BẠO ĐỘNG
BẤT BẠO ĐỘNG?
Đỗ
Thông Minh
Luận
bàn về:
- Bản Chất Con Người
- Các Tư Tưởng Đấu Tranh Cách Mạng
- Các Cuộc Đấu Tranh Cách Mạng
- Cuộc Đấu Tranh Dân Chủ Đầu
Tiên Tại Việt
- Cuộc Đấu Tranh Dân Chủ Hiện
Nay
- Chúng Ta Rút Ra Được Bài Học Ǵ?
Bản Chất
Con Người
Giả thử như có hai người căi
nhau v́ tai nạn giao thông.
1- T́nh huống có thể là đi tới ẩu
đả trước khi phải nhờ đến pháp luật
can thiệp vừa về tai nạn giao thông, vừa về
chuyện ẩu đả. V́ khi cuộc căi vă lên cao độ,
một bên không dằn ḷng được đă vung tay vung
chân đánh đá trước.
2- T́nh huống có thể là sau đó mời cảnh
sát tới, căn cứ trên luật giao thông giải quyết
phải-trái một cách êm đẹp. Hai bên tuy căi nhau
nhưng đều cố gắng dằn ḷng, không ai vung tay
vung chân đánh đá trước.
Bạn nghĩ ǵ về hai t́nh huống này?
Trường hợp đầu giải quyết
bằng bạo động bất chấp luật pháp,
như vậy liệu có nh́n ra lẽ phải từ kết
quả ẩu đả chăng, chưa kể tưởng
là nhanh cuối cùng vẫn phải nhờ đến luật
pháp, công lư, vừa mất nhiều th́ giờ vừa rắc
rối hơn.
Trường hợp sau giải quyết bằng
bất bạo động thông qua luật pháp, hai bên đều
ư thức và chấp nhận, thể hiện nếp sống
văn vóa, văn minh, tuy hơi mất th́ giờ.
- - - - -
Người ta vốn
thích bạo động hay bất bạo động? Muốn
biết điều này th́ không ǵ hơn là hăy thử t́m về
bản chất con người.
1- Nho Gia (儒家) cho là “Nhân chi sơ tính bản thiện.”,
con người ta được sinh ra bản chất thiện,
trong trắng như tờ giấy trắng. Nhưng khi vào
đời, do va chạm quyền lợi, tham sân si mà sinh ra
có những hành vi ác. Do đó, phải lấy khoan nhu dĩ
giáo mà khuyên bảo. Như xưa th́ vua nên thân với dân…
2- Pháp Gia (法家) cho rằng “Nhân chi sơ tính bản ác.”,
như cá lớn đớp cá bé vậy, theo lẽ mạnh
được yếu thua hay bị đào thải như
tiến hóa luận của Charles Robert Darwin. Do đó, phải
dùng luật pháp nghiêm minh, h́nh phạt nặng nề th́ mới
duy tŕ trật tự được. Vua mà thân với dân th́
dân sẽ lờn…
3- Vương Dương Minh (王陽明, 1474-1528) cho rằng
“Thể của tâm vô thiện
- vô ác”, tức bản thể không thiện không ác, chỉ
do động của ư mới sinh ra thiện-ác. Quan niệm
này cũng hơi giống với Tây Phương khi cho rằng
trong mỗi người đều có cả hai vị thần
thiện và thần ác ngự tri trên vai, tranh chấp nhau
thường xuyên, lôi cuốn người ta về phía này
hay phía kia...
Dù quan niệm
như thế nào th́ thực tế cho thấy con người
có lư trí, có lương tri, ai cũng muốn hướng tới
“nhân ái” (仁愛), nếu có phải làm chuyện
“phi nhân” (非人), là điều chẳng đặng
đừng. Tóm lại, con đường chung của con
người vẫn luôn là muốn hướng tới “nhân đạo” (人道). Người ta
chẳng thường chúc nhau “b́nh an, an khang”, hay “chúc điều
lành, tránh diều dữ” đó sao.
Tuy nhiên, thực tế
lịch sử nhân loại và các dân tộc nói chung đều
là lịch sử chiến tranh, trong nhiều trường hợp,
con người coi chiến tranh là phương tiện
đắc dụng để giải quyết những
tranh chấp lớn cho đến khi chủ nghĩa Dân Chủ
ra đời th́ h́nh thái đấu tranh bất bạo động
mới được đề cao và coi là một
phương thức đấu tranh có văn hoá và văn
minh. Thế nên trong những công cuộc đấu tranh
giành Tự Do - Dân Chủ hay quyền sống nói chung, chúng
ta thường phải đứng trước hai chọn
lựa nên dùng phương thức: bạo động (riot, 暴動) hay bất bạo động (non-riot, 不暴動)?
Bạo động (riot, 暴動) mà cao độ là bạo lực (violence, 暴力) và cực điểm
là khủng bố (terror, 恐怖) hay chiến tranh (war, 戦争), là sự bộc
phát mạnh mẽ thường có vũ trang, có thể phát
huy tối đa sức mạnh, dễ chiến thắng nhất
thời bằng áp lực chứ không phải bằng chính
nghĩa và thường gây đổ máu, chết chóc, thiệt
hại tài sản...
Ngày xưa, các vơ
sĩ giải quyết tranh chấp bằng giác đấu.
Hiệp sĩ Âu Châu và Samurai Nhật giải quyết bằng
kiếm. Cao bồi miền Tây Hoa Kỳ và nhiều nơi ở
Âu Châu giải quyết bằng súng… Sẽ có người thắng
kẻ thua, nhưng chuyện thắng thua chỉ là dựa
trên sức mạnh hay khả năng dùng kiếm, súng chứ
không thể hiện chính-tà, thiện-ác. Những công cuộc
đấu tranh của quần chúng có khi đi đến bạo
động, c̣n thường các cuộc nội chiến hay
đấu tranh giành độc lập đều nhuốm
màu bạo lực…
Cuộc đấu
tranh giành độc lập của Phong Trào Văn Thân, Cần
Vương, Duy Tân Hội 1904 của cụ Phan Bội Châu
(1867-1940)… hay Cách Mạng Hoa Kỳ 1775, Cách Mạng Pháp 1789,
Cách Mạng Trung Hoa 1911… là những thí dụ điển
h́nh cho phương thức nhất thời này. Nhưng Cách
Mạng Vô Sản ở Nga 1917, Trung Quốc 1949, Việt
Bạo lực thực
ra không nhất thiết luôn luôn đi kèm với vũ trang là
“bạo lực thể xác”,
v́ đôi khi người ta cũng dùng từ “bạo lực ngôn ngữ” (言語暴力) hay “bạo lực tinh thần” (精神暴力). Là loại bạo
lực dùng lời nói cực kỳ thô lỗ, sắt máu hay
các h́nh thức cô lập, đe dọa bản thân hay gia đ́nh,
áp bức để khủng bố
tinh thần (精神恐怖) như kiểu “ṭa án nhân dân”... th́ cũng là một
loại cực h́nh rất hiểm độc. Tuy nhiên, loại
bạo lực này thường diển ra trên quy mô nhỏ và
khó nhận ra.
Bất bạo động (non-riot, 不暴動) kiên quyết phi bạo lực (non-violence, 非暴力), là sự tự
chủ, vượt thắng những vọng động, sắt
máu, dùng lương tri và những biện pháp ôn hoà mà nếu
biết, có thể phát huy sức mạnh tiềm tàng là sự
đồng tâm nhất trí của nhiều người thành
sức mạnh vô song, mà không gây đổ vỡ, tang tóc...
Với chủ
trương này, người ta giải quyết các tranh chấp
trên bàn hội nghị, hay như Takamori Saigo (西郷隆盛, Tây Hương
Long Thịnh, 1827-1877) chiếm thành Edo (江戸, tên cũ của Tokyo (東京)) năm 1869 mà
không tốn một giọt máu, gọi là “vô huyết khai
thành”. Đánh nhau để chiếm thành là chuyện b́nh
thường, thuyết phục mà chiếm được
thành mới là điều đáng được ca ngợi.
Cộng cuộc
đấu tranh Dân Chủ - Bất
Bạo Động của Phong Trào Duy Tân với cụ
Phan Châu Trinh (1872-1926), Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), Trần Quư
Cáp (1870-1908)… khởi xướng năm 1904 hay cuộc
đấu tranh bất bạo
động và bất phục tùng (dựa trên “civil
disobedience” của Henry David Thoreau (1817-1862)) của Thánh Mahatma
Gandhi (1869-1948) là những thí dụ điển h́nh cho
phương thức này. Một trong những yếu tính
quan trọng nhất của Dân
Chủ chính là Bất Bạo
Động, mọi người được tự
do phát biểu hay biểu t́nh, tự do vận động,
dùng lá phiếu… nhưng cấm bạo động, đó là
hiện thực trong các xă hội Dân Chủ Âu, Mỹ, Nhật...
ngày nay.
Với những công
cuộc vận động lớn lao có đông đảo
quần chúng tham dự, khi sự phẫn uất lên cao
độ, khó có thể nói trước cuộc đấu
tranh sẽ đi theo phương thức nào, tuy nhiên những
nhà lănh đạo phải kiên tŕ với chủ
trương căn bản là bất bạo động.
Cách mạng là việc làm vô cùng gian nan, cũng vô cùng thiêng
liêng cao cả v́ liên hệ trực tiếp đến toàn
thể dân tộc hay nhân loại, do đó, dù có cơ hội
tiến hành cũng phải thật thận trọng. Phải biết tuỳ thời
mà bạo động hay bất bạo động.
Đấu tranh bạo động (riot, 暴動) thường huy
động sức mạnh vật chất, ỷ lại và
vội vă dùng nhiều loại vũ khí khác nhau một cách
thô bạo, th́ đấu tranh bất bạo động
(non-riot, 不暴動) huy động sức mạnh tinh thần,
không có nghĩa thụ động, mà ngược lại rất
kiên tŕ và tích cực vận dụng: ư chí sắt đá, hiểu
biết t́nh h́nh, nắm vững luật pháp, nhẫn nại
chịu đựng, thanh thản tù đày… tin tưởng
thành công.
Bạo động nhắm tới
huy động thiểu số háo động, bất bạo
động nhắm tới huy động đa số thầm
lặng.
Các Tư
Tưởng Đấu Tranh Cách Mạng
H́nh
thái đấu tranh thay đổi tùy theo thời đại
nhưng tựu chung có hai khuynh hướng chính là bạo
động và bất bạo động.
1-
Về chủ trương bạo động.
- Tuân Tử (遵子, 300-237 TCN), nguyên là Nho Gia nhưng chủ trương con người bẩm sinh là ích kỷ và có tính ác, tính
thiện chỉ có được nhờ giáo dục. Ông cho
rằng cách cai trị tốt nhất là dựa trên sự
kiểm soát độc đoán, và đạo đức không
liên quan tới hiệu quả cai trị. Tư tưởng
này đă được Hàn Phi (韓非,
ch. 233 TCN) và Lư Tư (李斯,
ch. 208 TCN) phát triển thành một học thuyết của phái Pháp Gia.
Theo đó, bản tính con người là ích kỷ và không thể sửa đổi; v́ thế, để giữ trật tự xă hội cách duy nhất là áp đặt kỷ luật chặt chẽ từ bên trên xuống, coi quyền lực của
nhà nước quan trọng hơn phúc lợi của người dân.
- Niccoḷ Machiavelli (1469-1527), triết gia về chính trị học người Ư, đă viết
tác phẩm Quân Vương (The Prince) vào năm 1515, cho rằng muốn đạt được mục đích cũng như sử dụng quyền lực hiệu quả, phải
thực hiện các phương pháp phi đạo đức ngoài ư muốn. Ông được coi như là đại biểu của chủ
trương: “Cứu cánh biện minh cho phương tiện” (The end justifies
the means).
Chủ
trương cứu cánh biện minh cho phương tiện rất
thông dụng trong xă hội phong kiến, quân chủ
chuyên chế và với những nhà lănh đạo
độc tài hay Cộng Sản, luôn muốn đạt
đến tột đỉnh quyền lực cùng sự thống trị xă hội tuyệt
đối bằng mọi giá.
- Marx - Engels, chủ trương “bạo
lực ” với những tư tưởng kích động
giới lao động tay chân, các nhân công đi vào bạo
động qua bản “Tuyên
Ngôn Cộng Sản” năm 1848 với khẩu hiệu “Thế giới vô sản
đoàn kết lại”,
“Đấu tranh giai cấp” do Karl Marx (1818-1883, triết
gia về chính trị - kinh tế người Đức gốc
Do Thái) và Friedrich Engels (1820-1895, triết gia về chính trị
người Đức)… biên soạn.
Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản
bắt đầu bằng lời xác nhận rằng lịch
sử của nhân loại là “lịch
sử của đấu tranh giai cấp” (history of class
struggle). Chính sự tranh chấp giữa các giai cấp
đă gây nên các hoạt động của xă hội. Trong
tuyên ngôn có viết: “Đặc trưng của chủ
nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế
độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ
sở hữu tư sản. Nhưng chế độ
tư hữu hiện thời, chế độ sở hữu
tư sản, lại là biểu hiện cuối cùng và hoàn bị
nhất của phương thức sản xuất và chiếm
hữu dựa trên cơ sở những đối kháng giai
cấp, trên cơ sở những người này bóc lột
những người kia. Theo ư nghĩa đó, những
người cộng sản có thể tóm tắt lư luận
của ḿnh thành công thức duy nhất này: xóa bỏ chế
độ tư hữu…”. “Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự
đoạn tuyệt triệt để nhất với chế
độ sở hữu
cổ truyền; không có ǵ đáng lấy làm lạ khi thấy
rằng trong tiến tŕnh phát triển của nó, nó đoạn
tuyệt một cách triệt để nhất với những
tư tưởng cổ truyền…”.
Mark đă
mù quáng khi kịch liệt kết án Tư Bản một
cách méo mó qua bộ “Tư Bản
Luận” 3 cuốn được xuất bản vào
năm 1867, 85, 94, đă được coi là “Thánh Kinh của
giai cấp lao động”. Và tập thứ tư là “Lư thuyết
Của Giá Trị Thặng Dư” (The Theory of Surplus Value) xuất
bản từ năm 1905 đến 1910.
Ngày
25/1/2006, Hội Đồng Âu Châu ra nghị quyết 1481,
lên án các chế độ Cộng Sản đă tàn sát
người hàng loạt như Phát-xít (Fascism, Chủ
Nghĩa Dân Tộc Cực Đoan). Nghị quyết có 14 điều rất cụ
thể và nghiêm minh, trong đó có Điều 9 nhấn mạnh:
“Các chế độ toàn trị Cộng Sản vẫn
c̣n hoạt động tại một số quốc gia trên
thế giới và vẫn tiếp tục gây tội ác. Quan
điểm về quyền lợi quốc gia không thể
được dùng để ngăn chặn sự chỉ
trích thích đáng đối với các chế độ toàn
trị Cộng Sản hiện nay. Hội Đồng mạnh
mẽ lên án tất cả các vi phạm nhân quyền của
họ.”.
- Phan Bội
Châu (1867-1940), xuất
thân là con nhà văn nhưng lại chủ trương bạo
động. Tại sao vậy? V́ cụ nhận thức rơ
giới hạn của văn, nhẹ nhàng th́ nhà cầm quyền
thực dân Pháp và Nam triều không nghe, không kích động
th́ khó huy động được đông đảo quần
chúng. Cụ và các đồng chí chủ trương bạo
động để sớm thoát cảnh nô lệ, song song
với việc nâng cao dân trí và chấn hưng dân khí.
Năm 1905, cu Phan Bội Châu qua cầu viện
Nhật Bản yểm trợ quân sự... khi sự việc
không thành th́ cụ tự mua vũ khí là khoảng 500 khẩu
súng trường cũ của Nhật, nhưng không t́m ra
cách chuyển vào trong nước, để rồi nhà cầm
quyền Anh biết được và tịch thu. Năm
1913, cụ tiếp tục chủ trương “kịch kiệt bạo động”,
qua thân giao với Trung Hoa Quốc Dân Đảng, cụ xin
được ít tạc đạn và cho người về
Việt Nam thực hiện vài cuộc ám sát. Tuy cụ nói là
“kịch liệt bạo động” nhưng vũ khí không
có bao nhiêu, nên tính chung cả những người bị chết
thuộc cả hai phía nhiều lắm là hai, ba chục
người. Thế mà cụ cũng đă ăn năn rất
nhiều, thương cho các đồng chí v́ ḿnh mà hy sinh…
Khuyết điểm lớn của phong trào là hầu
như tất cả đều bí mật, Duy Tân Hội ban
đầu c̣n không có tên, hội họp không ghi biên bản…
nên không phổ biến sâu rộng được. Năm
1926, khi hay tin cụ Phan Châu Trinh mất, trong lúc bị an trí
ở Huế, cụ Phan Bội Châu đă có bài điếu
văn, bày tỏ tâm tư, coi cụ Phan Châu Trinh là người
cầm ngọn cờ đầu Dân Chủ hướng dẫn
cho chúng ta.
2- Về chủ
trương bất bạo động.
- Khổng Tử (孔子, 551-470 TCN), Mạnh Tử
(孟子, 372-289 TCN), là đại
biểu của phái Nho Gia thế kỷ thứ 5 trước
Công Nguyên. Chủ trương tu
thân: Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Ṭng, Tứ
Đức… và hành đạo:
Nhân Trị, Chính Danh. Biên soạn Tứ Thư và Ngũ Kinh…
Khổng Tử chủ trương tôn
trọng cá nhân và đức trị, quan hệ xă hội, công bằng
và chính trực… Các tư tưởng của ông đă được phát triển thành một hệ thống triết học gọi là Khổng Giáo.
Mạnh Tử cho rằng vua không có quyền
lấy dân làm của riêng, phải duy dân và v́ dân. Ông
chủ trương nhân
nghĩa (仁義) và mọi việc cốt yếu ở dân: “Dân vi quư, xă tắc thứ chi,
quân vi khinh.”.
- Nguyễn Trăi (1380-1442, năm 1980 nhân kỷ niệm 600 năm sinh nhật
đă được UNESCO tuyên dương là danh nhân văn
hóa thế giới, một người nữa cũng
được tuyên dương là Nguyễn Du (1765-1820)), người
đă giúp Lê Lợi (1385-1433) đánh thắng quân Minh, chủ
trương:
“Lấy chí nhân thay cường bạo,
Đem đại nghĩa thắng hung tàn.”
Đây rơ ràng là chủ
trương bất bạo động, dù đă phải trải
qua một thời gian dài 10 năm chinh chiến điêu linh
và chính chủ trương này đă thu phục được
ḷng người và khi kết thúc chiến tranh đất
nước nhanh chóng tái thiết trong b́nh yên.
Phần mở
đầu B́nh Ngô Đại Cáo (平呉大告) của cụ sau
khi chiến thắng có ghi:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt(*) trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đă lâu,
Nước non bờ cơi đă chia,
Phong tục Bắc-Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lư, Trần bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
(Bản dịch của Ngô Tất Tố
(1894-1954))
(*) Quân điếu phạt
(điếu dân phạt tội): đem quân đánh kẻ có
tội để cứu dân.
- Montesquieu (1689-1755), là một
nhà b́nh luận kiêm tư tưởng Pháp, rất nổi danh với chủ
trương tam quyền phân lập: lập pháp - hành pháp - tư pháp. Theo ông, có ba dạng chính quyền dựa trên ba “nguyên tắc” là quân chủ (chính quyền được tự do, do
một người đứng đầu được
thừa kế tức là vua hay nữ hoàng) dựa trên nguyên
tắc danh dự, cộng ḥa (chính quyền được tự do, người đứng đầu do được
bầu ra lănh đạo) dựa trên nguyên tắc đức
hạnh và độc tài
(chính quyền bị kiểm soát bởi các nhà độc
tài) dựa trên nỗi sợ hăi. Ông cũng cho rằng thể
chế chính quyền tốt nhất là quân chủ mà điển
h́nh là nước Anh.
- Voltaire (bút hiệu của Francois-Marie Arouet, 1694-1778), nhà văn
kiêm triết gia Pháp, chủ trương
phát huy quyền làm người như quyền tự do cá nhân, tự do tôn giáo và quyền
được phán xử công minh. Đương thời,
ông thường công khai phát biểu đ̣i cải cách những
bất công trong xă hội bất chấp sự khe khắt lúc bấy giờ của triều
đ́nh Pháp…
- Jean Jacques Rousseau (1712-1778), triết gia Pháp, đưa
ra những tư duy về phát triển của lư thuyết
xă hội (cho rằng con người ta sinh ra vốn tốt
nhưng rồi bị tha hóa), sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc, giáo dục
khai sáng… và chủ trương chính trị phải đi
đôi với đạo đức. Theo ông, loài người
phụ thuộc lẫn nhau do phân chia lao động và dẫn
đến bất b́nh đẳng, v́ vậy,
cần phải có “khế ước xă hội”
(phác họa trật tự chính trị hợp lư)… Là một
trong những người phê phán thể
chế tư hữu
và được coi là khơi mào cho chủ nghĩa xă hội…, có ảnh
hưởng lớn đến cuộc Cách Mạng Pháp 1789.
- Edmund Burke (1729-1797), một triết gia Hoa Kỳ trong cuộc
đấu tranh giành độc lập từ tay người
Anh: “Chính quyền thực dân
có thể cầm tù một người, một số
người, chứ không thể cầm tù cả một dân
tộc.”. Nếu
nhiều người cùng đứng lên th́ đó là một
sức mạnh mà kẻ thù không thể khuất phục.
- Henry David Thoreau (1817-1862), một
nhà văn kiêm triết gia Hoa Kỳ là người đầu
tiên đưa ra chủ trương “bất phục tùng có tính cách dân sự” (civil
disobedience) như một phương thức chống đối,
tuy có vẻ thụ động, nhưng nếu được
nhiều người ủng hộ cũng sẽ trở
thành một sức mạnh đáng kể.
- Leo Tolstoy (Lev Nikolayevich
Tolstoy, 1828-1910), văn hào Nga nổi tiếng với tác phẩm
“Chiến Tranh Và Ḥa B́nh”, nêu
cao chủ nghĩa ḥa b́nh và cải cách giáo dục, chủ
trương vô chính phủ, được coi lá Á Thánh.
- Mahamat/Mohandas Gandhi (Cam Địa,
1869-1948) nói: “Nhà tù là nhà tù của
kẻ trộm, kẻ cướp. Đối với tôi,
đó là cung điện.”. Với một lương tâm
trong sáng và thanh thản như vậy, ông không sợ hăi khi
phải bước vào nhà tù. Ư chí mạnh mẽ này đă củng
cố niềm tin cho những người đấu tranh rất
nhiều.
- Martin Luther Kinh (1929-1968), nhà đấu tranh người Hoa Kỳ
da đen, chủ trương đả phá kỳ thị chủng
tộc giữa da trắng và da đen, dẫn
đến Phong Trào Dân Quyền thập niên 1960, bị
ám sát chết. Ngày sinh của ông trở thành ngày lễ quốc
gia Hoa Kỳ.
-
Nelson Rolihlahla Mandela (1918-), nhà tranh đấu
bạo động chuyển qua bất bạo động chống
chính sách kỳ thị chủng tộc (màu da) kéo dài hàng thế
kỷ tại Nam Phi, được trao
giải Nobel Ḥa B́nh năm 1993, bị giam trong 27 năm (1963-1990).
Năm 1994, được bầu là Tổng Thống Cộng Ḥa Nam Phi
đầu tiên qua cuộc
đầu phiếu tự do và b́nh đẳng chủng tộc
đầu tiên, tại nhiệm
đến năm 1999. Tuy thắng thế
nhưng ông đă không hề trả thù người da trắng,
đem lại sự ổn định cho đất nước.
- Phan Châu Trinh
(1872-1926), xuất
thân là con nhà vơ, từng vào chiến khu với cha là Phan
Văn B́nh, nhưng lại chủ trương bất bạo động. Tại
sao vậy? V́ cụ nhận thức rơ giới hạn của
vũ lực, tuy mạnh nhưng chỉ thu hẹp trong một
phạm vi nhỏ, không huy động được
đông đảo quần chúng. Cụ và các đồng chí sẵn
sang hy sinh tính mệnh của ḿnh, nhưng chủ
trương bất bạo động để thích ứng
với hoàn cảnh bấy giờ, nhằm dồn sức
cho việc phổ cập giáo dục rộng răi, nâng cao dân
trí và chấn hưng dân khí. Phong Trào Duy Tân thành lập
năm 1904, có được 4 năm hoạt động
công khai, phát triển rực rỡ khắp nước cho
đến khi vụ Trung Kỳ Dân Biến xẩy ra và cuối
cùng chỉ v́ chút bạo động mà bị dẹp tan, các
nhân vật lănh đạo Phong Trào Duy Tân tuy không trực tiếp
can dự nhưng cũng bị bắt, kết án… phong trào
bị tê liệt. Đáng tiếc phong trào nguyên thủy là bất
bạo động nhưng do sự nóng tính của một
số người biểu t́nh đi tới bạo động,
khiến trước sau cả trăm người bị
sát hại hoăc tử h́nh. Khuyết điểm lớn của
phong trào là hầu như tất cả đều công khai
nên đễ bị bắt trọn.
Các Cuộc
Đấu Tranh Cách Mạng Hiện Đại
Để
có khái lược về những cuộc đấu tranh cách
mạng chính trong thời hiện đại, hăy lược
qua một số các cuộc đấu tranh cách mạng từ
Đông sang Tây.
-
Cách Mạng Giành Độc Lập
Hoa Kỳ 1775: Là cuộc đấu tranh vũ trang giành
độc lập từ năm 1775 đến 1781 và chính thức
được Anh trao trả độc lập năm 1783,
do ông George Washington (1732-1799) lănh đạo 13 xứ thuộc
địa, với sự tiếp tay của Pháp. Sau khi
đánh đuổi quân Anh ra khỏi Boston, Hoa Kỳ đă
ra Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 4/7/1776. Trong đó có câu: “Tất cả mọi người
sinh ra đều có quyền b́nh đẳng, tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được,
trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc.”.
Năm 1789,
Washington được bầu làm Tổng Thống đầu
tiên của Hoa Kỳ và sau này được vinh danh là “quốc
phụ”.
Sau này có thêm cuộc
nội chiến (Civil War) từ năm 1861 đến 1865,
giữa chính phủ liên bang với 21 tiểu bang ở miền
Bắc nhằm giải phóng nô lệ da đen do Tổng Thống
thứ 16 là Abraham Lincoln (1809-1865) lănh đạo và 11 tiểu
bang ở miền Nam. Đây là cuộc nội chiến duy
nhất nhưng cũng rất tàn bạo, gây tổn thất
lớn về nhân mạng khiến 970.000 người chết,
trong số đó có 620.000 binh lính. Điều đáng nói là dù
sau cuộc chiến tương tàn, Tướng Ulysses S. Grand
(1822-1885, sau thành Tổng Thống thứ 18) thắng trận
đă đối xử rất quân tử và khoan hồng với
Tướng Robert E. Lee (1807-1870) và binh sĩ bại trận,
bởi thắng hay thua đều là người Hoa Kỳ
và đều anh dũng như nhau, không có tù binh, không có chính
sách trả thù, nghĩa trang bên nào bên ấy lo. Đặc biệt
ngay trong nghĩa trang quốc gia Arlington (nguyên của phe miền
Bắc) ở Wa DC cũng có phần mộ 500 binh sĩ miền
Nam với đài tưởng niệm. Tổng Thống
Lincoln lănh đạo cuộc chiến đi đến thắng
lợi ngày 9/4/1865 đưa Hoa Kỳ sang trang sử mới, nhưng ngay sau đó ông bị ám sát chết
ngày 15/4.
- Cách Mạng Dân Quyền Pháp 1789: C̣n được
coi là Cách Mạng Tư Sản, là cuộc đấu tranh lật
đổ chế độ phong kiến hủ bại và ít
nhiều tàn bạo của vua Louis XVI (1776-1892), thời của
cuộc nối dậy phá ngục Bastille ngày 14/7/1789 kéo dài tới
21/9/1792… để thành lập nền Cộng Ḥa (Chủ quyền quốc gia thuộc về
người dân và những người lănh đạo do dân
bầu). Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền
và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp năm 1791 viết: “Người
ta sinh ra Tự Do và B́nh Đẳng về Quyền Lợi;
và phải luôn luôn được Tự Do và B́nh Đẳng
về Quyền Lợi.”.
Nhưng trong buổi
sơ khai, thời gian kế đó 1792-1804, cũng là thời
của các chính trị gia với các tư tưởng cực
đoan đối lập tranh giành. Trong không khí “say máu cách mạng”,
M. Robespierre (1758-1794)… chủ trương khủng bố, nhiều
người đang là anh hùng cách mạng, khi yếu thế
trở thành tử tội, kể cả Robespirre, các máy chém
hoạt động liên tục ngay giữa Pairs. Pháp rơi
vào t́nh trạng hỗn loạn, vừa nội chiến vừa
ngoại xâm. Rồi sự xuất hiện của Đại
Tướng Napoléon Bonaparte (1769-1821), nhờ những chiến
công, đă lên tột đỉnh, làm Tổng Tài (tương
đương Thủ Tướng, 1799-1804), tuy có công cải
cách luật pháp nhưng lại độc đoán quay về
với đế chế, tự phong làm vua… Cho măi đến
khi Napoléon bị hạ bệ và lưu đày năm 1815, sự
tranh chấp mới dịu đi và ngọn đuốc Dân Chủ mới thực sự
được thắp lên.
Cách Mạng Pháp tuy
đă phải trả giá phí phạm trong lúc quá đà,
nhưng thực sự đă vang dội khắp năm châu,
soi đường cho cả nhân loại, tác động mạnh
mẽ tới Á Châu như Nhật Bản từ năm 1868,
Trung Hoa năm 1898 (với Duy Tân Biến Pháp, nhưng bị
Từ Hy và nhóm bảo thủ đàn áp qua vụ Mậu Tuất
Chính Biến, trước khi nổ ra Cách Mạng Tân Hợi
1911 ở Quảng Đông… phía nam), Việt Nam năm 1904 qua
Phong Trào Đông Du, Phong Trào Duy Tân…
-
Cách Mạng Duy Tân Nhật 1886:
Là cuộc đấu tranh do Thiên Hoàng Minh Trị (明治天皇, 1852-1912) và nhất
là các cận thần chủ xướng nhằm loại trừ
ḍng họ Sứ Quân Tokugawa (徳川) nắm giữ Mạc
Phủ đă 265 năm và duy tân (維新, nghĩa là thay
đổi toàn diện theo mới) đất nước bằng
cách bảo tồn “hồn Nhật” nhưng theo kỹ thuật
Tây Phương. Công cuộc Minh Trị Duy Tân kéo dài từ năm
1868 đến 1912, là một thời gian dài phát triển
vượt bực trong hoà b́nh giúp Nhật Bản mau chóng trở
thành cường quốc, hai lần đánh thắng nhà
Thanh năm 1894, 1895 và hai lần đánh thắng Nga năm
1904, 1905, sánh ngang với các đế quốc da trắng thời
bấy giờ. Trong không khí Tự
Do, Dân Chủ mới ló dạng,
một số đ̣i hỏi giảm thuế hay chống
đối đôi khi cũng bị đàn áp, nhưng trước
sau chỉ khoảng vài chục người bị sát hại.
Cũng xin lưu ư
Nhật Bản là quốc gia Á Châu đi tiên phong trong việc
du nhập khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn của
Âu-Mỹ, nên họ đă dịch những từ mới
như Tự Do (自由), Dân Chủ (民主), Cộng Sản
(共産), lao động (労働), kinh tế (経済), diễn thuyết
(演説)… kết hợp
những từ đơn sẵn có trong chữ Hán. Chỉ
có từ Cộng Ḥa là có sẵn trong sách Hán, chỉ sự hợp
tác của Chu Công và Triệu Công năm 867.
-
Cách Mạng Dân Chủ Trung Hoa
1911: Là cuộc đấu tranh do Tôn Dật Tiên孫逸仙, 1866-1925) tức Tôn Văn (孫文) hay Tôn Trung Sơn
(孫中山) lănh đạo,
chống lại triều đ́nh phong kiến nhà Thanh nhằm
thực thi dân chủ, canh tân đất nước và chống
lại ngoại xâm. Cuộc đấu tranh có vũ trang,
đụng độ và đổ máu nhưng ở mức
độ b́nh thường với khoảng vài ngàn người
hy sinh chứ không đẫm máu. Ngày 11/1/1911, ông trở thành
Tổng Thống lâm thời đầu tiên của Trung Hoa nhưng
thế lực quan lại ở Bắc Kinh vẫn c̣n mạnh.
Trước khi mất, lời cuối cùng của Tôn
Văn là “Cuộc cách mạng chưa thành.”, ông đă châm
được ngọn lửa nhưng chưa đủ sức
và th́ giờ để vận động rộng răi. Đặc
biệt ông được vinh danh là “quốc phụ” nước
Trung Hoa Dân Quốc, cả Trung Hoa Lục Địa và
Đài Loan tôn kính. Sau đó t́nh h́nh Trung Hoa tiếp tục hỗn
loạn, đi đến hai phe là Quốc Gia của Tưởng
Giới Thạch và Cộng Sản của Mao Trạch
Đông, cùng chống Nhật, rồi chống nhau và đảng
Cộng Sản thắng năm 1949.
-
Cách Mạng Vô Sản Nga 1917: Cuối
thập niên 40, rồi qua 50…, Marx và Engles cùng những người
tin theo đă trực tiếp kêu gọi nổi dậy và bạo
loạn ngay tại các quốc gia theo chủ nghĩa
Tư Bản như Đức, Pháp, Anh nhưng đều
đă không thành
công.
Phải cho đến khi Lênin (1870-1924, người Nga) đưa
thêm những
tư tưởng cực đoan và các
phương pháp hiện thực vào, thành chủ
trương “bạo lực
cách mạng”, vũ trang để tấn công triệt
để và thô bạo, mới thành công trong việc vừa lật đổ chế độ phong kiến Nga Hoàng vừa đấu
tranh giai cấp giữa công nhân và các giai cấp khác để chiếm chính quyền gọi là “Cách Mạng Vô Sản” năm 1917 th́ máu bắt
đầu đổ và sau đó tiếp tục đổ
măi.
Đặc
biệt là khi qua tới Joseph Stalin (1878-1953) th́ sự sùng bái
cá nhân đi tới tột đỉnh và những hành vi dối
trá, tàn bạo thật không c̣n giới hạn nào nữa.
Hàng chục triệu người bị đầy ải
và sát hại qua những nạn đói nhân tạo, trại
tập trung, thanh trừng… Stalin và đảng Công sản
Nga không chỉ sát hại người của giai cấp
tư sản, trí thức hay thường dân mà sát hại ngay
cả các đồng chí cao thấp của họ ước
khoảng 3/4 Ủy Viên Bộ Chính Trị và 2/3 Ủy Viên
Trung Ương đảng (theo báo cáo của Đại Hội
Đảng Cộng Sản Liên Xô Lần Thứ XX năm
1956). Trong khi truyền thông của đảng luôn miệng
ca ngợi lănh tụ là anh minh và nhân đạo! Phải tới
khi Nikita Kruschev (1894-1971) lên cầm quyền năm 1956 th́ việc
bạo sát mới tạm coi như hết.
Những
kẻ độc đoán nhân danh những ư tưởng
điên rồ hăng say giết người trong cơn mê
sảng mà quên đi một điều rất giản dị,
nếu ḿnh là nạn nhân của chính sách phi nhân đó th́
sao!? Thực
vật, động vật c̣n muốn sống, huống chi
con người, mỗi người chỉ có một đời
để sống thôi, không ai có quyền giết oan người
khác. Bạo lực thường
dẫn đến “bạo quyền”
và “bạo chúa”, nếu
không muốn lưu danh là “bạo chúa” tại sao lại chủ
trương bạo lực? Không thể nào chấp nhận
lối suy nghĩ khát máu: “Thà
giết lầm hơn tha lầm.”.
Cách Mạng Dân Chủ Nga 1991: Chính những sai lầm
căn bản từ lư thuyết đến hành động
mà cái nôi của chủ nghĩa Cộng Sản đă nổ
ra cuộc cách mạng thứ hai này. Thời Cộng Sản,
Nga Xô có 2 tờ báo là “Sự Thật” và “Tin Tức”, người
dân Nga thường riễu cợt, trong “Sự Thật” không
có tin tức, trong “Tin Tức” không có sự thật. Ngụ
ngôn Nga có câu: “Sự thật nặng hơn quả địa
cầu.”, người dân Nga v́ yêu sự thật, không thể
chấp nhận dối trá mà đứng lên.
Mikhail S. Gorbarchev (1931-)
khi được bầu làm Tổng Bí Thư năm 1985,
đă đưa ra chính sách “cởi
mở” (glasnost), “cải tổ”
(prestroika) và tuyên bố: “Tôi đă bỏ
ra hơn nửa cuộc đời đấu tranh cho lư
tưởng Cộng Sản, nhưng ngày hôm nay tôi phải
đau buồn tuyên bố rằng: Cộng Sản chỉ
biết tuyên truyền và gian dối...
Từ nay sẽ không nói dối nữa.”. Tại sao ông nói
như vậy? Ông nói v́ lương tâm lên tiếng và v́
tương lai Liên Xô, như ông đă từng nói ngày
10/3/1985: “Chúng ta không thể sống như thế này.”. Những
cải tổ làm thay đổi tư duy những người
Cộng Sản và người dân, nhất thời bị
choáng ngợp, bối rối. Nhưng ông là người Cộng
Sản phản tỉnh, từ đỉnh cao quyền lực,
tự xa rời độc tài, đem lại Tự Do cho
người dân và thực thi Dân Chủ. Năm 1989, cải
tổ thể chế và đươc quốc hội bầu
làm Tổng Thống đầu
tiên, được trao giải Nobel Ḥa B́nh năm 1990. Gorbachev nói: “Mục đích của đời tôi là tiêu diệt chủ
nghĩa cộng sản, nhân dân không thể chịu nổi nền chuyên chính độc tài. Không có chủ nghĩa cộng sản, thế giới sẽ trở nên tốt đẹp hơn.”. Nhưng
chính t́nh khủng hoảng và Gorbarchev bị đảo chánh,
tuy cuộc đảo chánh thất bại nhưng rồi
ông cũng bị tước quyền và phải từ nhiệm
ngày 25/12/1991.
Trong khi đó, vào tháng
8/1991, Boris N. Yeltsin (1931-) đứng lên, can đảm đối
đầu với thế lực Cộng Sản bảo thủ
bằng một cuộc chạm súng với xe tăng ngay tại
quốc hội. Ông nói: “Cộng
Sản không có thể sửa chữa được nữa,
mà chỉ có một cách duy nhất là hủy nó đi mà thôi.”.
Ngày 29/8/1991, quốc Hội Liên Xô ra nghị quyết cấm
đảng Cộng Sản Liên Xô hoạt động, hoàn tất
cuộc khai tử đảng này sau 75 năm ngự trị
bằng hệ thống quân đội và công an dầy đặc,
chấm dứt thời đại “mê sảng”. Sau đó, năm 1991, Yeltsin là Tổng
Thống đầu tiên do dân bầu, tuy nhiên, ông không đủ
khả năng lèo lái t́nh h́nh đă phải từ chức
năm 1999, nhường lại vai tṛ lănh đạo cho Vladmir
Putin (1952-), được tái xác nhận bằng cuộc bầu
cử sau đó năm 2000, t́nh h́nh từ đó dần dần
ổn định. Cuộc Cách Mạng Dân Chủ được
coi là thành công tốt đẹp mà chỉ phải trả
cái giá là vài chục sinh mạng, khác hẳn với cuộc
Cách Mạng Vô Sản. Nay nước Nga tuy chưa hoàn toàn
Dân Chủ như Âu-Mỹ, nhưng người dân đă có
được những quyền căn bản.
- Cách Mạng
Vô Sản Việt Nam 1945: Là bản sao của Cách Mạng
Nga Xô và sau đó của cả Trung Quốc do Hồ Chí Minh (1990-1969)
và đảng CSVN cầm đầu. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp
tại Việt Nam, trao lại chủ quyền cho Việt
Nam, và ngày 17/4, cụ Trần Trọng Kim đứng ra lập
chính phủ ở Huế. Nhưng sau đó ngày 17/8, Cộng
Sản cướp chính quyền ở Hà Nội. Say máu, họ kêu
gào:
Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế
mau xong,
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước
chung ḷng,
Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít-ta-lin
bất diệt.
(Tố Hữu).
Số người chết trong
Cải Cách Ruộng Đất thập niên 50... khoảng
200.000, tuy về tỷ lệ không nhiều như ở Liên
Xô hay Trung Quốc nhưng mức cuồng tín và thâm độc
tăng thêm, chỉ thua Khmer Đỏ tại Cam Bốt. Tiếp
theo, bằng trực tiếp hay gián tiếp, chủ
trương 7 cuộc chiến hung hăn từ năm 1930
đến 1988, khiến khoảng 3.000.000 người Việt
phải hy sinh oan uổng, trong khi đó đất nước
điêu tàn, nhân tâm phân hóa, xă hội băng hoại. Chưa
kể đưa đất nước tới chỗ tụt
hậu, yếu kém c̣n là tạo cơ hội cho các đế
quốc xâm lăng.
Thực
ra, qua loạt Hiệp Định
Elysée trong năm 1949, Tổng Thống Pháp Vincent Auriol đă
kư với Quốc Trưởng Bảo Đại ngày 8/3, chính
thức giải kết Hiệp Ước Bảo Hộ
1884, trao trả độc lập cho Việt Nam. Sau đó
Pháp trao trả độc lập cho Lào ngày 20/7 và cho Cam Bốt
ngày 8/11. Như vậy cả ba nước Đông Dương
đươc độc lập mà không phải tốn thêm
xương máu. Hồ Chí Minh chống lại hiệp định
này, v́ theo chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế,
chủ trương gây cuộc chiến để có cơ
hội Cộng Sản hóa toàn Đông Dương. Dẫn đến
hiệp định đ́nh chiến Genève ngày 20/7/1954, chia đôi
Việt Nam tai vĩ tuyến 17, miền Bắc thuộc Cộng
Sản, miền Nam thuộc Quốc Gia. Ngày 30/4/1975, Cộng
Sản chi phối toàn cơi Việt Nam.
Năm
1990, trước sự khủng hoảng ư thức hệ
và xụp đổ của chủ nghĩa Cộng Sản,
Trần Xuân Bách (1924 - 2006), đứng hàng thứ 9 trong Bộ
Chính Trị (1986-1990), sau khi được cử đứng
ra nghiên cứu t́nh h́nh đă đưa ra đề nghị
đa đảng liền bị hạ bệ.
Khéo léo và may mắn như
Thái Lan giữ được độc lập, hay Cam Bốt,
Lào, Triều Tiên, Đài Loan, Ấn Độ... cũng dần
dần được độc lập mà đâu cần
đổ xương máu như vậy. Các công cuộc
đấu tranh đ̣i Dân Chủ sau đó ở Triều
Tiên, Đào Loan, Phi Luật Tân, Thái Lan, Cam Bốt hay các
nước thuộc Liên Xô cũ như Ukraine, Angola, Mông Cổ,
Serbia... cũng đều dùng phương thức bất bạo
động.
- Cách Mạng Giành
Độc Lập Và Dân Quyền Ấn Độ 1947: Là cuộc đấu tranh giành độc lập từ
Anh Quốc và kết hợp tôn giáo, chủng tộc do Mahatma
Gandhi (1869-1948), từng tốt nghiệp Luật Sư ở
Anh năm 1891 lănh đạo. Một cuộc đấu
tranh mang dấu ấn đặc biệt: “Bất bạo động - bất phục tùng”,
bao gồm cả tẩy chay hàng hóa của Anh... kéo dài từ
năm 1914 đến năm 1947 th́ giành được
đọc lập sau hơn 300 năm bị Anh Quốc
đô hộ. Thời gian 33 năm kể cũng khá dài
nhưng rất ít đổ máu và nhất là ḷng người
kết tụ hơn, đạo đức được
thăng hoa hơn.
Tại
sao Gandhi có thể kiên tŕ như vậy? Bởi v́ ông là con
người sống giản dị và chân thật, từng
tự thề với ḿnh là “Không
bao giờ nói dối, cho dù đối với kẻ hăm hại
ḿnh.” và có niềm tin mạnh mẽ vào sức mạnh
tinh thần. Tôn giáo của ông là “phụng
sự”, xuất phát từ t́nh yêu bao lao. Nhưng “Nếu
tôi hoàn toàn chú tâm vào việc phụng sự đoàn thể,
th́ lư do đằng sau đó là ḷng ao ước thành tựu
cho bản thân tôi.”. Và “Thay v́ nói Thượng Đế là
Chân Lư, th́ tôi nói Chân Lư là Thượng Đế.”. Trước
một con người với ư chí đến như thế
th́ có thể thu hút quần chúng và bạo lực nào cũng
phải bị khuất phục.
Nhưng rồi ngày
30/1/1948, ngay sau khi thành công và trong lúc cố gắng ḥa giải
giữa Ấn Độ và Pakistan th́ Gandhi đă phải gục
chết v́ viên đạn bắn ra bởi một thanh niên Hồi
Giáo cuồng tín tên New Delhi…
-
Cách Mạng Vô Sản Trung Hoa
1949: Là bản sao của cách mạng Nga, nhưng thêm yếu
tố chống ngoại xâm là Nhật Bản và nội chiến
với Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tưởng
Giới Thạch (蒋介石, 1887-1975), do Mao Trạch
Đông (毛沢東, 1893-1976) và
đảng Cộng Sản Trung Hoa thành lập năm 1921 cầm
đầu. Với chủ trương sắt máu đảng
CSTQ đă bắt cả tỷ người mù quáng lao vào những
cái gọi là “Đấu Tranh
Giai Cấp, Cải Cách Ruộng Đất, Công Xă, Trăm
Hoa Đua Nở, Bước Tiến Nhảy Vọt, Cách Mạng
Văn Hóa, Đấu tố…” với chính sách cưỡng
bách lao động, lưu đầy, khủng bố, làm
hàng chục triệu người phải chết oan uổng,
nhân tâm phân hóa và đất nước tụt hậu. Cho
đến khi Đặng Tiểu B́nh có thực quyền với
chủ trương “Mèo trắng,
mèo đen, con nào bắt được chuột cũng tốt.”,
để đối lại chủ trương “hồng hơn chuyên” (hồng
là tư tưởng Cộng Sản, chuyên là chuyên môn) trước
đó, th́ nước này mới bắt đầu đi lên
từ n ăm 1978. Tư duy của Đặng Tiểu B́nh
có ǵ lạ đâu, ai cũng biết, chỉ có chủ
nghĩa Cộng Sản cuồng tín và mù quáng nên 10 triệu
đảng viên Cộng Sản Trung Quốc không ai thấy?
Thực ra rất nhiều người thấy nhưng
không ai dám nói, làm Trung Quốc tụt hậu mấy chục
năm trời, dân chúng sống trong uất hận và lầm
than.
- - -
Thêm
nữa, mang danh nghĩa “Vô sản
toàn thế giới đoàn kết lại.”, rồi “Các nước Xă Hội Chủ
Nghĩa anh em.”, nhưng rồi chuyện trớ trêu nhất
đă xảy ra khi các nước Cộng Sản dùng bạo
lực với nhau. Cộng Sản Nga Xô và Cộng Sản
Trung Quốc tranh chấp về ư thức hệ và đánh
nhau (1969, tại Hắc Long Giang), Cộng Sản Trung Quốc
đánh Cộng Sản Việt Nam (2 lần, lần đầu
từ 16/2/1979 kéo dài 1 tháng tại 6 tỉnh dọc biên giới,
lần 2 từ 1884 tới 1988 tại Hà Giang), Cộng Sản
Việt Nam đánh Cộng Sản Cam Bốt (1976, 77,
78-1989)!
- Cách Mạng Dân Chủ Ba Lan
1980: Là một cuộc cách mạng bất bạo động,
nhưng đặc điểm chính là do sự nổi dậy
của giới công nhân ngay trong ḷng xă hội Cộng Sản
vốn mệnh danh là đại diện cho giới công nhân.
Công Đoàn Đoàn Kết thành lập ngày 4/10/1980, do ông Lech
Walesa (1943-) làm Chủ Tịch. Năm 1981-82, nhà cầm quyền
Cộng Sản bắt giam Walesa và liên tục đàn áp Công
Đoàn Đoàn Kết. Phong trào càng lớn mạnh, với
số đoàn viên dần dần tăng lên tới hơn 10
triệu người. Năm 1983, Lech Walesa đă được
trao giải Nobel Ḥa B́nh, khi thế đấu tranh càng lên
cao. Ngày 12/5/1988, Công Đoàn Đoàn Kết tổng đ́nh
công làm tê liệt Ba Lan. Ngày 4/6/1989, Ba Lan tổng tuyển cử,
phía Công Đoàn Đoàn Kết thắng lớn. Năm 1990,
ông được bầu làm Tổng Thống. Cuộc Các Mạng
Dân Chủ Ba Lan được coi như mở đầu
việc khai tử chế động Cộng Sản
Đông Âu và Nga Xô. Ông Lech Walesa đă nói: “Cộng Sản là con đường dài nhất
để đi từ Tư Bản đến Tư Bản.”.
- Cách Mạng
Dân Chủ Phi Luật Tân 1986, 2001: Là
một cuộc cách mạng bất bạo động, lật
đổ Tổng Thống Ferdinand Macros (1917-1989) năm
1986. Marcos là Tổng Thống thứ 10, lănh đạo từ
1965 đến 1986. Năm 1972, ông tuyên bố thiết quân luật,
chủ trương cai trị bằng chính sách độc
tài, kéo dài cho tới năm 1981. Năm 1986, ông đươc
tái tuyển nhiệm kỳ thứ 4, nhưng chính phủ
càng ngày càng lộ rơ những chuyện tham nhũng, vi phạm
nhân quyền, không lo đầy đủ cho giai cấp nghèo… Lại thêm vụ công nhiên ám sát chính trị gia lừng
danh là ông Benigno Aquino (1932-1983, Thượng Nghị Sĩ
đối
lập, sau vợ ông là Corazon
Aquino,
được bầu lên làm Tổng Thống thứ 11), khi ông này quyết định rời bỏ nơi
lưu vong trở về nước, ngay lúc vừa từ
máy bay bước xuống phi trường Manila ngày
21/8/1983. Vụ này coi như giọt nước tràn ly, dân
chúng tức giận, xuống đường, tạo thành “sức
mạnh quần chúng” (people power) tập trung dưới
dấu hiệu “màu vàng”, đ̣i lật đổ Marcos.
Đất nước đi đến chỗ tê liệt,
nên ông Marcos đă phải rời bỏ chính quyền chạy
qua Hoa Kỳ tỵ nạn và chết tai đây.
Ngày 30/6/1998, ông Joseph Ejécito
Estrada (Erap, 1937), một
nghệ sĩ lừng danh, được bầu làm Tổng
Thống thứ 13. Cuối năm 1999, những vấn
đề tham nhũng, bê bối… của ông bị tiết
lộ, dân chúng đứng lên làm cuộc “cách mạng quần chúng” thứ 2. Ngày, 20/1/2001, sau 21 ngày dân chúng biểu t́nh bất bạo
động, Estrada đă phải rời chức vụ. Phó Tổng
Thống Gloria Macapagal Arroyo (1947-) đối lập lên thay.
Hoàn cảnh đất nước và dân tộc Phi Luật
Tân có nhiều điểm giống Việt Nam. Nên học hỏi
kỹ kinh nghiệm đấu tranh của quần chúng (không
qua bầu cử hay nghị hội) của nước này
là điều nên lắm vậy.
- - - - -
Ngoài ra, chúng ta có thể học hỏi
rất nhiều từ những cuộc cách mạng Dân Chủ
bất bạo động như Hàn Quốc (Đại Hàn
Dân Quốc, Nam Triều Tiên) năm 1987, Ba Lan năm 1956, 1970, 1976, rồi
1980-89, Đức Quốc năm 1990, Đông Âu năm
1989-90 (Chỉ có ở Romania tức Lỗ Ma Ni là có chút đổ
máu khi vợ
chồng Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản là Nicolae
Ceauşescu bị xử án và bắn chết
vào ngày 25/12/1989), Mông Cổ năm 1990, Cam Bốt 1993, Serbia năm
2000, Angola (Phi Châu) năm 2003… Chẳng lẽ Việt
Nam lại sinh hoạt Dân Chủ thua cả các nước
được kể sau cùng?
Làn sóng Dân Chủ:
- 30/9/1989: Bắt đầu phong trào tỵ
nạn Cộng Sản, khoảng 30.000 dân
Đông Âu kéo
vào Tây Đức.
- 23/10/1989: Tổng tuyển cử tại
Hung Gia Lợi, phe Cộng Sản thua, phe Dân Chủ lên cầm
quyền.
- 9/11/1989: Dân chúng Đức đứng
lên phá xập bức tường Bá Linh. 3/10/1990: Cộng Sản
Đông Đức tan ră, nước Đức thống nhất.
- 17/11/1989: Bầu cử tự do tại
Bulgaria (Bảo Gia Lợi), chế độ Cộng Sản
tan ră.
- 28/11/1989: Tại Tiệp Khắc, đối
thoại giữa phe Cộng Sản và Dân Chủ, dẫn
đến tổng tuyển cử 1990.
- 7/1990: Bầu cử tự do tại
Mông Cổ, ban đầu phe Cộng Sản thắng thế
nhưng dần dần phe Dân Chủ thắng thế,
năm 1993, lên nắm chính quyền
- 1993: Bầu cử tự do tại
Cam Bốt, phe Cộng Sản vẫn thắng thế
nhưng không độc quyền.
- 24/9/2000: Bầu cử tự do tại
Serbia (ở nam Âu), sự liên kết các đảng đối
lập đă thắng nhà độc tài Milosevic, dẫn
đến thể chế Dân Chủ…
Như vậy, không kể những
vận động âm thầm trước đó th́ cuộc
“Cách Mạng Nhung” hay “Cách Mạng Màu Cam” bằng đấu
tranh bất bạo động với Hiến Chương
Tiệp Khắc năm 1977 và Công Đoàn Doàn Kết Ba Lan
năm 1980 đă chấm dứt với Cách Mạng, Dân Chủ
Nga Xô năm 1991, chỉ với 15 năm đă làm xụp
đổ cả hệ thống Cộng Sản mà hầu
như không tốn xương máu. Tóm lại “Độc Tài
- Cộng Sản” đă hoàn toàn chào thua trước “Dân Chủ
- Tư Bản”, phải từ bỏ cái riêng tụt hậu,
chạy theo cái chung tiến bộ, để cùng bước
vào toàn cầu hóa.
Các cuộc Cách Mạng
Dân Chủ tại Đông Âu và Nga Xô… trên thành công là do nhiều
yếu tố sau:
1- Sự
gian dối, tàn bạo, nghèo đói, chậm tiến của
chủ nghĩa Cộng Sản.
2-
Sự phản tỉnh
của một số đảng viên Cộng Sản và sự
rạn nứt trong hàng ngũ Cộng Sản.
3-
Nhân dân trong và ngoài
các nước đó ư thức được nhân quyền
và dân quyền, đứng lên đấu tranh bất bạo
động.
4-
Áp lực của
Hoa Kỳ và nhiều nước cũng như những
người yêu chuộng Tự Do-Dân Chủ trên thế giới…
Cuộc
Đấu Tranh Dân Chủ Đầu Tiên Tại Việt Nam
Năm
1904, cụ Phan Bội Châu lập hội, sau này gọi là
Duy Tân Hội chủ trương bạo động, từ
đó phát động Phong Trào Đông Du đưa khoảng
200 người qua Nhật du học nhưng năm 1908, 1909
bị Nhật cấu kết với Pháp trục xuất. Và
cụ Phan Châu Trinh lập Phong Trào Duy Tân chủ
trương bất bạo động, quy tụ hằng
trăm nhân sĩ, đa số có học vị cao nhưng từ
quan hay không ra làm quan, cùng nhau đến với các tầng lớp
dân chúng mở trường, lập nông hội,
thương hội…
Vụ Trung Kỳ
Dân Biến 4/1908, dân chúng nổi lên xin giảm xâu, sưu,
thuế từ Quảng Nam lan ra khắp miền Trung và vài
nơi ở miền Bắc, với hàng trăm ngàn người
tham gia trong tinh thần bất bạo động. Nhưng
khi khí thế lên cao, có một số người quá khích bắt
đầu có hành vi bạo động, đă t́m bắt giết
và làm bị thương một vài quan lại gian ác Việt
Nam. V́ vậy Pháp ra tay đàn áp, bắn giết, dân chúng phải
bỏ chạy. Từ đó Pháp tung ra cuộc “khủng bố
trắng”, bắt hàng ngàn người cầm đầu và
hầu hết các lănh tụ Phong Trào Duy Tân, cả trăm
người bị tử h́nh, hàng trăm khác bị đưa
đi lưu đầy ở Côn Lôn... Vụ dân biến kéo
dài được khoảng 3 tháng th́ bị đàn áp và đă
chấm dứt trong uất hận.
Sau đó là những
cộng cuộc đấu tranh của những người
Quốc Gia và Cộng Sản chống Pháp cũng như chống
nhau, chủ yếu dưới h́nh thức đảng phái và
đi tới cuộc chiến 1954-1975. Đảng Cộng
Sản đă chi phối toàn lănh thổ Việt Nam năm
1975.
Cuộc
Đấu Tranh Dân Chủ Hiện Nay
Sau năm 1975, trong
không khí phẫn uất cao độ, một số tổ
chức ở trong và ngoài nước cũng đă chủ
trương bạo động qua h́nh thức vũ trang
kháng chiến, nói chung, h́nh thức đấu tranh này đều
đă thất bại. Nên trào lưu đấu tranh này coi
như đă chấm dứt vào đầu thập niên 90 và
từ đó tới nay hầu như các hoạt động
đấu tranh đều đă đi vào con đường
bất bạo động.
Từ cuối năm 2005, đầu
năm 2006 trở đi, xuất hiện rất nhiều hoạt
động đấu tranh công khai bằng các bài viết,
tuyên ngôn, đặc biệt về vấn đề Dân Chủ
hóa và bảo vệ người Lao Động qua việc
ra báo, phân phát các tài liệu hay khi trả lời các cuộc
phỏng vấn của các cơ quan truyền thông Việt
Nam ở hải ngoại và quốc tế. Rất nhiều
nhà đấu tranh Dân Chủ và Lao Động ở trong và
ngoài nước đă kết hợp lại thành các đảng
phái, tổ chức và thẳng thắn nói lên lập trường
của ḿnh.
Có người
cho rằng, những bước tiến lớn trong công cuộc
đấu tranh mới đây bằng cả 30 năm qua,
hay nói khác đi đó là kết tinh của thành quả của
30 năm qua.
Ngày
8/4/2006, các nhà đấu tranh dân chủ trong nước như
Linh Mục Nguyễn Văn Lư, Trần Anh Kim, Đỗ Nam
Hải... nhóm này gọi tắt là Khối 8406, đă
đưa ra bản Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt
Nam 2006, chủ trương:
1- Bất
bạo động.
2-
Phủ nhận sự nghiệp và tư tưởng Hồ
Chí Minh.
3-
Phủ nhận sự độc tôn đảng Cộng Sản
Việt Nam.
Kế
thừa di sản tinh thần của tiền nhân và nhân loại,
Khối 8406 kêu gọi làm tất cả những ǵ luật
pháp không cấm, như lập hội, lập đảng,
tẩy chay bầu cử quốc hội lần thứ 12
tháng 5/2007 và nêu cao khẩu hiệu:
Đừng sợ
những ǵ Cộng Sản làm,
Hăy làm những ǵ Cộng
Sản sợ.
Nhà cầm quyền
nào tất nhiên cũng sợ bị lật đổ bằng
bạo lực, riêng CSVN từng nhiều lần tỏ ra lo
ngại cái ǵ nhất trong thời gian qua? Họ không lo ngại
“bạo lực” mà lại lo ngại “Diễn Biến Hoà B́nh” (Peaceful Process/Evolution).
Vậy “Diễn Biến
Hoà B́nh” là ǵ? Năm 1949, nhân việc Nga thử nghiệm thành công vũ khí nguyên tử, Ngoại
Trưởng Hoa Kỳ Dean G. Acheson (1893-1971) đă lần
đầu tiên dùng thuật
ngữ "Diễn Biến
Ḥa B́nh" trong một bức thư gửi Tổng Thống Harry S. Truman (1884-1972) để nói về phương
thức chuyển hóa chế độ Cộng Sản. Năm 1953, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Foster
Dulles (1888-1959) chủ trương áp dụng phương
pháp hoà b́nh này để giành thắng lợi. Đó là cuộc chiến phi vũ trang, chủ yếu
lợi dụng lực lượng và phương tiện của chính đối phương để quảng bá tư tưởng Tự Do - Dân Chủ
xuyên qua ngoại giao, kinh tế, văn hóa… nhằm thay
đổi các chế độ Cộng Sản, khi cần mới dùng sức mạnh quân sự để dứt điểm. Phương thức này đă thành công ngoài dự
tưởng ở Đông Âu, Nga Xô và đang bao vây các nuớc Cộng
Sản c̣n lại. Như vậy “Diễn Biến Hoà B́nh” chủ
yếu là phương thức tranh thủ nhân tâm bằng
phương thức hoà b́nh qua công tác địch vận và dân
vận.
Chúng Ta
Rút Ra Được Bài Học Ǵ?
Một số
người cho rằng để sớm đạt mục
tiêu, nhất thời cứ dùng bạo lực, thủ
đoạn, khi chiến thắng sẽ quay sang những
phương thức ôn ḥa, chính đáng. Liệu thực tế
có như vậy chăng? Kinh nghiệm rất phổ quát
cho thấy như trong các cuộc cách mạng vô sản, khi
nắm quyền rồi th́ trong tiến tŕnh xây dựng sau
đó, mức độ sắt máu lại gia tăng, số
người chết gấp bội so với lúc bùng nổ
cách mạng. Chưa kể đến những băng hoại
xă hội do hận thù, dối trá gây ra… Tại sao vậy? Bởi
v́ họ đă quen với sắt máu không ngần ngại
dùng những biện pháp tàn bạo, và nếu nới lỏng
bạo lực, những người cầm quyền có thể
bị quật ngược do những hận thù trong quá
tŕnh bạo lực trước đó tạo ra.
Kinh
nghiệm cũng cho thấy những cuộc đấu
tranh bất bạo động khi thành công, tiến tŕnh xây
dựng cũng đi theo chiều hướng êm thắm
đó, không có lư do ǵ để phải đổ máu cả.
Vừa bảo vệ được sinh mạng quư giá của
con người, vừa bảo tồn được tài sản
làm nền tảng đi lên, như các cuộc cách mang tại
Nhật (có một số đàn áp và đổ máu khi dẹp
Sứ Quân nhưng không nhiều), Ấn Độ (một
số tranh chấp bạo lực vẫn có là do vấn
đề chủng tộc và tôn giáo từ trước), các
nước Cam Bốt, Lào… Trước và sau khi Cam Bốt
độc lập từ thực dân Pháp mà không đổ
máu, chỉ khi Khmer Đỏ làm Cách Mạng Vô Sản th́
trước và sau đó mới thành đẫm máu, chết
khoảng 2 triệu người.
Trường hợp
Việt Nam cũng có nhiều nét tương tự, đảng
CSVN từ khi thành lập năm 1930, đă sát hại khoảng
200.000 người và can dự liên tiếp vào 7 cuộc chiến
khác nhau khắp Đông Dương từ năm 1930 tới
1988 (là năm chấm dứt cuộc chiến với Trung
Quốc lần thứ 2 tại Hà Giang từ 1984-1988, phía Việt
Nam bị mất Núi Đất), khiến hao tổn không biết
bao nhiêu xương máu, đất nước th́ điêu
tàn. Tính ra khoảng gần 3 triệu người thiệt
mạng, hàng triệu người phải bỏ nước
ra đi trong số đó có hàng trăm ngàn người thiệt
mạng v́ biển cả…
Phong trào đấu
tranh Dân Chủ tại Việt Nam (Khối 8406…) hiện nay có thể ví như phong
trào Hiến Chương 77 đă
biến thành “Cách Mạng Nhung”
ở Tiệp Khắc (Czechoslovakia) do Václav Havel (1936-) lănh
đạo, sau ông làm Tổng Thống Cộng Ḥa Tiệp
(Czech Republic).
(Xin xem thêm bài Con Đường Dân Chủ
và Quy Luật Đấu Tranh
của cùng tác giả)
Đ T M 2007
- - - - -
Than khảo:
Quan điểm của cụ
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh
Vào đầu thế
kỷ XX, khi tư tưởng canh tân, Dân Chủ của các
nhà cách mạng Trung Hoa như Khang Hữu Vi. Lương Khải
Siêu… qua các sá ch Tân Thư được truyền vào Việt
Nam, một số sĩ phu Việt Nam bắt đầu ư
thức được vận nước, cụ Phan Châu
Trinh đă mô tả tâm trạng thời đó như sau:
“Một hôm, bỗng nhiên chợt tỉnh
cơn mê, như vén mây mù trông thấy trời xanh, như vừa
ra khỏi buồng tối nh́n thấy mặt trời hay mặt
trăng. Niềm vui đó nói sao cho hết!”. Tuy nhiên, trong buổi
giao thời ấy, dư luận c̣n hoang mang, không phân biệt
được thật giả. Trước t́nh huống khẩn
bách như thế, cụ Phan Châu Trinh cho rằng cần “Nhờ một hai chí sĩ thông
hiểu thời cuộc hoạch định đường
lối mà d́u dắt dân chúng.”, nhưng trên thực tế
“Người thông hiểu th́
ít mà kẻ ngoan cố lại nhiều.”...
Chúng
ta đều được biết là hai cụ cùng dấn
thân và yêu nước như nhau, nhưng phương thức
bạo động và bất bạo động trái ngược
nhau. Cụ Phan Châu Trinh đă nhận định về hai
người như sau:
“Tôi tự biết những lư do mà chủ
nghĩa của ông ấy đưa ra th́ rất yếu,
nhưng nếu áp dụng vào đặc tính của dân
nước Nam th́ rất mạnh. Chủ nghĩa của
tôi, lư do đưa ra th́ rất mạnh, nhưng nếu áp dụng
vào đặc tính của người nước Nam trong
t́nh thế hiện tại th́ rất yếu. Chủ
nghĩa của ông ấy rất hợp với đặc
tính và tŕnh độ của quốc dân, lại nhắm vào
chỗ mạnh (người
ḿnh nặng cảm tính, dễ kích động) mà lợi dụng... Chủ
nghĩa của tôi tương phản với đặc
tính và tŕnh độ của quốc dân, lại nhắm vào
chỗ yếu (những quán tính xấu trong tư duy) mà cứu...”.
Rơ ràng có sự thúc
đẩy gián tiếp hay trực tiếp từ quan điểm
của cụ Phan Châu Trinh và các đồng chí qua các cuộc
diễn thuyết và của cụ Phan Bội Châu qua các cuốn
“Việt Nam Vong Quốc Sử”,
“Hải Ngoại Huyết
Thư”... từ Nhật Bản gửi về.
- Vụ Trung Kỳ Dân Biến vào tháng
4/1908, kéo dài khoảng 2-3 tháng, với sự tham dự của
cả trăm ngàn người khắp Trung Kỳ lan ra cả
tới Bắc Kỳ ít nhiều người dân chịu ảnh
hưởng quan điểm của cả hai cụ, tức
bất bạo động rồi sau một số ít chuyển
qua bạo động lẻ tẻ, bị quân Pháp dùng súng bắn
đàn áp khiến cả chục người bị chết.
- Vụ “Hà Thành Đầu Độc”
ngày 27/6/1908 do người thuộc Duy Tân Hội (năm 1911 đổi là Việt Nam Quang Phục Hội),
các nghĩa quân Yên Thế của
cụ Hoàng Hoa Thám và lính Việt Nam làm việc cho Pháp chủ
mưu bỏ thuốc độc, nhưng bị nội
gián, nên chỉ giết và làm bị thương khoảng chục
sĩ quan và binh lính Pháp.
- Vụ Ném Bom Thái B́nh giết chết
Tổng Đốc Nguyễn Duy Hàn, Ném Bom Khách Sạn Hà Nội ngày 16/4/1913 giết một
số sĩ quan Pháp và ám sát hụt Toàn Quyền Albert Sarraut…đều
do Việt Nam Quang Phục Hội,
lănh đạo bởi cụ Phan Bội Châu chủ
trương.
Qua các vụ này…,
các tổ chức đấu tranh đă bị nhà cầm quyền
Pháp truy lùng gắt gao, bắt và lên án tử 18 người
(trong số đó 4 người khiếm diện) và tù chung
thân 4 người, nhiều người khác bị án tù...
Ngoài ra, Pháp có cớ để bắt, lưu đày hầu
hết hàng trăm các nhà cách mạng của Phong Trào Duy Tân.
Năm 1925, khi hai cụ
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh về nước, kẻ
trước bị bắt cóc về, kẻ sau nhân phái Xă Hội
bên Pháp thắng thế mới vất vả vận động
để được phép về. Cho đến khi
đó, nhận định của cụ Phan Châu Trinh về
cụ Phan Bội Châu hầu như không có ǵ thay đổi.
Vào cuối tháng 11/1925, trong bài diễn văn cụ nói về
“Đạo Đức Và Luân Lư Đông Tây” tại nhà Hội
Việt Nam ở Sài G̣n, khi nói về ḷng yêu nước của
người Việt, cụ Phan Châu Trinh vẫn một mực
phê phán chủ trương bạo động và nhất thời
ỷ ngoại của cụ Phan Bội Châu (Ban đầu cụ
tính dựa vào Nhật Bản, nhưng sau biết thâm ư của
người Nhật, không c̣n tin tưởng nữa. Khi Nhật
Bản đem quân vào Việt Nam năm 1940, cụ không tán
thành và đă đoán trước Nhật sẽ thất bại.):
“Cái thương
nước tôi nói ở đây không phải là xúi dân tay không nổi
lên, hoặc đi lạy nước này cầu nước
khác về phá loạn trong nước đâu! Tôi xin thưa:
Nước ta đă hư hèn bị mắc trong tay người
ta rồi, th́ bây giờ ta phải đem ḷng thương
nước, bênh vực lẫn nhau, mà giúp cho nhau để
cứu chuộc lại cái danh giá cùng lợi quyền của
ta về sau... Thương nước cho phải đường
mới gọi là thương nước, nếu
thương nước không phải đường th́
đă không ích ǵ cho ai mà lại c̣n làm hại sinh linh nữa.”.
Cụ
Phan Bội Châu đă có những thay đổi tự
căn bản, xoay chiều tư duy trong thời gian bị
an trí ở Huế. Vào tháng 3/1927, trong dịp kỷ niệm
ngày giỗ một năm cụ Phan Châu Trinh, của Phan Bội
Châu đă viết:
“Than ôi! Ông có thứ
cho tôi chăng? Lúc ông về nước (từ Nhật Bản,
1906), tôi tiễn chân ông đến Hương Cảng, ông cầm
tay tôi dặn mấy lời sau hết: ‘Từ thế kỷ
19 về sau, các nước tranh nhau ngày càng dữ dội,
cái tính mạng một nước, gởi trong tay một số
người đông, chứ không thấy nước nào
không có dân quyền mà khỏi mất nước bao giờ.
Thế mà nay Bác lại c̣n dựng cờ quân chủ lên hay
sao?’ Ông nói thế, lúc bấy giờ tôi chưa có câu ǵ
đáp lại, nay đă hơn 20 năm rồi, lời ông
càng lâu, càng nghiệm. Tôi mới biết cái óc suy nghĩ cùng
cái mắt xem xét của tôi thiệt không bằng ông! Phỏng
ngày nay ông c̣n sống th́ cầm cờ hướng đạo
cho chúng ta, hẳn phải nhờ tay ông mới được.
Than ôi! Ngày nay những
kẻ cúng vái ông, kính mến ông, có phải là chỉ ngắm
tượng ông, đọc văn ông góp nhặt năm ba
câu làm bộ ái quốc, ái quần đầu miệng mà
thôi ư? Phải biết rằng ông Hy Mă mà được
danh tiếng lưu truyền với sử xanh là v́ ông có chủ
trương thiệt, tinh thần thiệt. Thế th́
người ta muốn bắt chước ông Hy Mă cũng cần
phải có thiệt chủ nghĩa, thiệt tinh thần mới
gọi là biết bắt chước ông Hy Mă vậy.”.
Trong cuốn tự
truyện Phan Bội Châu Niên Biểu (tức Tự Phán) viết
sau đó, cụ Phan Bội Châu cũng đă tự phán
như sau:
“Than ôi, lịch sử
tôi là lịch sử của trăm điều thất bại
mà không có lấy một điều thành công. Bôn ba trôi nổi
gần ba mươi năm, v́ liên lụy với tôi mà kẻ
chết người tù, tai ương tràn cả nước,
độc hại lan khắp đồng bào. Mỗi khi tỉnh
giấc nửa đêm ḷng tự bảo ḷng rồi gạt
lệ nh́n trời; hai mươi năm lần lữa,
trông râu mày mà hổ thẹn.”.
Cụ Huỳnh
Thúc Kháng là đồng chí thân thiết của cả hai cụ
Phan, đă nhận xét về cuộc đời của cụ
Phan Châu Trinh như sau:
“Như tiên sinh,
không những là một người chí sĩ yêu nước,
mà thật là một nhà chính trị cách mạng đầu
tiên nước Việt Nam ta vậy. Một kẻ sĩ
vai gánh giang sơn, ḷng thương ṇi giống, một ḿnh
xông đột trăm cách toan lường, trong hai
mươi năm thừa, trải biết bao hiểm nghèo,
nếm biết bao mùi cay đắng... thế mà tiên sinh cứ
khăng khăng ôm một cái chủ nghĩa, đeo đẳng
măi với cảnh hoạn nạn mà không chịu rời ra;
không những danh vị lợi lộc không dỗ dành
được, cực khổ không đổi dời
được; cho đến gươm kề trên cổ,
súng dí trước bụng cũng cũng không chút nào lay chuyển,
sánh với ông Sào Nam (Phan Bội Châu), chí khí đồng nhau, nhiệt
thành đồng nhau, phách lực đồng nhau, mà cái cảnh
càng khó, cái ḷng càng khổ hơn vậy.”.
Vậy đâu phải
cứ bạo động hay bất bạo động là
hay hoặc dở, mà phải sáng suốt, mà phải biết
tuỳ thời vận dụng cho hữu hiệu.
- - - - -
- Bạo động có thể có kết quả
trên những bản chất nô lệ chứ không trên những
đầu óc độc lập.
Ben
Johnson
- Tiếc thay có những
lúc mà bạo động là cách duy nhất có thể dùng
để bảo đảm công b́nh xă hội.
T.
S. Eliet
-
Sức mạnh vĩ đại nhất mà nhân loại có thể
vận dụng là bất bạo động.
-
Văn hóa chính đạo giúp con người trở thành hiền
lương, nên kẻ nào chỉ biết bạo động
là kẻ thiếu văn hóa.