BẠO ĐỘNG

HAY

BẤT BẠO ĐỘNG?

 

Đỗ Thông Minh

 

Luận bàn về:

- Bản Chất Con Người

- Các Tư Tưởng Đấu Tranh Cách Mạng

- Các Cuộc Đấu Tranh Cách Mạng

- Cuộc Đấu Tranh Dân Chủ Đầu Tiên Tại Việt Nam

- Cuộc Đấu Tranh Dân Chủ Hiện Nay

- Chúng Ta Rút Ra Được Bài Học Ǵ?

 

Bản Chất Con Người

Giả thử như có hai người căi nhau v́ tai nạn giao thông.

1- T́nh huống có thể là đi tới ẩu đả trước khi phải nhờ đến pháp luật can thiệp vừa về tai nạn giao thông, vừa về chuyện ẩu đả. V́ khi cuộc căi vă lên cao độ, một bên không dằn ḷng được đă vung tay vung chân đánh đá trước.

2- T́nh huống có thể là sau đó mời cảnh sát tới, căn cứ trên luật giao thông giải quyết phải-trái một cách êm đẹp. Hai bên tuy căi nhau nhưng đều cố gắng dằn ḷng, không ai vung tay vung chân đánh đá trước.

Bạn nghĩ ǵ về hai t́nh huống này?

Trường hợp đầu giải quyết bằng bạo động bất chấp luật pháp, như vậy liệu có nh́n ra lẽ phải từ kết quả ẩu đả chăng, chưa kể tưởng là nhanh cuối cùng vẫn phải nhờ đến luật pháp, công lư, vừa mất nhiều th́ giờ vừa rắc rối hơn.

Trường hợp sau giải quyết bằng bất bạo động thông qua luật pháp, hai bên đều ư thức và chấp nhận, thể hiện nếp sống văn vóa, văn minh, tuy hơi mất th́ giờ.

- - - - -

Người ta vốn thích bạo động hay bất bạo động? Muốn biết điều này th́ không ǵ hơn là hăy thử t́m về bản chất con người.

1- Nho Gia (儒家) cho là “Nhân chi sơ tính bản thiện.”, con người ta được sinh ra bản chất thiện, trong trắng như tờ giấy trắng. Nhưng khi vào đời, do va chạm quyền lợi, tham sân si mà sinh ra có những hành vi ác. Do đó, phải lấy khoan nhu dĩ giáo mà khuyên bảo. Như xưa th́ vua nên thân với dân…

2- Pháp Gia (法家) cho rằng “Nhân chi sơ tính bản ác.”, như cá lớn đớp cá bé vậy, theo lẽ mạnh được yếu thua hay bị đào thải như tiến hóa luận của Charles Robert Darwin. Do đó, phải dùng luật pháp nghiêm minh, h́nh phạt nặng nề th́ mới duy tŕ trật tự được. Vua mà thân với dân th́ dân sẽ lờn…

3- Vương Dương Minh (王陽明, 1474-1528) cho rằng “Thể của tâm vô thiện - vô ác”, tức bản thể không thiện không ác, chỉ do động của ư mới sinh ra thiện-ác. Quan niệm này cũng hơi giống với Tây Phương khi cho rằng trong mỗi người đều có cả hai vị thần thiện và thần ác ngự tri trên vai, tranh chấp nhau thường xuyên, lôi cuốn người ta về phía này hay phía kia...

Dù quan niệm như thế nào th́ thực tế cho thấy con người có lư trí, có lương tri, ai cũng muốn hướng tới “nhân ái” (仁愛), nếu có phải làm chuyện “phi nhân” (非人), là điều chẳng đặng đừng. Tóm lại, con đường chung của con người vẫn luôn là muốn hướng tới “nhân đạo” (人道). Người ta chẳng thường chúc nhau “b́nh an, an khang”, hay “chúc điều lành, tránh diều dữ” đó sao.

Tuy nhiên, thực tế lịch sử nhân loại và các dân tộc nói chung đều là lịch sử chiến tranh, trong nhiều trường hợp, con người coi chiến tranh là phương tiện đắc dụng để giải quyết những tranh chấp lớn cho đến khi chủ nghĩa Dân Chủ ra đời th́ h́nh thái đấu tranh bất bạo động mới được đề cao và coi là một phương thức đấu tranh có văn hoá và văn minh. Thế nên trong những công cuộc đấu tranh giành Tự Do - Dân Chủ hay quyền sống nói chung, chúng ta thường phải đứng trước hai chọn lựa nên dùng phương thức: bạo động (riot, 暴動) hay bất bạo động (non-riot, 不暴動)?

Bạo động (riot, 暴動) mà cao độ là bạo lực (violence, 暴力) và cực điểm là khủng bố (terror, 恐怖) hay chiến tranh (war, 戦争), là sự bộc phát mạnh mẽ thường có vũ trang, có thể phát huy tối đa sức mạnh, dễ chiến thắng nhất thời bằng áp lực chứ không phải bằng chính nghĩa và thường gây đổ máu, chết chóc, thiệt hại tài sản...

Ngày xưa, các vơ sĩ giải quyết tranh chấp bằng giác đấu. Hiệp sĩ Âu Châu và Samurai Nhật giải quyết bằng kiếm. Cao bồi miền Tây Hoa Kỳ và nhiều nơi ở Âu Châu giải quyết bằng súng… Sẽ có người thắng kẻ thua, nhưng chuyện thắng thua chỉ là dựa trên sức mạnh hay khả năng dùng kiếm, súng chứ không thể hiện chính-tà, thiện-ác. Những công cuộc đấu tranh của quần chúng có khi đi đến bạo động, c̣n thường các cuộc nội chiến hay đấu tranh giành độc lập đều nhuốm màu bạo lực…

Cuộc đấu tranh giành độc lập của Phong Trào Văn Thân, Cần Vương, Duy Tân Hội 1904 của cụ Phan Bội Châu (1867-1940)… hay Cách Mạng Hoa Kỳ 1775, Cách Mạng Pháp 1789, Cách Mạng Trung Hoa 1911… là những thí dụ điển h́nh cho phương thức nhất thời này. Nhưng Cách Mạng Vô Sản ở Nga 1917, Trung Quốc 1949, Việt Nam 1945, Cam Bốt 1975… đă đi đến mức tàn bạo nhất khi coi là “bạo lực cách mạng” và đôi khi cả “thường trực cách mạng” là chủ trương căn bản để giành chính quyền và đấu tranh giai cấp, làm băng hoại nhân tính. Kết quả của “bạo lực cách mạng” là khi đấu tranh th́ sắt máu, khi xây dựng th́ tụt hậu.

Bạo lực thực ra không nhất thiết luôn luôn đi kèm với vũ trang là “bạo lực thể xác”, v́ đôi khi người ta cũng dùng từ “bạo lực ngôn ngữ” (言語暴力) hay “bạo lực tinh thần” (精神暴力). Là loại bạo lực dùng lời nói cực kỳ thô lỗ, sắt máu hay các h́nh thức cô lập, đe dọa bản thân hay gia đ́nh, áp bức để khủng bố tinh thần (精神恐怖) như kiểu “ṭa án nhân dân”... th́ cũng là một loại cực h́nh rất hiểm độc. Tuy nhiên, loại bạo lực này thường diển ra trên quy mô nhỏ và khó nhận ra. 

Bất bạo động (non-riot, 不暴動) kiên quyết phi bạo lực (non-violence, 非暴力), là sự tự chủ, vượt thắng những vọng động, sắt máu, dùng lương tri và những biện pháp ôn hoà mà nếu biết, có thể phát huy sức mạnh tiềm tàng là sự đồng tâm nhất trí của nhiều người thành sức mạnh vô song, mà không gây đổ vỡ, tang tóc...

Với chủ trương này, người ta giải quyết các tranh chấp trên bàn hội nghị, hay như Takamori Saigo (西郷隆盛, Tây Hương Long Thịnh, 1827-1877) chiếm thành Edo (江戸, tên cũ của Tokyo (東京)) năm 1869 mà không tốn một giọt máu, gọi là “vô huyết khai thành”. Đánh nhau để chiếm thành là chuyện b́nh thường, thuyết phục mà chiếm được thành mới là điều đáng được ca ngợi.

Cộng cuộc đấu tranh Dân Chủ - Bất Bạo Động của Phong Trào Duy Tân với cụ Phan Châu Trinh (1872-1926), Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), Trần Quư Cáp (1870-1908)… khởi xướng năm 1904 hay cuộc đấu tranh bất bạo động và bất phục tùng (dựa trên “civil disobedience” của Henry David Thoreau (1817-1862)) của Thánh Mahatma Gandhi (1869-1948) là những thí dụ điển h́nh cho phương thức này. Một trong những yếu tính quan trọng nhất của Dân Chủ chính là Bất Bạo Động, mọi người được tự do phát biểu hay biểu t́nh, tự do vận động, dùng lá phiếu… nhưng cấm bạo động, đó là hiện thực trong các xă hội Dân Chủ Âu, Mỹ, Nhật... ngày nay. 

Với những công cuộc vận động lớn lao có đông đảo quần chúng tham dự, khi sự phẫn uất lên cao độ, khó có thể nói trước cuộc đấu tranh sẽ đi theo phương thức nào, tuy nhiên những nhà lănh đạo phải kiên tŕ với chủ trương căn bản là bất bạo động. Cách mạng là việc làm vô cùng gian nan, cũng vô cùng thiêng liêng cao cả v́ liên hệ trực tiếp đến toàn thể dân tộc hay nhân loại, do đó, dù có cơ hội tiến hành cũng phải thật thận trọng. Phải biết tuỳ thời mà bạo động hay bất bạo động.

Đấu tranh bạo động (riot, 暴動) thường huy động sức mạnh vật chất, ỷ lại và vội vă dùng nhiều loại vũ khí khác nhau một cách thô bạo, th́ đấu tranh bất bạo động (non-riot, 不暴動) huy động sức mạnh tinh thần, không có nghĩa thụ động, mà ngược lại rất kiên tŕ và tích cực vận dụng: ư chí sắt đá, hiểu biết t́nh h́nh, nắm vững luật pháp, nhẫn nại chịu đựng, thanh thản tù đày… tin tưởng thành công.

           Bạo động nhắm tới huy động thiểu số háo động, bất bạo động nhắm tới huy động đa số thầm lặng.

 

Các Tư Tưởng Đấu Tranh Cách Mạng

          H́nh thái đấu tranh thay đổi tùy theo thời đại nhưng tựu chung có hai khuynh hướng chính là bạo động và bất bạo động.

          1- Về chủ trương bạo động.

- Tuân Tử (遵子, 300-237 TCN), nguyên là Nho Gia nhưng chủ trương con người bẩm sinh là ích kỷ và có tính ác, tính thiện chỉ có được nhờ giáo dục. Ông cho rằng cách cai trị tốt nhất là dựa trên sự kiểm soát độc đoán, và đạo đức không liên quan tới hiệu quả cai trị. Tư tưởng này đă được Hàn Phi (韓非, ch. 233 TCN) và Lư Tư (李斯, ch. 208 TCN) phát trin thành mt hc thuyết ca phái Pháp Gia. Theo đó, bn tính con người là ích k và không th sa đi; v́ thế, đ gi trt t xă hi cách duy nht là áp đt k lut chặt chẽ t bên trên xuống, coi quyn lc ca nhà nước quan trng hơn phúc lợi ca người dân.

- Niccoḷ Machiavelli (1469-1527), triết gia về chính trị học người Ư, đă viết tác phẩm Quân Vương (The Prince) vào năm 1515, cho rằng muốn đạt được mục đích cũng như sử dụng quyền lực hiệu quả, phải thực hiện các phương pháp phi đạo đức ngoài ư muốn. Ông được coi như là đại biểu của chủ trương: Cứu cánh biện minh cho phương tiện” (The end justifies the means).

     Chủ trương cứu cánh biện minh cho phương tiện rất thông dụng trong xă hội phong kiến, quân chủ chuyên chế và với những nhà lănh đạo độc tài hay Cộng Sản, luôn muốn đạt đến tột đỉnh quyền lực cùng sự thống trị hội tuyệt đối bằng mọi giá.

- Marx - Engels, chủ trương “bạo lực ” với những tư tưởng kích động giới lao động tay chân, các nhân công đi vào bạo động qua bản “Tuyên Ngôn Cộng Sản” năm 1848 với khẩu hiệu “Thế giới vô sản đoàn kết lại”, “Đấu tranh giai cấp” do Karl Marx (1818-1883, triết gia về chính trị - kinh tế người Đức gốc Do Thái) và Friedrich Engels (1820-1895, triết gia về chính trị người Đức)… biên soạn.

Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản bắt đầu bằng lời xác nhận rằng lịch sử của nhân loại là “lịch sử của đấu tranh giai cấp” (history of class struggle). Chính sự tranh chấp giữa các giai cấp đă gây nên các hoạt động của xă hội. Trong tuyên ngôn có viết: Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản. Nhưng chế độ tư hữu hiện thời, chế độ sở hữu tư sản, lại là biểu hiện cuối cùng và hoàn bị nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu dựa trên cơ sở những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia. Theo ư nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lư luận của ḿnh thành công thức duy nhất này: xóa bỏ chế độ tư hữu…”. “Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với chế độ s hữu cổ truyền; không có ǵ đáng lấy làm lạ khi thấy rằng trong tiến tŕnh phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng cổ truyền…”.

Mark đă mù quáng khi kịch liệt kết án Tư Bản một cách méo mó qua bộ “Tư Bản Luận” 3 cuốn được xuất bản vào năm 1867, 85, 94, đă được coi là “Thánh Kinh của giai cấp lao động”. Và tập thứ tư là “Lư thuyết Của Giá Trị Thặng Dư” (The Theory of Surplus Value) xuất bản từ năm 1905 đến 1910.

Ngày 25/1/2006, Hội Đồng Âu Châu ra nghị quyết 1481, lên án các chế độ Cộng Sản đă tàn sát người hàng loạt như Phát-xít (Fascism, Chủ Nghĩa Dân Tộc Cực Đoan). Nghị quyết có 14 điều rất cụ thể và nghiêm minh, trong đó có Điều 9 nhấn mạnh: “Các chế độ toàn trị Cộng Sản vẫn c̣n hoạt động tại một số quốc gia trên thế giới và vẫn tiếp tục gây tội ác. Quan điểm về quyền lợi quốc gia không thể được dùng để ngăn chặn sự chỉ trích thích đáng đối với các chế độ toàn trị Cộng Sản hiện nay. Hội Đồng mạnh mẽ lên án tất cả các vi phạm nhân quyền của họ.”.  

- Phan Bội Châu (1867-1940), xuất thân là con nhà văn nhưng lại chủ trương bạo động. Tại sao vậy? V́ cụ nhận thức rơ giới hạn của văn, nhẹ nhàng th́ nhà cầm quyền thực dân Pháp và Nam triều không nghe, không kích động th́ khó huy động được đông đảo quần chúng. Cụ và các đồng chí chủ trương bạo động để sớm thoát cảnh nô lệ, song song với việc nâng cao dân trí và chấn hưng dân khí.

Năm 1905, cu Phan Bội Châu qua cầu viện Nhật Bản yểm trợ quân sự... khi sự việc không thành th́ cụ tự mua vũ khí là khoảng 500 khẩu súng trường cũ của Nhật, nhưng không t́m ra cách chuyển vào trong nước, để rồi nhà cầm quyền Anh biết được và tịch thu. Năm 1913, cụ tiếp tục chủ trương “kịch kiệt bạo động”, qua thân giao với Trung Hoa Quốc Dân Đảng, cụ xin được ít tạc đạn và cho người về Việt Nam thực hiện vài cuộc ám sát. Tuy cụ nói là “kịch liệt bạo động” nhưng vũ khí không có bao nhiêu, nên tính chung cả những người bị chết thuộc cả hai phía nhiều lắm là hai, ba chục người. Thế mà cụ cũng đă ăn năn rất nhiều, thương cho các đồng chí v́ ḿnh mà hy sinh… Khuyết điểm lớn của phong trào là hầu như tất cả đều bí mật, Duy Tân Hội ban đầu c̣n không có tên, hội họp không ghi biên bản… nên không phổ biến sâu rộng được. Năm 1926, khi hay tin cụ Phan Châu Trinh mất, trong lúc bị an trí ở Huế, cụ Phan Bội Châu đă có bài điếu văn, bày tỏ tâm tư, coi cụ Phan Châu Trinh là người cầm ngọn cờ đầu Dân Chủ hướng dẫn cho chúng ta.

2- Về chủ trương bất bạo động.

- Khổng Tử (孔子, 551-470 TCN), Mạnh Tử (孟子, 372-289 TCN), là đại biểu của phái Nho Gia thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên. Chủ trương tu thân: Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Ṭng, Tứ Đức… và hành đạo: Nhân Trị, Chính Danh. Biên soạn Tứ Thư và Ngũ Kinh…

Khng T ch trương tôn trọng cá nhânđc tr, quan h xă hi, công bngchính trc… Các tư tưởng ca ông đă được phát trin thành mt h thng triết hc gi là Khng Giáo.

Mạnh Tử cho rằng vua không có quyền lấy dân làm của riêng, phải duy dânv́ dân. Ông chủ trương nhân nghĩa (仁義) và mọi việc cốt yếu ở dân: “Dân vi quư, xă tắc thứ chi, quân vi khinh.”.

- Nguyễn Trăi (1380-1442, năm 1980 nhân kỷ niệm 600 năm sinh nhật đă được UNESCO tuyên dương là danh nhân văn hóa thế giới, một người nữa cũng được tuyên dương là Nguyễn Du (1765-1820)), người đă giúp Lê Lợi (1385-1433) đánh thắng quân Minh, chủ trương:

“Lấy chí nhân thay cường bạo,

Đem đại nghĩa thắng hung tàn.”

Đây rơ ràng là chủ trương bất bạo động, dù đă phải trải qua một thời gian dài 10 năm chinh chiến điêu linh và chính chủ trương này đă thu phục được ḷng người và khi kết thúc chiến tranh đất nước nhanh chóng tái thiết trong b́nh yên.

Phần mở đầu B́nh Ngô Đại Cáo (平呉大告) của cụ sau khi chiến thắng có ghi:

Vic nhân nghĩa ct yên dân,

Quân điếu pht(*) trước lo tr bo;

Như nước Đi Vit ta t trước,

Vn xưng nn văn hiến đă lâu,

Nước non b cơi đă chia,

Phong tc Bc-Nam cũng khác;

T Triu, Đinh, Lư, Trn bao đi xây nn đc lp;

Cùng Hán, Đường, Tng, Nguyên mi bên hùng c mt phương;

Tuy mnh yếu có lúc khác nhau,

Song hào kit thi nào cũng có.

                                                     (Bản dịch của Ngô Tất Tố (1894-1954))

           (*) Quân điếu phạt (điếu dân phạt tội): đem quân đánh kẻ có tội để cứu dân.

 

- Montesquieu (1689-1755), là một nhà b́nh luận kiêm tư tưởng Pháp, rất nổi danh với chủ trương tam quyền phân lập: lập pháp - hành pháp - tư pháp. Theo ông, có ba dạng chính quyền dựa trên ba “nguyên tắc” là quân chủ (chính quyền được tự do, do một người đứng đầu được thừa kế tức là vua hay nữ hoàng) dựa trên nguyên tắc danh dự, cộng ḥa (chính quyền được tự do, người đứng đầu do được bầu ra lănh đạo) dựa trên nguyên tắc đức hạnh và độc tài (chính quyền bị kiểm soát bởi các nhà độc tài) dựa trên nỗi sợ hăi. Ông cũng cho rằng thể chế chính quyền tốt nhất là quân chủ mà điển h́nh là nước Anh.

- Voltaire (bút hiệu của Francois-Marie Arouet, 1694-1778), nhà văn kiêm triết gia Pháp, chủ trương phát huy quyền làm người như quyền tự do cá nhân, tự do tôn giáo và quyền được phán xử công minh. Đương thời, ông thường công khai phát biểu đ̣i cải cách những bất công trong xă hội bất chấp sự khe khắt lúc bấy giờ của triều đ́nh Pháp

- Jean Jacques Rousseau (1712-1778), triết gia Pháp, đưa ra những tư duy về phát triển của lư thuyết xă hội (cho rằng con người ta sinh ra vốn tốt nhưng rồi bị tha hóa), sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc, giáo dục khai sáng… và chủ trương chính trị phải đi đôi với đạo đức. Theo ông, loài người phụ thuộc lẫn nhau do phân chia lao động và dẫn đến bất b́nh đẳng, v́ vậy, cần phải có “khế ước xă hội” (phác họa trật tự chính trị hợp lư)… Là một trong những người phê phán thể chế hữu và được coi là khơi mào cho chủ nghĩa xă hội…, có ảnh hưởng lớn đến cuộc Cách Mạng Pháp 1789.

- Edmund Burke (1729-1797), một triết gia Hoa Kỳ trong cuộc đấu tranh giành độc lập từ tay người Anh: “Chính quyền thực dân có thể cầm tù một người, một số người, chứ không thể cầm tù cả một dân tộc.”. Nếu nhiều người cùng đứng lên th́ đó là một sức mạnh mà kẻ thù không thể khuất phục.

           - Henry David Thoreau (1817-1862), một nhà văn kiêm triết gia Hoa Kỳ là người đầu tiên đưa ra chủ trương “bất phục tùng có tính cách dân sự” (civil disobedience) như một phương thức chống đối, tuy có vẻ thụ động, nhưng nếu được nhiều người ủng hộ cũng sẽ trở thành một sức mạnh đáng kể.

           - Leo Tolstoy (Lev Nikolayevich Tolstoy, 1828-1910), văn hào Nga nổi tiếng với tác phẩm “Chiến Tranh Và Ḥa B́nh”, nêu cao chủ nghĩa ḥa b́nh và cải cách giáo dục, chủ trương vô chính phủ, được coi lá Á Thánh.

           - Mahamat/Mohandas Gandhi (Cam Địa, 1869-1948) nói: “Nhà tù là nhà tù của kẻ trộm, kẻ cướp. Đối với tôi, đó là cung điện.”. Với một lương tâm trong sáng và thanh thản như vậy, ông không sợ hăi khi phải bước vào nhà tù. Ư chí mạnh mẽ này đă củng cố niềm tin cho những người đấu tranh rất nhiều.

           - Martin Luther Kinh (1929-1968), nhà đấu tranh người Hoa Kỳ da đen, chủ trương đả phá kỳ thị chủng tộc giữa da trắng và da đen, dẫn đến Phong Trào Dân Quyền thập niên 1960, bị ám sát chết. Ngày sinh của ông trở thành ngày lễ quốc gia Hoa Kỳ.

           - Nelson Rolihlahla Mandela (1918-), nhà tranh đấu bạo động chuyển qua bất bạo động chống chính sách kỳ thị chủng tộc (màu da) kéo dài hàng thế kỷ tại Nam Phi, được trao giải Nobel Ḥa B́nh năm 1993, bị giam trong 27 năm (1963-1990). Năm 1994, được bầu Tổng Thống Cộng Ḥa Nam Phi đầu tiên qua cuộc đầu phiếu tự do và b́nh đẳng chủng tộc đầu tiên, tại nhiệm đến năm 1999. Tuy thắng thế nhưng ông đă không hề trả thù người da trắng, đem lại sự ổn định cho đất nước.

- Phan Châu Trinh (1872-1926), xuất thân là con nhà vơ, từng vào chiến khu với cha là Phan Văn B́nh, nhưng lại chủ trương bất bạo động. Tại sao vậy? V́ cụ nhận thức rơ giới hạn của vũ lực, tuy mạnh nhưng chỉ thu hẹp trong một phạm vi nhỏ, không huy động được đông đảo quần chúng. Cụ và các đồng chí sẵn sang hy sinh tính mệnh của ḿnh, nhưng chủ trương bất bạo động để thích ứng với hoàn cảnh bấy giờ, nhằm dồn sức cho việc phổ cập giáo dục rộng răi, nâng cao dân trí và chấn hưng dân khí. Phong Trào Duy Tân thành lập năm 1904, có được 4 năm hoạt động công khai, phát triển rực rỡ khắp nước cho đến khi vụ Trung Kỳ Dân Biến xẩy ra và cuối cùng chỉ v́ chút bạo động mà bị dẹp tan, các nhân vật lănh đạo Phong Trào Duy Tân tuy không trực tiếp can dự nhưng cũng bị bắt, kết án… phong trào bị tê liệt. Đáng tiếc phong trào nguyên thủy là bất bạo động nhưng do sự nóng tính của một số người biểu t́nh đi tới bạo động, khiến trước sau cả trăm người bị sát hại hoăc tử h́nh. Khuyết điểm lớn của phong trào là hầu như tất cả đều công khai nên đễ bị bắt trọn.

 

Các Cuộc Đấu Tranh Cách Mạng Hiện Đại

           Để có khái lược về những cuộc đấu tranh cách mạng chính trong thời hiện đại, hăy lược qua một số các cuộc đấu tranh cách mạng từ Đông sang Tây.

           - Cách Mạng Giành Độc Lập Hoa Kỳ 1775: Là cuộc đấu tranh vũ trang giành độc lập từ năm 1775 đến 1781 và chính thức được Anh trao trả độc lập năm 1783, do ông George Washington (1732-1799) lănh đạo 13 xứ thuộc địa, với sự tiếp tay của Pháp. Sau khi đánh đuổi quân Anh ra khỏi Boston, Hoa Kỳ đă ra Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 4/7/1776. Trong đó có câu: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền b́nh đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc.”.

Năm 1789, Washington được bầu làm Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ và sau này được vinh danh là “quốc phụ”.

Sau này có thêm cuộc nội chiến (Civil War) từ năm 1861 đến 1865, giữa chính phủ liên bang với 21 tiểu bang ở miền Bắc nhằm giải phóng nô lệ da đen do Tổng Thống thứ 16 là Abraham Lincoln (1809-1865) lănh đạo và 11 tiểu bang ở miền Nam. Đây là cuộc nội chiến duy nhất nhưng cũng rất tàn bạo, gây tổn thất lớn về nhân mạng khiến 970.000 người chết, trong số đó có 620.000 binh lính. Điều đáng nói là dù sau cuộc chiến tương tàn, Tướng Ulysses S. Grand (1822-1885, sau thành Tổng Thống thứ 18) thắng trận đă đối xử rất quân tử và khoan hồng với Tướng Robert E. Lee (1807-1870) và binh sĩ bại trận, bởi thắng hay thua đều là người Hoa Kỳ và đều anh dũng như nhau, không có tù binh, không có chính sách trả thù, nghĩa trang bên nào bên ấy lo. Đặc biệt ngay trong nghĩa trang quốc gia Arlington (nguyên của phe miền Bắc) ở Wa DC cũng có phần mộ 500 binh sĩ miền Nam với đài tưởng niệm. Tổng Thống Lincoln lănh đạo cuộc chiến đi đến thắng lợi ngày 9/4/1865 đưa Hoa Kỳ sang trang sử mới, nhưng ngay sau đó ông bị ám sát chết ngày 15/4.

           - Cách Mạng Dân Quyền Pháp 1789: C̣n được coi là Cách Mạng Tư Sản, là cuộc đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến hủ bại và ít nhiều tàn bạo của vua Louis XVI (1776-1892), thời của cuộc nối dậy phá ngục Bastille ngày 14/7/1789 kéo dài tới 21/9/1792… để thành lập nền Cộng Ḥa (Chủ quyền quốc gia thuộc về người dân và những người lănh đạo do dân bầu). Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp năm 1791 viết: “Người ta sinh ra Tự Do và B́nh Đẳng về Quyền Lợi; và phải luôn luôn được Tự Do và B́nh Đẳng về Quyền Lợi.”.

Nhưng trong buổi sơ khai, thời gian kế đó 1792-1804, cũng là thời của các chính trị gia với các tư tưởng cực đoan đối lập tranh giành. Trong không khí “say máu cách mạng”, M. Robespierre (1758-1794)… chủ trương khủng bố, nhiều người đang là anh hùng cách mạng, khi yếu thế trở thành tử tội, kể cả Robespirre, các máy chém hoạt động liên tục ngay giữa Pairs. Pháp rơi vào t́nh trạng hỗn loạn, vừa nội chiến vừa ngoại xâm. Rồi sự xuất hiện của Đại Tướng Napoléon Bonaparte (1769-1821), nhờ những chiến công, đă lên tột đỉnh, làm Tổng Tài (tương đương Thủ Tướng, 1799-1804), tuy có công cải cách luật pháp nhưng lại độc đoán quay về với đế chế, tự phong làm vua… Cho măi đến khi Napoléon bị hạ bệ và lưu đày năm 1815, sự tranh chấp mới dịu đi và ngọn đuốc Dân Chủ mới thực sự được thắp lên.

Cách Mạng Pháp tuy đă phải trả giá phí phạm trong lúc quá đà, nhưng thực sự đă vang dội khắp năm châu, soi đường cho cả nhân loại, tác động mạnh mẽ tới Á Châu như Nhật Bản từ năm 1868, Trung Hoa năm 1898 (với Duy Tân Biến Pháp, nhưng bị Từ Hy và nhóm bảo thủ đàn áp qua vụ Mậu Tuất Chính Biến, trước khi nổ ra Cách Mạng Tân Hợi 1911 ở Quảng Đông… phía nam), Việt Nam năm 1904 qua Phong Trào Đông Du, Phong Trào Duy Tân…

           - Cách Mạng Duy Tân Nhật 1886: Là cuộc đấu tranh do Thiên Hoàng Minh Trị (明治天皇, 1852-1912) và nhất là các cận thần chủ xướng nhằm loại trừ ḍng họ Sứ Quân Tokugawa (徳川) nắm giữ Mạc Phủ đă 265 năm và duy tân (維新, nghĩa là thay đổi toàn diện theo mới) đất nước bằng cách bảo tồn “hồn Nhật” nhưng theo kỹ thuật Tây Phương. Công cuộc Minh Trị Duy Tân kéo dài từ năm 1868 đến 1912, là một thời gian dài phát triển vượt bực trong hoà b́nh giúp Nhật Bản mau chóng trở thành cường quốc, hai lần đánh thắng nhà Thanh năm 1894, 1895 và hai lần đánh thắng Nga năm 1904, 1905, sánh ngang với các đế quốc da trắng thời bấy giờ. Trong không khí Tự Do, Dân Chủ mới ló dạng, một số đ̣i hỏi giảm thuế hay chống đối đôi khi cũng bị đàn áp, nhưng trước sau chỉ khoảng vài chục người bị sát hại.

Cũng xin lưu ư Nhật Bản là quốc gia Á Châu đi tiên phong trong việc du nhập khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn của Âu-Mỹ, nên họ đă dịch những từ mới như Tự Do (自由), Dân Chủ (民主), Cộng Sản (共産), lao động (労働), kinh tế (経済), diễn thuyết (演説)… kết hợp những từ đơn sẵn có trong chữ Hán. Chỉ có từ Cộng Ḥa là có sẵn trong sách Hán, chỉ sự hợp tác của Chu Công và Triệu Công năm 867.

           - Cách Mạng Dân Chủ Trung Hoa 1911: Là cuộc đấu tranh do Tôn Dật Tiên孫逸仙, 1866-1925) tức Tôn Văn (孫文) hay Tôn Trung Sơn (孫中山) lănh đạo, chống lại triều đ́nh phong kiến nhà Thanh nhằm thực thi dân chủ, canh tân đất nước và chống lại ngoại xâm. Cuộc đấu tranh có vũ trang, đụng độ và đổ máu nhưng ở mức độ b́nh thường với khoảng vài ngàn người hy sinh chứ không đẫm máu. Ngày 11/1/1911, ông trở thành Tổng Thống lâm thời đầu tiên của Trung Hoa nhưng thế lực quan lại ở Bắc Kinh vẫn c̣n mạnh. Trước khi mất, lời cuối cùng của Tôn Văn là “Cuộc cách mạng chưa thành.”, ông đă châm được ngọn lửa nhưng chưa đủ sức và th́ giờ để vận động rộng răi. Đặc biệt ông được vinh danh là “quốc phụ” nước Trung Hoa Dân Quốc, cả Trung Hoa Lục Địa và Đài Loan tôn kính. Sau đó t́nh h́nh Trung Hoa tiếp tục hỗn loạn, đi đến hai phe là Quốc Gia của Tưởng Giới Thạch và Cộng Sản của Mao Trạch Đông, cùng chống Nhật, rồi chống nhau và đảng Cộng Sản thắng năm 1949.

           - Cách Mạng Vô Sản Nga 1917: Cuối thập niên 40, rồi qua 50…, Marx và Engles cùng những người tin theo đă trực tiếp kêu gọi nổi dậybạo loạn ngay tại các quốc gia theo chủ nghĩa Tư Bản như Đức, Pháp, Anh nhưng đều đă không thành công.

Phải cho đến khi Lênin (1870-1924, người Nga) đưa thêm những tư tưởng cực đoan và các phương pháp hiện thực vào, thành chủ trương “bạo lực cách mạng”, vũ trang để tấn công triệt để và thô bạo, mới thành công trong việc vừa lật đổ chế độ phong kiến Nga Hoàng vừa đấu tranh giai cấp giữa công nhân và các giai cấp khác để chiếm chính quyền gọi là “Cách Mạng Vô Sản” năm 1917 th́ máu bắt đầu đổ và sau đó tiếp tục đổ măi.   

Đặc biệt là khi qua tới Joseph Stalin (1878-1953) th́ sự sùng bái cá nhân đi tới tột đỉnh và những hành vi dối trá, tàn bạo thật không c̣n giới hạn nào nữa. Hàng chục triệu người bị đầy ải và sát hại qua những nạn đói nhân tạo, trại tập trung, thanh trừng… Stalin và đảng Công sản Nga không chỉ sát hại người của giai cấp tư sản, trí thức hay thường dân mà sát hại ngay cả các đồng chí cao thấp của họ ước khoảng 3/4 Ủy Viên Bộ Chính Trị và 2/3 Ủy Viên Trung Ương đảng (theo báo cáo của Đại Hội Đảng Cộng Sản Liên Xô Lần Thứ XX năm 1956). Trong khi truyền thông của đảng luôn miệng ca ngợi lănh tụ là anh minh và nhân đạo! Phải tới khi Nikita Kruschev (1894-1971) lên cầm quyền năm 1956 th́ việc bạo sát mới tạm coi như hết.

Những kẻ độc đoán nhân danh những ư tưởng điên rồ hăng say giết người trong cơn mê sảng mà quên đi một điều rất giản dị, nếu ḿnh là nạn nhân của chính sách phi nhân đó th́ sao!? Thực vật, động vật c̣n muốn sống, huống chi con người, mỗi người chỉ có một đời để sống thôi, không ai có quyền giết oan người khác. Bạo lực thường dẫn đến “bạo quyền” “bạo chúa”, nếu không muốn lưu danh là “bạo chúa” tại sao lại chủ trương bạo lực? Không thể nào chấp nhận lối suy nghĩ khát máu: “Thà giết lầm hơn tha lầm.”.

Cách Mạng Dân Chủ Nga 1991: Chính những sai lầm căn bản từ lư thuyết đến hành động mà cái nôi của chủ nghĩa Cộng Sản đă nổ ra cuộc cách mạng thứ hai này. Thời Cộng Sản, Nga Xô có 2 tờ báo là “Sự Thật” và “Tin Tức”, người dân Nga thường riễu cợt, trong “Sự Thật” không có tin tức, trong “Tin Tức” không có sự thật. Ngụ ngôn Nga có câu: “Sự thật nặng hơn quả địa cầu.”, người dân Nga v́ yêu sự thật, không thể chấp nhận dối trá mà đứng lên.

Mikhail S. Gorbarchev (1931-) khi được bầu làm Tổng Bí Thư năm 1985, đă đưa ra chính sách “cởi mở” (glasnost), “cải tổ” (prestroika) và tuyên bố: “Tôi đă bỏ ra hơn nửa cuộc đời đấu tranh cho lư tưởng Cộng Sản, nhưng ngày hôm nay tôi phải đau buồn tuyên bố rằng: Cộng Sản chỉ biết tuyên truyền và gian dối... Từ nay sẽ không nói dối nữa.”. Tại sao ông nói như vậy? Ông nói v́ lương tâm lên tiếng và v́ tương lai Liên Xô, như ông đă từng nói ngày 10/3/1985: “Chúng ta không thể sống như thế này.”. Những cải tổ làm thay đổi tư duy những người Cộng Sản và người dân, nhất thời bị choáng ngợp, bối rối. Nhưng ông là người Cộng Sản phản tỉnh, từ đỉnh cao quyền lực, tự xa rời độc tài, đem lại Tự Do cho người dân và thực thi Dân Chủ. Năm 1989, cải tổ thể chế và đươc quốc hội bầu làm  Tổng Thống đầu tiên, được trao giải Nobel Ḥa B́nh năm 1990. Gorbachev nói: “Mục đích của đi tôi là tiêu dit chủ nghĩa cng sản, nhân dân không th chịu ni nn chuyên chính đc tài. Không có chủ nghĩa cng sản, thế gii sẽ tr nên tt đẹp hơn.”. Nhưng chính t́nh khủng hoảng và Gorbarchev bị đảo chánh, tuy cuộc đảo chánh thất bại nhưng rồi ông cũng bị tước quyền và phải từ nhiệm ngày 25/12/1991.

Trong khi đó, vào tháng 8/1991, Boris N. Yeltsin (1931-) đứng lên, can đảm đối đầu với thế lực Cộng Sản bảo thủ bằng một cuộc chạm súng với xe tăng ngay tại quốc hội. Ông nói: “Cộng Sản không có thể sửa chữa được nữa, mà chỉ có một cách duy nhất là hủy nó đi mà thôi.”. Ngày 29/8/1991, quốc Hội Liên Xô ra nghị quyết cấm đảng Cộng Sản Liên Xô hoạt động, hoàn tất cuộc khai tử đảng này sau 75 năm ngự trị bằng hệ thống quân đội và công an dầy đặc, chấm dứt thời đại “mê sảng”. Sau đó, năm 1991, Yeltsin là Tổng Thống đầu tiên do dân bầu, tuy nhiên, ông không đủ khả năng lèo lái t́nh h́nh đă phải từ chức năm 1999, nhường lại vai tṛ lănh đạo cho Vladmir Putin (1952-), được tái xác nhận bằng cuộc bầu cử sau đó năm 2000, t́nh h́nh từ đó dần dần ổn định. Cuộc Cách Mạng Dân Chủ được coi là thành công tốt đẹp mà chỉ phải trả cái giá là vài chục sinh mạng, khác hẳn với cuộc Cách Mạng Vô Sản. Nay nước Nga tuy chưa hoàn toàn Dân Chủ như Âu-Mỹ, nhưng người dân đă có được những quyền căn bản.

- Cách Mạng Vô Sản Việt Nam 1945: Là bản sao của Cách Mạng Nga Xô và sau đó của cả Trung Quốc do Hồ Chí Minh (1990-1969) và đảng CSVN cầm đầu. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp tại Việt Nam, trao lại chủ quyền cho Việt Nam, và ngày 17/4, cụ Trần Trọng Kim đứng ra lập chính phủ ở Huế. Nhưng sau đó ngày 17/8, Cộng Sản cướp chính quyền ở Hà Nội. Say máu, họ kêu gào:

 

Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,

Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,

Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung ḷng,

Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt.

                                                                                              (Tố Hữu).

 

           Số người chết trong Cải Cách Ruộng Đất thập niên 50... khoảng 200.000, tuy về tỷ lệ không nhiều như ở Liên Xô hay Trung Quốc nhưng mức cuồng tín và thâm độc tăng thêm, chỉ thua Khmer Đỏ tại Cam Bốt. Tiếp theo, bằng trực tiếp hay gián tiếp, chủ trương 7 cuộc chiến hung hăn từ năm 1930 đến 1988, khiến khoảng 3.000.000 người Việt phải hy sinh oan uổng, trong khi đó đất nước điêu tàn, nhân tâm phân hóa, xă hội băng hoại. Chưa kể đưa đất nước tới chỗ tụt hậu, yếu kém c̣n là tạo cơ hội cho các đế quốc xâm lăng.

Thực ra, qua loạt Hiệp Định Elysée trong năm 1949, Tổng Thống Pháp Vincent Auriol đă kư với Quốc Trưởng Bảo Đại ngày 8/3, chính thức giải kết Hiệp Ước Bảo Hộ 1884, trao trả độc lập cho Việt Nam. Sau đó Pháp trao trả độc lập cho Lào ngày 20/7 và cho Cam Bốt ngày 8/11. Như vậy cả ba nước Đông Dương đươc độc lập mà không phải tốn thêm xương máu. Hồ Chí Minh chống lại hiệp định này, v́ theo chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế, chủ trương gây cuộc chiến để có cơ hội Cộng Sản hóa toàn Đông Dương. Dẫn đến hiệp định đ́nh chiến Genève ngày 20/7/1954, chia đôi Việt Nam tai vĩ tuyến 17, miền Bắc thuộc Cộng Sản, miền Nam thuộc Quốc Gia. Ngày 30/4/1975, Cộng Sản chi phối toàn cơi Việt Nam.

Năm 1990, trước sự khủng hoảng ư thức hệ và xụp đổ của chủ nghĩa Cộng Sản, Trần Xuân Bách (1924 - 2006), đứng hàng thứ 9 trong Bộ Chính Trị (1986-1990), sau khi được cử đứng ra nghiên cứu t́nh h́nh đă đưa ra đề nghị đa đảng liền bị hạ bệ. 

Khéo léo và may mắn như Thái Lan giữ được độc lập, hay Cam Bốt, Lào, Triều Tiên, Đài Loan, Ấn Độ... cũng dần dần được độc lập mà đâu cần đổ xương máu như vậy. Các công cuộc đấu tranh đ̣i Dân Chủ sau đó ở Triều Tiên, Đào Loan, Phi Luật Tân, Thái Lan, Cam Bốt hay các nước thuộc Liên Xô cũ như Ukraine, Angola, Mông Cổ, Serbia... cũng đều dùng phương thức bất bạo động.

- Cách Mạng Giành Độc Lập Và Dân Quyền Ấn Độ 1947: Là cuộc đấu tranh giành độc lập từ Anh Quốc và kết hợp tôn giáo, chủng tộc do Mahatma Gandhi (1869-1948), từng tốt nghiệp Luật Sư ở Anh năm 1891 lănh đạo. Một cuộc đấu tranh mang dấu ấn đặc biệt: “Bất bạo động - bất phục tùng”, bao gồm cả tẩy chay hàng hóa của Anh... kéo dài từ năm 1914 đến năm 1947 th́ giành được đọc lập sau hơn 300 năm bị Anh Quốc đô hộ. Thời gian 33 năm kể cũng khá dài nhưng rất ít đổ máu và nhất là ḷng người kết tụ hơn, đạo đức được thăng hoa hơn.

Tại sao Gandhi có thể kiên tŕ như vậy? Bởi v́ ông là con người sống giản dị và chân thật, từng tự thề với ḿnh là “Không bao giờ nói dối, cho dù đối với kẻ hăm hại ḿnh.” và có niềm tin mạnh mẽ vào sức mạnh tinh thần. Tôn giáo của ông là “phụng sự”, xuất phát từ t́nh yêu bao lao. Nhưng “Nếu tôi hoàn toàn chú tâm vào việc phụng sự đoàn thể, th́ lư do đằng sau đó là ḷng ao ước thành tựu cho bản thân tôi.”. Và “Thay v́ nói Thượng Đế là Chân Lư, th́ tôi nói Chân Lư là Thượng Đế.”. Trước một con người với ư chí đến như thế th́ có thể thu hút quần chúng và bạo lực nào cũng phải bị khuất phục.

           Nhưng rồi ngày 30/1/1948, ngay sau khi thành công và trong lúc cố gắng ḥa giải giữa Ấn Độ và Pakistan th́ Gandhi đă phải gục chết v́ viên đạn bắn ra bởi một thanh niên Hồi Giáo cuồng tín tên New Delhi…

           - Cách Mạng Vô Sản Trung Hoa 1949: Là bản sao của cách mạng Nga, nhưng thêm yếu tố chống ngoại xâm là Nhật Bản và nội chiến với Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch (蒋介石, 1887-1975), do Mao Trạch Đông (毛沢東, 1893-1976) và đảng Cộng Sản Trung Hoa thành lập năm 1921 cầm đầu. Với chủ trương sắt máu đảng CSTQ đă bắt cả tỷ người mù quáng lao vào những cái gọi là “Đấu Tranh Giai Cấp, Cải Cách Ruộng Đất, Công Xă, Trăm Hoa Đua Nở, Bước Tiến Nhảy Vọt, Cách Mạng Văn Hóa, Đấu tố…” với chính sách cưỡng bách lao động, lưu đầy, khủng bố, làm hàng chục triệu người phải chết oan uổng, nhân tâm phân hóa và đất nước tụt hậu. Cho đến khi Đặng Tiểu B́nh có thực quyền với chủ trương “Mèo trắng, mèo đen, con nào bắt được chuột cũng tốt.”, để đối lại chủ trương “hồng hơn chuyên” (hồng là tư tưởng Cộng Sản, chuyên là chuyên môn) trước đó, th́ nước này mới bắt đầu đi lên từ n ăm 1978. Tư duy của Đặng Tiểu B́nh có ǵ lạ đâu, ai cũng biết, chỉ có chủ nghĩa Cộng Sản cuồng tín và mù quáng nên 10 triệu đảng viên Cộng Sản Trung Quốc không ai thấy? Thực ra rất nhiều người thấy nhưng không ai dám nói, làm Trung Quốc tụt hậu mấy chục năm trời, dân chúng sống trong uất hận và lầm than.

- - -

           Thêm nữa, mang danh nghĩa “Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại.”, rồi “Các nước Xă Hội Chủ Nghĩa anh em.”, nhưng rồi chuyện trớ trêu nhất đă xảy ra khi các nước Cộng Sản dùng bạo lực với nhau. Cộng Sản Nga Xô và Cộng Sản Trung Quốc tranh chấp về ư thức hệ và đánh nhau (1969, tại Hắc Long Giang), Cộng Sản Trung Quốc đánh Cộng Sản Việt Nam (2 lần, lần đầu từ 16/2/1979 kéo dài 1 tháng tại 6 tỉnh dọc biên giới, lần 2 từ 1884 tới 1988 tại Hà Giang), Cộng Sản Việt Nam đánh Cộng Sản Cam Bốt (1976, 77, 78-1989)!

           - Cách Mạng Dân Chủ Ba Lan 1980: Là một cuộc cách mạng bất bạo động, nhưng đặc điểm chính là do sự nổi dậy của giới công nhân ngay trong ḷng xă hội Cộng Sản vốn mệnh danh là đại diện cho giới công nhân. Công Đoàn Đoàn Kết thành lập ngày 4/10/1980, do ông Lech Walesa (1943-) làm Chủ Tịch. Năm 1981-82, nhà cầm quyền Cộng Sản bắt giam Walesa và liên tục đàn áp Công Đoàn Đoàn Kết. Phong trào càng lớn mạnh, với số đoàn viên dần dần tăng lên tới hơn 10 triệu người. Năm 1983, Lech Walesa đă được trao giải Nobel Ḥa B́nh, khi thế đấu tranh càng lên cao. Ngày 12/5/1988, Công Đoàn Đoàn Kết tổng đ́nh công làm tê liệt Ba Lan. Ngày 4/6/1989, Ba Lan tổng tuyển cử, phía Công Đoàn Đoàn Kết thắng lớn. Năm 1990, ông được bầu làm Tổng Thống. Cuộc Các Mạng Dân Chủ Ba Lan được coi như mở đầu việc khai tử chế động Cộng Sản Đông Âu và Nga Xô. Ông Lech Walesa đă nói: “Cộng Sản là con đường dài nhất để đi từ Tư Bản đến Tư Bản.”.

- Cách Mạng Dân Chủ Phi Luật Tân 1986, 2001: Là một cuộc cách mạng bất bạo động, lật đổ Tổng Thống Ferdinand Macros (1917-1989) năm 1986. Marcos là Tổng Thống thứ 10, lănh đạo từ 1965 đến 1986. Năm 1972, ông tuyên bố thiết quân luật, chủ trương cai trị bằng chính sách độc tài, kéo dài cho tới năm 1981. Năm 1986, ông đươc tái tuyển nhiệm kỳ thứ 4, nhưng chính phủ càng ngày càng lộ rơ những chuyện tham nhũng, vi phạm nhân quyền, không lo đầy đủ cho giai cấp nghèo… Lại thêm vụ công nhiên ám sát chính trị gia lừng danh là ông Benigno Aquino (1932-1983, Thượng Nghị Sĩ đối lập, sau vợ ông là Corazon Aquino, được bầu lên làm Tổng Thống thứ 11), khi ông này quyết định rời bỏ nơi lưu vong trở về nước, ngay lúc vừa từ máy bay bước xuống phi trường Manila ngày 21/8/1983. Vụ này coi như giọt nước tràn ly, dân chúng tức giận, xuống đường, tạo thành “sức mạnh quần chúng” (people power) tập trung dưới dấu hiệu “màu vàng”, đ̣i lật đổ Marcos. Đất nước đi đến chỗ tê liệt, nên ông Marcos đă phải rời bỏ chính quyền chạy qua Hoa Kỳ tỵ nạn và chết tai đây.

 Ngày 30/6/1998, ông Joseph Ejécito Estrada (Erap, 1937), một nghệ sĩ lừng danh, được bầu làm Tổng Thống thứ 13. Cuối năm 1999, những vấn đề tham nhũng, bê bối… của ông bị tiết lộ, dân chúng đứng lên làm cuộc “cách mạng quần chúng” thứ 2. Ngày, 20/1/2001, sau 21 ngày dân chúng biểu t́nh bất bạo động, Estrada đă phải rời chức vụ. Phó Tổng Thống Gloria Macapagal Arroyo (1947-) đối lập lên thay.

Hoàn cảnh đất nước và dân tộc Phi Luật Tân có nhiều điểm giống Việt Nam. Nên học hỏi kỹ kinh nghiệm đấu tranh của quần chúng (không qua bầu cử hay nghị hội) của nước này là điều nên lắm vậy.

- - - - -

Ngoài ra, chúng ta có thể học hỏi rất nhiều từ những cuộc cách mạng Dân Chủ bất bạo động như Hàn Quốc (Đại Hàn Dân Quốc, Nam Triều Tiên) năm 1987, Ba Lan năm 1956, 1970, 1976, rồi 1980-89, Đức Quốc năm 1990, Đông Âu năm 1989-90 (Chỉ có ở Romania tức Lỗ Ma Ni là có chút đổ máu khi vợ chồng Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản là Nicolae Ceauşescu bị xử án và bắn chết vào ngày 25/12/1989), Mông Cổ năm 1990, Cam Bốt 1993, Serbia năm 2000, Angola (Phi Châu) năm 2003… Chẳng lẽ Việt Nam lại sinh hoạt Dân Chủ thua cả các nước được kể sau cùng?

Làn sóng Dân Chủ:

- 30/9/1989: Bắt đầu phong trào tỵ nạn Cộng Sản, khoảng 30.000 dân Đông Âu kéo vào Tây Đức.

- 23/10/1989: Tổng tuyển cử tại Hung Gia Lợi, phe Cộng Sản thua, phe Dân Chủ lên cầm quyền.

- 9/11/1989: Dân chúng Đức đứng lên phá xập bức tường Bá Linh. 3/10/1990: Cộng Sản Đông Đức tan ră, nước Đức thống nhất.

- 17/11/1989: Bầu cử tự do tại Bulgaria (Bảo Gia Lợi), chế độ Cộng Sản tan ră.

- 28/11/1989: Tại Tiệp Khắc, đối thoại giữa phe Cộng Sản và Dân Chủ, dẫn đến tổng tuyển cử 1990.

- 7/1990: Bầu cử tự do tại Mông Cổ, ban đầu phe Cộng Sản thắng thế nhưng dần dần phe Dân Chủ thắng thế, năm 1993, lên nắm chính quyền

- 1993: Bầu cử tự do tại Cam Bốt, phe Cộng Sản vẫn thắng thế nhưng không độc quyền.

- 24/9/2000: Bầu cử tự do tại Serbia (ở nam Âu), sự liên kết các đảng đối lập đă thắng nhà độc tài Milosevic, dẫn đến thể chế Dân Chủ…

           Như vậy, không kể những vận động âm thầm trước đó th́ cuộc “Cách Mạng Nhung” hay “Cách Mạng Màu Cam” bằng đấu tranh bất bạo động với Hiến Chương Tiệp Khắc năm 1977 và Công Đoàn Doàn Kết Ba Lan năm 1980 đă chấm dứt với Cách Mạng, Dân Chủ Nga Xô năm 1991, chỉ với 15 năm đă làm xụp đổ cả hệ thống Cộng Sản mà hầu như không tốn xương máu. Tóm lại “Độc Tài - Cộng Sản” đă hoàn toàn chào thua trước “Dân Chủ - Tư Bản”, phải từ bỏ cái riêng tụt hậu, chạy theo cái chung tiến bộ, để cùng bước vào toàn cầu hóa.

Các cuộc Cách Mạng Dân Chủ tại Đông Âu và Nga Xô… trên thành công là do nhiều yếu tố sau:

1- Sự gian dối, tàn bạo, nghèo đói, chậm tiến của chủ nghĩa Cộng Sản.

2-    Sự phản tỉnh của một số đảng viên Cộng Sản và sự rạn nứt trong hàng ngũ Cộng Sản.

3-    Nhân dân trong và ngoài các nước đó ư thức được nhân quyền và dân quyền, đứng lên đấu tranh bất bạo động.

4-    Áp lực của Hoa Kỳ và nhiều nước cũng như những người yêu chuộng Tự Do-Dân Chủ trên thế giới…

 

Cuộc Đấu Tranh Dân Chủ Đầu Tiên Tại Việt Nam

           Năm 1904, cụ Phan Bội Châu lập hội, sau này gọi là Duy Tân Hội chủ trương bạo động, từ đó phát động Phong Trào Đông Du đưa khoảng 200 người qua Nhật du học nhưng năm 1908, 1909 bị Nhật cấu kết với Pháp trục xuất. Và cụ Phan Châu Trinh lập Phong Trào Duy Tân chủ trương bất bạo động, quy tụ hằng trăm nhân sĩ, đa số có học vị cao nhưng từ quan hay không ra làm quan, cùng nhau đến với các tầng lớp dân chúng mở trường, lập nông hội, thương hội…

Vụ Trung Kỳ Dân Biến 4/1908, dân chúng nổi lên xin giảm xâu, sưu, thuế từ Quảng Nam lan ra khắp miền Trung và vài nơi ở miền Bắc, với hàng trăm ngàn người tham gia trong tinh thần bất bạo động. Nhưng khi khí thế lên cao, có một số người quá khích bắt đầu có hành vi bạo động, đă t́m bắt giết và làm bị thương một vài quan lại gian ác Việt Nam. V́ vậy Pháp ra tay đàn áp, bắn giết, dân chúng phải bỏ chạy. Từ đó Pháp tung ra cuộc “khủng bố trắng”, bắt hàng ngàn người cầm đầu và hầu hết các lănh tụ Phong Trào Duy Tân, cả trăm người bị tử h́nh, hàng trăm khác bị đưa đi lưu đầy ở Côn Lôn... Vụ dân biến kéo dài được khoảng 3 tháng th́ bị đàn áp và đă chấm dứt trong uất hận.

Sau đó là những cộng cuộc đấu tranh của những người Quốc Gia và Cộng Sản chống Pháp cũng như chống nhau, chủ yếu dưới h́nh thức đảng phái và đi tới cuộc chiến 1954-1975. Đảng Cộng Sản đă chi phối toàn lănh thổ Việt Nam năm 1975.

 

Cuộc Đấu Tranh Dân Chủ Hiện Nay

Sau năm 1975, trong không khí phẫn uất cao độ, một số tổ chức ở trong và ngoài nước cũng đă chủ trương bạo động qua h́nh thức vũ trang kháng chiến, nói chung, h́nh thức đấu tranh này đều đă thất bại. Nên trào lưu đấu tranh này coi như đă chấm dứt vào đầu thập niên 90 và từ đó tới nay hầu như các hoạt động đấu tranh đều đă đi vào con đường bất bạo động.

Từ cuối năm 2005, đầu năm 2006 trở đi, xuất hiện rất nhiều hoạt động đấu tranh công khai bằng các bài viết, tuyên ngôn, đặc biệt về vấn đề Dân Chủ hóa và bảo vệ người Lao Động qua việc ra báo, phân phát các tài liệu hay khi trả lời các cuộc phỏng vấn của các cơ quan truyền thông Việt Nam ở hải ngoại và quốc tế. Rất nhiều nhà đấu tranh Dân Chủ và Lao Động ở trong và ngoài nước đă kết hợp lại thành các đảng phái, tổ chức và thẳng thắn nói lên lập trường của ḿnh.

           Có người cho rằng, những bước tiến lớn trong công cuộc đấu tranh mới đây bằng cả 30 năm qua, hay nói khác đi đó là kết tinh của thành quả của 30 năm qua.

Ngày 8/4/2006, các nhà đấu tranh dân chủ trong nước như Linh Mục Nguyễn Văn Lư, Trần Anh Kim, Đỗ Nam Hải... nhóm này gọi tắt là Khối 8406, đă đưa ra bản Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt Nam 2006, chủ trương: 

                      1- Bất bạo động.

                      2- Phủ nhận sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh.

                      3- Phủ nhận sự độc tôn đảng Cộng Sản Việt Nam.

Kế thừa di sản tinh thần của tiền nhân và nhân loại, Khối 8406 kêu gọi làm tất cả những ǵ luật pháp không cấm, như lập hội, lập đảng, tẩy chay bầu cử quốc hội lần thứ 12 tháng 5/2007 và nêu cao khẩu hiệu:

Đừng sợ những ǵ Cộng Sản làm,

Hăy làm những ǵ Cộng Sản sợ.

Nhà cầm quyền nào tất nhiên cũng sợ bị lật đổ bằng bạo lực, riêng CSVN từng nhiều lần tỏ ra lo ngại cái ǵ nhất trong thời gian qua? Họ không lo ngại “bạo lực” mà lại lo ngại “Diễn Biến Hoà B́nh” (Peaceful Process/Evolution).

Vậy “Diễn Biến Hoà B́nh” là ǵ? Năm 1949, nhân việc Nga thử nghiệm thành công vũ khí nguyên tử, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Dean G. Acheson (1893-1971) đă ln đu tiên dùng thut ng "Diễn Biến Ḥa B́nh" trong một bức thư gửi Tổng Thng Harry S. Truman (1884-1972) để nói về phương thức chuyển hóa chế độ Cộng Sản. Năm 1953, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Foster Dulles (1888-1959) chủ trương áp dụng phương pháp hoà b́nh này để giành thắng lợi. Đó là cuộc chiến phi vũ trang, chủ yếu lợi dụng lực lượng và phương tiện của chính đối phương đquảng bá tư tưởng T Do - Dân Ch xuyên qua ngoại giao, kinh tế, văn hóa… nhằm thay đổi các chế độ Cng Sn, khi cần mới dùng sức mạnh quân sự đ dứt đim. Phương thức này đă thành công ngoài dự tưởng ở Đông Âu, Nga Xô và đang bao vây các nuớc Cộng Sản c̣n lại. Như vậy “Diễn Biến Hoà B́nh” chủ yếu là phương thức tranh thủ nhân tâm bằng phương thức hoà b́nh qua công tác địch vậndân vận.

 

Chúng Ta Rút Ra Được Bài Học Ǵ?

Một số người cho rằng để sớm đạt mục tiêu, nhất thời cứ dùng bạo lực, thủ đoạn, khi chiến thắng sẽ quay sang những phương thức ôn ḥa, chính đáng. Liệu thực tế có như vậy chăng? Kinh nghiệm rất phổ quát cho thấy như trong các cuộc cách mạng vô sản, khi nắm quyền rồi th́ trong tiến tŕnh xây dựng sau đó, mức độ sắt máu lại gia tăng, số người chết gấp bội so với lúc bùng nổ cách mạng. Chưa kể đến những băng hoại xă hội do hận thù, dối trá gây ra… Tại sao vậy? Bởi v́ họ đă quen với sắt máu không ngần ngại dùng những biện pháp tàn bạo, và nếu nới lỏng bạo lực, những người cầm quyền có thể bị quật ngược do những hận thù trong quá tŕnh bạo lực trước đó tạo ra.

           Kinh nghiệm cũng cho thấy những cuộc đấu tranh bất bạo động khi thành công, tiến tŕnh xây dựng cũng đi theo chiều hướng êm thắm đó, không có lư do ǵ để phải đổ máu cả. Vừa bảo vệ được sinh mạng quư giá của con người, vừa bảo tồn được tài sản làm nền tảng đi lên, như các cuộc cách mang tại Nhật (có một số đàn áp và đổ máu khi dẹp Sứ Quân nhưng không nhiều), Ấn Độ (một số tranh chấp bạo lực vẫn có là do vấn đề chủng tộc và tôn giáo từ trước), các nước Cam Bốt, Lào… Trước và sau khi Cam Bốt độc lập từ thực dân Pháp mà không đổ máu, chỉ khi Khmer Đỏ làm Cách Mạng Vô Sản th́ trước và sau đó mới thành đẫm máu, chết khoảng 2 triệu người.

Trường hợp Việt Nam cũng có nhiều nét tương tự, đảng CSVN từ khi thành lập năm 1930, đă sát hại khoảng 200.000 người và can dự liên tiếp vào 7 cuộc chiến khác nhau khắp Đông Dương từ năm 1930 tới 1988 (là năm chấm dứt cuộc chiến với Trung Quốc lần thứ 2 tại Hà Giang từ 1984-1988, phía Việt Nam bị mất Núi Đất), khiến hao tổn không biết bao nhiêu xương máu, đất nước th́ điêu tàn. Tính ra khoảng gần 3 triệu người thiệt mạng, hàng triệu người phải bỏ nước ra đi trong số đó có hàng trăm ngàn người thiệt mạng v́ biển cả…

Phong trào đấu tranh Dân Chủ tại Việt Nam (Khối 8406…) hiện nay có thể ví như phong trào Hiến Chương 77 đă biến thành “Cách Mạng Nhung” ở Tiệp Khắc (Czechoslovakia) do Václav Havel (1936-) lănh đạo, sau ông làm Tổng Thống Cộng Ḥa Tiệp (Czech Republic).

(Xin xem thêm bài Con Đường Dân ChủQuy Luật Đấu Tranh của cùng tác giả)

 

Đ T M 2007

- - - - -

Than khảo:

 

Quan điểm của cụ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh

 

Vào đầu thế kỷ XX, khi tư tưởng canh tân, Dân Chủ của các nhà cách mạng Trung Hoa như Khang Hữu Vi. Lương Khải Siêu… qua các sá ch Tân Thư được truyền vào Việt Nam, một số sĩ phu Việt Nam bắt đầu ư thức được vận nước, cụ Phan Châu Trinh đă mô tả tâm trạng thời đó như sau:

“Một hôm, bỗng nhiên chợt tỉnh cơn mê, như vén mây mù trông thấy trời xanh, như vừa ra khỏi buồng tối nh́n thấy mặt trời hay mặt trăng. Niềm vui đó nói sao cho hết!”. Tuy nhiên, trong buổi giao thời ấy, dư luận c̣n hoang mang, không phân biệt được thật giả. Trước t́nh huống khẩn bách như thế, cụ Phan Châu Trinh cho rằng cần “Nhờ một hai chí sĩ thông hiểu thời cuộc hoạch định đường lối mà d́u dắt dân chúng.”, nhưng trên thực tế “Người thông hiểu th́ ít mà kẻ ngoan cố lại nhiều.”...

           Chúng ta đều được biết là hai cụ cùng dấn thân và yêu nước như nhau, nhưng phương thức bạo động và bất bạo động trái ngược nhau. Cụ Phan Châu Trinh đă nhận định về hai người như sau:

“Tôi tự biết những lư do mà chủ nghĩa của ông ấy đưa ra th́ rất yếu, nhưng nếu áp dụng vào đặc tính của dân nước Nam th́ rất mạnh. Chủ nghĩa của tôi, lư do đưa ra th́ rất mạnh, nhưng nếu áp dụng vào đặc tính của người nước Nam trong t́nh thế hiện tại th́ rất yếu. Chủ nghĩa của ông ấy rất hợp với đặc tính và tŕnh độ của quốc dân, lại nhắm vào chỗ mạnh (người ḿnh nặng cảm tính, dễ kích động) mà lợi dụng... Chủ nghĩa của tôi tương phản với đặc tính và tŕnh độ của quốc dân, lại nhắm vào chỗ yếu (những quán tính xấu trong tư duy) mà cứu...”.

Rơ ràng có sự thúc đẩy gián tiếp hay trực tiếp từ quan điểm của cụ Phan Châu Trinh và các đồng chí qua các cuộc diễn thuyết và của cụ Phan Bội Châu qua các cuốn “Việt Nam Vong Quốc Sử”, “Hải Ngoại Huyết Thư”... từ Nhật Bản gửi về.

- Vụ Trung Kỳ Dân Biến vào tháng 4/1908, kéo dài khoảng 2-3 tháng, với sự tham dự của cả trăm ngàn người khắp Trung Kỳ lan ra cả tới Bắc Kỳ ít nhiều người dân chịu ảnh hưởng quan điểm của cả hai cụ, tức bất bạo động rồi sau một số ít chuyển qua bạo động lẻ tẻ, bị quân Pháp dùng súng bắn đàn áp khiến cả chục người bị chết.

- Vụ “Hà Thành Đầu Độc” ngày 27/6/1908 do người thuộc Duy Tân Hội (năm 1911 đổi là Việt Nam Quang Phục Hội), các nghĩa quân Yên Thế của cụ Hoàng Hoa Thám và lính Việt Nam làm việc cho Pháp chủ mưu bỏ thuốc độc, nhưng bị nội gián, nên chỉ giết và làm bị thương khoảng chục sĩ quan và binh lính Pháp.

- Vụ Ném Bom Thái B́nh giết chết Tổng Đốc Nguyễn Duy Hàn, Ném Bom Khách Sạn Hà Nội ngày 16/4/1913 giết một số sĩ quan Pháp và ám sát hụt Toàn Quyền Albert Sarraut…đều do Việt Nam Quang Phục Hội, lănh đạo bởi cụ Phan Bội Châu chủ trương.

Qua các vụ này…, các tổ chức đấu tranh đă bị nhà cầm quyền Pháp truy lùng gắt gao, bắt và lên án tử 18 người (trong số đó 4 người khiếm diện) và tù chung thân 4 người, nhiều người khác bị án tù... Ngoài ra, Pháp có cớ để bắt, lưu đày hầu hết hàng trăm các nhà cách mạng của Phong Trào Duy Tân.

Năm 1925, khi hai cụ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh về nước, kẻ trước bị bắt cóc về, kẻ sau nhân phái Xă Hội bên Pháp thắng thế mới vất vả vận động để được phép về. Cho đến khi đó, nhận định của cụ Phan Châu Trinh về cụ Phan Bội Châu hầu như không có ǵ thay đổi. Vào cuối tháng 11/1925, trong bài diễn văn cụ nói về “Đạo Đức Và Luân Lư Đông Tây” tại nhà Hội Việt Nam ở Sài G̣n, khi nói về ḷng yêu nước của người Việt, cụ Phan Châu Trinh vẫn một mực phê phán chủ trương bạo động và nhất thời ỷ ngoại của cụ Phan Bội Châu (Ban đầu cụ tính dựa vào Nhật Bản, nhưng sau biết thâm ư của người Nhật, không c̣n tin tưởng nữa. Khi Nhật Bản đem quân vào Việt Nam năm 1940, cụ không tán thành và đă đoán trước Nhật sẽ thất bại.):

“Cái thương nước tôi nói ở đây không phải là xúi dân tay không nổi lên, hoặc đi lạy nước này cầu nước khác về phá loạn trong nước đâu! Tôi xin thưa: Nước ta đă hư hèn bị mắc trong tay người ta rồi, th́ bây giờ ta phải đem ḷng thương nước, bênh vực lẫn nhau, mà giúp cho nhau để cứu chuộc lại cái danh giá cùng lợi quyền của ta về sau... Thương nước cho phải đường mới gọi là thương nước, nếu thương nước không phải đường th́ đă không ích ǵ cho ai mà lại c̣n làm hại sinh linh nữa.”.

           Cụ Phan Bội Châu đă có những thay đổi tự căn bản, xoay chiều tư duy trong thời gian bị an trí ở Huế. Vào tháng 3/1927, trong dịp kỷ niệm ngày giỗ một năm cụ Phan Châu Trinh, của Phan Bội Châu đă viết:

“Than ôi! Ông có thứ cho tôi chăng? Lúc ông về nước (từ Nhật Bản, 1906), tôi tiễn chân ông đến Hương Cảng, ông cầm tay tôi dặn mấy lời sau hết: ‘Từ thế kỷ 19 về sau, các nước tranh nhau ngày càng dữ dội, cái tính mạng một nước, gởi trong tay một số người đông, chứ không thấy nước nào không có dân quyền mà khỏi mất nước bao giờ. Thế mà nay Bác lại c̣n dựng cờ quân chủ lên hay sao? Ông nói thế, lúc bấy giờ tôi chưa có câu ǵ đáp lại, nay đă hơn 20 năm rồi, lời ông càng lâu, càng nghiệm. Tôi mới biết cái óc suy nghĩ cùng cái mắt xem xét của tôi thiệt không bằng ông! Phỏng ngày nay ông c̣n sống th́ cầm cờ hướng đạo cho chúng ta, hẳn phải nhờ tay ông mới được.

Than ôi! Ngày nay những kẻ cúng vái ông, kính mến ông, có phải là chỉ ngắm tượng ông, đọc văn ông góp nhặt năm ba câu làm bộ ái quốc, ái quần đầu miệng mà thôi ư? Phải biết rằng ông Hy Mă mà được danh tiếng lưu truyền với sử xanh là v́ ông có chủ trương thiệt, tinh thần thiệt. Thế th́ người ta muốn bắt chước ông Hy Mă cũng cần phải có thiệt chủ nghĩa, thiệt tinh thần mới gọi là biết bắt chước ông Hy Mă vậy.”.

Trong cuốn tự truyện Phan Bội Châu Niên Biểu (tức Tự Phán) viết sau đó, cụ Phan Bội Châu cũng đă tự phán như sau:

“Than ôi, lịch sử tôi là lịch sử của trăm điều thất bại mà không có lấy một điều thành công. Bôn ba trôi nổi gần ba mươi năm, v́ liên lụy với tôi mà kẻ chết người tù, tai ương tràn cả nước, độc hại lan khắp đồng bào. Mỗi khi tỉnh giấc nửa đêm ḷng tự bảo ḷng rồi gạt lệ nh́n trời; hai mươi năm lần lữa, trông râu mày mà hổ thẹn.”.

Cụ Huỳnh Thúc Kháng là đồng chí thân thiết của cả hai cụ Phan, đă nhận xét về cuộc đời của cụ Phan Châu Trinh như sau:

“Như tiên sinh, không những là một người chí sĩ yêu nước, mà thật là một nhà chính trị cách mạng đầu tiên nước Việt Nam ta vậy. Một kẻ sĩ vai gánh giang sơn, ḷng thương ṇi giống, một ḿnh xông đột trăm cách toan lường, trong hai mươi năm thừa, trải biết bao hiểm nghèo, nếm biết bao mùi cay đắng... thế mà tiên sinh cứ khăng khăng ôm một cái chủ nghĩa, đeo đẳng măi với cảnh hoạn nạn mà không chịu rời ra; không những danh vị lợi lộc không dỗ dành được, cực khổ không đổi dời được; cho đến gươm kề trên cổ, súng dí trước bụng cũng cũng không chút nào lay chuyển, sánh với ông Sào Nam (Phan Bội Châu), chí khí đồng nhau, nhiệt thành đồng nhau, phách lực đồng nhau, mà cái cảnh càng khó, cái ḷng càng khổ hơn vậy.”.

Vậy đâu phải cứ bạo động hay bất bạo động là hay hoặc dở, mà phải sáng suốt, mà phải biết tuỳ thời vận dụng cho hữu hiệu.

 

- - - - -

 

           - Bạo động có thể có kết quả trên những bản chất nô lệ chứ không trên những đầu óc độc lập.

Ben Johnson

- Tiếc thay có những lúc mà bạo động là cách duy nhất có thể dùng để bảo đảm công b́nh xă hội.

T. S. Eliet

           - Sức mạnh vĩ đại nhất mà nhân loại có thể vận dụng là bất bạo động.

           - Văn hóa chính đạo giúp con người trở thành hiền lương, nên kẻ nào chỉ biết bạo động là kẻ thiếu văn hóa.