Một chủ thuyết ngoại giao phá sản
 

Ngô Nhân Dụng

 

Ngày hôm nay ủy ban Baker-Hamilton sẽ công bố bản phúc tŕnh duyệt xét t́nh h́nh Iraq. Ông James Baker vốn là một cựu bộ trưởng tài chánh, cựu ngoại trưởng thuộc đảng Cộng Ḥa, ông Lee Hamilton là một cựu dân biểu thuộc đảng Dân Chủ. Một thành viên trong ủy ban này là ông Robert Gates, trước là giám đốc cơ quan t́nh báo CIA dưới thời thân phụ của Tổng Thống Bush hiện nay. Ông Gates mới được đề cử giữ chức Bộ Trưởng Quốc Pḥng thay thế cho ông Donald Rumsfeld từ chức; cho nên chúng ta có thể tin những đề nghị của ủy ban sẽ trở thành chính sách của Mỹ trong thời gian tới. Những điều đă được tiết lộ trước đây cho thấy bản phúc tŕnh này sẽ đề nghị chính phủ Mỹ thay đổi chiến lược ở Iraq và chính sách ngoại giao, mà với những thay đổi đó th́ chủ thuyết ngoại giao của Tổng Thống George W. Bush coi như đă chấm dứt.

Trước khi làm tổng thống, ông Bush vẫn chủ trương nước Mỹ không nên can thiệp vào những vụ tranh chấp quốc tế. Ông thường công kích chính quyền Clinton đem quân Mỹ tham dự vào các cuộc chiến ở vùng Balkan, gồm các nước thuộc Nam Tư cũ, và ông Bush đă tuyên bố nước Mỹ nên đóng một vai tṛ khiêm tốn trong thế giới hiện nay. Nhưng từ sau vụ 11 Tháng Chín năm 2001, ông Bush quay ngược chiều. Nhiều người cho đó là do ảnh hưởng của nhóm Tân Bảo Thủ (thường gọi tắt là neo-com) chung quanh ông Donald Rumsfeld ở Bộ Quốc Pḥng và Phó Tổng Thống Dick Cheney. Nhưng sự thật có thể là ông Bush chỉ muốn nhân cơ hội dân chúng Mỹ oán ghét tổ chức al Qaeda và các nhóm khủng bố chống Mỹ mà t́m cớ tấn công Iraq, là điều mà nhóm neo-con vẫn chủ trương.

Có hai ư tưởng chính mà Tổng Thống George W. Bush thường nêu lên, được coi như là chủ thuyết ngoại giao của chính phủ ông. Thứ nhất là nước Mỹ phải giúp dân chủ hóa các nước Á Rập Hồi Giáo, v́ đó là con đường duy nhất có thể đáp ứng nhu cầu dân chúng các xứ này. Nếu những thanh niên đang bất măn trong các xứ Á Rập độc tài lạc hậu nh́n thấy tương lai tốt đẹp hơn, họ sẽ không c̣n bị các lời tuyên truyền quá khích của al Qaeda hấp dẫn nữa. Thứ hai, là chủ trương sử dụng tối đa sức mạnh quân sự của nước Mỹ, siêu cường duy nhất trên thế giới bây giờ. Do đó, nước Mỹ có thể “tấn công trước” khi cảm thấy bị một chính quyền nước khác đe dọa, và có thể hành động đơn phương không cần các đồng minh cũng như Liên Hiệp Quốc ủng hộ.

Ba năm qua, chủ thuyết ngoại giao của chính phủ Bush coi như đang phá sản, sự thất bại diễn ra khắp vùng Trung Đông chứ không riêng ǵ ở Iraq.

Lư tưởng xây dựng vùng Trung Đông dân chủ tự do đang bị phai mờ trước các thực tế. Đầu tuần này, ông Robert Gates được một nghị sĩ chất vấn hỏi ông có nghĩ là quân Mỹ đang thắng ở Iraq hay không, ông trả lời thẳng thắn là “không.” Cựu Ngoại Trưởng Henry Kissinger nói thẳng là ông không tin Mỹ sẽ thắng ở Iraq. Những cuộc tàn sát ở Iraq giữa các nhóm hận thù nhau (và cùng oán ghét Mỹ) khiến cho những tiếng nói đ̣i dân chủ tự do mạnh nhất ở trong vùng nay cũng phải giữ im lặng. Bây giờ, một người Á Rập đ̣i dân chủ hóa có thể bị gán cho nhăn hiệu “thân Mỹ,” mà nhiều người sẽ tin như vậy. Những chính quyền độc tài ở Ai Cập, Á Rập Sau Đi, đang yêu cầu chính phủ Mỹ bớt lớn tiếng hô hào dân chủ. Họ báo trước là nếu dân chúng các nước Á Rập được hoạt động chính trị tự do th́, khi dân bỏ phiếu, chính các đảng Hồi Giáo quá khích sẽ thắng, những chính quyền ôn ḥa, thân Mỹ sẽ thua. Một bằng cớ là cuộc bầu cử trong lănh thổ dân Palestine. Trước đây chính phủ Bush liên tiếp chỉ trích ông Yasir Arafat, không thèm nói chuyện với ông ta, mặc dù trước đó ông từng là thượng khách của các chính phủ Mỹ mỗi lần kư một thỏa hiệp mới với Israel do Mỹ trung gian đàm phán. Chính phủ Bush đ̣i chính quyền Palestine phải tổ chức bầu cử lại Quốc Hội, nhưng sau khi ông Arafat qua đời cuộc bỏ phiếu đă đưa đảng Hamas lên nắm đa số; hậu quả là cả Israel lẫn Mỹ đều tẩy chay chính phủ dân cử này. Người dân Á Rập càng nghi ngờ chủ thuyết dân chủ hóa mà ông Bush vẫn cổ động.

Chính sách đứng hẳn về phía Israel của chính phủ Bush là một thất bại rơ ràng, khiến các nước Á Rập khác không muốn giúp Mỹ trong việc giải quyết vấn đề Palestine cũng như trong các cuộc chiến tranh ở Afghanistan Iraq. Ngược lại, việc lật đổ chế độ Saddam Hussein đă giúp tăng ảnh hưởng của các giáo sĩ Shi A cầm đầu chế độ thần quyền ở Iran, bớt cho họ một kẻ thù nguy hiểm trong hơn 20 năm qua. Những nhóm Shi A mạnh nhất ở Iraq hiện nay đều liên hệ với Iran, trong lúc họ vẫn kêu gọi Mỹ giúp họ vũ trang quân đội Iraq mà họ chiếm đa số. Bây giờ, cánh tay ảnh hưởng của Iran đang với tới Lebanon khiến các nước Hồi Giáo Sun Ni ở chung quanh đều lo lắng. Họ không lo bom nguyên tử của Iran mà lo các giáo sĩ xứ này, với tiền xuất cảng dầu lửa dồi dào, sẽ khuyến khích các nhóm Shi A thiểu số trong các nước Á Rập đ̣i quyền lợi. Người theo phái Shi A chỉ là một nhóm nhỏ trong nước Á Rập Sau Đi, nhưng họ cư ngụ ở những vùng nhiều dầu lửa nhất; sẽ có ngày họ đ̣i các ông hoàng phải chia cho họ hưởng các nguồn lợi của tài nguyên mà “Thượng Đế Allah” đă tặng cho vùng sa mạc đó.

Cuộc tấn công của quân Israel vào Lebanon năm 1982 đă tạo cơ hội cho nhóm Hizbollah ở xứ này ra đời và lớn lên, những người Shi A thuộc nhóm này được Iran huấn luyện và cung cấp vũ khí qua biên giới với Syria. Năm ngoái, nhân cơ hội một chính khách Lebanon theo phái Sun Ni bị ám sát, chính phủ Mỹ đă thành công khi cùng các nước Âu Châu tạo áp lực bắt Syria rút quân khỏi Lebanon, sau khi họ đóng ở đó hơn 20 năm. Nhưng đầu năm nay, quân Israel tấn công vào khu vực ảnh hưởng của nhóm Hizbollah, mà kết quả là sau khi họ bị áp lực quốc tế phải rút về, nhóm này trở thành một lực lượng có tham vọng lật đổ chính phủ Lebanon. Bây giờ, người Sun Ni ở Lebanon đang liên kết với khối dân Thiên Chúa Giáo để chống lại nhóm kiêu binh Hizbollah. Lebanon có thể rơi vào nội chiến như trước đây hơn 40 năm.

Chính phủ Mỹ phải ấn định một chính sách ngoại giao mới, chứ không phải chỉ cần một chiến lược mới ở Iraq. Phúc tŕnh của ủy ban Baker-Hamilton có thể là một cơ hội cho Tổng Thống Bush chuyển hướng mà không mất thể diện.

Sự thất bại của chính phủ Bush ở Iraq không phải chỉ do những lầm lẫn chiến thuật: Không dùng đủ số quân cần thiết để giữ trật tự sau khi lật đổ một chính quyền. Giải tán quân đội và cảnh sát Iraq, tạo ra mấy trăm ngàn người thất nghiệp và có vũ khí. Cấm người theo đảng Baath trong chính quyền làm guồng máy kinh tế, hành chánh trống rỗng.

Sự thất bại là do nền tảng của chủ thuyết ngoại giao của ông Bush không thực tế và mâu thuẫn với nhau. Việc truyền bá chế độ dân chủ là một điều rất hay, nhưng không thể dùng sức mạnh quân sự làm việc đó được. Khi coi việc cổ động cho dân chủ như là một phương tiện cho cuộc chiến chống khủng bố, chính phủ Mỹ đă tạo ra thêm nhiều kẻ thù cho chính họ, nhưng cũng là kẻ thù cho lư tưởng tự do dân chủ. Khi liên tiếp nêu vấn đề chống khủng bố như một cuộc chiến tranh toàn diện, chính phủ Bush đă khai chiến với một thế lực siêu h́nh, trừu tượng. Đánh Iraq nói là để diệt khủng bố, nhưng sau ba năm số thanh niên Á Rập biến thành khủng bố đă tăng lên, hiện nay nhiều đám đang sang Afghanistan hoạt động. Thời chiến tranh lạnh, nước Mỹ có những kẻ thù rơ ràng, là Liên Xô và Trung Quốc với các đảng cộng sản đàn em của họ. Nhưng ngày nay, khủng bố là ai, ở đâu, không thể biết được. V́ phong trào này lên hay xuống tùy theo t́nh h́nh kinh tế, chính trị ở rất nhiều nước, biến hiện không lường. Lấy đó làm thước đo phân biệt bạn với thù là một lầm lẫn lớn, khiến nước Mỹ kết thân với Nga, Phi Luật Tân, Thái Lan hay Trung Quốc khi họ đàn áp những người Hồi Giáo thiểu số trong nước họ. Một quốc gia, nhất là một siêu cường, không thể công bố một cuộc chiến tranh bất tận với một kẻ thù không h́nh dạng như vậy.

Chính sách dùng vũ lực đơn phương của chính phủ Bush không thành công. Nước Mỹ không thể một ḿnh giải quyết một vấn đề rắc rối như mâu thuẫn giữa người Do Thái ở Israel và người Palestine từ nửa thế kỷ qua. Mỹ không thể một ḿnh kết án ba nước là “trục tội ác” để t́m cách trừ khử, mà không nhờ đến các nước khác giúp. Những lời tuyên bố hùng hồn đó chỉ khiến các chính quyền Bắc Hàn và Iran lo sợ và quyết t́m cách vũ trang nhanh hơn, mà các quốc gia khác cũng nghi ngờ tham vọng bá quyền của Mỹ. Những cuộc bầu cử ở Đức, Tây Ban Nha, Ư cho thấy những chính phủ vị coi là thân Mỹ đă thua đảng đối lập, một bằng chứng về mối hiềm nghi của người dân các nước đó.

Có nhiều dấu hiệu là chính phủ Bush đang thay đổi. Sau khi ông Donald Rumsfeld rút lui tháng trước, trong tuần này, ông John Bolton, đại sứ Mỹ ở Liên Hiệp Quốc đă từ chức. Ông là người từng được ông Bush bổ nhiệm tạm trong lúc Quốc Hội Mỹ nghỉ hè, với hy vọng sẽ được thông qua sau. Ông đă bị cả các nghị sĩ đảng Cộng Ḥa chặn lại v́ trước đây, từng làm thứ trưởng ngoại giao trong chính phủ Bush, là người rất cứng rắn và đă nhiều lần chỉ trích tổ chức Liên Hiệp Quốc bằng những lời lẽ thậm tệ. Thay thế ông Bolton có nghĩa là chính phủ Mỹ chịu giải ḥa với Liên Hiệp Quốc. Một siêu cường không thể theo đuổi một chính sách ngoại giao đơn phương, mà cần đến các nước đồng minh cũng như các tổ chức quốc tế lâu đời. Tuy nhiên, chúng ta không hy vọng Tổng Thống Bush sẽ công nhận ông đă thất bại, không một nhà chính trị nào lại công khai chịu thua như thế. Chính phủ Bush sẽ thay đổi dần dần các chính sách ở Iraq, ở Trung Đông và trên thế giới, nhưng họ sẽ cần thời gian để chuyển hướng. Ít nhất trong 18 tháng, trước khi cuộc tranh cử năm 2008 lên tới điểm nóng nhất.

Ngô Nhân Dụng