khác, NCSDCHB nên luôn biết cảm thông. Chính tâm hồn ḥa b́nh làm tăng sức chiến đấu cho chúng ta, khiến chúng ta trở nên vô địch.

5- Biết sử dụng Internet : Mọi chế độ độc tài và nhất là CSVN dùng sự bưng bít, xuyên tạc, dối gạt thông tin và sự sợ hăi của toàn Dân, kể cả sự sợ hăi của chính chủ tịch đảng, chủ tịch “nước”, để kéo dài sự thống trị và nô dịch Dân. V́ vậy, Thông tin Ngôn Luận là vũ khí lợi hại nhất để giúp Dân thắng nỗi sợ hăi truyền kiếp và nhận thức đúng Sự Thật của Đất nước. Từ đó, Dân sẽ biết cách tập hợp thành sức mạnh để giải thể Chế độ CS. (T́m đọc “Làm sao để thắng sợ hăi” ngày 24-8-2005 của Lm Nguyễn Văn Lư).

            Bởi vậy, nhất là trong thời đại thông tin toàn cầu hiện nay, NCSDCHB phải thông thạo sử dụng Internet, phải coi Internet là vũ khí lợi hại nhất để thắng gian tà một cách hợp pháp mà Bạo quyền CS rất khó đối phó. Lư do là v́ CSVN dù biết Internet là tử huyệt của ḿnh, vẫn buộc ḷng phải giao lưu với Quốc tế và vẫn phải rêu rao với Quốc tế rằng VN là văn minh thông thoáng. NCSDCHB phải biết dựa vào điều 5,1 ; 5,2 & 19,2 của Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị của Liên Hiệp Quốc ; mục I, 2 chương II của Sách Trắng về Nhân quyền - Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam : “Chính phủ Việt Nam chủ trương khuyến khích và tạo mọi điều kiện để người Dân tiếp cận, khai thác và sử dụng rộng răi thông tin trên mạng Internet”  để tận dụng Internet. V́ tất cả mọi hạn chế về Internet, nếu có, đều trái với nguyên tắc nầy của Sách Trắng do Bộ Ngoại giao Nước CHXHCV công bố tại Hà Nội, ngày 18.8.2005 và Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị của Liên Hiệp Quốc được biểu quyết ngày 16.12.1966, Việt Nam xin tham gia ngày 24-9-1982 (Phụ lục 2).

6- Đi vào một kế hoạch thực tế do một tập thể nào đó chỉ đạo sát với t́nh h́nh Đất nước : Không mơ hồ, hoang tưởng, không cầu toàn, không sử dụng bạo lực trong ngôn từ cũng như trong hành động, không do dự chần chừ, không quá dè dặt đa nghi đâu cũng thấy “c̣ mồi”/ “chó săn” / “đấu tranh cuội” / “tay sai CS”. Mặc dù NCSDCHB chỉ liên kết với những ai biết dứt khoát với ông Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Cộng sản như một điều kiện duy nhất, không mơ hồ trong vấn đề rất cơ bản nầy, nhưng NCSDCHB phải mạnh dạn tin vào lương tri lành mạnh của người Dân b́nh thường đă biết thế nào là CS, luôn thao thức cho một tương lai của Đất nước sớm tươi sáng hơn ; biết tin tưởng vào một tập thể tương đối chưa lư tưởng, chỉ cần cùng một tâm ư và có một ban điều hành tạm biết làm việc ; có tinh thần đoàn kết, trung thực và kỷ luật. Dần dần tập thể ấy sẽ biết liên kết với các tập thể khác để trở thành các liên minh lớn mạnh hơn hầu từng bước giành lại 26 Nhân quyền cơ bản cho toàn Dân VN (Phụ lục 1).

7- Thái độ khi đối diện với Bạo quyền CSVN :

7.1- Công An / Cán bộ CS đến thăm tại nhà : Trong chế độ CS, khi Cán bộ / Công an của tà quyền / bạo quyền (từ đây xin gọi chung là CB, Dân quen gọi là Cá) đến thăm tại nhà, sự thường ai cũng lo sợ. NCSDCHB cần ứng xử thật chuẩn như sau :

® CB đến thăm tại nhà tức là mới đàn áp bước 1, là t́m cách tiếp cận chúng ta để chỉ thăm ḍ t́m phương án. Chưa có ǵ nghiêm trọng.

® Vừa cầu nguyện, vừa b́nh tĩnh, lịch sự trong tâm ư chủ động chinh phục CB, chiến thắng sự quấy rối tâm trí (mind harassment) của bộ máy công quyền chuyên đàn áp, khủng bố Dân rất điêu luyện.

® Chủ yếu lắng nghe, nói rất ít hoặc cố gắng yên lặng tối đa để xem thâm ư các CB muốn ǵ. Tuyệt đối tránh hấp tấp căi lại, nổi nóng sẽ sinh nhiều sơ hở. Thường CB không đủ lư do chính đáng trong lương tâm để đàn áp Dân, nên hay ṿng vo rất ḷng tḥng trước khi để lộ thâm ư là t́m cách để đàn áp chúng ta một vấn đề ǵ đó. Chúng ta hăy để yên cho CB chiếm đoạt thời giờ quư giá của chúng ta để CB tự cảm thấy đă mắc nợ chúng ta, đă gây ra “mind harassment” chúng ta cách phi pháp. Đó là nguyên cớ để lần sau chúng ta có lư do khước từ sự “mind harassment” cách bất công ấy.

® Hăy hết sức ôn tồn, nhỏ nhẹ để tránh trả lời các vấn đề xét thấy các CB không có quyền ḍ hỏi bằng cách “tỏ ra ngạc nhiên” không hiểu chuyện đó liên quan thế nào đến “an ninh cho Tổ quốc” ? / tảng lờ cho CB bị mất thêm thời gian t́m cách ṿng vo để nhập đề lại. Nếu cần trả lời, phải biết cách trả lời khôn ngoan sao cho kín đáo lạc đề chừng nào hay chừng đó để chứng tỏ ḿnh đă quá mơi mệt khi được “phúc” công bộc của chế độ hạ cố đến tệ xá kiểu phát xít trá h́nh nầy và chuyển được sự đă quá chán ngán của người Dân đối với chế độ vào tâm trí các CB nầy để họ phải lây nhiễm sự chán ngán ngay chính nầy.

® Tránh hết sức để khỏi nhận lănh ân huệ “chiếu cố giúp đỡ” của Tà quyền / Bạo quyền.

7.2- Bị CB gửi “Giấy Mời” đến cơ quan Bạo quyền : Bước đàn áp 2 : Có thể sẽ dẫn đến Lệnh Triệu tập. NCSDCHB nên đối phó & chủ động tấn công như sau :

® Phải đi Photo ngay Giấy mời nầy để làm bằng chứng đấu tranh. Khi đến cơ quan (CA, UBND phường / xă) nên “để quên” Giấy mời bản gốc ở nhà, hoặc đă có bản Photo lưu ở nhà rồi.

® V́ chúng ta cũng phải làm ăn sinh sống, nên nếu Giấy mời được gửi tới quá sát (chiều cùng ngày, hôm sau...), chúng ta không cần phải đi, v́ phải thu xếp công ăn việc làm, không sợ sệt vu vơ.  Mời tức chúng ta có quyền đi hoặc không.

® Khi đă đoán biết nội dung cuộc gặp, chúng ta có quyền không đi.  Trường hợp xét thấy đi chỉ thêm nguy hại, chúng ta không nên đi. Sau 3 lần không đi, có thể sẽ có Giấy Triệu tập v́ lư do “không chấp hành” Giấy mời.

® Đến cơ quan, NCSDCHB phải coi đây là cơ hội để chinh phục bạo quyền, không nôn nóng được về, không nôn nóng mong xong việc. CB c̣n nôn nóng hơn chúng ta & không hứng thú ǵ khi đàn áp chúng ta cả, chẳng qua cũng chỉ hèn hạ làm theo lệnh trên v́ miếng cơm manh áo thôi. Hăy cố gắng kiềm chế để chỉ nghe và hầu như không cần trả lời hoặc kẹt lắm th́ cũng chỉ rất ít trả lời & trả lời thật vắn. V́ chúng ta chỉ sử dụng vũ khí bất bạo động và quyền tự do thông tin ngôn luận thôi, nên chúng ta không vi phạm luật pháp công minh nào hết. Các Bộ luật, Pháp lệnh, Nghị định, Nghị quyết, Thông tư,... của một Bạo quyền mâu thuẫn với các Công ước Quốc tế đều không có giá trị, v́ chúng phải ở dưới các Công ước Quốc tế. Chúng thường cũng mâu thuẫn với Hiến pháp năm 1992 của chính Bạo quyền nầy nữa. Vậy chúng ta cứ b́nh tĩnh ngồi nhắm mắt cầu nguyện và lắng nghe xem CB ngụy biện thế nào, nói sơ hở ra sao. Nếu cần chúng ta tấn công nhẹ nhàng vào chỗ sơ hở đó. Hăy tận dụng tối đa nguyên tắc “vô chiêu thắng hữu chiêu”, “tịnh chế động”. Hăy hiên ngang, b́nh tĩnh, nhỏ nhẹ để dùng chính nghĩa của ḿnh mà chinh phục CB.

® Tuy là được mời, nhưng vẫn để bị “thẩm cung”, lấy bằng chứng để CB xử lư chúng ta & bạn hữu chúng ta. Do đó, cần khôn ngoan ứng xử để thoát khỏi các loại “bẫy cung” của tà quyền. Càng phải im lặng và rất ít nói. Hăy cho CB biết rằng : Nếu chúng ta đang sống trong một Nước văn minh th́ yêu cầu VN tuân thủ các Công ước Quốc tế. Nếu VN có pháp luật riêng mâu thuẫn với các Công ước ấy th́ Nhà cầm quyền VN là một Bạo quyền độc đoán. Đối với một Tà quyền độc tài, chúng ta vui ḷng chịu bất công, không đối thoại được, chỉ cần im lặng chịu bất công thôi. Không cần nói thêm ǵ nữa.

® Hăy từ chối viết “tường thuật”, kư các biên bản mà ḿnh biết sẽ ràng buộc về pháp lư về sau.

7.3- Bị “Triệu tập” : Bước đàn áp 3 : Đối với Bạo quyền, chúng ta bị “Triệu tập” tức là bị coi có “vấn đề” nghiêm trọng ǵ đó, cần điều tra, “giáo dục”,... Thái độ của chúng ta chỉ nên như khi bị “Giấy Mời” thôi, nhất là phải photo lưu Giấy Triệu tập ; mấy lần là mấy bản lưu.

® Bị triệu tập là đương nhiên phải bị “thẩm cung”. NCSDCHB lại càng cẩn trọng và biết sử dụng vũ khí vàng tuyệt vời là cầu nguyện trong im lặng, lănh đạm và có thể bị cho là “khinh mạn”, cho dầu NCSDCHB không bao giờ khinh miệt ai. Dù đối với đối phương, NCSDCHB chỉ thông cảm và dùng cầu nguyện, yên lặng làm vũ khí tự vệ và chiến thắng Bạo quyền.

® Dùng nguyên tắc của chính CSVN : “Dân được làm tất cả mọi việc Pháp luật không cấm, c̣n CB chỉ được phép làm những ǵ Pháp luật cho phép” để tự vệ & tố cáo lại các CB tác oai tác quái.

7.4- Bị cắt điện thư, điện thoại,... : Bước đàn áp 4 : Phải làm cho Bạo quyền biết biện pháp “phát xít” nầy vô ích trong thời đại thông tin bùng nổ nầy, v́ chúng ta có quá nhiều bạn hữu để tiếp ứng nhau rồi.

7.5- Bị khám người, pḥng, nhà và bị tịch thu, niêm phong đồ dùng : Bước đàn áp 5 :

® Phải đ̣i cho được lệnh chính thức bằng văn bản. Giữ lệnh đó và lưu để khiếu nại về sau.

® Khám người th́ chỉ có CB nữ mới được quyền khám NCSDCHB nữ.

® Khám nhà & khám pḥng th́ phía nạn nhân phải có đủ số nhân chứng ngang bằng với số CB cùng vào pḥng / nhà. Nếu CB đông, người nhà chứng nhân cũng phải đông, để một kèm một, không cho CB đánh cắp hoặc bỏ tài liệu xấu vào.

® Buộc CB viết biên bản đầy đủ, dù kéo dài bao lâu cũng phải làm.

®Tố cáo trước công luận quốc tế về các “thủ đoạn phát-xít” nầy.

7.6. Bị bắt, tạm giữ, tạm giam : Bước đàn áp 6 :

® Đây là dịp để NCSDCHB tỏ lộ sĩ khí, anh hùng. Cần b́nh tĩnh, thản nhiên. Coi chuyện nầy là b́nh thường, là những bước đường NCSDCHB đương nhiên phải trải qua. Không thách thức, la lối, mắng chửi hoặc sợ hăi. Các thái độ ấy chỉ gây hại. Không nôn nóng sớm được thả. Không tỏ ra chúng ta cần về (để làm việc). Không tỏ ra ước muốn điều ǵ tầm thường để khỏi bị Bạo quyền dùng điều ấy làm áp lực các vấn đề quan trọng khác. Thời gian nầy NCSDCHB bị gọi là “Bị can”.

® Nên ăn uống b́nh thường. Nếu cần tuyệt thực, phải tuyệt thực từ 30 ngày trở lên. Nên uống một ít nước lạnh mỗi khi thấy đói giữa các bữa cơm thông thường (# 9 h/15 h/21 h). Không tuyệt thực lắc nhắc # 3-7 ngày chỉ làm Bạo quyền nhàm lờn. Chỉ ngưng tuyệt thực khi đă đạt mục tiêu đấu tranh nào đó.

7.7. Bị đánh, tra tấn, nhục h́nh, mớm cung, ép cung : Bước đàn áp 7 : Bộ Luật Tố Tụng H́nh Sự năm 2003 của CSVN ngăn cấm tất cả các điều nầy. Nhưng nếu bị đánh & các màn khác th́ sao ? Cần can đảm thẳng thắn phản kháng, tự vệ. Và cho biết chúng ta sẽ tố cáo các điều nhơ nhớp nầy trước công luận quốc tế.

7.8. Bị nghe đọc cáo trạng : Bước đàn áp 8 : Từ đây NCSDCHB bị gọi là “bị cáo”. Bịt tai lại không nghe. Đừng bận tâm đến mức án độc đoán với các tội danh xảo trá chỉ có trong các chế độ “phát-xít” : tuyên truyền chống chế độ, chống đối chính sách, phá hoại đoàn kết, gây rối trật tự trị an, lợi dụng dân chủ, lợi dụng tôn giáo,... Hăy tự hào về giá NCSDCHB phải trả cho Tự do Dân chủ của Tổ quốc Dân tộc và tin cậy vào sự can thiệp của Quốc tế.

7.9. Bị đưa ra Ṭa án xử : Bước đàn áp 9 : Chỉ cần làm một việc duy nhất là im lặng trước ṭa án tṛ hề của Bạo quyền th́ danh dự của nền tư pháp xảo trá của độc đảng sẽ bị d́m xuống bùn nhơ. Trong nền tư pháp CSVN, đặc biệt với các vụ án chính trị, luật sư biện hộ trở nên như tṛ đùa hài hước. Nếu xử công khai, NCSDCHB phải biết tận dụng cơ hội rất thuận lợi này để biến phiên ṭa thành cuộc biểu t́nh với lời hô các khẩu hiệu cần thiết.

7.10. Bị đưa vào trại giam (trước đây gọi là trại cải tạo) : Bước đàn áp 10 : Từ đây NCSDCHB bị gọi là “bị án” / “phạm nhân”. Hiên ngang vui chịu cảnh tù đày và tự coi ḿnh là tù nhân lương tâm, không chấp nhận bị gọi là phạm nhân. Hiện nay cơm no, có rau, thức ăn gia đ́nh không tiếp tế được th́ anh em tù chia sớt cho nhau không đến nỗi bệnh tật. Đồ ấm gia đ́nh có thể lo được. Không cần mong đợi giảm án. Chắc chắn v́ NCSDCHB không chủ trương & không làm ǵ bạo động nên không thể bị án quá nặng.

7.11. Bị viết kiểm điểm, được giảm án, được thả : Bước đàn áp 11 : Hiện nay cứ 3 tháng NCSDCHB bị buộc viết 1 bản kiểm điểm thái độ cải tạo. Điều 2,3,4 về nội quy, đọc sách báo, lao động th́ rất dễ viết. Chỉ có điều 1 là rất khó viết : mục đích của tà quyền là bắt chúng ta nhận tội. Nếu không nhận th́ bị biệt giam, kiên giam tù túng, không cho gặp thân nhân, nhận thư / quà và không thể được thả sớm. Nếu nhận tội th́ trái lương tâm. Vậy tùy loại tội danh mà nên viết thế nào cho ổn thỏa lương tâm. Có những tội danh không thể nhận được, ví dụ “gián điệp”, “bạo loạn”,... Có những tội danh có thể khôn khéo viết theo kiểu chơi chữ : “V́ danh dự của Nhà Nước VN, tôi chấp nhận thi hành án”. Trước đây, hầu hết các Nhân viên Chế độ Sài G̣n đều viết : “Tôi an tâm cải tạo” (chỉ có ư nói tôi an tâm tu sửa bản thân, không trốn trại). Tốt nhất là hiên ngang ở cho hết án và trông đợi sự can thiệp của Quốc tế, tận dụng hết khả năng để chinh phục CB & trại viên khác.

7.12. Bị ràng buộc sau khi ra khỏi tù : Bước đàn áp 12 : Thường khi nhận Giấy Ra Trại không có ràng buộc ǵ, nhưng khi về tŕnh diện tại địa phương th́ rất dễ bị ràng buộc. Vậy, ngay từ đầu, khi về lại đia phương, NCSDCHB phải biết đề kháng không sợ hăi, không chịu sự ràng buộc phi lư. Và Bạo quyền phường, xă không thể đủ bản lănh để ràng buộc chúng ta, nên lờ đi để chúng ta yên. Ví dụ, quy định phải tŕnh diện hàng tháng, đi ra khỏi xă, phường phải xin phép,... Nếu chúng ta không chấp nhận, th́ Bạo quyền ấy cũng không áp đặt chúng ta được, đành chỉ biết xí xóa cho qua.

Mỗi lần NCSDCHB vào tù rồi lại ra th́ Bạo quyền yếu đi một bước, c̣n Cao trào Dân chủ Ḥa b́nh và bản thân NCSDCHB lại mạnh thêm hơn nhiều. Chúng ta lại tiếp tục chiến đấu.

Chúc quư bạn luôn an vui và chóng thành công trong Sự nghiệp đem Tự do Dân chủ đến cho Tổ quốc & Đồng bào thân yêu. Mến chào tất cả các CSDCHB của Việt Nam !  @

Tù nhân lương tâm Lm Tađêô Nguyễn Văn Lư - Huế, 30.4.2006 - Bổ sung 27.01.2007

Phụ Lục 1            26 Nhân quyền cơ bản

đă được Công pháp Quốc tế và Liên Hiệp Quốc thừa nhận

& buộc mọi Nước thành viên phải cam kết tôn trọng.

@   &  ?

26 mục tiêu cụ thể

mỗi Công dân có trách nhiệm phải đấu tranh

từng bước giành lại cho toàn Dân Việt Nam từ năm 2006 về sau.

O   G   O

I. Các Nhân quyền về thân thể :

1. Quyền sống (không bị thủ tiêu, tàn sát, khủng bố, đe dọa, quấy nhiễu v́ chính kiến, chủng tộc, tôn giáo, thành phần giai cấp).

2. Quyền không bị nô lệ hay nô dịch (v́ lư lịch, chủng tộc, tôn giáo, chính kiến).

3. Quyền không bị tra tấn hành hạ.

4. Quyền không bị giam giữ độc đoán (v́ các tội vu vơ chỉ có trong các chế độ độc tài : gây rối trật tự, phá hoại chính sách đoàn kết, lợi dụng tôn giáo, lợi dụng dân chủ, xúc phạm lănh tụ,...).

5. Quyền được xét xử công bằng (tư pháp phải độc lập với hành pháp, lập pháp, công an)

6. Quyền được Ṭa án bảo vệ (được bồi hoàn danh dự và thiệt hại).

7. Quyền được Luật pháp bảo vệ (không có loại tội tuyên truyền chống chế độ, chống đối chính sách).

8. Quyền được b́nh đẳng trước pháp luật.

II. Các Nhân quyền về an cư :

9. Quyền tự do cư trú và đi lại, xuất ngoại và hồi hương (không bị quản chế hành chánh).

10. Quyền có đời sống riêng (bản thân, gia đ́nh, nhà cửa, thư tín, điện thoại, điện thư).

11. Quyền kết hôn và lập gia đ́nh.

12. Quyền có quốc tịch.

13. Quyền tỵ nạn v́ lư do chính trị, tôn giáo, chủng tộc.

14. Quyền tư hữu về vật dụng cá nhân, gia đ́nh, tập thể và vốn kinh doanh.

III. Các Nhân quyền về lạc nghiệp :

15. Quyền có việc làm, lương tương xứng và được nghỉ ngơi - giải trí.

16. Quyền thành lập và tham gia Nghiệp đoàn độc lập và quyền đ́nh công.

17. Quyền có mức sống xứng hợp cho bản thân và gia đ́nh.

18. Quyền có an sinh xă hội và bảo hiểm xă hội khi thất nghiệp, già lăo.

19. Quyền bảo vệ gia đ́nh về hôn nhân, sản phụ, hài nhi, thiếu nhi.

20. Quyền được chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh miễn phí hoặc hợp lư, được bảo hiểm y tế.

21. Quyền được giáo dục miễn phí cấp tiểu học, rồi trung học ; học đại học đầy đủ thuận lợi.

22. Quyền về văn hóa (tự do hưởng thụ, sáng tác, được bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ).

IV. Các Nhân quyền về Tự do Dân chủ :

23. Tự do tín ngưỡng - tôn giáo cách b́nh thường phổ quát như tại đại đa số các Nước trên thế giới.

24. Tự do tư tưởng, phát biểu, quan điểm, tự do thông tin ngôn luận, tự do báo chí.

25. Tự do hội họp, lập hội, lập đảng, biểu t́nh; toàn Dân được trưng cầu ư kiến về quốc sự.

26. Quyền tham gia công quyền, tự do ứng cử - bầu cử ; Quyền tham gia xây dựng, bảo vệ và quản lư Tổ quốc. Tức là Quyền Dân Tộc Tự Quyết.

O   G   O

(Tham khảo Từ Hiến Chương 1977 cho Tiệp Khắc đến Tuyên Ngôn 2006 cho Việt Nam”

của Luật sư  Nguyễn Hữu Thống – 15.4.2006)

Phụ lục 2

I. Trích “Hiến pháp Nước CHXHCN VN”  năm 1992.

Điều 69 : Công dân có quyền Tự do Ngôn luận, Tự do Báo chí ; có quyền được thông tin ; có quyền

hội họp, lập hội, biểu t́nh theo quy định của pháp luật.

*** Hiến pháp vừa xác nhận 5 quyền xong, th́ cụm từ “theo quy định của pháp luật” phủ nhận lại 5 quyền đó ngay. Các NNCS Âu Á đều luôn luôn biết ngụy biện chơi chữ như vậy. Kết quả là suốt 60 năm qua VNCS không có một tờ báo độc lập hoặc tư nhân nào cả, 6 TG lớn ở VN không hề có một tờ báo nào của chính TG ḿnh, và nguyên việc photo và chuyền tay nhau đọc bản văn nầy đă có thể bị CA mời “làm việc”, bị buộc viết kiểm điểm, bị cắt điện thoại, bị đuổi khỏi trường học/sở làm, bị dọn vệ sinh ở phường/xă, bị không cho vay vốn “quỹ v́ người nghèo”, bị “giam” bằng tốt nghiệp đại học, bị quản chế, bị đưa vào trại tù đội lốt là trại “cơ sở giáo dục”, hoặc bao phiền lụy đau đớn khác… cũng chỉ v́ Quốc hội Độc đảng bù nh́n

mà ra.

Đây chính là quyền tự do dân chủ ưu việt định hướng XHCN của VN rất đẹp mặt giữa văn minh toàn cầu hiện nay đó !!! C̣n những ai cố t́nh dùng pháp luật độc đoán để ngăn cấm quyền Tự do Ngôn luận rất chính đáng của người Dân, th́ không c̣n ǵ để nói với họ nữa, người Dân chỉ c̣n biết cách tự nguyện đưa 2 tay vào c̣ng số 8 và hiên ngang tự hào ḿnh là một chiến sĩ ḥa b́nh đích thật của nền

Dân chủ Đa đảng Văn minh chân chính của VN mới.

II. Trích “Sách Trắng về Nhân quyền - Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam: Chính phủ Việt Nam chủ trương khuyến khích và tạo mọi điều kiện để người Dân tiếp cận, khai thác và sử dụng rộng răi thông tin trên mạng Internet(chương II, mục I.2). Tất cả mọi hạn chế về Internet, nếu có, đều trái với nguyên tắc nầy của Sách Trắng do Bộ Ngoại giao Nước CHXHCNV

công bố tại Hà Nội, ngày 18.8.2005.

III. Trích “Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị”, của LHQ 16.12.1966,

Việt Nam gia nhập 24.9.1982.

Đ́êu 5,1: Không được phép giải thích bất kỳ một quy định nào của Công ước nầy…nhằm hủy bỏ bất kỳ quyền và tự do nào được công nhận trong Công ước nhằm giới hạn những quyền và tự do đó quá

mức độ quy định trong Công ước nầy.

Điều 5,2: Không được phép hạn chế hoặc hủy bỏ bất kỳ quyền cơ bản nào của con người đă được công nhận hoặc hiện tồn tại ở một quốc gia thành viên của Công ước nầy trên cơ sở luật điều ước, các quy định pháp luật, hoặc tập quán với cớ là Công ước nầy không công nhận những quyền ấy hoặc công nhận ở một

mức độ thấp hơn.

Điều 19,2: Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền nầy bao gồm cả quyền tự do t́m kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ư kiến, không phân biệt ranh giới, h́nh thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng h́nh thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác

tuỳ theo sự lựa chọn của họ.

(Các Văn kiện Quốc tế về Quyền Con người, NXB Tp HCM, 1997 trang 109,110,117).

*** Các Nhà nước độc tài thường lạm dụng điều 19,3,b : đại ư : quyền ở khoản 2 điều 19 trên đây có thể bị hạn chế phần nào “để bảo vệ an ninh quốc gia, hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của

công chúng(nguyên văn). Nhưng vấn đề then chốt là:

1/- Ai ai có lương tri đều hiểu An ninh Quốc gia được gia tăng chỉ khi toàn Dân được thông tin thông thoáng, tiếp cận t́nh h́nh thế giới, mở rộng tầm nh́n, nhận thức đầy đủ lành mạnh đúng đắn. Trái lại chính việc Nhà cầm quyền độc quyền bưng bít hoặc bịa chuyện để lừa gạt Dân như Phát-xít (như bịa chuyện “Lê Văn Tám (có đường, trường học, công viên… mang tên) và mạo danh UNESCO tôn vinh HCM là “nhà Văn hóa nổi bật của thế giới”(?!)) mới là một trong các nguyên nhân tất yếu làm Tổ quốc suy tàn bi thảm, Dân t́nh tang thương biến loạn.

2/- “An ninh quốc gia”, “đoàn kết dân tộc” hay an toàn cho thế lực độc tôn cai trị và độc quyền làm

 giàu luôn được tự đồng hóa với Dân tộc, Quốc gia một cách rất ngụy biện xảo trá ?

3/- Dùng đến phương tiện nào th́ mới gây hại cho “Quốc gia”: đao kiếm, súng đạn, quân đội, khủng bố hay chỉ là 1 Email, 1 văn bản từ Internet ? Phải có tiêu chí rơ ràng được LHQ công nhận như điều 19,2 trên đây, nếu VN không muốn  không giống ai giữa nhân loại văn minh hôm nay, làm ǵ có chuyện “đi trước đón đầu”, dân chủ ưu việt hơn bất cứ h́nh thức dân chủ nào trên thế giới”  như Nhà cầm quyền CSVN hằng rêu rao ??? v