DÂN CHỦ TRONG
NGUYỄN HỌC TẬP
I - Dân Chủ và
cơ quan quyền lực Quốc Gia trung ương.
Theo nguyên ngữ,
danh từ " Dân Chủ " của chúng ta được
phiên dịch từ danh từ
của Hy Lạp " Demokratía''. Là một danh từ
kép, được ghép bằng hai danh từ " Demos"
(dân chúng) và " krátos"
(quyền hành) .
Vậy th́ " Dân Chủ " theo nguyên ngữ "demokratía": quyền
hành thuộc về dân chúng, quyền hành của dân chúng hay
dân chúng là " sở hữu
chủ" của quyền bính Quốc Gia.
Định nghĩa theo nguyên ngữ như
vừa kể không khó khăn ǵ. Ai cũng làm được,
chỉ cần có ít hiểu biết về từ ngữ Hy
Lạp.
Nhưng định
nghĩa " Dân Chủ '' như vậy, chúng ta mới
đề cập đến " định
nghĩa nguyên ngữ " và đứng về phía " sở hữu chủ " ( titolarité) của quyền tối thượng
Quốc Gia:
" Quyền tối
thượng của Quốc Gia thuộc về dân chúng; dân
chúng xử dụng quyền tối thượng đó theo
h́nh thức và trong giới mức của Hiến Pháp". (
Điều 1, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc)
Cũng vậy, Hiến
Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức xác nhận:
" Mọi quyền
lực Quốc Gia đều phát xuất từ dân chúng; dân
chúng hành xử quyền bính Quốc Gia qua các cuộc đầu
phiếu, trưng cầu dân ư và qua các cơ quan chuyên biệt
lập pháp, hành pháp và tư pháp" ( Điều 20, đoạn 2 Hiến Pháp 1949 Cộng
Hoà Liên Bang Đức).
Dân chúng là " chủ
nhân '' quyền tối thượng Quốc Gia.
Nhưng thể chế dân chủ, nhứt là " dân
chủ thực hữu'' ( démocratie
substantielle) chớ không phải là " dân chủ thuyết
lư " ( démocratie formelle) không những
chỉ có vậy, nhứt là nếu chúng ta không
muốn tổ chức cho đất nước một nền
" dân chủ mỵ dân" ( démocratie démagique).
Muốn có được
" dân chủ thực hữu ", chúng ta phải
xác định được "những điều
kiện không thể thiếu " ( sine qua non) của nó,
nhứt là những điều kiện để kiểm
soát và bảo đảm.
Chủ đề của
bài đang viết, " Dân chủ trong vai tṛ hiến định
Cộng Đồng Địa Phương", nhằm
đưa ra một vài điều kiện tiên khởi của
các điều kiện hay đặc tính vừa kể.
Dân chủ, " quyền tối thượng của Quốc
Gia thuộc về dân ", nhưng chúng có quyền lực Quốc Gia trong tay, người dân chúng làm cách nào hành xử quyền
lực đó?
Nếu không có cách xử dụng,
quyền bính vẫn nằm" án binh bất động'' trong tay người
dân, không tạo được lợi ích ǵ.
Điều 1 của
Hiến Pháp hiện hành Ư đưa ra những lằn mức
trong đó quyền hành dân chủ được xử dụng
" ...theo h́nh thức và trong giới mức của Hiến
Pháp...", nhưng không nêu rỏ cho người dân xử
dụng " ...bằng cách nào", ít nhứt là ở
điều khoản Hiến Pháp đang được bàn
đến.
Điều 20 của
Hiến Pháp 1949 CHLBĐ diển tả cho chúng ta ba phương thức hành xử quyền
tối thượng Quốc Gia
" ...qua các cuộc đầu phiếu, trưng cầu
dân ư và qua các cơ quan chuyên biệt lập pháp, hành pháp và
tư pháp",
cho thấy chúng ta có hai cách xử dụng
,
* trực tiếp ( trưng cầu dân ư)
* và gián tiếp qua các
đại diện ( qua các cuộc bầu cử..., và qua
các cơ quan chuyên biệt lập
pháp, hành pháp và tư pháp).
Như vậy chúng ta có thêm những yếu tố rơ ràng hơn để hành xử
quyền tối thượng của Quốc Gia.
Nhưng điều 1
của Hiến Pháp 1947 Ư và điều 20 Hiến Pháp 1949
CHLBĐ không nói cho chúng ta biết làm thế nào dân chúng ( chủ
nhân của quyền lực Quốc Gia, " Dân Chủ '')
có thể trao quyền hành của ḿnh cho các đại diện
hay các cơ quan chuyên biệt để họ hành xử
thay cho ḿnh.
Thể thức trao quyền
vừa kể rất quan trọng, bởi lẽ nếu quyền
hành không được trao cho theo thể thức chính danh
và hợp pháp, nhóm người được coi là đại
diện, là cơ quan chuyên biệt lập pháp, hành pháp và
tư pháp hay tự cho ḿnh là
" đội ngủ
tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam,
đại biểu trung thành với quyền lợi của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc..." ( Điều 4, Hiến
Pháp 1992 CHXHCNVN),
có thể tước đoạt quyền của dân
dưới nhiều h́nh thức và có thể biến cả
chủ nhân thành nô bộc cho giới đại diện.
Những ǵ đă và
đang xảy ra trên đất nước là những biện
chứng hùng hồn, ai cũng thấy và hiểu được,
không cần giai thích và biện chứng.
Thể thức trao
quyền một cách dân chủ chính danh và hợp pháp đó, được Hiến Pháp
1949 CHLBĐ nêu rỏ cho chúng ta ở một điều khoản
khác, điều 38:
" Các Dân Biểu
Hạ Viện được tuyển chọn qua các cuộc
phổ thông đầu phiếu, trực tiếp, tự do,
b́nh đẳng và kín".
Cũng vậy ở lănh vực các Tiểu Bang:
" Ở các Tiểu
bang ( Laender), Vùng ( Kreise) và Xă Ấp ( Gemeinden) dân chúng phải
có được những người đại diện do kết quả các cuộc đầu
phiếu phổ quát, trực tiếp, tự do, b́nh đảng
và kín".
Chúng ta đă đi được một đoạn
đường khá dài, nhưng chưa hết.
Dân chúng là chủ nhân quyền lực tối thượng
Quốc Gia.
Dân chúng xử dụng quyền hành của ḿnh trong giới
mức và theo thể thức hiến định. Trong thể
chế dân chủ đại diện, thể thức hành xử
thông thường quyền hành là bầu cử đại
diện và quyền lực được điều hành
qua các cơ quan chuyên biệt lập pháp, hành pháp và
tư pháp.
Việc bầu cử muốn được thực hiện
trong tinh thần dân chủ thực sự, phải là những
cuộc bầu cử có tính
cách phổ thông (mọi công dân đến tuổi trưởng
thành và không bị giới hạn công dân đều có quyền
bỏ phiếu), trực tiếp, tự do, b́nh đẳng
và kín.
Chúng ta biết được
ai là chủ nhân của quyền lực tối thượng
Quốc Gia, chúng ta có thể thức để các " sở hữu chủ ''
giao quyền hành của ḿnh cho các đại diện xử
dụng thay cho, chúng ta cũng có thể thức và lằn mức
để hành quyền một
cách chính đáng.
Nhưng thể chế dân chủ không phải chỉ có
vậy, một khi ủy thác quyền lực xong là hết.
Ai có thể bảo
đảm cho người dân là nhóm người đại
diện, " ...cơ quan chuyên biệt lập pháp, hành
pháp và tư pháp "(Điều 38, Hiến Pháp 1949
CHLBĐ) , " đội ngủ tiền phong của
giai cấp công nhân Việt Nam,đại biểu trung thành của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc..." ( Điều 4, id.) là những người thừa
hành và quản lư chân chính, hiệu năng và tôn trọng luật
pháp?
Trong thể chế dân
chủ, nhứt là trong Đại Nghị Chế, ư kiến,
nhu cầu và ước vọng của người dân phải
luôn luôn được đặt
trước mắt những ai đại diện đang
hành quyền , để tŕnh bày, hướng dẩn và kiểm
soát chính hướng và hoạt động Quốc Gia, sao cho luôn phù hợp với lợi
ích của mỗi người và của cộng đồng.
- Nếu lập pháp không chu toàn nhiệm vụ một cách
chính đáng và hiệu năng , Quốc Hội có thể bị
Tổng Thống giải nhiệm trước nhiệm kỳ
(Điều
63 và 68, Hiến Pháp 1949 CHLBĐ) hoặc cắt giăm quyền
hạn ( Điều 81, id.) .
- Nếu hành pháp thiếu
trách nhiệm, quản trị đất nước một
cách "gật gờ gật gưỡng" , Hạ
Viện có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm và bắt
buộc Chính Phủ phải từ chức ( Điều 67,
id.).
Nếu Quốc Hội cũng như Chính Phủ ban bố
luật pháp bừa băi, xử dụng quyền hành tự
tung tự tác, chỉ cần
* " ...Chính Phủ Liên Bang, Chính Phủ của một Tiểu
Bang hay 1/3 Dân Biểu ( dĩ nhiên là Dân Biểu đối lập)
Hạ Viện" đệ
đơn tố cáo và đưa đến Viện Bảo Hiến xét xử ( Điều 93, đoạn 2 Hiến Pháp Cộng Hoà
Liên Bang Đức)
- Đó là chưa kể trường
hợp người dân có thể
đơn phương hay cùng với các tổ chức
có thể đệ đơn tố cáo những vi phạm,
lấn áp quyền và tự do
của ḿnh bất cứ từ đâu tới, từ cá nhân,
đoàn thể hay cơ quan quyền lực Quốc Gia cũng
vậy ( Điều 17; 19, đoạn 4 id.)..
- Song song với những điều khoản và
phương thức thận trọng vừa kể, Hiến
Pháp c̣n trù liệu một Ủy Ban Thường Trực
Bảo Vệ các quyền căn bản bất khả
xâm phạm của con người tại Hạ Viện
(Wehrbeauftrage, Điều 45 c, id.) để
đề pḥng những mưu toan bất chính vi phạm tùy
hỷ.
Những ǵ chúng tôi vừa lược kể qua là thể
chế dân chủ xử dụng quyền lực Quốc
Gia ở lănh vực trung ương.
Nhưng một trong những đặc tính của dân chủ
không phải là trung ương tập quyền, mà là đa
nguyên và tản quyền.
Quyền hành Quốc Gia không phải chỉ được
tập trung vào các cơ chế trung ương cố hữu
lập pháp, hành pháp và tư pháp mà ai trong chúng ta cũng biết.
Tinh thân dân chủ của người Tây Âu đă tiến xa hơn những ǵ
chúng ta vừa đề cập. Hiến Pháp của họ
, nhứt là những Hiến Pháp từ sau Thế Chiến
II , đă tiên liệu các phương thức tản quyền
đến các cơ chế địa phương để pḥng ngừa những âm mưu
độc tài mà họ đă phải trả đắc giá
bằng máu và nước mắt , ( kinh nghiệm Đức
Quốc Xă của Hitler và Phát Xít của Mussolini cũng
như kinh nghiệm chế độ phi nhân của Nga Sô và
Đông Âu).
Đó là điều mà chúng tôi muốn duyệt xét qua ở
những ḍng dưới đây, để mơ ước
cho một tương lai sáng sủa hơn cho đất
nước.
II - Dân Chủ và
Vai Tṛ Hiến Định Cộng Đồng Địa Phương.
( Chúng tôi dùng thành ngữ " Cộng Đồng
Địa Phương "
để chuyển ngữ các danh từ khác nhau , chỉ
các tổ chức địa phương được
các Hiến Pháp Tây Âu đề cập và giao trách cho nhiệm
vụ cộng tác trong cuộc sống Quốc Gia
như " Regione" (
Vùng, Hiến Pháp Ư)," Département" ( Vùng , Địa
Hạt, Hiến Pháp Pháp Quốc), " Laender hay Kreise"
( Tiểu Bang hay Vùng, Hiến Pháp CHLBĐ).
Đề cập đến " Vai Tṛ Hiến Định'' của các " Cộng Đồng Địa
Phương ", chúng tôi có ư phân biệt vai tṛ được Hiến
Pháp giao cho để các " Cộng Đồng Địa
Phương" hợp tác với các cơ chế trung ương
trong việc điều hành cuộc sống Quốc Gia,
khác biệt với các phần vụ lập pháp và quản
trị thông thường liên quan trực tiếp đến
cuộc sống địa phương.
" Vai Tṛ Hiến Định" mà chúng tôi có ư
bàn ở đây là sự tham dự của các " Cộng
Đồng Địa Phương " vào những quyết
định quan trọng trong cuộc sống chính trị, cơ
chế Quốc Gia.
Từ ngữ " Vai tṛ
Hiến Định" mà chúng tôi muốn đề cập,
là những phần vụ, quyền hạn và trách nhiệm
mở rộng tầm hoạt động của " Cộng
Đồng Địa Phương" ra bên kia lằn
mức hạn hẹp của vùng, tỉnh, quận , làng xă
thôn ấp , đặt " Cộng Đồng Địa
Phương" vào nhiệm vụ rộng lớn
hơn của Quốc Gia, cần được kích thích và
thực hiện cộng tác.
Trái với quan niệm tập quyền của thời
quân chủ chuyên chế, thời Đức quốc Xă, thời
Phát Xít của Mussolini cũng như trong thể chế
độc tài Cộng Sản, các Hiến Pháp Tây Âu sau Thế
Chiến II đều chủ trương thể chế tản
quyền( décentralisation), tiên liệu nhiều tổ chức (trung ương và địa
phương) cùng hiện hữu trên một lănh thổ,
đại diện cho dân chúng chung sống trong vùng.
Với quan niệm
" Cộng Đồng Địa Phương " là cơ
quan đại diện cho dân chúng sống trong vùng, các vị
soạn thảo Hiến Pháp 1947 Ư Quốc đă nghĩ ra một
phương thức để đem nhu cầu và ước
vọng của dân chúng sống rải rác bên ngoài vào trung tâm
quyền lực Quốc Gia.
Các Vị soạn thảo Hiến Pháp Ư đă nâng địa
vị các " Cộng Đồng Địa Phương " từ
lănh vực được giao thác bởi pháp luật thông
thường ( và hành xử như cơ
quan ngoại vi của quyền lực trung ương) lên lănh vực thuộc thẩm quyền
được Hiến Pháp ủy thác với sự kính trọng và ủy
thác cho các vai tṛ quan hệ .
Việc nâng cao địa
vị hiến định, giao phó cho nhiều trọng trách
liên quan đến cuộc sống xứ sở và đặt
vị thế các "Cộng
Đồng Địa Phương " vào cơ chế Quốc
Gia không phải là vấn đề
xuôi chảy trong thời gian soạn thảo Hiến Pháp
1947.
Các Vị không được ai dọn sẳn cho đồ
án. Việc tản quyền cho các " Cộng Đồng
Địa Phương" không phải là " Manna"
(trong Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo) từ
trời rơi xuống. Các Vị đă phải ṃ mẩm, lần hồi đi từng
bước một. Một mặt muốn dành nhiều quyền
sáng kiến và can thiệp trực tiếp vào các cơ chế
trung ương cho các " Cộng Đồng Địa
Phương ", nhưng mặt khác các Vị sợ sự phát triển
lớn mạnh của cơ chế địa
phương có thể phương hại đến tính
cách hợp nhứt và bất phân chia theo tinh thần điều
5 của Hiến Pháp, một giá trị bất khả
nhượng:
" Cộng Hoà Dân
Chủ Ư , Quốc Gia duy nhứt và bất phân chia, nh́n nhận
và cổ vỏ các cộng đồng tự lập địa
phương..." ( Điều 5, Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).
Tư tưởng tiên khởi trong việc " nh́n nhận và cổ vỏ các cộng
đồng tự lập địa phương "
là tinh thần dân chủ tự
do và bảo chứng của Hiến Pháp: " Cộng Đồng Địa
Phương" được
xem là cơ chế
được trao cho nhiệm vụ hảm thắng đối
với mọi lối hành quyền tự tung tự tác của các
cơ chế trung ương, tương đương với
tinh thần " Kiểm Soát và Cân Bằng" (Checks and Balances) của Hiến
Pháp Philadelphia 1787 của Hoa Kỳ.
Nhưng tinh thần cởi mở , tự tín và lạc
quan đă giúp các Vị vượt thắng mối quan tâm
lúc ban đầu, khiến quư Vị giao cho các " Cộng
Đồng Địa Phương " nhiều vai tṛ mới mẽ, biến các cơ chế địa
phương càng ngày càng giữ
vai chính hơn trong ḷng tổ
chức Quốc Gia.
Có lẽ Hiến Pháp 1947
Ư Quốc là một trong những Hiến Pháp đầu tiên
giao phó cho các "Cộng Đồng Địa Phương"
vai tṛ hiến định trong cơ chế Quốc Gia (
khác với vai tṛ pháp định thông thường do các luật pháp giao phó cho).
Với việc " nh́n nhận và cổ vơ "
cùng với việc giao cho các " Cộng Đồng
Địa Phương " vai tṛ hiến định, các Vị soạn
thảo Hiến Pháp 1947 Ư đă thành công trong việc phá vở
chế độ trung ương tập quyền
( centralismo) cỗ hữu, mà không làm tiêu tán tính cách " duy
nhất và bất khả phân"( una e indivisibile) của
Cộng Ḥa Dân chủ Ư.
" ...trong việc
phân chia quyền lực giữa trung ương và địa
phương, trong việc phân chia phận vụ giữa Quốc
Gia, Vùng, Tỉnh và Xă Ấp và bao nhiêu cơ quan cấu trúc
khác sẽ được thiết lập ra trên đất
Ư, chúng ta đừng làm mất đi sự đoàn kết
chính trị của Quốc Gia Ư mà chúng ta đă tốn bao
nhiêu công sức mới tạo được sau một thế
kỷ với cuộc sống may mắn của chúng ta; và
tính cách đa nguyên pháp chế không bao giờ nên để
nó trỏ thành sự chia rẻ và đối đầu
chính trị" ( Berti G.,Principi Fondamental, art 5, in Commentario della Costituzione a cua di G.
Brnaca, Zanichelli, Bolonga - Roma 1975, 277).
Từng bước một, từng viên gạch một
các Vị liên tục xây dựng ṭa nhà " Cộng Đồng
Địa Phương" thêm khan trang rộng lớn,
luôn luôn trong lằn mức không đối chọi lại
đặc tính " duy nhất và bất khả phân "
của Quốc Gia, với xác tín rằng " Vai Tṛ Hiến
Định " của cơ chế địa phương
là phương tiện cần thiết để thực
thi dân chủ , ngoài ra khả năng " hảm thắng"
chống độc tài vừa được đề cập.
Điều làm cho
chúng tôi chú ư khi đọc Hiến Pháp 1947 Ư Quốc là các
điều khoản liên quan đến " Vai Tṛ Hiến
Định " của các " Cộng Đồng
Địa Phương" không phải được
tập trung tất cả vào Tiết Mục V, tiết
mục được Hiến Pháp dành riêng cho vai tṛ và phận
vụ các cơ cấu địa phương trong cộng
đồng Quốc Gia, mà được các Vị viết
ra rải rác đó đây khắp các đề mục
của Hiến Pháp,
- từ phần xác định các
nguyên tắc căn bản liên quan đến nhân phẩm,
quyền và tự do của con
người ( điều 2 - 54),
- đến các tiết mục đề
cập đến Quốc Hội, Chính Phủ, Tổng Thống ( Điều 55- 100)
- và ngay cả trong phần liên quan
đến việc tu chính Hiến Pháp ( Điều 134- 139).
Điều đó cho thấy rằng các Vị soạn
thảo Hiến Pháp 1947 Ư Quốc
không có ư hạn hẹp địa vị và vai tṛ của
các cơ cấu địa phương vào những phần
vụ liên chỉ quan đến các vấn đề địa
phương , làng mạc xă ấp, quận , tỉnh ,
vùng.... Trái lại các Vị có chủ đích giao cho các "
Cộng Đồng Địa Phương " những
" Vai Tṛ Hiến Định" liên quan đến
việc tổ chức đời sống cộng đồng
Quốc Gia như
- quyền sáng kiến đề nghị
lập pháp đối với luật lệ Quốc Gia,
- quyền đ̣i hỏi trưng cầu
dân ư để sửa đổi và tu chính luật pháp và tu
chính Hiến Pháp,
- quyền của các đại diện tham dự vào việc
tuyển chọn Tổng Thống, vị Nguyên Thủ Quốc
Gia.
Với những
" Vai Tṛ Hiến Định" vừa kể, " Cộng Đồng Địa
Phương " trong cơ chế Quốc Gia không chỉ c̣n là tổ chức đóng vai " phụ
diển", (như thu thuế , bắt lính) , trong thời
quân chủ chuyên chế , mà là chủ thể đóng " vai
chính" trong trọng trách quy định đường
lối chính trị Quốc Gia.
Trong thể chế dân chủ, đường lối
chính trị Quốc Gia không có nghĩa chỉ là chính hướng
của " trung ương", mà là đường
lối của cả Quốc Gia cùng nhau quyết định,
" Trung Ương" và " Cộng Đồng
Địa Phương".
Và cũng trong chiều hướng đó, " Cộng
Đồng Địa Phương" cộng tác với
các cơ cấu quyền lực " Trung Ương"
để quy định đường hướng chính
trị Quốc Gia, mà " Cộng Đồng Địa Phương" không
bao giờ nên trở thành cơ quan của tổ chức
" Trung Ương".
Thể chế Quốc
Gia, nếu muốn là một thể chế dân chủ thật
sự, " Cộng Đồng Địa Phương"
phải là những chủ thể chính trị tách biệt,
hành xử quyền hiến
định của ḿnh với danh nghĩa chủ thể
để thực thi một cách
trọn vẹn và thực hữu nguyên tắc dân chủ
đa nguyên.
Đa nguyên trong thể chế dân chủ không có nghĩa
là phá rối, " thọc gậy bánh xe" , mà có nghĩa là " phong phú ",
có tầm hiểu biết " đa diện" và
" tự do".
Trao cho " Cộng
Đồng Địa Phương " quyền được
đưa ra sáng kiến góp phần vào việc quy định
chính hướng Quốc Gia không có nghĩ là làm băng hoại
tính cách " duy nhất và bất khả phân" của
Quốc Gia, mà là tạo ra thể thức để các chủ
thể chính trị quan trọng của xứ sơ, ư kiến
và ước vọng của dân chúng ở mọi phần
đất trên lănh thổ Quốc Gia đều có tiếng
nói góp phần vào các quyết định quan trọng của
xứ sở, liên quan đến đời sống của
từng người và của
toàn thể đồng bào.
Đường lối chính trị
Quốc Gia không có nghĩa chỉ là lư tưởng và thể
thức quản trị xứ sở của thành phần
đa số đương quyền, vừa được
tuyển chọn trong cuộc bầu cử vừa qua, mà là phương cách thực
thi lư tưởng và các nguyên tắc nền tảng đă
được Hiến Pháp xác định và dân chúng đồng
thuận khi Hiến Pháp được ban hành.
Nói cách khác, đường
lối chính trị Quốc Gia là khuôn thước dựa
vào chỉ thị của Hiến Pháp để kiểm soát
phương thức hành động và mục đích của
đa số đương quyền, đối chiếu với
Hiến Pháp.
Như vậy quyền
quyết định chính hướng Quốc Gia , trong Hiến
Pháp 1947 Ư Quốc không c̣n là " sở hữu độc
quyền" của tổ chức Quốc Gia trung ương,
mà đâm gốc rể đến mọi từng lớp
" Cộng Đồng Địa Phương": Hiến Pháp đă tạo được
một hệ thống liên lạc mới giữa Quốc
Gia trung ương và dân chúng địa phương.
Tổ chức Quốc Gia trung ương từ nay không
" đơn độc " quyết định chính hướng
cho đất nước, mỗi lần các " Cộng
Đồng Địa Phương "quyết định
hành xử " Vai Tṛ Hiến
Định" của ḿnh .
Chương tŕnh lănh
đạo đất nước của chính đảng (
hay các chính đảng) đa số đương quyền
bị ảnh hưởng , chuyển đổi nhiều
hay ít, tùy thuộc ở việc hành xử " Vai Tṛ Hiến
Định " của các " Cộng Đồng Địa Phương " có ảnh
hưởng đặt thành điều kiện thiết yếu " sine qua
non" trong việc phát hoạ "dự án luật
" hay không.
Dầu sao đi nữa,
trong việc hành xử " Vai Tṛ Hiến Định " của
ḿnh, các " Cộng Đồng Địa Phương " cũng
đem được ư kiến và ước vọng của
dân chúng sở tại vào Quốc Hội, không những ước
vọng cho các nhu cầu của khu vực mà cả nhu cầu
và ước muốn cho đời sống của xứ sở.
Kế đến các nguyện vọng được viết
thành dự thảo luật mà các " Cộng Đồng
Địa Phương " đem vào Quốc Hội có thể trở
thành tiếng nói của các chính đảng ủng hộ,
hoạch định ra các mục đích mà chính hướng
Quốc Gia cần nhầm tới,
đề thảo ra chương tŕnh chỉ định
phương thức hành động và dụng cụ cần
thiết để thực hiện.
Tất cả những tư tưởng và nguyện vọng
đó có thể trở thành chương tŕnh tranh đấu,
không những để bàn cải trong Quốc Hội, mà có
thể được tuyên
truyền tạo dư luận , ảnh hưởng đến
ư kiến của dân chúng.
1 - Quyền
đề xướng dự án luật Quốc Gia.
Quyền đề ra dự thảo luật Quốc Gia
không phải luôn luôn là một quyền hành phổ quát
trong quá khứ, và cũng không
phải phổ quát ở bất cứ Quốc Gia nào ngay cả
trong hiện tại, ở những Quốc Gia theo thể
chế độc tài, nhứt là độc tài đảng trị của
Cộng Sản chẳng hạn.
Sau Cách Mạng Pháp Quốc
1789, các Hiến Pháp " Jacobine" đều có khuynh hướng độc nhất
quyền hành ( pouvoir monistique) dành quyền soạn thảo
luật cho Quốc Hội, đúng hơn là cho Hạ Viện,
mặc dầu Chính Phủ cũng có thể yều cầu
Hạ Viện quyết định lấy một vài dự
định mà Chính Phủ cho là cần thiết hoặc khẩn
trương.
Chính phủ có thể
yêu cấu Quốc Hội cứu xét:
" Hội Đồng
Lănh Đạo( hành pháp) bất cứ lúc nào có thể yêu cầu
Đại Hội Đồng (Quốc Hội) lưu tâm
đến một vài vấn đề, hoặc có thể
đề nghị những dự định thích hợp,
nhưng không phải là những đồ án được
tŕnh bày rộng rải như là những điều khoản
luật ".
Hiến Pháp của Quốc
Gia Sicilia năm 1812 mở thêm một bước tiến
khác:
" Mọi người
dân siciliano mà không phải là thành viên của Quốc Hội,
có thể đệ đơn tố cáo hoặc đơn
đưa ra một dự án luật nhân danh chính cá nhân ḿnh
hay nhân danh dân chúng, đến Quốc Hội nhờ một
Nghị Sĩ chuyển giao".
Một số Hiến
Pháp khác cũng có khuynh hướng
độc nhất quyền, nhưng thay v́ trao quyền
dự thảo và đề nghị
luật pháp cho quốc Hội, các Hiến Pháp nầy
giao quyền cho Chính Phủ .
Từ thế kỷ
19 trở đi, một số Hiến Pháp mới có khuynh hướng
lưỡng quyền ( dualiste): quyền dự thảo và
đề nghị luật pháp được giao cho cả
Quốc Hội lẫn Chính Quyền ( Hiến Pháp 1830 Pháp quốc;
1831 Vương quốc Bỉ;
Hiến Pháp Lănh Thổ Các Nữ Quận Chúa Sicilia 1820 (
điều 124, 125, 164); Hiến Pháp Cộng Hoà Roma 1849(
điều 30); Hiến Pháp Các Nữ Quận Chúa Sicilia 1848
( điều 6 và 38); Nội quy Albertino ( điều 10):
" Quyền soạn
thảo luật pháp thuộc về Vua và thuộc về hai
Viện Quốc Hội".
Nhưng từ ngữ " ...thuộc hai Viện Quốc
Hội " của Nội Quy Albertino không xác định
rơ là dành cho cả hai Viện quốc Hội như là cơ
quan tổng hợp hay cho ngay cả mỗi thành viên của
hai Viện Quồc Hội cũng có quyền soạn thảo
và đề nghị dự án luật.
Trong thời gian Phát Xít Ư,
quyền soạn thảo và đề nghị dự án luật
bị giới hạn đến vất bỏ đi tính
cách tự lập của Quốc Hội:
" Không một
dự án nào có thể được đặt vào
chương tŕnh nghị sự của một trong hai Viện
quốc Hội, nếu không có sự đồng thuận của
vị Lănh Đạo Chính Phủ " ( Mortati C., La
Costituente, Roma 1945, 217) ( dĩ nhiên là " sự đồng
thuận của Benito Mussolini ").
Lược qua quá
tŕnh của quyền soạn thảo và đề nghị dự
án luật , chúng ta thấy rằng
quyền hạn vừa kể đă biến thiên từ
chế độ " độc nhất hành quyền " sang chế
độ " lưỡng quyền" để bước
tới quan niệm " tản quyền " hiến
định: quyền soạn thảo và đề nghị
dự án luật được giao phó cho nhiều chủ
thể chính trị khác nhau , trong đó có " Cộng
Đồng Địa Phương" mà chúng ta đang
bàn đến.
Tiến tŕnh vừa kể được chúng tôi ghi lại
qua một vài ḍng chữ lược tóm một cách thản
nhiên ôn hoà, nhưng trên thực tế chuyển biến của
ḍng lịch sữ không ôn ḥa vô tội vô dạ như vừa
kể.
Để viết được những điều
khoản của các Hiến Pháp Jacobines Pháp Quốc, dân tộc
Pháp đă phải trả đắc giá bằng cuộc Cách
Mạng 1789 đẩm máu.
Để viết lên những điều khoản của
Hiến Pháp 1947 Ư Quốc và Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên
Bang Đức , dành đặc quyền soạn thảo và
đề nghi dự án luật cho " Cộng Đồng
Địa Phương", cho " Tiểu Bang, Vùng và
Xă Ấp", dân tộc Ư đă trả nhiều máu và nước
mắt cho thể chế độc tài Phát Xít Mussolini và dân
tộc Đức cũng như dân tộc Do Thái đă hy
sinh hàng mấy triệu người trong các mồ chôn tập
thể và ḷ sát sinh của Hitler.
Quyền soạn thảo
và đề nghị dự án luật được trao
cho các " Cộng Đồng Địa Phương"
là một trong những chiến
lợi phẩm to lớn mà dân tộc Ư, Đức nói riêng
và dân chúng Âu Châu nói chung đă dành được trao lại
cho dân tộc họ và cũng
là món quà kinh nghiệm qúy giá cho tất cả các dân tộc yêu chuộng dân chủ , đang
t́m định hướng để đặt nền dân
chủ cho đồng bào ḿnh, dĩ nhiên trong đó có cả
dân tộc Việt nam chúng ta.
Quyền soạn thảo
và đề nghị dự án luật được giao
cho nhiều chủ thể chính trị khác nhau là một gạch nối giữa " dân chủ đại diện"
và " dân chủ tham dự " .
Các Vị soạn thảo
Hiến Pháp 1947 Ư Quốc có ư chọn thể chế dân chủ
đa nguyên cho Quốc Gia Ư trong tương lai bằng
cách đưa vào chính trường
nhiều chủ thể chính trị mới.
Tư tưởng vừa kể đă được
các Vị nêu lên như là nguyên tắc tổng quát ở
điều 5:
" ...( Cộng
Hoà Dân Chủ Ư) trong các ngành phục vụ của Quốc
Gia, thực thi cách thức tản quyền ( decentramento) quản
trị rộng rải hết sức có thể; thực thi
các nguyên tắc và cách thức lập pháp của ḿnh phù hợp
với các nhu cầu tự lập và phân phối quyền lực".
Và nguyên tắc tản
quyền vừa kể được các Vị áp dụng
trong điều 71:
" Quyền
đề xướng luật pháp thuộc về Chính Quyền,
mỗi thành viên của Lưỡng Viện Quốc Hội
và các cơ quan và tổ chức được luật hiến
pháp giao cho.
Dân chúng hành xử quyền đề xướng pháp luật
, qua sự yêu cầu của ít nhứt 50.000 cử tri, bằng
một dự thảo luật viết thành điều khoản"
" ...các cơ
quan và tổ chức ..." được điều
71 đề cập, được qúy Vị nói rỏ
hơn ở điều 99:
" Hội Đồng quốc Gia về kinh tế
và lao động có quyền đề xướng luật
pháp và có thể góp phần vào việc h́nh thành luật pháp về
kinh tế và xă hội theo các nguyên tắc và trong giới mức
pháp định.
C̣n nữa, điều
121:
" Hội Đồng
Địa Phương ( Vùng) hành xử quyền lập
pháp và thiết định quy chế được giao cho
Địa Phương và các vai tṛ khác được Hiến
Pháp và luật pháp quy trách cho. Hội Đồng Địa
Phương có thể tŕnh bày các dự thảo luật
đến Lưỡng Viện Quốc Hội ".
Ư hướng của các Vị
soạn thảo Hiến Pháp 1947 Ư trao quyền đề xướng
luật pháp cho nhiều chủ thể chính trị khác nhau
không phải để phá vở tính cách " duy nhứt
và bất khả phân" của
Quốc Gia như đă nói, các vị cũng không có ư chỉ
dùng các chủ thể chính trị khác nhau hay các chủ thể ngoại vi
đối với tổ chức quyền lực trung ương
của Quốc Gia để " hảm thắng "
cách hành xử lộng quyền nếu có, mà là một thể
thức tổ chức dân chủ với "
quyền chủ thể tản mác, mở rộng
và bổ túc".
" Quyền chủ
thể tản mác " , quyền đề xướng luật
pháp thuộc nhiều chủ
thể chính trị hiện hữu trong nhiều môi trường
và lănh vực đời sống Quốc Gia.
" mở rộng " , những chủ thể
được Hiến Pháp liệt
kê trên văn bản không phải là những chủ thể
độc nhất.
Bản liệt kê c̣n có thể được nới rộng
và nhiều chủ thể chính trị khác có quyền đề
xướng luật pháp sẽ được thiết lập,
tùy nhu cầu tương lai của cuộc sống Quốc
Gia đ̣i hỏi.
" bổ túc ", quyền
đề xướng luật pháp của nhiều chủ
thể ngoại vi được Hiến Pháp giao cho để
bổ túc, hoàn hảo hoá đường lối chính trị
Quốc Gia cùng cộng tác với các cơ cấu quyền
lực trung ương.
Với " Vai Tṛ Hiến Định "qua quyền
đề xướng luật
pháp, Hiến Pháp 1947 Ư có ư bảo đảm cho những chủ
thể có bổn phận hoạt động để
đáp ứng những nhu cầu lănh vực hay địa
phương cũng có phương tiện nói lên nhu cầu và
ước vọng của dân chúng thuộc lănh vực và
địa phương ḿnh.
Quyền đề xướng luật pháp của
các chủ thể chính tri ngoại
vi không phải chỉ là quyền
thêm thắt ư kiến, nhu cầu và ước vọng
hạng hai vào các đồ án " chính thống"
của các cơ chế trung ương.
Hiến Pháp không dành một điều khoản nào để
phân chia chủ thể chính trị hạng A và hạng B.
Điều đó có nghĩa là các dự án luật
được các chủ thể khác với các cơ cấu
trung ương ( Quốc Hội hay Chính Phủ) cũng có
giá trị ngang hàng để hợp tác xác định
đường hướng chính trị Quốc Gia không kém ǵ những dự
thảo luật của Quốc Hội hay Chính Phủ .
Đọc lại các điều khoản 5, 71, 99 và 121 của
Hiến Pháp chúng ta thấy các Vị soạn thảo lựa
chọn các chủ thể chính trị để trao quyền
đề xướng dự án
với mục đích nới rộng trung tâm quyền
lực Quốc Gia đến các chủ thể hiện diện
nơi dân chúng.
- " Dân chúng hành xử quyền
đề xướng luật pháp qua sự yêu cầu của
ít nhứt 50.000 cử tri, bằng một dự án luật
được viết thành điều khoản" .
Trao khả năng hành xử quyền đề xướng
luật pháp cho dân chúng, các Vị có ư nhắc nhở cho bất
cứ ai đang hành quyền Quốc Gia nhớ rằng
người dân đang thực thi quyền đề xướng
luật pháp chính là chủ nhân uy quyền tối thượng
của Quốc Gia, cũng chính là chủ nhân quyền lập
pháp. Bởi lẽ trong thể chế dân chủ, việc
tuyên bố quyền sở hữu
Quốc Gia thuộc về dân thôi chưa đủ. Người dân
vẫn là chủ nhân của uy quyền Quốc Gia cả
trong lúc các đại diện hành xử quyền lực của ḿnh, cho
dầu đă giao phó một cách chính danh và hợp pháp cho các
" cơ quan chuyên biệt lập pháp, hành pháp và tư
pháp".
Quan niệm trao quyền
đề xướng luật pháp cho các " Cộng
Đồng Điạ Phương", cơ quan đại
diện cho dân chúng sống trong lănh thổ, như là chủ
thể chính trị nói lên ư kiến , nhu cầu và ước
vọng của một phần công dân , hợp tác để
quy định đường lối chính trị Quốc
Gia , là quan niệm tích cực để xây dựng đất
nước. Ư kiến, nhu cầu và ước vọng của
dân chúng trong vùng mà " Cộng Đồng Địa
Phương" là đại diện đề xướng
đưa vào Quốc Hội ,
là những sáng kiến,
những kiến thức đa diện góp phần hoàn hảo
hóa những thiếu sót của các cơ chế trung
ương.
Dân chủ không phải
chỉ có ư nghĩa " Chủ quyền thuộc về
dân ", mà c̣n có nghĩa là " chủ quyền Quốc
Gia tản mác trong dân chúng ", " khác biệt trong hợp
tác, hướng về một mục đích ", "
phong phú, đa dạng trong hợp nhất" .
Trái lại, độc
tài, độc đảng có nghĩa là đồng nhất với
đơn điệu , cùn uẩn và bịt mắt để
chỉ nh́n thấy một chiều.
- " Hội Đồng Quốc Gia
đặc trách Kinh Tế và Lao Động " có quyền đề xướng luật
pháp và cộng tác vào việc soạn thảo luật pháp
liên quan đến lănh vực kinh tế và xă hội.
Giao cho Hội Đồng
Quốc Gia đặc trách Kinh Tế và Lao Động quyền
đề xướng luật pháp, Hiến Pháp muốn cho
lănh vực kinh tế và xă hội cũng góp ư kiến, nói
lên nhu cầu và nguyện vọng của lănh vực ḿnh
trong việc quy định đường hướng
lănh đạo Quốc Gia.
Và bên cạnh quyền
đề xướng dự án luật, dĩ nhiên hàm chứa
cả quyền thu hồi dự án đă
được đệ tŕnh .
Quyền thu hồi dự
án bề ngoài có thể là một thể thức đơn
sơ, nhưng hàm chứa những hậu quả quan trọng,
nhứt là khi những chủ thể đề xướng
dự án, đứng ra thu hồi là những chủ thể
chính trị có " Vai tṛ Hiến Định ".
Như chúng ta đă
bàn qua ở trên, quyền đề xướng dự án luật
là một quyền chính trị quan trọng, được
Hiến Pháp ủy thác cho các cơ cấu trung ương (
Quốc Hội và Chính Phủ) cũng như cho các chủ
thể chính trị ngoại vi ( dân chúng, Cộng Đồng
Địa Phương, Hội Đồng đặc trách
Kinh Tế và Lao Động ) để cùng nhau cộng tác
xác định đường hướng chính trị Quốc
Gia.
Quyền đề xướng dự án luật do đó được các chủ
thể ngoại vi đệ tŕnh nhằm ảnh hưởng
chương tŕnh lănh đạo Quốc Gia của đa số đương
quyền ( đa số trong Quốc Hội chuẩn y và
đa số thành viên của Chính Phủ được Quốc
Hội tín nhiệm). Đặt quyền đề xướng dự án luật trong bối cảnh
vừa kể, chúng ta sẽ thấy tầm quan trọng của
quyền thu hồi dự án.
Đa số đương quyền trung ương có
thể lấy số đông bất chấp ư kiến và
ước vọng của các chủ thể chính trị ngoại
vi. Các chủ thể chính trị
dùng quyền thu hồi dự án, nếu dự án đang bị "ngâm tôm"
hay bị cắt xén, sửa đổi làm mất đi
ư nghĩa quan trọng của nội dung, để tuyên bố
cho dân chúng biết thái độ bất đồng chính kiến
với đa số.
Đành rằng trong
thể chế dân chủ "quyền chuẩn y hay bác bỏ
" hoàn toàn thuộc thẩm quyền " lập pháp"
của quốc Hội.
Không một chủ thể
chính trị nào, kể cả Chính Phủ , có quyền gây áp
lực đối với Quốc Hội trong việc hành xử
quyền " chuẩn y hay bác bỏ " của ḿnh,
ngoại trừ những trường hợp khẩn cấp.
Nhưng các chủ thể chính trị ngoại vi dùng quyền
thu hồi dự án của ḿnh để nói lên thái độ
bất đồng ư kiến về đường lối
và phương thức điều hành đất nước,
Quốc Hội cũng như Chính Phủ
đương quyền nhiều lúc phải "quào đầu gải tóc "
vài lượt trước khi quyết định để
cho sự việc có thể xảy ra, ảnh hưởng đến dư luận
bất lợi của quần chúng cho những lần bầu
cử tới.
Quyền thu hồi dự án luật được
đề nghị là một lợi
khí tranh đấu chính trị, bảo đảm cho dân chủ
bằng cách bênh vực quyền chính trị của thiểu
số.
Dưới cái nh́n
đó, quyền đề xướng dự án luật
không phải chỉ được coi là " hữu hiệu"
hay " có kết quả " , " thắng cuộc
" khi dự án đưa ra được " chuẩn y " thành luật . Dự
án luật được đề nghị cũng có thể
được coi là " thắng cuộc ", "
có kết quả " mỹ
măn ngay cả khi bị " bị
bác bỏ " hay " bị thu hồi",
bởi những ảnh hưởng chính trị của nó
có thể gây ra.
Thể chế dân chủ
là vậy. Thể chế dân chủ không phải là
phương thức cai trị đất nước, trong
đó luôn luôn đa số đè bẹp thiểu số,
" cả vú lấp miệng em" hay
" Les raisons des plus
forts sont toujours les meilleures" ( La Fontaine).
( Lư lẽ của
kẻ mạnh bao giờ cũng thắng thế ),
mà là sức mạnh của
lẽ phải , của lư trí, của công ích cuối cùng sẽ
vượt thắng ngu dốt, cố chấp và ích kỷ.
2 - Quyền
đề xướng trưng cầu dân ư băi bỏ luật
Quốc Gia.
«
Vai Tṛ Hiến Định » thứ hai được các Vị
soạn thảo Hiến Pháp 1947 Ư giao cho các « Cộng Đồng Địa
Phương » là quyền đề xướng « trưng
cầu dân ư băi bỏ » luật Quốc Gia.
Mục đích của " trưng cầu
dân ư băi bỏ " ( referendum abrogatif) là để đối chiếu kết quả
các hoạt động lập pháp của Quốc Hội với
nguyện vọng của dân chúng.
« Vai Tṛ Hiến Định
» vừa kể của các «
Cộng Đồng Địa Phương »
được Hiến Pháp xác định :
- « Trưng
cầu dân ư để băi bỏ toàn diện hay một phần
điều khoản luật pháp hoặc các sắc lệnh
có hiệu lực pháp định sẽ được
đề xướng, khi có 50.000 cử tri hoặc 5 Cộng
Đồng Địa Phương vùng yêu cầu".(
Điều 75, Hiến Pháp 1947 Ư Quốc)
Đọc điều
khoản vừa kể của Hiến Pháp, 50 năm sau thời
gian tuyên bố ( 2001 - 1947), khi chúng tôi viết bài nầy, chúng ta có thể đọc một
cách trầm tĩnh vô thưởng vô phạt, như là các Vị
soạn thảo viết ra một cách tự nhiên. Điều
đó không hẳn đă như vậy trong thời gian soạn
thảo.
Điều mà các Vị
lo lắng là làm thế nào cho
quyền đề xướng « trưng cầu dân ư băi bỏ » không trở thành « dụng
cụ chống đối không có cách ǵ can thiệp được giữa
khuôn mẫu thể chế đại nghị ( dân chủ đại diện)
và dân chủ trực tiếp » ( T. Martines, Diritto Costituzionale. IX ed., Giuffré, Milano 1998, 419-420)
Nhiều vị lo ngại
rằng gán cho thể thức « trưng cầu dân ư băi bỏ » quá nhiều quyền lực,
trưng cầu dân ư có thể trở thành dụng cụ phá
vỡ đại nghị chế,
tạo ra khủng hoảng mối tương giao giữa
Quốc Hội-Chính Phủ và Dân Chúng.
Do đó nhiều ư kiến cho rằng xử dụng « trưng
cầu dân ư băi bỏ » là tạo
thêm vấn đề thay v́ là phương cách giải quyết
những nhược điểm của đại nghị
chế
Nhiều ư kiến
được đưa ra, trong
đó có cả ư kiến của nhà hiến pháp học
nổi tiếng của Ư , GS C. Mortati, như:
"làm thế nào dể dân chúng khi
xử dụng " trưng cầu dân ư băi bỏ " không
trở thành trọng tài trong các cuộc tranh chấp chính trị
giữa các cơ chế Quốc
Gia" ( Mortati C., La Costituente,
Darsena, Roma 1945, 226).
Xử dụng quyền " trưng
cầu dân ư băi bỏ "
, dân chúng hành xử quyền hạn vừa kể để
cộng tác với Quốc Hội trong việc thiết
định luật pháp, nói riêng và chính hướng Quốc
Gia nói chung.
" Trưng cầu dân ư băi bỏ ", " phương thức dân chúng hành xử quyền
lập pháp, là dụng cụ để đốc thúc các
cơ quan đại diện,
dụng cụ giáo dục người dân, thể thức
để phân chia quyền lực chính trị và điều
hoà quyền chế tài toàn năng của các chính đảng" , " là một
tác động hiệu chính ( sửa chửa, correctif) thể chế dân chủ
đại diện, có sức mạnh phá vỡ ( những
ǵ không thích hợp) ", tư tưởng của
L.Einaudi, vi Tổng Thống đầu tiên của Cộng
Hoà Dân Chủ Ư ( Mortati C., op.
cit., 312).
Có lẽ một
trong những vấn đề quan trọng mà các Vị soạn
thảo Hiến Pháp 1947 Ư không để ư bàn đến khi
các Vị giao quyền " trưng
cầu dân ư băi bỏ" về cho dân chúng và cho " Cộng
Đồng Địa Phương", đó là tính cách
bắt buộc của kết quả trưng cầu dân ư.
Kết quả của
trưng cầu dân ư có tính cách bắt buộc không và bắt
buộc tuân giữ đến bao lâu?
- Có người cho rằng những
kết quả của trưng cầu dân ư có hiệu lực
như những đạo luật thông thường khác. Do
đó cũng có hiệu lực như là những đạo
luật phủ quyết ( cấm không được xử
dụng đạo luật vừa
bị thu hồi, trường hợp " trưng cầu
dân ư băi bỏ " ).
Nhưng nếu hiểu hiệu lực của kết quả
trưng cầu dân ư như vừa kể , tức là có giá trị
như một đạo luật thông thường , không biết
tại sao cơ quan lập pháp ( Quốc Hội) không thể
can thiệp để sửa đổi một phần hay
toàn diện điều khoản luật mà họ vẫn
hành xử thường nhật đối với các đạo
luật thông thường hoặc soạn thảo một
đạo luật mới để lập lại hiệu
lực , một phần hay toàn diện, đạo luật
vừa được trưng cầu dân ư xoá đi.
Đó là điều đă xảy ra ở Ư, khiến cho Ủy Ban Đề Cử
Trưng Cầu Dân Ư đệ đơn phản đối chống lại việc Quốc Hội
soạn thảo ra những đạo luật khác, vi phạm
kết quả trưng cầu dân ư 1993, băi bỏ luật
đài thọ chi phí cho các chính đảng .
- Ư kiến khác cho rằng kết quả
của trưng cầu dân ư có hiệu lực không thể được đặt ngang hàng
với các điều khoản luật thông thường. Kết
qủa của trưng cầu dân ư có đặc tính liên hệ
trực tiếp với ư chí và quyền tối thượng
của dân chúng, do đó " có giá trị hơn" (plusvalore), có tính các bắt buộc
mà không ai có thể đá động được, chỉ
trừ khi có một cuộc trưng cầu dân ư mới, thu
hồi kết quả của cuộc trưng cầu dân ư vừa
kể
- Một ư kiến
khác nữa đồng ư với chủ trương vừa
kể. Quốc Hội sẽ vi phạm điều 1 và
điều 75 của Hiến Pháp ( điều 1 đề
cập đến quyền tối thượng của Quốc
Gia thuộc về dân chúng, và điều 75 đề cập
đến việc dân chúng hành
xử quyền tối thương của ḿnh qua thể thức
trưng cầu dân ư), nếu Quốc Hội lấy lại
y trang điều luật vừa bị trưng cầu dân
ư tước bỏ đi , " ex tunc".
Trái lại Quốc Hội
sẽ không có hành động vi hiến, nếu Quốc Hội
dựa vào những điều kiện hiện tại
" ex nunc", sau khi đạo luật bi
băi bỏ, với
nhiều yếu tố đă thay đổi để "
chuẩn y" một đạo luật liên hệ,
có giá trị một phần hay hoàn toàn không giống đạo
luật bị băi bỏ.
Dĩ nhiên trong một
Quốc Gia không thể có hai quyền tối thượng,
một được dân giao cho Quốc Hội ( dân chủ đại diện), một
được dân chúng hành xữ trực tiếp ( qua
trưng cầu dân ư , dân chủ trực tiếp), cũng
không phải đặt quyền tối thượng nầy
ưu tiên, cao trọng hơn quyền tối thượng
khác. Giải pháp có thể áp dụng cho vấn đề là
qua trưng cầu dân ư, dân chúng, chủ nhân của quyền
tối thượng Quốc Gia, đă bày tỏ ư kiến của
ḿnh, đặt Quốc Hội với trách nhiệm của
ḿnh trước dân chúng.
Quốc Hội muốn biết hay không muốn biết
tùy ở Quốc Hội , cơ quan được dân tuyển
chọn để thi hành ư muốn của dân . Quốc Hội
sẽ nhận lấy hậu quả của việc chọn
lựa trong kỳ tuyển cử tới.
Dù sao chúng ta không
nên quan niệm rằng trưng cầu dân ư là hành động
chống bán , khai trừ, đoạn giao giữa dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện, mà là
phương thức để cân bằng hai h́nh thức hành xử quyền
lực Quốc Gia, một phương thức điều
chỉnh cần thiết để hoàn hảo hóa dân chủ
đại diện: " ...một phuơng thức
điều chỉnh dân chủ đại diện bằng
bằng một yếu tố dân chủ trực tiếp" ( T. Martines, op. cit., 421).
Chúng tôi nêu lên sự
thiếu sót vừa kể trong Hiến Pháp 1947 Ư để
cho những Vị soạn thảo Hiến Pháp tự do, dân
chủ và nhân bản của Việt Nam trong tương lai
lưu ư.
Trưng cầu dân ư và Cộng Đồng Địa Phương.
Quyền hành xử
" trưng cầu dân ư băi bỏ " được Hiến
Pháp 1947 Ư ủy nhiệm cho dân
chúng và các " Cộng Đồng Địa Phương ".
Với quyền
" trưng cầu dân ư băi bỏ " Hiến Pháp giao cho " Cộng
Đồng Địa Phương " thẩm quyền
quan trọng: can thiệp vào hệ thống luật pháp, thể thức căn bản để tổ chức đời sống
và xác định đường hướng chính trị
quốc gia, bất cứ lúc nào.
- Với quyền đề
xướng dự án luật, " Cộng Đồng
Địa Phương" thúc đốc, góp ư kiến
và cảnh tỉnh Quốc Hội trong thời gian soạn
thảo và biểu quyết trước khi ban hành luật
pháp.
- Quyền " trưng cầu dân ư băi bỏ" cho
phép " Cộng Đồng Địa Phương"
tường tŕnh và kêu gọi dân chúng hợp tác " băi bỏ
" một phần hay toàn phần một điều
luật không hợp với ḷng dân, chủ nhân quyền tối
thượng Quốc Gia.
Nếu đối với
quyền đề xướng dự án luật, mỗi
" Cộng Đồng Địa Phương "
vùng đều có thể tự ḿnh đề xướng,
đối với quyền " trưng cầu dân ư băi bỏ
" , để tránh mọi
xử dụng một cách nhẹ dạ đối với
một hành động quan trọng như vậy, băi bỏ
điều khoản luật lệ ( điều lệ và
thể thức trên đó được xây dựng đời
sống cộng đồng Quốc Gia), các Vị soạn
thảo Hiến Pháp 1947 Ư đă nghĩ đến việc
đặt thêm điều kiện gia trọng:
- "
Việc trưng cầu dân ư băi bỏ..., khi có 50.000 cữ
tri hoặc 5 Cộng Đồng Địa Phương
vùng yêu cầu" ( Điều
75, Hiến Pháp 1947 Ư Quốc)
Điều đó có nghĩa
là quyền " trưng cầu
dân ư băi bỏ " có thể
được khởi xướng bởi một hay vài
thành viên của Hội Đồng Tỉnh ( đối với
hai tỉnh tự
lập Trento-Bolzano) hay Hội Đồng Vùng, với sự
biểu quyết đồng thuận qua đa số tuyệt
đối ( 50% + 1 phiếu) của Hội Đồng.
Sau đó Hội Đồng Tỉnh hay Vùng khởi
xướng phải t́m được 4 Hội Đồng Tỉnh hay Vùng
khác cùng đồng thuận liên kết ủng hộ ,
được thành viên của các Hội Đồng bỏ
phiếu đồng thuận như trên ( Điều 27- 40, Đạo Luật 25.05.1970, n. 352)
Ngoại trừ
điều kiện gia trọng vừa kể, quyền
"trưng cầu dân ư bải bỏ " của các "Cộng Đồng Địa
Phương" không bị một giới hạn nào nữa,
nếu không phải đối với những luật
khuôn khổ ( legge - cornice) hay luật áp dụng một
nguyên tắc của Hiến Pháp ( legge a contenuto costituzionale)
và các luật lệ dành cho quyền hành xử đặc
nhiệm ( tuyên chiến,
luật liện hệ để giải quyết tranh chấp
giữa điạ phương và trung ương, luật
dành riêng quyền hạn cho Quốc Hội, Nội Quy riêng
biệt của địa phương). Bởi lẽ xoá bỏ
đi luật khuôn khổ hay luật áp dụng nguyên tắc
Hiến Pháp như vừa kể là vi phạm đến
ngay cả Hiến Pháp, nền tảng của Quốc Gia.
Song song với
điều kiện gia trọng bắt buộc 5 Hội
Đồng Tỉnh hay Vùng đồng thuận liên kết
nhau để có thể xử dụng quyền " trưng
cầu dân ư bải bỏ" , Hiến Pháp 1947 Ư đă tạo
ra một chủ thể chính trị mới , do sự tập
hợp 5 Hội Đồng Cộng Đồng Địa
Phương tạo ra, một chủ thể chính trị có
thẩm quyền đối thoại và được Hiến
Pháp giao phó khả năng hành xử quyền lực Quốc
Gia để cộng tác với Quốc Hội, đối
thoại với Chính Phủ và hướng dẩn dân chúng.
Đó là ư nghĩa phán quyết của Viện Bảo Hiến
trong phiên ṭa ngày 3.3.1978:
" ( Viện Bảo
Hiến xác nhận rằng) giữa những chủ thể
hành xử quyền lực quốc Gia, chúng ta có thể liệt
kê cả những chủ thể hay tổ chức không hẳn
phải thuộc vào các cơ chế tổ chức trực
tiếp của Quốc Gia ( Lập Pháp, Hành Pháp và Tư
Pháp) .
Ư nghĩa phán quyết
của Viện Bảo Hiến vừa kể cho thấy
tính cách dân chủ đa nguyên của Hiến Pháp Ư.
Quyền hành xử
quyền lực Quốc Gia không phải chỉ tập trung
vào tay của đa số đương quyền, hiện
diện trong các cơ cấu trực tiếp của Quốc
Gia ( Quốc Hội,
Chính Quyền và Toà Án).
Quyền hành xử quyền
lực Quốc Gia cũng được Hiến Pháp nh́n nhận
, giao cho các chính đảng ( đương quyền hay
đối lập cũng vậy, điều 49), giao cho Hội
Đồng đặc trách Kinh Tế và Lao Động, cho
Cộng Đồng Địa Phương , hành xử
riêng rẻ hay liên hệ với các Cộng Đồng
Địa Phương khác. Và danh sách các chủ thể
chính trị có thể c̣n được
thể chế dân chủ mở
rộng thêm nữa, tùy nhu cầu đ̣i hỏi.
Với hai quyền hành
vừa kể được Hiến Pháp giao phó, " quyền đề
xướng dự án luật " và quyền khởi xướng " trưng cầu
dân ư băi bỏ " các " Cộng Đồng
Địa Phương" có được một vũ
khí song đôi để chấn chỉnh, hoàn hảo hóa hệ
thống luật pháp Quốc Gia và
đường hướng chính trị của đất
nước:
* Quyền đề xướng dự án luật mới
, không những để thành lập một điều khoản
luật chưa bao giờ được đề cập,
mà cũng có thể là một đạo luật mới thay
thế một điều khoản cũ không c̣n " hợp
t́nh hợp cảnh", " không đáp ứng nhu cầu,
đi ngược lại ước vọng của dân
chúng..." .
Đó là một h́nh thức gián tiếp để xoá bỏ
" đạo luật lỗi thời", có hiệu
lực không khác ǵ kết quả của " trưng cầu
dân ư băi bỏ ". Do
đó, để đạt được mục đích,
Cộng Đồng Địa Phương có thể xử
dụng quyền đề xướng dự án luật hoặc
quyền khởi xướng
"trưng cầu dân ư băi bỏ " hoặc cả hai cùng một
lúc.
* Giao cho " Cộng
Đồng Địa Phương" quyền đề
xướng dự án luật và quyền khởi xướng "trưng cầu dân ư băi bỏ " để
- đốc thúc, góp ư kiến và cảnh tỉnh Quốc Hội
trong thời gian soạn thảo và biểu quyết luật
pháp,
- cũng như thay mặt
cho dân chúng kiểm soát , báo động và thối thúc dân
chúng biểu quyết khai trừ
những điều luật không phù hợp với lư
tưởng và nhu cầu của cuộc sống Quốc
Gia, Hiến Pháp 1947 Ư đă nh́n nhận vai tṛ chính trị
quan trọng của " Cộng Đồng Địa
Phương" trong việc cộng tác và kiểm soát
đường hướng chính trị Quốc Gia.