
Trại Lực lượng
Đặc biệt A Shau: Nơi chào đời của thuyết
điểm nóng dioxin
(Ảnh: Larry Wagoner - 1969)
“ĐIỂM
NÓNG” DIOXIN Ở VIỆT
TỪ
LƯ THUYẾT ĐẾN THỰC TẾ
Nguyễn Minh Quang, P.E.
Tháng 1 năm 2007
PHẦN MỞ ĐẦU
Tiếp theo sau Hội nghị
Khoa học Hỗn hợp Việt-Mỹ về Ảnh hưởng
của Chất da cam/dioxin lên Sức khỏe và Môi trường,
được tổ chức tại Hà Nội, Việt Nam
từ ngày 3 đến 6 tháng 3 năm 2002, đại diện
của hai chánh phủ đă đạt đến thỏa thuận
về những công tác nghiên cứu trong tương lai, được
ghi trong biên bản ghi nhớ (memorandum
of understanding (MOU)) kư kết ngày 10 tháng 3 năm 2002. Những công tác nầy bao gồm
việc nghiên cứu trực tiếp ảnh hưởng của
việc tiếp xúc với dioxin đối với sức
khỏe con người và ảnh hưởng của chất
da cam/dioxin đối với môi trường và hệ sinh
thái. Việc nghiên cứu sẽ
ưu tiên nhắm vào dân số đang tiếp xúc nhiều với
dioxin, chẳng hạn như sinh sống gần các “điểm
nóng,” và nhắm vào việc xác định, định tính
(characterization), và điều trị (remediation) các “điểm
nóng.”
Theo biên bản ghi nhớ, “điểm
nóng” là những nơi có mức độ dioxin ở trong đất
cao. Một vài nơi đă được
xác định, c̣n những nơi khác được xem như
là hiện hữu, nhưng vị trí của chúng chưa được
xác định. Hai nghiên cứu
được thỏa thuận để tiến hành bao gồm
việc nghiên cứu hệ sinh thái và phục hồi rừng
suy thoái, chẳng hạn như rừng Mă Đà, và việc nghiên
cứu để xác định, định tính, và điều
trị những điểm nóng, chẳng hạn như phi
trường Đà Nẳng (1). Hai
địa điểm nầy do các khoa học gia Việt
|
Đại diện hai chánh phủ
tại Hội nghị ở Hà Nội năm 2002 |

Đây không phải là lần đầu
tiên những “điểm nóng” dioxin ở Việt
Những “điểm nóng” dioxin
có thật sự hiện hữu ở Việt
THUYẾT
ĐIỂM NÓNG
HATFIELD
Theo HCL, tất cả các căn
cứ quân sự của Hoa Kỳ được xem như
là (theorized) những điểm nóng dioxin ở Việt
Tổng TEQs được dùng
để đánh giá nguy cơ của việc tiếp xúc với
một hỗn hợp (combination) bao gồm các hợp chất
họ dioxin (dioxin-like compounds).
Nó là tích số của nồng độ của từng
hợp chất họ dioxin, Ci, với hệ số
độc tố tương đương với dioxin, TEFi
(TCDD toxicity equivalency factor), cho hợp chất đó. Tổng
TEQs là tổng số của mỗi TEQs của từng hợp
chất:
Tổng
![]()
|
Hatfield
Consultants Ltd. cho rằng h́nh thức ô nhiễm TCDD quan sát trong
thung lũng A Lưới [nồng độ trong đất
vượt quá tiêu chuẩn 350 ppt TEQs
của ô
nhiễm ở khắp miền Nam Việt Nam, nơi có vô
số bồn chứa TCDD hiện
hữu trong đất ở các căn cứ quân sự cũ
của Mỹ. “Trong nghiên cứu của chúng
tôi, các căn cứ quân sự được xem là các điểm nóng dioxin dựa
trên mức độ dioxin của mẩu đất lấy
từ các địa điểm ở
gần mỗi căn cứ.
Như đă tŕnh bày, các điểm ô nhiễm ‘chính’ th́ chưa được
xác định/phân tích; do đó, dù một căn cứ được xem như không
ô nhiễm nghiêm trọng, căn cứ đó vẫn có thể
‘nóng’ nếu vị trí chính xác của
khu vực Ranch Hand được xác định và phân tích. Một căn cứ quân sự
cũ của Mỹ ở Việt không có nghĩa là nó không bị
ô nhiễm; nó chỉ có nghĩa là ô nhiễm nghiêm trọng chưa
được xác định v́ thiếu dữ kiện
(trong nghiên cứu nầy, nghiêm trọng
được định nghĩa là ≥ 190 pg/g [ppt]
TCDD).” |
“Thuyết điểm nóng Hatfield”
được tŕnh bày khá chi tiết trong nhiều bài viết
chuyên môn của HCL. “Những địa điểm
có mức độ dioxin trong đất cao có thể gọi
là ‘điểm nóng’ chất da cam/dioxin. Chúng tôi chọn đất, một
bộ phận của môi trường ở thung lũng A Lưới,
như là một yếu tố để xác định các điểm
nóng. Nếu ô nhiễm đất
ở thung lũng là tiền đề của ô nhiễm thực
phẩm và con người hiện nay, th́ đất phải
được dùng như là yếu tố chính yếu trong
việc xác định một điểm nóng.” (4)
“Các
điểm nóng xác định bởi Hatfield đang hiện
diện, đó là đất có mức độ TCDD rất
cao v́ tiếp nhận nhiều TCDD hơn trong thời gian chiến
tranh. Điều quan trọng là những
điểm nóng Hatfield không phải là vùng rừng rậm bạt
ngàn, mục tiêu của các phi vụ thường xuyên của
Chiến dịch Ranch Hand, ám số của chương tŕnh
phun thuốc khai quang của Quân đội Mỹ... Những điểm nóng hiện nay
là đất nơi chất da cam bị ṛ rỉ, được
xịt từ bồn chứa gắn trên xe, kể cả việc
phun thuốc chung quanh các căn cứ, v.v., cho nên đất
ở đây có mức tiếp nhận dioxin nhiều hơn
so với đất ở vùng bị phun thuốc từ trên
không. Nồng độ TCDD cao
nhất được t́m thấy trong các mẩu đất
lấy ở trại gia binh bên trong một căn cứ cũ
của lực lượng đặc biệt Mỹ ở
thung lũng A Lưới (Dwernychuk et al., 2002). Hai căn cứ khác trong thung lũng,
được sử dụng trong một thời gian ngắn
hơn, cũng có mức độ TCDD trong đất cao hơn
những vùng bị phun thuốc từ trên không... Các căn cứ Ranch Hand ở Biên
Ḥa và Đà Nẳng là những điểm nóng quan trọng điển
h́nh. Nồng độ TCDD
trong đất ở Biên Ḥa được ghi nhận lên đến
1,2 triệu phần ức (ppt) (Schecter et al., 2001). Tài liệu mật [anecdotal] từ
các khoa học gia Việt
“Các
căn cứ không quân cũ của Mỹ ở Đà Nẳng,
Phù Cát, và Biên Ḥa có thể được xem như là những
‘điểm nóng’ quan trọng v́ nồng độ TCDD quan sát
được ở ‘hạ lưu” của các địa điểm
t́nh nghi là khu vực Ranch Hand.
Trong nghiên cứu nầy, các ‘địa điểm t́nh
nghi chính yếu’ chưa được trực tiếp phân
tích v́ chánh quyền Việt
TAI
NẠN THUỐC KHAI QUANG
TRONG
THỜI CHIẾN
Những tai nạn liên quan đến
việc sử dụng thuốc khai quang trong cuộc chiến
Việt Nam; chẳng hạn như ṛ rỉ từ bồn chứa,
xả khẩn cấp hoặc ṛ rỉ từ máy bay Ranch
Hand, và thiệt hại về cây ăn trái và hoa màu; được
báo cáo trong nhiều tài liệu mật. Những tài liệu nầy; gồm
có biên bản ghi nhớ, ghi chú, và phúc tŕnh để báo cáo kết
quả điều tra tai nạn; vừa được giải
mật và công bố qua Trung tâm Sưu tầm Tài liệu của
Quân vụ Hoa Kỳ (Center for Unit Records Research of the US Armed
Services (USAS/CURR)) ở Springfield, Virginia. Một số tai nạn liên quan đến
thuốc khai quang đáng chú ư được mô tả tóm tắt
dưới đây.
Ṛ
rỉ thuốc khai quang ở
Căn
cứ Không quân Biên Ḥa
Căn cứ Không quân Biên Ḥa là
căn cứ lớn nhất trong số 5 căn cứ vận
hành của Chiến dịch Ranch Hand bao gồm Căn cứ
Không quân Tân Sơn Nhứt (Sài G̣n), Đà Nẳng, Nha Trang, và Phù
Cát (Qui Nhơn). Hầu hết
các phi vụ khai quang Ranch Hand thực hiện từ tháng
12/1966 đến tháng 07/1970 đều xuất phát từ căn
cứ nầy (9).
|
Vị trí của khu vực
Ranch Hand ở Căn cứ Không quân Biên Ḥa |
Theo biên bản ghi nhớ của
Trung tá Keith W. West, Tư lệnh Phi đoàn Đặc nhiệm
(SOS) 12th của Chiến dịch Ranch Hand ở Căn
cứ Không quân Biên Ḥa, các vụ ṛ rỉ thuốc khai quang xảy
ra từ đường ống ngầm của hệ thống
tồn trữ và phân phối mới vừa hoàn tất vào
ngày 14 tháng 1 năm 1970. Hệ
thống được xây dựng để có thể bơm
3 loại thuốc khai quang (trắng, xanh, và da cam) từ các
bồn chứa vào các máy bay Ranch Hand đậu ở khu vực
tiếp liệu và bảo tŕ. “Đường ống ngầm bằng
plastic có thể chịu một áp suất lên đến 300
PSI [pounds per square inch]. Áp suất
tối đa dùng bơm thuốc khai quang lên máy bay vào khoảng
45 đến 65 PSI. V́ tất cả
đường ống đều nằm dưới mặt
đất, ṛ rỉ chỉ được phát hiện khi áp
suất trong đường ống bị giảm bất thường. Số lượng của mỗi
bồn chứa được theo dơi hàng ngày bằng số
lượng c̣n trong bồn trừ số lượng bơm
lên máy bay. Dường như đây
là phương pháp duy nhất để xác định xem có
ṛ rỉ hay không [?].” (10)
Ngày 15 tháng 1 năm 1970, gần 500
gallons chất màu trắng ṛ rỉ từ mối nối chữ
T của đường ống ngầm. “Không
có thuốc khai quang chảy tràn trên mặt đất; tất
cả số lượng ṛ rỉ thấm vào đất ở
chung quanh chỗ bị bể.” (10) Ngày 5 tháng 2 năm 1970, một mối
nối chữ L của đường ống ngầm bị
sút khiến khoảng 1.000 gallons chất da cam bị ṛ rỉ,
nhưng chi tiết không được báo cáo. Trong tuần lễ đầu tiên
của tháng 2 năm 1970, một mối nối khác của đường
ống ngầm lại bị sút.
Gần 500 gallons chất da cam bị thất thoát, nhưng
chi tiết không được báo cáo.
Tai nạn nghiêm trọng nhất
có lẽ xảy ra ngày 28 tháng 2 năm 1970 với khoảng 7.500
gallons chất da cam ṛ rỉ từ một lỗ thủng có
đường kính ½ inch trên đường ống ngầm. “Vào
khoảng 7:30 sáng ngày 1 tháng 3 năm 1970, Thiếu tá Iorcross,
12SOS được Trung sĩ Webb của Ban Thuốc khai
quang thông báo việc ṛ rỉ trong hệ thống bơm thuốc
khai quang. Công binh được
thông báo để đào đường ống sau khi đă
đóng tất cả các khóa (valves) của hệ thống. Một lỗ thủng có đường
kính ½ inch được t́m thấy trên một đoạn ống
thẳng giữa khu S-13 và S-12 (tham khảo sơ đồ
tổng thể của BHAB, RVN [Căn cứ Không quân Biên Ḥa,
Việt

Một bồn chứa thuốc
khai quang
ở Căn cứ Không quân Biên
Ḥa (9)
Việc
ṛ rỉ được sửa chữa bằng cách gắn
mối nối Dresser chung quanh nơi đường ống
bị hư hại. Một bờ
đất được đấp ngay lập tức để
chận nước chảy tràn trên mặt đất (ước
lượng khoảng 100 gallons).
Sau
đó một đập làm bằng đất lấy tại
chỗ được xây ngay phía dưới đường
ống ngầm để chận nước chảy tràn nếu
đường ống bị bể trong tương
lai. Ngày 7 tháng 3, Bác sĩ của
Phi đoàn được liên lạc để xác định
phương pháp lấy mẩu nước và đất ở
nơi bị ô nhiễm thuốc khai quang. Những biện pháp kiểm soát tại
chỗ đă được thay đổi để đóng
tất cả các khóa của hệ thống vào ban đêm,
ngoại trừ trường hợp phải bơm thuốc
lên máy bay. V́ tất cả những
tín hiệu của hệ thống (áp suất của bơm
và lưu lượng của thuốc khai quang ở ṿi) vẫn
b́nh thường, biện pháp nầy được xem là cần
thiết để tránh những tai nạn tương tự
trong tương lai.
Khoảng
2 tuần sau, Đại úy Altum, MACV J3-09, được báo cáo trong
một chuyến thăm viếng của Ông. Tai nạn ṛ rỉ, những biện
pháp khắc phục, và nhu cầu lấy mẩu để
xác định ảnh hưởng của đường ống
bể được thảo luận. Bác sĩ của Phi đoàn đề
nghị Quân Y Biên Ḥa phụ trách vấn đề lấy mẩu. Họ cho biết, căn cứ không
quân gần nhất có khả năng thử nghiệm 2-4D và
2-4-5T là Căn cứ Không quân McCellan. Trung sĩ Larson bên Quân Y đă liên
lạc với Phi đoàn Đặc nhiệm 12th vào ngày
22 tháng 3 năm 1970 để thảo luận phương
pháp lấy mẩu nước.
Đập
đất đă ngăn chận được tất cả
nước và thuốc khai quang c̣n sót lại. Chất lỏng không c̣n chảy vào
hệ thống thoát nước nữa. Tuy nhiên, nơi xảy ra tai nạn
hiện đang ngập đầy nước nên đập
đất sẽ không c̣n hiệu quả trong mùa mưa. Một số lượng nước
đă được xả qua đập và để cho
thấm vào đất cát trong mương thoát nước.
Tai
nạn được báo cáo lên Đại tá Whiteside, MACV J3-09, ngày
21 tháng 3 năm 1970. Theo đề
nghị của Ông, Công binh sẽ thay thế tất cả ống
plastic bằng ống sắt và be bờ chung quanh các bồn
chứa để ngăn chận tất cả thuốc
khai quang trong trường hợp các bồn chứa bị
bể.” (10)
|
Những nơi bị thiệt
hại v́ thuốc khai quang trong vùng phụ cận Căn
cứ Không quân Đà Nẳng (12) |
Ảnh hưởng đối
với môi trường của các vụ ṛ rỉ nầy đă
được điều tra và mô tả trong một biên bản
ghi nhớ do Pacific Technical Analysts – Subsidiary soạn ngày 29 tháng
4 năm 1970. “Các vụ ṛ rỉ đă làm một vài nơi của nền
đất đấp (artificial fill) và đất cát lắng
ở mương thoát nước bị băo ḥa. Vụ ṛ rỉ từ đường
ống bể ngày 1 tháng 3 năm 1970 làm băo ḥa một phần
của nền đất đấp, và một phần giữa
nền đất đất đấp và lớp đất
cát pha sét ở bên dưới.
Các mẩu đất lấy ở vách mương khảo
sát (exploration trench), được đào giữa nơi ṛ
rỉ và đường thoát nước, bị ô nhiễm
thuốc khai quang da cam với nồng độ thay đổi
từ 0,2 cho đến 106,1 phần triệu (parts per million
(ppm)). Sự phân phối các mẩu
nầy cho thấy thuốc khai quang bị giới hạn
trong nền đất đấp và khoảng 1 đến
2 inches phần trên cùng của lớp đất cát pha sét. Nồng độ trong đất
lên đến 10 phần triệu, được t́m thấy
trong các mẩu lấy từ lớp đất cát pha sét hoặc
lớp đất sét có nhiều màu (mottled clay) nằm bên dưới
nền đất đấp từ 1 đến 3 feet, có lẽ
do sự lan truyền cơ học (mechanical spreading) trong khi
đào mương khảo sát.
Thuốc khai quang khó có thể lan xa hơn một vài
inches trong lớp đất cát pha sét nằm bên dưới
nền đất đấp trong suốt thời gian kể
từ khi xảy ra vụ ṛ rỉ.” (11)
Thiệt
hại cây ăn trái và hoa màu trong vùng phụ cận Căn cứ
Không quân Đà Nẳng
Những thiệt hại do thuốc
khai quang gây ra cho cây ăn trái và hoa màu trong vùng phụ cận
Căn cứ Không quân Đà Nẳng xảy ra trong tháng 9 và 10 năm
1968. Kết quả nhiều cuộc điều tra, được
thực hiện để xác định nguyên nhân gây ra thiệt
hại, cho thấy cây ăn trái và hoa màu trong vùng phụ cận
Căn cứ Không quân Đà Nẳng bị thiệt hại v́ số
thuốc khai quang c̣n sót lại trong các thùng 55-gallon đựng
thuốc khai quang (12-15).
“Việc
phân phối rộng răi các thùng không từng chứa thuốc
khai quang, với khoảng từ 2 đến 3 gallons thuốc
c̣n sót lại, rất phổ biến ở hai căn cứ
Ranch Hand chánh yếu ở Biên Ḥa và Đà Nẳng. Việc vận
chuyển các thùng không nầy trong khắp thành phố và vùng
phụ cận, cộng với việc ṛ rỉ và bay hơi
(volatilization) không thể tránh khỏi của thuốc khai
quang c̣n sót lại trong thùng, chắc chắn, đă gây thiệt
hại đáng kể cho cây che mát (shade trees), cây ăn trái, và
hoa màu trong vùng mà các thùng không nầy được phế
thải. Vấn đề được
ghi nhận trong phúc tŕnh “Thiệt hại do thuốc khai
quang ở Đà Nẳng” ngày 25 tháng 3 năm 1969 của Trung tá Jim
Corey, Chỉ huy phó CORDS/NLD/I CTZ, gởi cho R.M. Urguhart, Chỉ
huy trưởng CORDS/NLD/I CTZ, được lưu trữ trong
hồ sơ của Ban Hành quân Hóa học (Chemical Operations
Division), MACV J3-09. Như được
tŕnh bày trong phúc tŕnh và được các thành viên của đoàn
quan sát trong vùng Đà Nẳng, rất nhiều thùng không từng
đựng thuốc khai quang được t́m thấy khắp
nơi trong thành phố và vùng phụ cận. Các thùng nầy được dùng
để đựng xăng, dầu cặn (diesel fuel) và nước
dù có một số ít thuốc khai quang vẫn c̣n sót lại
trong thùng. Việc dùng xăng bị
ô nhiễm thuốc khai quang để chạy xe gắn máy
và các loại xe khác chắc chắn là nguyên nhân chánh yếu
của các thiệt hại do hiện tượng bay hơi
của nhiều chất khác nhau được chứa
trong các thùng không.
Mức
thiệt hại trong thành phố Đà Nẳng đă đưa
đến những biện pháp giới hạn việc phân
phối các thùng thuốc khai quang.
Một trong các biện pháp cần thiết để
ngăn chận sự thiệt hại là chôn hoặc phế
thải một cách an toàn (safe disposal) các thùng không bị ô
nhiễm thuốc khai quang.”
(15)
Thiệt hại do số thuốc
khai quang c̣n sót lại trong thùng từng đựng thuốc
khai quang không chỉ giới hạn trong vùng phụ cận
Căn cứ Không quân Đà Nẳng.
Một cuộc điều tra trong tháng 9 năm 1969 cũng
cho thấy những thiệt hại tương tự ở
bên trong Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng
Ḥa ở Đà Nẳng. “Có tất
cả tám thùng thuốc khai quang DA CAM được t́m thấy
bên trong Bộ Tư lệnh. Hai
trong bốn thùng ở Băi xăng dầu c̣n nồng nặc
mùi thuốc khai quang. Bốn thùng
c̣n lại ở gần xe báo hiệu th́ chứa đầy
xăng. Xăng trong các thùng nầy
dùng để chạy máy phát điện. Phó tư lệnh James và Ông Xuân được
thông báo là xăng trong các thùng có thể chứa một ít thuốc
khai quang, do đó, khói do máy phát điện phun ra sẽ chứa
hơi thuốc khai quang có thể ảnh hưởng đến
hoa màu ở chung quanh. Họ cũng
được lưu ư rằng hơi bốc ra từ số
thuốc khai quang c̣n sót lại trong các thùng không cũng có thể
là nguyên nhân gây thiệt hại cho hoa màu ở gần đó.”
(16)
Xả
khẩn cấp và ṛ rỉ từ
máy
bay Ranch Hand
Trong trường hợp khẩn
cấp như động cơ bị hư v́ trúng hỏa
lực của địch hay v́ lư do kỹ thuật, toàn bộ
1.000 gallons thuốc khai quang trong bồn chứa trên máy bay
UC-123 phải được xả khẩn cấp (emergency
dumping) để bảo đảm an toàn cho máy bay và phi hành
đoàn. Máy bay UC-123 là loại
máy bay dùng trong Chiến dịch Ranch Hand. Theo tài liệu thống kê của
Quân đội Hoa Kỳ, có 37 vụ xả khẩn cấp với
tổng cộng 11.800 gallons thuốc khai quang đă xảy ra
từ năm 1965 đến 1970; gồm có 11 vụ với
4.200 gallons chất da cam, 8 vụ với 2.100 gallons chất
màu xanh, 6 vụ với 3.900 gallons chất màu trắng, và 12
vụ với 1.600 gallons thuốc khai quang không rơ loại (17).
“Hồ
sơ lưu trữ của Ban Hành quân Hóa học ở MACV cho
thấy năm vụ xả khẩn cấp từ máy bay RANCH
HAND xảy ra trong khoảng từ ngày 1 tháng 12 năm
1968. Một vụ xảy ra ở
ngoài biển Đông, cách bờ khoảng 10 km về phía nam tỉnh
Bạc Liêu. Bốn vụ c̣n lại
xảy ra trong phạm vi có bán kính từ 20 đến 25 km
chung quanh Biên Ḥa ở cao độ từ 2.000 đến
3.500 feet. Kết quả khảo
sát một vị trí cách Biên Ḥa 20 km về phía thượng
nguồn sông Guai [?] của Marvin Davis bên USAID cho thấy thiệt
hại về cây ăn trái, dừa, cây kiểng, và hoa màu có
giá trị cao trong một vùng rộng khoảng 1 km và dài khoảng
2 km. Ở một vị trí khác
gần làng Mỹ Quới, tỉnh Biên Ḥa nơi chất DA
CAM được xả từ cao độ 2.500 feet, vùng
thiệt hại rộng khoảng 1 km và dài khoảng 2-3 km,
cũng theo phúc tŕnh của Marvin Davis bên USAID. Cam quít, xoài, chuối, dừa, cau bị
thiệt hại nặng nhất.
Tuy nhiên, hoa màu ngắn ngày được trồng 6 tuần
sau vụ xả khẩn cấp th́ không bị ảnh hưởng. Thiệt hại của các vụ
xả khẩn cấp có thể rất nặng trong vùng ảnh
hưởng của chúng, nhưng nếu gặp điều
kiện thời tiết thuận lợi, những vùng chung
quanh cũng có thể bị thiệt hại, nhưng nhẹ
hơn, v́ thuốc bị thổi tạt đi xa hơn khi được
phun ở cao độ khá cao.
Một phần thiệt hại của cây che mát ở
phía đông thành phố Biên Ḥa có thể do những vụ xả
khẩn cấp ở vùng phụ cận gây ra.” (16)
Ṛ rỉ có thể xảy ra từ
máy bay UC-123 hoặc trực thăng nếu ṿi của hệ
thống phun trên máy bay bị ṛ rỉ. “Ṿi thường
bị ṛ rỉ trên đường bay trở về căn
cứ sau khi hoàn tất phi vụ. V́ màn bơm bị kẹt
nên một số lượng nhỏ thuốc khai quang c̣n sót
lại trong ống phun có thể rơi xuống sau khi tắt
máy bơm thuốc. Mức thiệt
hại do thuốc khai quang ṛ rỉ từ hệ thống bơm
trên máy bay UC-123 gây ra cho hoa màu và các loại thực vật
khác th́ không được biết, nhưng chắc là rất
thấp v́ chỉ liên quan đến một số lượng
nhỏ thuốc khai quang và bị khuếch tán khi ṛ rỉ từ
cao độ khá cao.” (16) Lúc
ban đầu, ṛ rỉ từ máy bay Ranch Hand bị nghi ngờ
là nguyên nhân của những thiệt hại nặng nề ở
vườn rau kiểu mẫu ở Quận Ḥa Vang trong tháng
9 năm 1968. Vườn rau kiểu
mẫu nầy nằm ở phía nam của Căn cứ Không
quân Đà Nẳng, trên đường cất cánh thông thường
của máy bay Ranch Hand. Nhưng
“Việc ṛ rỉ khó có thể
xảy ra khi máy bay cất cánh hay trước khi thuốc
khai quang trên máy bay được phun. Ṛ rỉ chỉ xảy ra khi khóa bị
hư sau khi phun thuốc... Cũng
cần nói thêm là những vùng thiệt hại khác th́ nằm
ngoài đường bay của máy bay phun thuốc khai
quang. Hơn nữa, hoa màu đang
trồng bên phía đông Đà Nẳng (vùng tô màu nâu trên bản đồ)
th́ không bị thiệt hại mặc dù máy bay Ranch Hand vẫn
thường bay qua vùng nầy.” (12)
Tai
nạn không hề biết
ở
Tân cảng Sài G̣n
Tai nạn đổ
tháo thuốc khai quang ở Tân cảng Sài G̣n th́ không hề được
biết đến như các tai nạn khác, nhưng được
ghi nhận một cách t́nh cờ qua các h́nh ảnh cá nhân do thành
viên của Tiểu đoàn Vận tải 71st chụp
và đăng tải trên một trang web của Allan Furtado (một
trung sĩ của Đại đội 154th) có địa
chỉ là http://www.allanfurtado.com.

Tân cảng Sài G̣n năm 1968 (19)

Những thùng thuốc khai quang
vận chuyển qua Tân cảng
Sài G̣n (20)
Tân cảng Sài G̣n nằm
trên sông Sài G̣n, cách Cảng Sài G̣n khoảng 3 dặm về hướng
bắc, ngay phía dưới cầu Sài G̣n trên Xa lộ Sài G̣n
– Biên Ḥa. Cảng do công ty Raymond
International, Morrison-Knudson International, Brown & Root and J. A. Jones
(RMK-BRJ) xây cất trên một khu đất rộng khoảng
100 acres, một phần là ruộng lúa và một phần là đầm
lầy ngập nước khi thủy triều lên. Sau khi hoàn tất vào cuối năm
1966, Tân cảng Sài G̣n được điều hành bởi
Tiểu đoàn Vận tải 71st có căn cứ ở

Những thùng thuốc khai quang ở
Tân cảng Sài G̣n (21)

Những thùng thuốc khai quang ở
Tân cảng Sài G̣n (21)

|
Những thùng thuốc
khai quang ở Tân cảng Sài G̣n bị hư hại vào tháng 5 năm 1968 (22) |
Những thùng chất da cam ở
Tân cảng Sài G̣n (21)
Trong đợt Tổng
công kích Tết Mậu Thân giai đoạn 2, Tân cảng Sài G̣n
bị pháo kích bằng hỏa tiển 122 mm và súng cối vào
ngày 12 tháng 5 năm 1968. Vụ
tấn công nầy đă gây thiệt hại quan trọng cho
cơ sở và khí cụ ở Tân cảng Sài G̣n. Cầu Sài G̣n cũng bị hư
hại.

Văn pḥng điều
hành bị hư hại (22)

Khí cụ bị hư
hại (22)

Cầu Sài G̣n bị hư
hại (21)
Trong số các thiệt
hại đó có thể là hàng ngàn thùng chất da cam và chất
màu trắng, được ghi nhận t́nh cờ trong một
bức ảnh với lời chú thích: “Bức ảnh nầy
cũng được đăng trên một trong các trang
web của Al Krabbenhoeft. Tôi nghĩ
rằng nó đáng để chúng ta xem lại một lần
nữa. Một nhân viên dân sự
ở Tân cảng đang quan sát vị trí nơi James Lake thiệt
mạng v́ hỏa tiển pháo kích ngày 12 tháng 5 năm
1968. Cô đang cười v́ được
chụp ảnh. Hăy nh́n phía
sau. Đó là những thùng bị hư
và bể. Khi nh́n kỹ sẽ
thấy những sọc màu trắng và da cam.” Bức
ảnh nầy được chụp bởi SP4
Richard Allen Morawa, thành viên của Đại đội 368th
thuộc Tiểu đoàn Vận tải 71st, phụ
trách bảo vệ an ninh cho Tân cảng Sài G̣n vào lúc đó (22).
TIÊU
CHUẨN DÙNG ĐỂ
XÁC
ĐỊNH “ĐIỂM NÓNG”
V́ Việt Nam chưa có tiêu chuẩn
dùng để xác định địa điểm ô nhiễm,
HCL đă dùng tiêu chuẩn do tiểu bang British Columbia, Canada
(BC) ấn định cho đất nông nghiệp và đất
thổ cư/công viên để xác định điểm nóng
dioxin ở Việt Nam. Để bảo vệ môi trường,
tiêu chuẩn BC giới hạn nồng độ dioxin trong đất
ở mức 10 ppt Tổng TEQs đối với đất
nông nghiệp và 1.000 ppt Tổng TEQs đối với đất
thổ cư/công viên. Để bảo
vệ sức khỏe con người, nồng độ
dioxin trong đất không được quá 350 ppt Tổng TEQs
cho tất cả các loại đất (8).
|
Cơ quan Bảo vệ Môi sinh Hoa Kỳ
(EPA) đă ấn định mục tiêu điều trị tạm thời (Preliminary Remediation
Goals) hay khởi điểm cho việc ấn định mức tẩy xóa dioxin ở trong đất
tại các địa điểm khắc phục ô nhiễm
chi phối bởi Đạo luật Tổng quát về
Đối phó, Bồi thường, và Trách nhiệm Môi trường (Comprehensive Environmental Response,
Compensation, and Liability Act (CERCLA), thường được
gọi là các địa điểm “Siêu ngân.” Đối với đất thổ cư,
1 phần tỉ (hay 1.000 ppt) Tổng TEQs được dùng
làm khởi điểm để tẩy
xóa dioxin ở các địa điểm “Siêu ngân” và làm mục
tiêu điều trị tạm thời để
giảm dioxin ở các địa điểm khắc phục
ô nhiễm. Đối với đất thương
măi/kỹ nghệ, nồng độ trong đất từ
5 đến 20 phần tỉ (5.000 đến 20.000 ppt) Tổng TEQs
được dùng làm khởi điểm để tẩy xóa dioxin ở các địa
điểm “Siêu ngân” và làm mục tiêu điều trị tạm thời để giảm dioxin
ở các địa điểm khắc phục ô nhiễm. |
Ở Hoa Kỳ, Cơ quan Bảo
vệ Môi sinh (EPA) đă ấn định mục tiêu điều
trị tạm thời (preliminary remediation goals (PRGs)) hay khởi
điểm cho việc ấn định mức tẩy xóa
dioxin ở trong đất tại các địa điểm
khắc phục ô nhiễm (corrective action sites) chi phối bởi
Đạo luật Tổng quát về Đối phó, Bồi thường,
và Trách nhiệm Môi trường (Comprehensive Environmental
Response, Compensation and Liability Act (CERCLA)) và Luật Bảo tồn
và Phục hồi Tài nguyên (Resource Conservation and Recovery Act
(RCRA)), thường được biết dưới cái
tên địa điểm “Siêu ngân” (“Superfund” sites). Những mức độ nầy
được ấn định để bảo vệ
sức khỏe con người và môi trường. “Một
ppb [phần tỉ hay 1.000 ppt] (TEQs, hay độ độc
tương đương) được dùng làm khởi điểm
để ấn định mức tẩy xóa cho các địa
điểm “Siêu ngân” và làm mục tiêu điều trị tạm
thời để giảm mức độ dioxin trong đất
thổ cư ở các địa điểm khắc phục
ô nhiễm. Đối với đất
thương măi/kỹ nghệ, một nồng độ
trong đất từ 5 đến 20 phần tỉ [5.000 đến
20.000 ppt] (TEQs) phải được dùng làm khởi điểm
để ấn định mức tẩy xóa cho các địa
điểm “Siêu ngân’ và làm mục tiêu điều trị tạm
thời để giảm mức dioxin trong đất ở
các địa điểm khắc phục ô nhiễm.” (23)
Cơ quan Pḥng ngừa Bệnh
tật và Độc tố (Agency for Toxic Substances and Disease
Registry (ATSDR)) thuộc Bộ Y tế và Xă hội Hoa Kỳ cũng
đă phê chuẩn một tài liệu hướng dẫn tạm
thời (interim policy guideline) để lượng giá ảnh
hưởng của các hợp chất dioxin và họ dioxin
(dioxin and dioxin-like compounds) trong đất thổ cư ở
tại hoặc gần các địa điểm có chất
thải độc hại (hazardous waste sites). Tài liệu hướng dẫn tạm
thời nầy giải thích một cách rơ ràng và hợp lư chánh
sách và đường lối hiện nay của ATSDR đối
với những hiểm nguy do sự hiện diện của
TCDD (dioxin) và các hợp chất cùng họ ít độc hơn,
chlorinated dibenzo-p-dioxins (CDDs) và chlorinated dibenzo furans (CDFs), ở
trong đất thổ cư.
Khi nồng độ ước tính trong đất thay đổi
trong khoảng từ 50 đến 1.000 ppt Tổng TEQs, phương
pháp cân nhắc bằng chứng (weight-of-evidence approach) phải được áp
dụng để đánh giá mức độ ô nhiễm và
ảnh hưởng của chúng đối với sức
khỏe con người. Nồng
độ 1.000 ppt Tổng TEQs được ATSDR xem như
là “nồng độ của hóa
chất, ở đó, các biện pháp để chận đứng
hoặc ngăn ngừa ô nhiễm cần phải được
cứu xét, chẳng hạn như khảo sát, khảo cứu,
nghiên cứu y tế, giáo dục cộng đồng, tu nghiệp,
hoặc điều tra t́nh trạng tiếp xúc với ô nhiễm
(exposure investigations). Tuy nhiên, những
biện pháp nầy có thể không cần thiết tùy theo kết
quả lượng định của Giám định viên
Y tế (health assessor).” (24)
Giám định viên Y tế phải trả lời các câu hỏi
sau đây:
·
Phạm
vi ô nhiễm rộng như thế nào?
·
Ô
nhiễm tập trung hay lan rộng?
·
Người
lớn và trẻ con có tiếp cận dễ dàng với đất
hoặc nơi ô nhiễm không? Vùng ô nhiễm như thế
nào (có cây cối hay không)?
·
Ở
địa điểm nầy, chu kỳ (hàng ngày, hàng tuần,
hàng tháng) và thời khoảng (tháng, năm, trọn đời)
tiếp xúc với ô nhiễm ra sao?
Nếu
việc tiếp xúc với đất thổ cư có nồng
độ dioxin vượt quá 1.000 ppt Tổng TEQs được
xem là thái quá, địa điểm được ATSDR ấn
định là nguy hiểm cho sức khỏe công cộng. Các biện
pháp và đề nghị cá biệt về y tế cần phải
được cứu xét để ngăn ngừa hoặc
ngăn chận việc tiếp xúc với ô nhiễm.
NỒNG
ĐỘ DIOXIN TRONG ĐẤT
Ở
CÁC “ĐIỂM NÓNG”
Trại
Lực lượng Đặc biệt A Shau
|
Vị trí của các căn cứ
quân sự trong thung lũng A Shau (26) |
Trại Lực lượng Đặc
biệt A Shau (nay là A Sô) là một trong ba căn cứ của
lực lượng đặc biệt được thiết
lập trong thung lũng A Shau (nay là A Lưới). “Thung
lũng A Shau, một vùng đất nhiệt đới giàu
có và màu mỡ dài 35 miles, chạy dọc theo ranh giới phía
tây của tỉnh Thừa Thiên.
Bạn có thể cảm nhận sự thần bí của
thung lũng khi nh́n thấy nó lần đầu tiên, từ
trên không hay ở dưới đất. Tài liệu lịch sử của
A Shau không có bao nhiêu. Kể từ
năm 1962, thung lũng đă trở thành ác mộng của lực
lượng Hoa Kỳ và Việt
Vào năm 1996, sau khi “tham khảo”
với nhiều cơ quan chức năng của chánh phủ
Việt

Phi đạo A Lưới năm
1969 (Ảnh: Raz Reed) (27)

Phi đạo Tà Bạt năm
1969 (Ảnh: Larry Wagoner) (28)

Trại Lực lượng Đặc
biệt A Shau và phi đạo năm 1969
(Ảnh: Larry Wagoner) (28)
Năm 1999, HCL lại tiến hành
một cuộc thăm ḍ khác bao gồm toàn thể thung lũng
A Shau với trọng tâm là trại Lực lượng Đặc
biệt A Shau. “Nói chung, nồng độ dioxin trong các mẩu đất
thu thập khắp nơi trong thung lũng A Lưới th́
thấp hơn rất nhiều so với các mẩu đất
ở căn cứ A Sô cũ.
Trung tâm của các hoạt động quân sự qui mô
(đó là các trại lực lượng đặc biệt)
có nồng độ TCDD cao nhất… Như được ghi nhận
trong các cuộc thăm ḍ trước đây, các mẩu đất
lấy ở trại Lực lượng Đặc biệt Mỹ
ở A Sô có nồng độ TCDD cao nhất (220 pg/g - 360
pg/g; Bảng 2.3)… Khu vực phía
bắc của căn cứ A Sô có mức độ TCDD cao
nhất. Mức độ
[dioxin] giảm dần về phía nam của căn cứ. Trị số TCDD năm 1999 ở
căn cứ A Sô th́ thấp hơn trị số năm 1997
(895,85 pg/g, H́nh 2.6), cho thấy mức biến thiên rất
cao của nồng độ trong phạm vi căn cứ… Sự biến đổi của
nồng độ TCDD trong đất ở gần căn cứ
A Sô (1996, 1997 và 1999) cho thấy nhiều khu vực của căn
cứ bị ô nhiễm cao, và ở một vài nơi [nồng
độ dioxin trong đất] có lẽ vượt quá trị
số được báo cáo trong phúc tŕnh.” (29) Nhưng nồng độ trong đất
chỉ thay đổi từ 26 đến 46 ppt Tổng TEQs
ở vùng trung tâm và từ 4,9 đến 16 ppt Tổng TEQs ở
vùng phía nam của căn cứ.
Hai trại lực lượng đặc biệt c̣n
lại trong thung lũng A Shau cũng được HCL thăm
ḍ, nhưng nồng độ dioxin trong đất th́ thấp
hơn rất nhiều. Các nồng
độ nầy thay đổi từ 5,5 đến 37 ppt
Tổng TEQs ở trại Lực lượng Đặc biệt
Tà Bạt và từ 5,7 đến 20 ppt Tổng TEQs ở trại
Lực lượng Đặc biệt A Lưới (29).
Căn
cứ Không quân Đà Nẳng
Mặc dù Căn cứ Không quân
Đà Nẳng được HCL và Ủy ban 10-80 xác nhận là
một trong những điểm nóng dioxin ở Việt Nam
và được MOU và Ford Foundation chọn để nghiên
cứu thêm, dữ kiện và tin tức liên quan đến ô
nhiễm dioxin ở đây th́ không có bao nhiêu. Không có một vụ ṛ rỉ hay đổ
tháo thuốc khai quang nào được báo cáo, ngoại trừ
những thiệt hại được phổ biến
trong năm 1968.
Vào năm 2003, trong một cuộc
điều tra được xem là một phần của “Kế hoạch nghiên cứu
dioxin cấp nhà nước để t́m hiểu hậu quả
của chất độc hóa học do Quân đội Mỹ
sử dụng trong chiến tranh Việt Nam (Chiến dịch
Ranch hand từ 1961-1971) (NDRP),” hai mẩu đất được
thu thập để phân tích các hợp chất polychlorinated dibenzo dioxins (PCDDs) và polychlorinated
dibenzo furans (PCDFs). “V́ các biện pháp an ninh chúng tôi không
thể thực hiện việc lấy mẩu bên trong sân
bay, do đó chúng tôi chọn địa điểm lấy mẩu
bên ngoài sân bay ở gần đường bay, nơi chất
thải từ máy báy được liệng ra ngoài sau các
chuyến bay trong thời chiến tranh [?].” (30)
|
Vị trí lấy mẩu ở
vùng phụ cận Căn cứ Không quân Đà Nẳng năm
2003 (30) |
Nồng độ trong đất
đo được 4,5 ppt Tổng TEQs ở địa điểm
gần sân bay và 4,1 ppt Tổng TEQs ở địa điểm
kia. “Điều
nầy hợp lư, v́ như chúng tôi đă nói ở trên, địa
điểm DN1 ở gần sân bay và là nơi chứa rác của
sân bay trong thời gian qua… Tuy
nhiên, dựa theo dữ kiện trong bảng 5.4, phần lớn
Tổng TEQ của địa điểm DN2 là do OCDD [octa-chlorodibenzo-p-dioxin]
và 1,2,3,4,6,7,8-HpCDD – các hợp chất được xem là ít
độc (với TEFs bằng 0,01 và 0,001). Các hợp chất nầy có lẽ
phát xuất từ những nguồn ô nhiễm khác chẳng
hạn như tro khi đốt thuốc khai quang phế thải
[?].” (30) Cũng cần nên
biết nồng độ TCDD trong đất ở địa
điểm DN2 là 0,2 ppt.
Nồng độ trong đất
cũng được biết đến qua nhiều bài viết
và tin tức báo chí; tuy nhiên, chi tiết về các nồng độ
nầy th́ không được cung cấp. Theo HCL, nồng độ dioxin của
21 mẩu đất thu thập trong vùng phụ cận Căn
cứ Không quân Đà Nẳng trong tháng 3 năm 2005 thay đổi
từ dưới 1 ppt đến 269 ppt Tổng TEQs với
nồng độ TCDD cao nhất là 227 ppt (6). Theo Ủy ban 33, Căn cứ Không
quân Đà Nẳng là điểm nóng “nóng nhất,” với 85.000
m3 đất ô nhiễm có nồng độ trung b́nh
là 10.000 ppt Tổng TEQs (31).
Rừng
Mă Đà
Rừng Mă Đà là địa điểm
thứ hai được MOU chọn để nghiên cứu
thêm. “Trước năm 1975, Mă Đà được gọi là
Chiến khu D – là một căn cứ của Quân đội
[Nhân dân] Việt
Vào năm 1997, HCL và Ủy ban 10-80
tiến hành một cuộc điều tra trong vùng phụ cận
phi trường quân sự ở Rang Rang. Nồng độ trong đất
thay đổi từ 2,37 đến 20,33 ppt Tổng TEQs, và
nồng độ trong bùn thay đổi từ 2,64 to 7,93
ppt Tổng TEQs (29).
Trong cuộc điều tra 2003,
“… chúng tôi thu thập tất cả
16 mẩu (10 ở sân bay Rang Rang, 3 ở suối Mă Đà, và 3
trong rừng tự nhiên ở chung quanh). V́ không đủ thời giờ,
chúng tôi chỉ phân tích 6 mẩu (3 mẩu được kiểm
chứng bởi Carso Lab và 1 mẩu được phân tích bởi
Carso Lab).” (30) Nồng độ
trong đất ở sân bay Rang Rang thay đổi từ 1,9
đến 6,7 ppt Tổng TEQs. Nồng
độ của mẩu đất lấy trong rừng tự
nhiên là 1,3 ppt Tổng TEQs. Nồng
độ của mẩu bùn lấy ở suối Mă Đà là 2,7
ppt Tổng TEQs.
Căn
cứ Không quân Biên Ḥa
Vào năm 1999, 4 mẩu đất
được lấy từ “Căn
cứ Không quân Biên Ḥa, là nơi tàng trữ chất da cam trước
kia” (32). Nồng độ
trong đất của các mẩu nầy được báo
cáo là 0,04; 1.063; 610.874; and 1.180.737 ppt Tổng TEQs. Các mẩu đất nầy được
cho biết là do cố Giáo sư Lê Cao Đài thu thập (33), nhưng
không một ai biết vị trí chính xác của chúng cả (34).
|
Các vị trí lấy mẩu ở
Căn cứ Không quân Biên Ḥa |
Năm 2004, Căn cứ Không quân
Biên Ḥa lại được lấy mẩu trong kế hoạch
NDRP, nhưng “cho đến nay,
Căn cứ Không quân Biên Ḥa vẫn chịu sự quản
lư của Quân đội Nhân dân, do đó việc lấy mẩu
ở đó cực kỳ khó khăn (thật vậy, việc
lấy mẩu chánh thức bị cấm). Với sự trợ giúp của một
cán bộ thuộc Sở Môi trường tỉnh Đồng
Nai, chúng tôi được vào khu vực gần đài ra đa
của sân bay để lấy mẩu (06/2004). Vào lúc đó, những hoạt động
xây dựng bên trong khu vực rất khẩn trương nhằm
mục đích biến nơi nầy thành khu gia cư (cho
gia đ́nh binh sĩ).” (30) Nhưng
vị trí lấy mẩu, như được ghi trên “Bản đồ lấy mẩu
ở Căn cứ Không quân Biên Ḥa và hồ Biên Hùng - Tỉnh
Đồng Nai,” (chấm màu xanh) th́ không phù hợp với các
tọa độ cung cấp trong luận án (chấm màu vàng). Tám mẩu đất lấy ở
địa điểm phía bắc có nồng độ thay đổi
từ 4,5 đến 134,7 ppt Tổng TEQs. Kết quả phân tích cho thấy TCDD
không hiện diện trong mẩu có nồng độ 4,5 ppt,
nhưng nồng độ của OCDD rất cao, từ 384,3
đến 44.972,8 ppt.
1,2,3,4,6,7,8-HpCDD và OCDF (octachlorodibenzofurans) cũng hiện
diện nhưng ở mức thấp hơn. Nồng độ của 2 mẩu
đất lấy ở địa điểm phía nam là 43,7
và 148,8 ppt Tổng TEQs.
Nồng độ trong đất
cũng được biết đến qua nhiều bài viết
và tin tức báo chí; tuy nhiên, chi tiết về các nồng độ
nầy th́ không được cung cấp. Theo HCL, nồng độ dioxin của
24 mẩu đất và bùn thu thập trong vùng phụ cận
Căn cứ Không quân Biên Ḥa trong tháng 3 năm 2005 thay đổi
từ 1,19 to 833 ppt Tổng TEQs với nồng độ TCDD
cao nhất là 797 ppt (6). Theo Ủy
ban 33, Căn cứ Không quân Biên Ḥa là điểm nóng “nóng thứ
hai,” với 90.000 m3 đất ô nhiễm có nồng
độ trung b́nh là 6.000 ppt Tổng TEQs (31).
TỪ
LƯ THUYẾT ĐẾN THỰC TẾ:
MỘT
KHOẢNG TRỐNG BAO LA
Dữ kiện và tin tức hiện
có dường như không biện minh cho “thuyết điểm
nóng Hatfield.” Các yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến giá trị của
thuyết nầy được thảo luận dưới
đây.
Nguồn
gốc mơ hồ của TCDD
HCL suy đoán rằng TCDD t́m thấy
ở các điểm nóng là TCDD ở trong thuốc diệt cỏ
da cam được dùng trong chiến tranh Việt
Quả thật là TCDD chiếm 96%
và 99,6% Tổng TEQs của hai mẩu đó, nhưng các hợp
chất họ dioxin PCDDs/PCDFs cũng hiện diện ở
mức độ rất cao, đặc biệt là OCDD. Nồng độ OCDD trong hai mẩu
đất nầy lên đến 697,05 và 563,84 ppt. Các hợp chất nầy chắc
chắn phát xuất từ các nguồn gốc khác, và các nguồn
nầy rất có thể cũng chứa TCDD. Theo Hàn lâm viện Y khoa (
Trong vùng phụ cận của trại
Lực lượng Đặc biệt A Shau, thiêu đốt sản
phẩm dầu hỏa, cháy rừng, cháy doanh trại, và đốt
củi có thể là những nguồn TCDD. Việc thiêu đốt sản phẩm
dầu hỏa đă xảy ra trong chiến tranh Việt
Một nguồn TCDD khác trong vùng
phụ cận của trại Lực lượng Đặc
biệt A Shau là pentachlorophenol (PCP), từng được dùng
làm thuốc chống mối mọt cho căn cứ trong thời
chiến tranh (37). PCP cũng có
thể hiện diện trong hóa chất dùng trong nông nghiệp
hiện nay. Điểm suy luận
nầy dường như được kiểm chứng
bằng nồng độ OCDD cao nhất (1.700 ppt) trong các mẩu
đất lấy ở một cánh đồng ở xă Hồng
Vân năm 1996. Nồng độ
rất cao của OCDD đă được kiểm chứng
trong cuộc điều tra năm 1999. “Trong
thung lũng A Lưới, nồng độ cao nhất của
octa-dioxins (O8CDD [OCDD]) được t́m thấy trong những
vùng có cư dân và đốt rác phổ biến (chẳng hạn
như ở xă Hồng Thương, 2.200 pg/g Tổng O8CDD; chợ
Ḅ Đót, 1.100 pg/g Tổng O8CDD; xă Sơn Thủy, 1.800 pg/g và 1.100
pg/g Tổng O8CDD; Bảng 2.3).” (29)
Tiêu
chuẩn đất tùy tiện
Tiêu chuẩn được dùng
để xác định độ “nóng” của “thuyết điểm
nóng Hatfield” có lẽ là yếu tố quan trọng đáng
nghi ngờ nhất. Dường
như HCL đang cố sức để biện minh cho lư
thuyết của ḿnh.
Lúc ban đầu, HCL dùng tiêu chuẩn
350 ppt Tổng TEQs của BC, thay v́ dùng mục tiêu điều
trị tạm thời của EPA hay mức hành động
của ATSDR, là 1.000 ppt Tổng TEQs, để khẳng định
trại Lực lượng Đặc biệt A Shau là một điểm
nóng dioxin, có lẽ v́ nồng độ trong đất cao
nhất ở căn cứ nầy thấp hơn 1.000 ppt Tổng
TEQs. HCL giải thích cho việc
chọn tiêu chuẩn cao hơn như sau: “Tuy nhiên, các mức tác hại (thresholds) của PCDD and
PCDF được áp dụng ở phương tây không đủ
thận trọng (conservative) để bảo vệ sức
khỏe con người ở vùng nông thôn Việt
|
Dữ kiện đất được
HCL dùng để xác định các điểm nóng ở các
căn cứ quân sự (6) |
Mới đây, HCL lại hạ
tiêu chuẩn 350 ppt Tổng TEQs của họ xuống c̣n 190
ppt TCDD. Lư do của sự thay đổi
nầy không được tŕnh bày, nhưng nó là “tiêu chuẩn”
mà HCL cần phải có để cho các căn cứ không quân
Đà Nẳng, Phù Cát, và Tân Sơn Nhứt được lọt
vào danh sách những điểm nóng dioxin của họ, bởi
v́ nồng độ của dioxin trong đất/bùn ở các
căn cứ nầy (269, 201, và 341 ppt Tổng TEQs (6)) thấp
hơn tiêu chuẩn 350 ppt Tổng TEQs của BC.
Dù sao đi nữa, việc áp dụng
tiêu chuẩn của BC dùng cho đất nông nghiệp, thổ
cư và công viên để xác định các căn cứ quân
sự cũ của Hoa Kỳ là những điểm nóng
dioxin th́ không thích hợp về mặt kỹ thuật, nhất
là đối với các căn cứ không quân Biên Ḥa, Đà Nẳng,
Phù Cát và Tân Sơn Nhứt. Mục
tiêu điều trị tạm thời của EPA dùng cho các
khu thương măi/kỹ nghệ (từ 5.000 đến 20.000
ppt Tổng TEQs) có vẻ thích hợp hơn.
Dữ
kiện đất đáng nghi ngờ
Dữ kiện đất được
HCL dùng để biện minh cho thuyết điểm nóng của
họ dường như không đáng tin, không phù hợp, và
không đầy đủ. Thật
vậy, “thuyết điểm nóng Hatfield” dường như
chỉ dựa trên một dữ kiện thực địa
duy nhứt ở trại Lực lượng Đặc biệt
A Shau (đó là nồng độ 901,2 ppt Tổng TEQs trong năm
1997). Nhưng dữ kiện nầy
cũng không được kiểm chứng trong cuộc điều
tra năm 1999, một cuộc điều tra được
quy hoạch cẩn thận “…để
khảo sát kỷ hơn phạm vi của những vấn đề
có liên quan đến chất da cam trong thung lũng A Lưới.”
(29) Vấn đề nghiêm trọng
nhất đối với dữ kiện đất do HCL
thu thập chính là sự vắng mặt “khó hiểu” của
những địa điểm lấy mẩu. Thật vậy, vị trí chính xác
của những mẩu đất/bùn do HCL thu thập trong
các cuộc điều tra trong các năm 1996, 1997, và 1999 chưa
hề được công bố (2, 29).
Dữ kiện đất được
HCL dùng để xác định các “điểm nóng” khác cũng
không khá hơn. “Các căn cứ
Ranch Hand ở Biên Ḥa và Đà Nẳng là những thí dụ điển
h́nh của các điểm nóng quan trọng. Một nồng độ TCDD trong
đất ở Biên Ḥa [không rơ vị trí] được ghi
nhận lên đến 1,2 triệu phần ức (ppt)
(Schecter et al., 2001). Tin tức mật
do các khoa học gia Việt
Ở nơi nào không có dữ kiện
tại chỗ (on-site soil data), HCL dùng dữ kiện đất
“…được thu thập ở
các địa điểm lấy mẩu ở gần mỗi
căn cứ [!?]” để
xác định các điểm nóng dioxin. “Các căn cứ không quân cũ của Mỹ ở Đà
Nẳng, Phù Cát, và Biên Ḥa có thể được xem như
là những ‘điểm nóng’ dioxin quan trọng dựa trên nồng
độ TCDD ghi nhận được trong vùng ‘hạ lưu’
của các địa điểm t́nh nghi là khu vực Ranch
Hand. Các ‘địa điểm
t́nh nghi chủ yếu’ nầy chưa được thử
nghiệm trực tiếp trong nghiên cứu của chúng tôi v́
không được phép của chánh quyền Việt
Hơn thế nữa, dữ kiện
đất được tŕnh bày trong Bảng 1 rất đáng
nghi ngờ v́ nó không phù hợp với dữ kiện đă
biết. Thí dụ như nồng
độ trong đất ở Căn cứ Không quân Đà Nẳng
(<1-269 ppt Tổng TEQs) th́ không phù hợp với kết quả
thu thập trong năm 2003 (4,1 và 4,5 ppt Tổng TEQs), với
tin tức mật của các khoa học gia Việt Nam (vài trăm
ngàn ppt), và với trị số của Ủy ban 33 (10.000
ppt Tổng TEQs). Chi tiết của
dữ kiện đất được ghi trong Bảng 1,
kể cả bản đồ vị trí lấy mẩu, đă
không được cung cấp mặc dù các vị trí nầy
không nằm bên trong khu quân sự.
TÓM TẮT, KẾT LUẬN
VÀ
ĐỀ NGHỊ
Năm 1998, HCL công bố cái gọi
là “thuyết điểm nóng Hatfield” sau khi dioxin được
t́m thấy ở nồng độ tương đối
cao (901,2 ppt Tổng TEQs) trong một mẩu đất thu thập
trong vùng phụ cận của trại Lực lượng
Đặc biệt A Shau cũ trong năm 1997. “Thuyết điểm nóng Hatfield,”
được dùng làm “khuôn mẫu
cho t́nh trạng ô nhiễm [TCDD] ở khắp miền Nam Việt
Nam,” (6) cho rằng tất cả các căn cứ quân sự
cũ của Hoa Kỳ (căn cứ không quân, căn cứ
hỏa lực, căn cứ hải quân, v.v.) ở miền
Nam Việt Nam có thể được xem là các điểm
nóng dioxin, đặc biệt là các căn cứ không quân chánh
yếu như Tân Sơn Nhứt, Biên Ḥa, và Đà Nẳng, nơi
một số lượng lớn thuốc diệt cỏ được
vận chuyển, tồn trữ, và sử dụng. Mặc dù mức độ ô nhiễm
dioxin trong vùng phụ cận của trại Lực lượng
Đặc biệt A Shau không được kiểm chứng
qua cuộc điều tra bổ túc năm 1999, HCL vẫn
duy tŕ lư thuyết của họ v́ “căn cứ có thể ‘nóng’” mặc dù “’các địa điểm ô nhiễm
chủ yếu’ chưa được xác định hoặc
thử nghiệm [!]” và v́ HCL đă “ấn định lại”
tiêu chuẩn đất, chỉ c̣n 190 ppt TCDD (6).
Lạm dụng hóa chất nông
nghiệp (39)
Tuy nhiên, dữ kiện và tin tức
hiện có đường như không biện minh cho “thuyết
điểm nóng Hatfield.” HCL cho
rằng TCDD ở Việt Nam phát xuất từ thuốc diệt
cỏ (tức là chất da cam) được dùng trong chiến
tranh Việt Nam; nhưng dữ kiện và tin tức mới
nhất cho thấy TCDD có thể do các hóa chất nông nghiệp
có chứa PCP hay do tiến tŕnh thiêu đốt, nhất là
việc thiêu đốt rác đô thị. Thật vậy, các mẩu tro thu
thập trong năm 2003 từ một ḷ đốt rác y tế
ở thành phố Hồ Chí Minh và các ḷ đốt rác đô
thị ở B́nh Hưng Ḥa, thành phố Hồ Chí Minh và ở
Phú Ḥa, thành phố Vũng Tàu có nồng độ dioxins (số
nhiều) thay đổi từ 184 ppt Tổng TEQs (trong đó
có 6 ppt TCDD) đến 12.328 ppt Tổng TEQs (trong đó có 53
ppt TCDD) (30).
Thiêu đốt bừa băi tại
một nhà máy ở Củ Chi (40)
HCL dùng tiêu chuẩn đất 190
ppt TCDD do chính ḿnh đặt ra để làm căn bản
cho lư thuyết. Tiêu chuẩn nầy
có vẻ “nguội” khi so sánh với 1.000 ppt Tổng TEQs của
mục tiêu điều trị tạm thời của EPA và
mức hành động của ATSDR dùng cho đất thổ
cư, và có vẻ “lạnh” khi so sánh với 5.000-20.000 ppt Tổng
TEQs của mục tiêu điều trị tạm thời của
EPA và mức hành động của ATSDR dùng cho đất
thương măi/kỹ nghệ.
Cho dù dữ kiện của HCL được xem là đáng
tin cậy, không có một căn cứ không quân nào mà HCL đă
t́nh nghi và điều tra có thể được xem như
là một điểm nóng dioxin, nếu mục tiêu điều
trị tạm thời của EPA và mức hành động
của ATSDR (1.000 ppt Tổng TEQs) được dùng làm tiêu
chuẩn đất.
Có một địa điểm
có thể có khả năng biện minh cho “thuyết điểm
nóng Hatfield.” Đó là Tân cảng Sài
G̣n, nơi mà hàng ngàn thùng 55-gallon đựng thuốc khai
quang đă bị hư hại trong đợt Tổng công kích
Tết Mậu Thân giai đoạn 2 vào tháng 5 năm 1968. Hàng chục ngàn gallons chất da
cam có thể đă đổ tháo trên mặt đất. Mặc dù tai nạn đổ tháo
thuốc khai quang nầy không được điều
tra, Tân cảng Sài G̣n có lẽ không được ghi trong
danh sách điểm nóng của Hatfield v́ không có một thiệt
hại hay ảnh hưởng nào được khai báo, mặc
dù nó ở rất gần vùng đông dân cư nhất.
|
Dựa theo dữ kiện và
tin tức mới nhất, chúng ta có thể kết luận
rằng các điểm nóng TCDD hay “các vấn đề dioxin,” theo lư thuyết của Hatfield Consultants Ltd., có thể không
hiện hữu ở Việt lẽ đang đối diện
với các vấn đề do PCDDs/PCDFs gây ra: “các vấn đề dioxins.”
Các hợp chất họ dioxin nầy không bắt nguồn
từ chất da cam. Các vấn đề dioxins
nghiêm trọng hơn và càng ngày càng tồi tệ hơn. Thật vậy, TCDD không t́m thấy trong một
mẩu đất lấy ở Biên Ḥa trong năm 2004, nhưng PCDDs/PCDFs được
t́m thấy ở nồng độ 121,5 ppt Tổng TEQs. Trong một mẩu khác, TCDD
được t́m thấy ở nồng độ 27,9 ppt
trong khi PCDDs/PCDFs có nồng độ 548,5 ppt Tổng TEQs. Đứng về mặt khoa học
mà nói, “các vấn đề
dioxins” hiện nay ở Việt nghiêm chỉnh hơn “các vấn
đề dioxin,” trên b́nh diện quốc gia và quốc tế. |
Mới đây, HCL được
Ủy ban 33 yêu cầu thực hiện hai nghiên cứu cho một
“điểm nóng” ở phi trường Đà Nẳng. Các nghiên cứu nầy được
Ford Foundation tài trợ. Mục
đích của nghiên cứu thứ nhất, với ngân khoản
120.000 đô la Mỹ, là “nghiên cứu
đặc tính di chuyển của một ‘điểm nóng’
dioxin ở phi trường Đà Nẳng, lượng định
các trường hợp tiếp nhiễm và đề nghị
các biện pháp khắc phục khả thi.” Nghiên cứu
thứ nh́, với ngân khoản 342.800 đô la Mỹ, để
“lượng định ảnh
hưởng đối với sức khỏe công cộng
qua đất và dây chuyền thực phẩm ở một
‘điểm nóng’ dioxin ở phi trường Đà Nẳng và đề
nghị các biện pháp khắc phục ngay lập tức.”
(38) Tuy nhiên, cái “điểm nóng”
của hai nghiên cứu nầy dường như không hiện
hữu v́ dữ kiện và tin tức hiện có cho thấy
nồng độ dioxin trong đất ở Căn cứ
Không quân Đà Nẳng hoặc chưa biết (chưa thử
nghiệm bên trong căn cứ) hoặc rất thấp (dưới 5 ppt Tổng TEQs ở
sát bên ngoài căn cứ (30)). V́
lư do đó, một chương tŕnh công tác (work plan) phải
được soạn thảo và công bố để lấy
ư kiến một cách rộng răi (trong nước và quốc
tế) để xác định và định tính cái “điểm
nóng” nầy. Kết quả định
tính sẽ được dùng để xem hai nghiên cứu
vừa nêu có cần thiết hay không.
Dựa theo dữ kiện và tin
tức mới nhất, chúng ta có thể kết luận rằng
các điểm nóng TCDD hay “các vấn đề dioxin,” mà HCL đă
quan sát được trong suốt “hơn 12 năm nghiên cứu,” có thể không hiện
hữu ở Việt Nam hiện nay. Nhưng có lẽ Việt
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1)
Memorandum
of Understanding. Meeting of the Vietnamese and
(2)
Hatfield
Consultants Ltd. and
(3)
L.
Wayne Dwernychuk, et al. 2002. “Dioxin
reservoirs in southern
(4)
L.
Wayne Dwernychuk, et al. March 2002.
“Agent Orange/Dioxin Hot Spots – A legacy of U.S. Military Bases in
(5)
L.
Wayne Dwernychuk. 2005. “Short Communication, Dioxin hot spots in
(6)
Dwernychuk,
LW, et al. August 2006. “The Agent Orange Dioxin Issue in
(7)
HCL.
(8)
(9)
Buckingham,
William A., Jr. 1982. Operation Ranch
Hand. The Air Forces and Herbicides in Southeast Asia 1961-1971. US Air Force, Office of Air Force
History.
(10)
West,
Keith W.
(11)
Michael,
E.D.
(12)
Moran,
John.
(13)
Corey,
Jim.
(14)
US
Military Assistance
(15)
Darrow,
Robert A., Reed C. Bunker, and J. Ray Frank.
(16)
Bills,
Ray
(17)
US
Department of the Army.
(18)
Le
Moine, Thomas F. “
(19)
McNaught,
David. “Page 31. David McNaught. Some Photos I took In and Around Newport
Terminal.” http://www.allanfurtado.com/davidmcnaughtnewport.html
(20)
Farris,
Gregory M. “Page 40. Photos from Gregory
M. Farris.” http://www.allanfurtado.com/gregoryfarris.html
(21)
Krabbenhoeft,
Alfred. “Pages 17-19. Photos from Al Krabbenhoeft.” http://www.allanfurtado.com/alfredkrabbenhoeft.html
(22)
Morawa,
Richard Allen. “Pages 53-54. Photos from
Rich Morawa.” http://www.allanfurtado.com/richmorawanewport.html
(23)
Fields,
Timothy, Jr.
(24)
De Rosa, Christopher T., et al.
(25)
Horvath, Richard L. Undated. “Mystique of the
Valley, Fall 1968 Rendezvous with Destiny Magazine.” http://www.lcompanyranger.com/Ashau/ashauarticle2.htm
(26)
Aton, Bert and William Thorndale. Undated. A
Shau Campaign, December 1968 – May 1969.
Directorate Tactical Evaluation. CHECO Division. US Department of Air Forces.
(27)
Reed,
Raz. “Photos, Articles, and Maps of the A Shau Valley, Page 20.” http://www.lcompanyranger.com/Ashau/ashauarticle2.htm
(28)
Wagoner,
Larry. “Photos, Articles, and Maps of the A Shau Valley, Pages 16-17.” http://www.lcompanyranger.com/Ashau/ashauarticle2.htm
(29)
HCL and 10-80 Committee. April 2000.
Development of Impact Mitigation
Strategies Related to the Use of Agent Orange Herbicide in the
(30)
Mai,
Tuan Anh. 2006. Sources and Fate of PCDDs and PCDFs in Rural and Urban Ecosystems and
Food Chain in
(31)
Lê, Huân.
(32)
Schecter,
A., Le Cao Dai, Oaf Papke, Joelle Prange, John D. Constable, Muneaki Matsuda,
Vu Duc Thao, and Amanda L. Piskac. May
2001. “Recent Dioxin Contamination from
Agent Orange in Residents of a Southern
(33)
Huỳnh
Văn Mỹ.
(34)
Mai,
Truyet T. May 2004. “Letters to the
Editor – Food as a Source of Dioxin Exposure in the Residents of
(35)
(36)
Wickham,
Kenneth G..
(37)
Schecter,
A.J., J.J. Ryan, M. Gross, N.C.A. Weerasinghe, and J.D. Constable. 1986. “Chlorinated
dioxins and dibenzofurans in human tissues from Viet Nam, 1983-84.”. Chlorinated Dioxins and Dibenzofurans in
Perspective. C. Rappe, G. Choudhary, and L.H. Keith [editors]. Lewis Publishers.
(38)
http://www.fordfound.org/grants_db/view_grant_detail.cfm?grant_id=39336
(39)
Đỗ, Anh H.
(40)
Quang Đạt.