LƯ ĐẠI NGUYÊN
VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
NÔNG DÂN SỐNG QUỐC DOANH CHẾT
Việc Việt Nam xin gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO đă gần kề, mà lănh đạo Cộng Đảng Việt Nam vẫn cố t́nh dấu diếm thông tin với Quốc Dân, về những điều kiện bắt buộc Việt Nam phải thực hiện để được chấp thuận. Măi đến ngày 21-08-06, chỉ 30 ngày, trước phiên họp hội nghị bộ trưởng WTO, tại Geneve, 10-10-06, để bỏ phiếu thông qua toàn bộ những cam kết, mà đoàn đàm phán Việt Nam đă kư, th́ Ủy Ban Đối Ngoại Quốc Hội Việt Nam mới mở cuộc hội thảo ở Saigon, để bật mí ra 10 nội dung chính, mà phía Việt Nam phải tuân hành: 1)-Năm 2008, Việt Nam phải mở cửa thị trường hàng hóa. Năm 2009 phải cho phép doanh nghiệp nước ngoài thành lập với 100% vốn tại Việt Nam. Giảm thuế hàng nhập khẩu xuống 20%. Đặc biệt các ngành như hóa chất, dược phẩm, thiết bị thông tin sẽ chỉ c̣n 0% tới 5%. 2)- Thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử. 3)– Phá bỏ hoàn toàn trợ cấp xuất cảng nông phẩm. 4)- Cam kết cắt bỏ trợ cấp cho các công nghiệp bị cấm. 5)- Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của công nghiệp quốc doanh và thương nghiệp quốc doanh, qua bất kỳ h́nh thức nào. 6)- Từ 01-01-07 các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam được quyền kinh doanh các mặt hàng như doanh nghiệp Việt Nam. 7)- Minh bạch chính sách, chính phủ phải thành lập trang web để thông báo về các văn bản, pháp quy liên quan tới thương mại, đầu tư…để lấy ư kiến đóng góp rộng răi của các doanh nghiệp và của dân trước khi ban hành 60 ngày. 8)- Cam kết thực hiện quyền sở hữu trí tuệ và bảo hộ quyền tác giả. 9)- Tuân thủ các tiêu chuẩn của WTO về kiểm dịch và vệ sinh dịch tể. 10)- Việt Nam sẽ được coi là nền kinh tế Phi Thị Trường trong một thời gian sau khi gia nhập WTO.
Trong cuộc hội thảo, Nguyễn Sơn thuộc bộ thương mại Việtnam nói rằng, trong số 10 nội dung cam kết đa phương, th́ v́ bỏ trợ cấp hàng nông sản, ngay khi vào WTO và vấn đề mở cửa hệ thống phân phối là những thách thức lớn với Việtnam. Theo ông Michael A. Samuels cựu đại sứ Mỹ tại WTO th́ đó là cái giá phải trả đối với các nước gia nhập muộn như Việtnam. Tuy nhiên Việtnam vẫn có thể áp dụng những biện pháp hỗ trợ khác, mà luật WTO không cấm, như chính sách khuyến nông, đầu tư khoa học kỹ thuật để nâng cao giá trị nông phẩm. Thực ra vấn đề trợ cấp nông nghiệp chỉ cần đặt ra đối các nước đại kỹ nghệ, v́ họ sợ nông dân bỏ nghề nông chạy sang các ngành công nghệ có lợi nhiều, khiến cho ngành nông nghiệp sụp đổ, làm cho toàn bộ hệ thống kinh tế rối loạn, lương thực khan hiếm, thế giới lâm vào cảnh thiếu ăn. C̣n đối với các nước đang phát triển, đa số sống bằng nghề nông th́ sợ nông phẩm nhập cảng rẻ, làm hại nông nghiệp nội địa.
Riêng Việtnam là nước đứng hàng thứ 2 trên thế giới về xuất cảng gạo, th́ vấn đề trợ giá nông sản chỉ có lợi cho các công ty quốc doanh đang độc quyền xuất khẩu, c̣n nông dân vẫn phải bán với cái giá rẻ mạt cho các công ty độc quyền thu mua. Vậy việc vào WTO chi chết các công ty quốc doanh xuất khẩu, chứ không hại đối với nông dân. Trái lại tính cách độc quyền thu mua của quốc doanh bị bải bỏ, nông dân có quyền chọn bán giá cao cho các công ty tư doanh xuất cảng. Đích ra vấn đề trợ giá xuất khẩu là việc làm bất đắc dĩ đối với các nước thiếu ngoại tệ mạnh. C̣n Việtnam hiện nay không rơi vào trường hợp đó. Vấn đề nông nghiệp Việtnam là phải Tư Hữu Hóa Ruộng Đất. Hoàn chính các Ngân Hàng Tư Nhân Phát Triển Nông Thôn để cho nông dân có thể thế chấp ruộng đất vay vốn làm mùa, khỏi phải bán lúa non cho bọn con buôn đầu nậu. Kêu gọi đầu tư khoa học kỹ thuật để nâng cao giá trị sản phẩm.Lập quỹ cứu trợ thiên tai, để bảo đảm cho đời sống nông dân ổn đinh. Những điều đó WTO không thể cấm.
Đương nhiên khi gia nhập tṛ chơi lớn trong thị trường tự do, th́ phải chấp nhận luật cạnh tranh, không chỉ trên thương trường quốc tế, mà ngay trong thương trường nội địa. Phải chấp nhận cho các công ty nước ngoài có 100% vốn được thành lập tại Việtnam và không bị phân biệt đối xử. Nhà nước không được quyền can thiệp vào hoạt động của các công ty công nghiệp, thương nghiệp quốc doanh qua bất cứ h́nh thức nào. Đây mới chính là điều nhức nhối với cộng đảng Việtnam. C̣n đâu là bảng hiệu “Kinh Tế Thị Trường theo Định Hướng Xă Hội Chủ Nghĩa, lấy Quốc Doanh làm chủ đạo” nữa. Có lẽ sự dấu diếm thông tin về WTO cũng là ở điểm này. Tuy rằng trước đó Đại Hội X của cộng đảng đă có Nghị Quyết cho đảng viên làm kinh tế tư nhân. Nhưng với đám đảng viên ngu muội, quen sinh hoạt tùy tiện, cậy quyền, cậy thế, làm giầu bất chính, làm sao có thể đủ trí tuệ và khả năng làm chủ các công ty tư doanh để cạnh tranh với các công ty nước ngoài. Chính v́ vậy đảng chưa thể chuẩn bị cho đảng viên làm kinh tế trong khuôn khổ WTO, lại cũng không dám mở đường cho các công ty tư doanh trong nước đựơc rộng tay phát triển. Cuối cùng, sau khi vào WTO, các quyền lợi kinh tế lớn của Việtnam đều lọt vào tay ngoại nhân hết.
Thời “quyền đẻ ra tiền” ở Việtnam sắp kết thúc, để nhường chỗ cho “tiền đẻ ra quyền” giống như ở các nước Đại Kỹ Nghệ. Các ông chủ tư bản, bỏ lương hàng trăm triệu một năm đi ra tranh cử vào chính quyền với đồng lương ít ỏi, đôi khi họ chỉ lấy 1 Dollar tượng trưng. Mai đây kẻ có tiền sẽ có quyền. Như vậy không lẽ quyền lợi kinh tế lọt vào tay ngoại nhân, th́ chủ quyền dân tộc cũng bị ngoại nhân chi phối hay sao ? Nếu cứ để cộng sản độc tài, cam tâm làm nô bộc cho tư bản ngoại nhân, th́ điều đó không tránh nổi. Chính v́ vậy, mà dư luận trong nước và thế giới đều nhất tề đ̣i hỏi Việt Nam phải kịp thời Dân Chủ Hóa chế độ, mở ra cơ hội cho người dân tự do phát triển, dủ sức đối phó với sự tràn ngập của thế lực ngoại nhân. Ở đây xin nói riêng với Người Việt Hải Ngoại: Đừng mang tiền về đầu tư trong giai đoạn tranh tối tranh sáng này, để bị cộng sản lột sạch, hăy thành lập các công ty tại Hải Ngoại với thương hiệu của nước ḿnh hiện cư ngụ, để được bảo vệ và được vay vốn, đủ sức cạnh tranh với các công ty ngoại quốc tại Việt Nam và các công ty do cộng đảng làm chủ, trong giai đoạn mà Việt Nam phải thực hiện những cam kết với WTO. Lúc đó th́ không phải là đem tiền giúp cho cộng đảng nữa, mà dùng tiền tranh quyền với cộng sản và các thế lực quốc tế đen tối.
Sau khi Ṭa Đại Sứ Mỹ tại Hanội yêu cầu cộng sản thả các tù nhân chính trị, th́ họ chỉ thả hai người là Bs. Phạm Hồng Sơn và Ms. Mă Văn Bảy. Đại sứ Mỹ, Marines nhắc lại rằng: “Nhân quyền và tự do tôn giáo luôn luôn là vấn đề Hoa Kỳ coi trọng. Hoa Kỳ ủng hộ Việt Nam vào WTO không có nghĩa là vấn đề đó không đựơc bàn đến nữa”. Thực tế th́ dù Quốc Hội Mỹ chưa cho VN quy chế PNTR, mà Tổng Thống Bush ra lệnh cho phái bộ Mỹ đồng ư tại Hội Nghị WTO ở Geneve, 10-10 này, th́ Việt Nam vẫn đựơc gia nhập WTO. Nhưng chỉ bị Quốc Hội Mỹ mỗi năm đưa ra xét duyệt lại một lần. Thế là, v́ tṛ chơi nhỏ giọt của Việt cộng, mà bản án treo Nhân Quyền, Tự Do Tôn Giáo vẫn c̣n lơ lửng trên đầu nhà cầm quyền Hanội. Little Saigon 29-08-2006.