LƯ ĐẠI NGUYÊN
ĐỀ CƯƠNG
XÂY DỰNG VIỆT NAM
KHỞI ĐỀ
Khi quyết định suy tư để viết về ĐỀ CƯƠNG XÂY DỰNG VIỆT NAM, người viết tự cảm thấy đây là đề tài quá lớn so với sức hiểu biết của một người. Nhưng nh́n trước, ngó sau và quán sát chung quanh, th́ chưa thấy có tăm tích ǵ về một dự kiến nào của một ai, cho tương lai có tính cách quán suốt khắp mặt: Đấu Tranh, Thế Nước, Văn Hóa, Xă Hội, Kinh Tế, Chính Trị, Quân Sự, để Xây Dựng Việt Nam trong thời đại mới, giữa Thế Giới mở rộng. Chỉ thấy những sách lược nhất thời, và các cuộc đấu tranh, “đi từ thất bại này, tới thất bại khác” của anh em Quốc Gia ruột thịt của ḿnh. Đau nhất là bọn Cộng Sản với một mớ lư thuyết ngụy biện, rỗng tuếch, ác độc, ngụy tín: Phi Nhân Tính, Phi Văn Hóa, Phi Dân Tộc, mà lại đă lừa dối được dân chúng nhẹ dạ, lợi dụng nổi thế nước chênh vênh khắc nghiệt, để “đi từ chiến thắng này đến chiến thắng khác”.
Từ niềm đau thấm thía ấy, người viết phải cố vượt những trở ngại nội tại tự thân, để ngồi xuống viết. Theo quán tính, một khi những hàng chữ đầu đă xuất hiện trên màn h́nh, th́ tâm tư bỗng trở nên thư thái, suy tư, hồi ức và sự kiện kết gắn với nhau, một cách nhẹ nhàng, tự nhiên thoải mái thành câu văn, nhằm tŕnh bầy, diễn đạt các chủ điểm, mà ḿnh thấy cần.
Vấn đề bắt gặp đầu tiên là: “Các cuộc đấu tranh cách mạng chống Thực Dân của cha anh ḿnh, đă biểu hiện ḷng yêu nước vô bờ bến, sự quyết tâm không ǵ lay chuyển nổi, với những hy sinh cao cả tuyệt vời, ấy vậy mà đại sự không thành là nguyên cớ tại đâu ?”
Đành rằng, thế nước của Việt Nam, nằm ở vị trí hết sức khắc nghiệt, nơi gặp gỡ giữa những âm mưu ác hiểm của các thế lực quốc tế lớn mạnh, đă đẩy Việt Nam thành “con vật thiêu thân” cho quyền lợi và tham vọng đối nghịch của họ. Nhưng phần ḿnh, Người Việt làm sao không thấy những mất mát lớn lao, mà Dân Tộc bị trả giá, Dân Chúng bị hy sinh đầy đọa, do chính đồng bào ḿnh tự tay hành hạ nhau, tự tay giết nhau, một cách kiêu hănh tàn nhẫn, rồi tự khoe là “đại thắng”, là “đỉnh cao của trí tuệ”?
Đến khi đảng Cộng Sản tự cho là có chủ nghĩa “ưu việt” đă có chính quyền, đem áp dụng chủ thuyết, mà họ cho là “bách chiến, bách thắng, vô địch muôn năm” đó, vào thực tế sinh hoạt Quốc Dân, th́ thật là thê thảm “Việt Nam đi từ thất bại này đến thất bại khác”. Quốc Dân đói khổ, Đất Nước lạc hậu. Dân Tộc tủi nhục. Xă Hội sa đọa. Kinh tế ăn xin. Chế độ thối nát. Chính quyền thành tổ hợp tham nhũng ăn cướp, thông qua hệ thống kinh tế thị trường, lấy công ty quốc doanh làm chủ đạo. Từ đó đẻ ra lớp công an tồi tệ, hợp lực với các băng đảng xă hội đen, để làm nanh vuốt khủng bố, khống chế, tận t́nh bóc lột toàn dân.
Vậy, do nơi anh em Quốc Gia không có kế hoạch xây dựng vững bền dài lâu cho Đất Nước, đáp ứng đúng nhu cầu thời đại, nên đă bỏ lỡ những cơ hội thành công, th́ đă hiểu được. Đến ngay Cộng Sản có chủ thuyết quy mô vững chăi, mà khi vào thực tế vẫn thảm bại là do đâu? Thực ra thứ chủ nghĩa của Cộng Sản vốn là Phi Nhân Tính, Phi Văn Hóa, Phi Dân Tộc, chỉ dùng để tuyên truyền kích động hận thù đấu tranh hủy diệt, chứ không phải là tư tưởng chủ đạo cho việc xây dựng ḥa b́nh và phát triển. Nên nó đă đổ vỡ, đọa lạc, c̣n tệ hại hơn là những chính khách không có viễn kiến xây dựng lâu dài cho Đất Nước.
Để đạt hiệu quả trong xây dựng, điều cần là phải huy động được tinh thần tự do, tự nguyện của Con Người, tạo điều kiện cho mỗi người chủ động, góp phần ḿnh vào công tŕnh dựng xây, giúp cho toàn dân cùng cảm nhận trực tiếp được rằng, đó là nhu cầu tồn tại và phát triển của chính ḿnh, và của Quốc Dân; mà mỗi người phải tích cực góp khả năng của ḿnh trong sự nghiệp chung. Quả thâït từ bản chất Cộng Sản độc tài, độc tôn, toàn trị, chuyên môn khủng bố, áp bức, tước đoạt quyền tự do, chủ động và tư hữu của Người Dân, th́ làm sao có được quan niệm chân chính về tư tưởng chủ đạo xây dựng cho Việt Nam được. Nên họ phải thất bại là lẽ đương nhiên.
Muốn thấy được tư tưởng chủ đạo chân chính của công cuộc xây dựng khắp mặt cho quê hương Việt Nam, điều không thể làm khác là phải t́m ở chính trong Ḍng Sinh Mệnh Văn Hóa Việt. V́ Văn Hóa là thể tính của Xă Hội Người, của Kinh Tế và của Chính Trị do người thực thi. Ba lănh vực trên đều là sự biểu hiện của Văn Hóa. Văn Hóa không những chủ đạo về đạo đức, luật lệ, h́nh thái tổ chức, và thế cách sinh hoạt của Xă Hội, Kinh Tế, Chính Trị, mà c̣n từ đấy tạo ra Quyền Lực Quốc Gia là Quân Sự nữa. Quân Sự là biển hiện Quyền và Lực của Quốc Gia, qua hai hệ thống Cảnh Sát và Quân Đội, mà một Quốc Gia dù nhỏ hay lớn đều không thể thiếu.
Do đó ĐỀ CƯƠNG XÂY DỰNG VIỆT NAM , đặt trên căn bản Văn Hóa, để t́m ra Tư Tưởng Chủ Đạo cho việc Xây Dựng Việt Nam, qua kinh nghiệm, thể nghiệm, chứng nghiệm của ông cha, trong công cuộc dựng nước, giữ nước và kiến thiết đất nước. Theo bước chân của lịch sử Dân Tộc, và hướng phải tới của Nhân Loại, để kiểm chứng cho tư tưởng chủ đạo đó, xem có thật sự c̣n hợp với trào lưu hiện nay nữa không ? Rồi mới nên đem vào chỉ đạo cho việc Tổ Chức Xă Hội Nhân Chủ Nhân Văn. Kinh Tế Thị Trường Tự Do. Chính Trị Dân Chủ Điều Hợp, trong tiến tŕnh Toàn Cầu Hóa.
Mời cùng vào CHÍNH ĐỀ. Nơi đây hy vọng mỗi người không cảm thấy bị dối gạt, lừa phỉnh, khuyến dụ, cao áp, hay cố ư chinh phục, mà nhận ra được sự ân cần gợi ư, về một lối nh́n viên dung quán suốt, vốn có sẵn nơi chính ḿnh. V́ trong tất cả chúng ta, những dấu ấn văn hóa của tiền nhân, đều có ghi đậm nét trong kho tàng Tâm Thức, và sâu thẳm hơn nữa là trong ḍng Di Thức ( DNA) của mỗi người chúng ta, chỉ cần gặp duyên là bừng lên thể hiện. Xin độc giả xem đây là chút duyên của người viết gởi tới với quư vị và các bạn.
CHÍNH ĐỀ
ĐẤU TRANH
ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG TRONG ĐÊM DÀI THẾ KỶ
Cách mạng chống xâm lăng
Phong Trao Văn Thân Cần Vương
Cách mạng Dân Tộc Dân Chủ
Cách mạng Xă Hội Chủ Nghĩa
Cách mạng Quốc Gia Trung Phái
Ảnh hưởng thế lực Quốc Tế
Việt Minh cướp chính quyền
Quốc Gia Việt Nam xuất hiện
Đệ nhất Việt Nam Cộng Ḥa
Những sai lầm của Nhà Ngô
Đấu tranh b́nh đẳng Tôn Giáo
Cách Mạng 01-11-1963
Đệ nhị Việt Nam Cộng Ḥa
Việt Cộng nuốt voi thống nhất
Việt Cộng theo Liên Xô chống Trung Cộng
Thế Nước Ḷng Dân của Việt Nam
======================================================================
ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG
TRONG ĐÊM DÀI THẾ KỶ
Nói tới danh từ Cách Mạng th́ những người ở các nước Dân Chủ Tự Do đă phát triển lâu đời, vốn không mấy thiện cảm với thứ chữ nghĩa này, v́ nó vốn được gắn liền trên môi những người cực tả quá khích và trước đó là người Cộng sản. Nhưng để xây dựng lại một đất nước đă bị Cộng Sản toàn trị, đă bị Cộng Sản phá hủy tận gốc rễ mọi nguồn lực tinh thần, mọi giá trị Văn Hóa, mọi cơ cấu Xă Hội, mọi thể thống Chính Trị, mọi hệ thống Luật Pháp, mọi phương cách Cai Trị, mọi tương quan Kinh Tế, mọi nền nếp Giáo Dục, mà không nghĩ tới phải làm một cuộc Cách Mạng Toàn Diện, có nội dung NHÂN CHỦ NHÂN VĂN, biểu hiện bằng chế độ CHÍNH TRỊ DÂN CHỦ ĐIỀU HƠP , và một nền KINH TẾ TỰ DO TƯ HỮU, th́ thật là một sai lầm nguy hiểm.
Chứng cớ hiển nhiên đă thấy được ở nước Nga, v́ thay đổi nửa vời, nên dân khổ, nước yếu, Cộng Sản ngóc đầu trở lại, mà cũng chỉ để nhận thêm một lần thảm bại nữa trong thời đại Dân chủ và Kinh Tế Thị Trường Tự Do Toàn Cầu Hóa mà thôi. C̣n ở Trung Hoa và ở Việt Nam th́ Cộng Sản cũng chỉ có kéo dài quyền lực để bóc lột Quốc Dân được ngày nào hay ngày đó. Nhưng một khi Cộng Sản sụp đổ, mà không thực hiện nổi một chế độ thực sự DÂN CHỦ TỰ DO ĐIỀU HỢP TOÀN DIỆN th́ cũng chẳng thoát khỏi thảm trạng như ở Nước Nga đă gặp.
Nếu cách mạng Việt Nam vẫn c̣n nằm trong quan niệm"Yêu Nước Thuần Túy", nghĩa là đấu tranh cho Độc Lập Dân Tộc, Chủ Quyền Đất Nước, mà không đặt ḿnh, đặt đất nước ḿnh trong chuyển biến Thế Giới, th́ sẽ nhất định thất bại như cha anh ḿnh trước nay. Cách mạng không có một tư tưởng rất NGƯỜI và lấy VĂN HÓA LÀM CHỦ ĐẠO, th́ chỉ c̣n là những biến cố chồng chất lên nhau, những cơn lốc chính trị nghiền nát tiềm lực Dân Tộc và cơ cấu Xă Hội. Để rồi cũng như bao nhiêu cuộc cách mạng đă xẩy ra trên Thế Giới, đều là thủ phạm chôn vùi những tâm hồn tha thiết với Cách Mạng. Cách mạng đă thủ tiêu nhân tính, sự tự do đích thực của Con Người. Cách mạng đă bồi nặng lên thân phận Con Người những tầng khổ đau tuyệt vọng. Cách mạng đă vẽ thành những bộ mặt Xă Hội thảm thương dưới quyền uy quái thai Bạo chúa.
Nếu cách mạng có tư tưởng chỉ đạo vững chắc, có biện chứng và kiểm chứng nghiêm ngặt, nhưng không lấy Con Người làm Cứu Cánh, mà lại nhằm phục vụ cho một Lư Tưởng Chủ Quan do Con Người tạo ra, như kiểu Cách Mạng Cộâng Sản, th́ thứ cách mạng đó, lập tức biến Con Người thành quái dị, xă hội trở thành ḷ sát sinh, tiêu hủy mạng sống, tâm tư và năng lực tự do sáng tạo của Con Người.
Thật là may mắn cho Dân Chúng Nước tiến bộ, không phải trả giá bằng những cuộc cách mạng bạo lực sắt máu, và đắt giá như những Dân Tộc thường xuyên có cách mạng. Nhất là đă diễn biến dưới nhiều h́nh thái, rồi bị các thế lực Quốc Tế thẳng tay khai thác như tại Việt nam.
CÁCH MẠNG CHỐNG XÂM LĂNG
Cách mạng Việt Nam từ ngàn xưa vốn chỉ là những cuộc cách mạng Dân Tộc chống xâm lăng giành Tự Chủ. Hướng tính của cách mạng rất giản dị, không cần đến tư tưởng chỉ đạo, chỉ cần có tinh thần yêu nước thương ṇi. Cuộc cách mạng ấy phát khởi từ t́nh tự Dân Tộc. Một dân tộc bị trị muôn người như một, cùng chung một niềm uất hận mất nước. Lúc đó mỗi người dân trở thành một chiến sĩ cách mạng quả cảm kiên cường. Cách mạng sẵn sàng có mặt trong tâm tư Quốc Dân, chỉ cần có một người đứng lên Dựng Cờ Đại Nghĩa, là có muôn vạn hùng binh tập họp dưới cờ.
Quan niệm cách mạng Dân Tộc Chống Đế Quốc Tầu từ xa xưa, đă được các Văn Thân, các nhà Cách Mạng Cần Vương, các lực lượng Quốc Gia yêu nước áp dụng vào việc đấu tranh chống Thực Dân Pháp. Nên những đoàn thể ấy chỉ thành công trong việc tập họp, mà thất bại trong việc đấu tranh.
PHONG TRÀO VĂN THÂN CẦN VƯƠNG
Năm 1859, Quân Pháp đánh chiếm Gia Định, chính thức mở đầu việc nước Pháp dưới triều Napoléon III, xâm lược và thực hiện chế độ Thực Dân tại Việt Nam, th́ Phong Trào Chống Thực Dân Pháp, từ lớp Văn Thân Quư Tộc và Sĩ Phu bất khuất, được dân chúng hưởng ứng theo về, bừng khởi. Tạo thành các cuộc kháng chiến anh dũng từng địa phương. Miền Nam có Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực. Miền Trung có triều đ́nh của vua Hàm Nghi nổi lên chống Pháp, Phan Đ́nh Phùng lập chiến khu Cần Vương, tiếp đến là triều đ́nh Duy Tân chống Pháp, có Thái Phiên, Trần Cao Vân lập lực lượng đấu tranh. Miền Bắc có Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám, rồi Việt Nam Quang Phục Hội và Phong Trào Đông Du cùng nuôi hy vọng Cần Vương. Nhưng tất cả đều bị thất bại trước vơ khí mới của Thực Dân. Các chiến khu dần dần bị phá vỡ. Lănh tụ hoặc tử tiết, hoặc bị lưu đầy, hay thoát ra hải ngoại.
Thực Dân triệt để áp dụng chính sách chia để trị. Tạo ra lớp tay sai mới, "Dùng người Việt trị người Việt". Đào luyện một lớp Trí thức, với mớ kiến thức Tây học, trong tinh thần duy lư và ư thức Tự Do, Tư Sản, Dân Quyền non trẻ, đă bị bọn Phong Kiến Âu Châu làm thui chột. Nhưng dù vậy, dưới mắt bọn họ, phong trào Văn Thân, Cần Vương cũng đă bị lỗi thời.
Ngoại trừ một số tay sai ngoan ngoăn của Thực Dân, nền Văn Minh Tây Phương cũng đă tạo ra hai huynh hướng Cách Mạng cho Người Việt: 1- Những nhà Ái Quốc Tây Học, theo đuổi chủ trương xây dựng một nước Việt Nam Tự Do Dân Chủ. 2- Cũng qua cửa Tây du ấy, khuynh hướng Xă Hội Cộng Sản đă xuất hiện. Tiêu biểu cho Cách Mạng Tư Sản Dân Quyền là cụ Phan Chu Trinh, đại diện cho Cách Mạng Xă Hội Chủ Nghĩa là Nguyễn Ái Quốc, tức Hồ Chí Minh, vốn là đệ tử của cụ Phan.
CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ
Tư tưởng Tự Do Dân Chủ dần dần tiến lên thay thế cho Tư Tưởng Cần Vương, năm 1926 giới trí thức Trẻ trong nước đă đứng lên thành lập VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG, nhận cụ Phan Bội Châu làm lănh tụ sáng lập, ông Nguyễn Thái Học làm Đảng Trưởng. Đảng chủ trương một cuộc Cách mạng Dân Tộc Độc Lập, Dân Quyền TựÏ Do, Dân Sinh Hạnh Phúc. Một cuộc khởi nghĩa do Việt Nam Quốc Dân Đảng thực hiện tại Yên Bái năm 1930 không thành, Lănh tụ Nguyễn Thái Học và 12 Đồng chí bị lên đoạn đầu đài, đă làm bùng nổ một phong trào yêu nước trong quảng đại dân chúng Việt Nam.
Đến độ sau này khi Hồ Chí Minh cướp được chính quyền, thành lập Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, họ Hồ đă không biết ngượng, cầm nhầm luôn chủ trương của Việt Nam Quốc Dân Đảng, là Độc Lập, TựÏ Do, Hạnh Phúc làm khẩu hiệu Quốc Sách của ḿnh. Khẩu hiệu đó tuy chỉ được viết ra trên các tiêu đề của nhà nước, c̣n thực tế của Đất Nước và của Quốc Dân, th́ chưa hề hưởng được chút Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc nào cả. Trái lại là cái chắc. Thế mà khẩu hiệu đó vẫn được kéo dài sang triều đại Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, th́ đủ thấy chủ trương của Viêt Quốc, là chủ trương đúng với Quốc Dân rồi vậy.
Khuynh hướng Cách Mạng Dân Tộc Dân Chủ thật ra c̣n quá mới lạ với Người Việt, nhất là đối với các Nhà Nho, nhiều đời nhiều kiếp ch́m ngập trong ư niệm phong kiến, "Trung Quân là Ái Quốc". Thế nên Cách Mang Việt Nam bị chia làm nhiều mảnh. VIỆT NAM PHỤC QUỐC HỘI: Cần Vương. VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG: Dân Chủ. Sau năm 1930 cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt nam Quốc dân Đảng thất bại, 13 người hùng đă được viết tên lên trang sử Cách Mạng Việt Nam, th́ các đoàn thể đấu tranh khác bắt đầu xuất hiện.
CÁCH MẠNG XĂ HỘI CHỦ NGHĨA
Khuynh hướng Cách Mạng Xă Hội Chủ Nghĩa, vốn là phản đề của Cách Mạng Tư Sản Dân Quyền. Sau khi Cách Mạng Tư Sản Dân Quyền 1848 bị đọa lạc, bế tắc tại Tây phương, biến thành thứ tự do tùy tiện "Mạnh được Yếu thua". Tạo ra giai cấp Tư Bản bóc lột cực quyền ở trong nước, và mở rộng phong trào Thực Dân chiếm thuộc địa trên Toàn Cầu, đầy đọa Công nhân, Nông dân, ở chính quốc cũng như thuộc địa, khiến cho khuynh hướng cách mạng đ̣i B́nh Đẳng, Công Bằng, và Công Lư Xă Hội nở rộ trong giới văn học, triết học, nghệ thuật, và dư luận tại các nước Tây phương, để rồi Karl Marx hệ thống hóa thành Cộng Sản chủ nghĩa, Duy Vật Duy Lư, Duy Ư Chí Cực Đoan.
Tư tưởng Marx ,được Lenin đưa vào ứng dụng tại Nga, làm thành một cuộc Cách Mạng Vô Sản Chuyên Chính 1917. Nhưng chỉ mấy năm đầu, Lenin đă nhận ra được tư tưởng Marx là thứ ảo tưởng, mơ mộng, thiếu thực tế. Năm 1922, Lenin thay đổi chính sách Tân Kinh Tế. Nhượng bộ một phần tư hữu tối thiểu của dân, nh́n nhận vai tṛ Nông Dân qua Liên Minh Công Nông, dùng đó làm danh nghĩa cầm quyền. Tạo ra một hệ thống Xô Viết bạo lực toàn trị, do Đảng Cộng Sản tuyệt đối lănh đạo. Đó là chủ trương Độc đảng, Độc tài, Độc đoán, Độc tôn, Độc ác của Đệ tam Quốc tế Cộng sản.
Lập tức Quốc Tế Cộng Sản bị phân hóa thành hai khuynh hướng: Cách Mạng Vô Sản Thường Trực, chủ trương thực hiện một cuộc Cách Mạng Cộng Sản trên toàn Thế giới, theo đúng tinh thần của Marx, gọi là Đệ Tứ Quốc Tế do Trotsky khởi xướng. C̣n Đệ Tam Quốc Tế th́ chủ trương đoạt chính quyền ở mỗi nơi, để thực hiện Cộng Sản từng Quốc Gia. Sau này được Staline tận lực thúc đẩy và khai thác đưa Liên Xô lên hàng Đế Quốc vĩ đại.
Phong trào Đệ Tứ Quốc Tế, tuy bị nhà độc tài Đế Quốc Cộng Sản Stalin đánh bật ra khỏi nước Liên Xô, song chủ trương của Đệ Tứ vẫn c̣n được nhiều trí thức năm châu đón nhận, trong đó có trí thức Việt Nam, như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm. Phong trào này phát triển rất mạnh tại Nam Bộ Việt Nam, nhưng vốn dĩ nó là một sản phẩm cách mạng không tưởng, không dựa vào yếu tố Quốc Gia để đoạt chính quyền, mà chỉ xiển dương ư thức hệ Vô Sản để thực hiện cuộc Cách Mạng Thế Giới. Nên đứng về mặt tư tưởng, nó đă trở thành một viễn tượng, viển vông không thể thực hiện, đứng về mặt tổ chức đấu tranh giành chính quyền, th́ hoàn toàn non kém. Do đó Phong trào Đệ Tứ vô h́nh chung chỉ sắm vai tṛ gieo rắc tư tưởng Cộng sản, để rồi Đệ Tam cướp hết công lao.
Thừa hưởng di sản ư thức hệ Cộng Sản do Đệ Tứ phổ biến, lợi dụng tinh thần Dân Tộc quật khởi của người Việt chống xâm lăng, năm 1930 ĐÔNG DƯƠNG CỘNG SẢN ĐẢNG do Nguyễn Ái Quốc, nhận chỉ thị của Đê Tam Quốc Tế chính thức thành lập. Cộng Sản biết linh động ứng hợp với mọi biến diễn t́nh thế, để thi hành chính sách giai đoạn, lúc th́ liên kết, khi th́ tiêu diệt các đoàn thể Quốc Gia. Trên danh nghĩa th́ chống Thực Dân, nhưng luôn luôn bán tin tức cho Thực Dân, để phá hư các cuộc đấu tranh của đoàn thể khác.
CÁCH MẠNG QUỐC GIA TRUNG PHÁI
Trong thời kỳ bí mật chống Thực Dân, hai khuynh hướng Việt Quốc: Quốc Gia Dân Quyền và Việt Cộng: Quốc Tế Xă Hội luôn luôn đụng độ nhau, ở hải ngoại cũng như ở trong nước. Do các cuộc tranh luận, tranh dân, tranh chính gay gắt ấy, khuynh hướng thứ ba xuất hiện, đó là khuynh hướng Quốc Gia Xă Hội. Năm 1936 ĐẢNG ĐẠI VIỆT QUỐC GIA XĂ HỘI do ông Hạo Linh Nguyễn Xuân Tiếu làm Đảng trưởng xuất hiện.
Khuynh hướng này, mặc nhiên trùng hợp với khuynh hướng Quốc Xă tại Đức, nơi gặp gỡ giữa hai trào lưu tư tưởng Quốc Gia Tư Sản Dân Quyền và Quốc Tế Xă Hội Vô Sản, khiến giới Trung Sản Đức thấy rằng cần phải có một cuộc Cách Mạng không Tư Sản, không Vô Sản. Nhưng rồi bị Hitler lồng vào đó tinh thần Chủng Tộc Độc Tôn quyết liệt sắt máu, đẩy cả Thế Giới vào cuộc chiến thảm khốc. Nhưng dù sao đây cũng là phản ứng tuyệt vọng của lớp Trung Sản Quốc Gia trong gọng ḱm của hai thế lực Quốc Tế.
Ở Việt nam, Đại Việt Quốc Xă ôn ḥa với thuyết Duy Trung Tâm Vật, thế nhưng về tổ chức và phương pháp đấu tranh, vẫn chưa ra thoát nổi thế cách đơn điệu chật chội của một đoàn thể quốc gia nhược tiểu quốc, nên dù có cơ hội, mà cũng không có Quyết Sách để đoạt chính quyền.
ẢNH HƯỞNG THẾ LỰC QUỐC TẾ
Năm 1939 -1941 ư niệm Đại Đông Á được người Nhật đưa vào Việt nam, tạo thêm cho người Quốc gia có một kích thích mới, ngoài tinh thần Dân Tộc sẳn có, c̣n thêm một tinh thần Chủng Tộc giữa người Da Vàng và người Da Trắùng. Phong trào chống Thực Dân Da Trắng nổi lên khắp nơi.
Tại Miền Nam, dựa trên tinh thần tín ngưỡng của dân chúng, ĐẠI ĐẠO CAO ĐÀI khai giáo ngày 29- 9- 1926, và PHẬT GIÁO H̉A HẢO mở đạo ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Măo 1939, đă phát triển như giông băo. Cách mạng được cơ hội lồng vào tôn giáo. Cao Đài từ ngày khai đạo đă bị Thực Dân triệt phá liên miên. Khi Nhật vào, đưa ra chiêu bài Đại Đông Á, chống thực dân Tây Phương th́ Cao Đài liên minh với Nhật lập ra NỘI ỨNG NGHĨA BINH do Thượng Vinh Thanh, tức là Trần Quang Vinh lănh đạo chống Pháp. Phật Giáo Ḥa Hảo do Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ lănh đạo, cùng với trí thức ái quốc thành lập các lực lượng đấu tranh chống Thực Dân Pháp luôn cả chống Phát Xít Nhật.
Ở Miền Bắc, các đoàn thể và trí thức, thành lập ĐẠI VIỆT QUỐC GIA LIÊN MINH, do lănh tụ Nguyễn Xuân Tiếu lănh đạo, và ở trong Nam các người đấu tranh lập đảng VIỆT NAM QUỐC GIA ĐỘC LẬP do kư giả Trần Văn Ân làm chủ tịch, cùng có chủ trương bắt tay với Nhật, để chống Thực Dân. Đồng thời tại hải ngoại người Quốc Gia cũng thành lập VIỆT NAM CÁCH MẠNG ĐỒNG MINH HỘI, chủ trương đi với các nước Đồng Minh Anh, Pháp, Mỹ, Nga, Tầu để chống Phát Xít. Điều đáng nói, đây là có sự chia thế để hành động, chứ không phải để chống nhau. V́ cụ Nguyễn Hải Thần là Chủ Tịch Đồng Minh Hội, c̣n cụ Nguyễn Xuân Tiếu là phó đặc trách Quốc Nội, lại kiêm luôn lănh tụ của Đại Việt Quốc Gia Liên Minh.
Thế nhưng, v́ chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ, người Mỹ đă chọn Hồ Chí Minh để ủng hộ, chứ không giúp Đồng Minh Hội đoạt chính quyền trong tay Phát Xít. C̣n Đại Việt Quốc Gia Liên Minh và Việt Nam Quốc Gia Độc Lập th́ Nhật cũng không trao Chính Quyền cho, mà sau này lại đặt chính quyền vào tay Phong kiến, do cụ Trần Trọng Kim làm thủ tướng.
Trong t́nh thế dầu sôi lửa bỏng của năm 1941 –1942, ĐẠI VIỆT QUỐC DÂN ĐẢNG, do Đảng trưởng Trương Tử Anh thành lập, với chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn xuất hiện, tiếp đó là ĐẠI VIỆT DUY DÂN ĐẢNG chào đời, do Đảng trưởng Lư Đông A lănh đạo. Tuy là hạng em út của các Đảng phái Quốc gia. Kinh qua những thất bại của đàn anh. Duy Dân đă thoát khỏi mọi quan niệm và lư thuyết đương thời, để thăng hoa tinh thàân Dân Tộc Việt làm thành một chủ nghĩa tối thắng. Trở về với lịch sử xa xưa để t́m ra đạo lư chỉ đạo cho Cách Mạng. Đây là một Đạo Dân Tộc, phát triển nhiều về lư thuyết, có ảnh hưởng lớn về mặt Văn Hóa, nhưng không ứng phó kịp thời với từng giai đoạn lịch sử. Thế nên đều chung số phận với các lực lượng Quốc Gia khác.
VIỆT MINH CƯỚP CHÍNH QUYỀN
Năm 1945, Nhật đầu hàng Đồâng Minh, MẶT TRẬN VIỆT NAM ĐỘC LẬP ĐỒNG MINH gọi tắt là Việt Minh, đă được Mỹ nuôi dậy từ lâu, dù biết rơ họ là Cộng Sản. Việt Minh đă biết lợi dụng thời cơ, đoạt được Chính quyền từ tay Chính phủ Việt Nam Độc Lập Trần Trọng Kim của Triều Đ́nh Bảo Đại Phong Kiến, chứ không phải giành Độc Lập từ tay Thực Dân Pháp, v́ Pháp đă bị Nhật lật đổ, rồi trao Chính Quyền cho vua Bảo Đại. V́ chưa đủ mạnh Cộng Sản buộc phải lập Chính Phủ Liên Hiệp với người Quốc Gia. Nhưng sau khi Thực Dân Pháp được nước Anh có trách nhiệm giải giới Quân Đội Nhật, cơng vào Miền Nam ở vĩ tuyến 20 trở vào, th́ Việt Minh vội đi cổng hậu với Pháp, kư hiệp định sơ bộ 6-3-1946, rước Pháp ra Miền Bắc, nhờ quân Pháp tiêu diệt các lực lượng vơ trang của các đoàn thể Quốc gia. Cuối cùng một ḿnh chiếm độc quyền Lănh đạo cuộc KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP của toàn dân.
Các đoàn thể Quốc Gia mất đất hoạt động, một phần bị cộng sản tiêu diệt, phần đi lưu vong, phần ẩn ḿnh tránh nạn. Cộng Sản nắm được danh nghĩa kháng chiến, ghép các chiến sĩ Quốc Gia vào loại Việt Gian phản động, thế mà Dân cũng ào ào tin theo. Cộng Sản triệt để lợi dụng thời gian kháng chiến này, để đào tạo cán bộ và kiện toàn Đảng. V́ trước đó để lấy ḷng đồng minh, và che mắt đồng bào. Cộng sản đă tự tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương.
Sức kháng cự của người Quốc Gia, tập trung vào Mặt Trận Dân Tộc 1947, để rồi cùng với Đạo Phật và Đạo Chúa thành lập LIÊN TÔN CHỐNG CỘNG. Nhưng Liên Tôn cũng không lôi cuốn được người dân đă nuốt phải "Bùa mê cách mạng tháng tám" đang "Say men Kháng Chiến Chống Pháp". Nên các lănh tụ Liên Tôn, người bị giết, người nuốt nhục lui về vùng Pháp kiểm soát.
QUỐC GIA VIỆT NAM XUẤT HIỆN
Năm 1949, Lá bài Bảo Đại được Pháp dựng lại, v́ người Pháp đă hiểu ra rằng: Chế độ Thực Dân đă hết thời, người Pháp không thể một ḿnh thắng nổi cuộc chiến do Cộng Sản núp dưới bóng Dân Tộc để thực hiện. Nhất là Cộng Sản Trung Hoa đă chiếm trọn Hoa Lục. Nên họ đành trao lại một phần chủ quyền cho người Việt Nam. QUỐC GIA VIỆT NAM do Quốc Trưởng Bảo Đại lănh đạo xuất hiện. Các cựu thần Nhà Nguyễn theo về hợp tác. Các đoàn thể Quốc Gia bỏ kháng chiến về thành, ḥng đặt lại cơ sở hoạt động, nhưng năng lực hầu như vỡ vụn. V́ khí tiết, đa số các đoàn thể và nhân sĩ cách mạng, không chịu hợp tác với Pháp. Chỉ có một thiểu số quan lại trong Đại Việt Quốc Dân Đảng đi thẳng với Pháp, nắm quyền cai trị Bắc Việt thôi.
Miền Trung phần đông dân chúng là Phật Tử và Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng khá mạnh. Nhưng lúc đó Phật Tử chưa có ư thức nhập cuộc. Chỉ có Việt Quốc có ư thức tích cực chống Cộng. Nhưng v́ thiếu lănh tụ, nên sự chống đối đó không thành hệ thống, do đấy không phục hồi nổi sức mạnh Quốc Gia.
Miền Nam, các tôn giáo Cao Đài, Phật Giáo Ḥa Hảo, có tổ chức Quân Dân chiến đấu chống Cộng, nhưng không lệ thuộc vào Pháp, lúc đầu gặp nhiều khó khăn, nhưng sau khi có Chính Quyền Quốc Gia, th́ Quốc Trưởng Bảo Đại được các lực lượng vơ trang giáo phái ủng hộ. Nên đối với Pháp cũng bớt căng thẳng hơn. Nhờ vậy các giáo phái đă tạo ra được những vùng an ninh tự quản riêng. Kiềm chế nỗi những hoạt động du kích của Việt Cộng tại nông thôn, khác hẳn với t́nh thế Bắc Việt, Cộng Sản đă dùng được chính sách “lấy nông thôn bao vây thành thị”. Riêng B́nh Xuyên, sau khi bỏ kháng chiến về thành đă đi thẳng với Pháp, nắm Saigon Chợ lớn để làm kinh tài tạo lực lượng.
Sau tám năm đánh nhau, với sự toàn thắng của Trung Cộng tại Hoa lục, và sự kết thúc chiến tranh Cao Ly, bằng việc chia đôi nước đó, Người Pháp không c̣n đủ sức đương đầu với cuộc chiến Việt Nam có Trung Cộng góp sức cho Việt Minh nữa, họ đă cố gắng tạo ra một trận địa chiến lớn tại Điện Biên Phủ, hy vọng kéo Mỹ nhập cuộc. Nhưng Mỹ đă bỏ rơi. Điện Biên thất thủ, Pháp phải thỏa thuận với Liên Xô, Trung Cộng, chấp nhận chia đôi Việt Nam. Qua hiệp định Genève 1954. Miền Bắc trao cho Việt Minh ảnh hưởng Nga Tầu. Miền Nan trao cho ông Ngô Đ́nh Diệm thuộc ảnh hưởng Mỹ.
ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG H̉A
Ngày 07 - 07 - 1954, ông Ngô Đ́nh Diệm được Quốc Trưởng Bảo Đại trao cho chức Thủ Tướng toàn quyền. Về nước với sự hỗ trợ trọn vẹn của Giáo Hội Thiên Chúa, được các đoàn thể các nhân sĩ Quốc Gia đón nhận thật t́nh. Thế nhưng Ông Diệm lại mang một sứ mạng Quốc Tế đặc biệt, là đánh tan mọi ảnh hưởng của Pháp, xé bỏ lá bài Bảo Đại, mà Pháp và Bảo Đại th́ đă bén rễ vào các Giáo Phái Miền Nam. Thế nên, dù muốn, dù không, ông Diệm phải nắm được Quân Đội mới giải giới nổi Giáo Phái. Nhờ Mỹ tích cực trợ giúp, Chính Phủ Ngô Đ́nh Diệm đă làm xong được những việc tưởng rằng không thể làm đó.
Trước mắt Thế Giới, tại Miền Nam Việt Nam, một nước VIỆT NAM CỘNG H̉A đă tŕnh diện ngày 26-10-1956, với một Hiến Pháp Dân Chủ, có Tổng Thống, có Quốc Hội dân cử, nhưng điều thiếu vắng căn bản, để đảm bảo cho một nền dân chủ thuộc về toàn dân, đó là thiếu sự TỰ DO NGÔN LUẬN. Tự Do Ngôn Luận chẳng những Luật Pháp Quốc Gia phải đảm bảo và đặt giá trị cao đúng mức, mà ngay những nhà lănh đạo chính quyền cũng phải cần quan tâm đến những ư kiến đúng sai của dân chúng, qua đó mới thực sử là nền Dân Chủ nghiêm chỉnh.
Nhưng bản chất của người lănh đạo Việt Nam Cộng Ḥa, vốn là bản chất của một người "Phong Kiến Bảo Thủ Khoác Áo Dân Chủ". Thích những lời xưng tụng hơn là những lời phê b́nh, dù là xây dựng. Biết rơ ư chủ, bọn nịnh thần xúm vào bao vây. Biến chức vụ Tổng Thống Dân Cử, thành ngôi vị Hoàng Đế do Trời ban xuống. Biến gia đ́nh Tổng Thống trở thành Hoàng Tộc, để nghiễm nhiên trở thành hệ thống Gia Đ́nh Trị.
Để đối đầu với Cộng Sản Miền Bắc, trong một cuộc chiến tranh Ư Thức Hệ, th́ về mặt h́nh thức, Miền Nam đều có tất cả những thứ ngược lại, nhưng nội dung của hai lớp người cầm quyền th́ đều giống nhau, ở một điểm là Độc Tài. Khác chăng là Miền Bắc Độc Tài: Bạo Trị, nham hiểm, sắt máu. Miền Nam Độc Tài: Nhân Trị, bảo thủ, xa dân.
Xa dân, là nhược điểm chí tử của các chính quyền Miền Nam. Trong cuộc chiến tranh Nhân Dân Du Kích. Bên nào có Dân bên đó tất thắng. Do việc cần củng cố quyền lực, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă phải dùng tới binh đội Quốc Gia để đánh dẹp các Giáo Phái vơ trang tại Miền Nam, vô h́nh chung, đă mở cửa cho Việt Cộng tự do xâm nhập và nắm chắc được nông thôn, để triển khai chiến tranh du kích ngay trong ḷng Miền Nam.
Các đoàn thể Quốc Gia, những Nhân Sĩ đấu tranh, từ thất vọng đến rời bỏ, rồi chống đối lại với chế độ Nhà Ngô. Gọi chế độ nhà Ngô là gọi đúng bản chất của chế độ. V́ nếu chế độ biết nh́n nhận và biến sự chống đối đó thành lực lượng Đối Lập Hợp Pháp. th́ lập tức được chính danh là Chế Độ Cọâng Ḥa rồi. Chống lại CỘNG SẢN ĐỘC TÀI TOÀN TRỊ, mà không dùng tới TỰ DO DÂN CHỦ PHÁP TRỊ, th́ làm sao thắng nổi. Thảm họa mất Miền Nam năm 1975 đích ra đă bắt nguồn từ đấy.
Quốc Dân dần dần bỏ rơi Nhà Ngô. Nếu họ không chịu đi với Việt Cộng th́ núp bóng Nhà Chùa. Phật Giáo từ ngàn xưa đă quyện ḥa với Dân Tộc. Đă dung hóa với các nền Đạo Học Đông Phương để kiến tạo một nền Văn Hiến: Đa Nguyên, Phân Nhiệm, Điều Hợp rực rỡ Lư Trần. Nhưng từ 500 năm tới nay, Nho Gia đă chiếm độc quyền trên chính trường, phá vỡ Văn Hiến Dung Hóa của Dân tộc, đẩy Đạo Phật về phía dân chúng. Nên thời Pháp thuộc, tuy Chùa chiền thường là những nơi tập họp bí mật của các Đảng Cách Mạng. Nhưng tự bản thân Phật Giáo không phải là một thực lực chính trị.
NHỮNG SAI LẦM CỦA NHÀ NGÔ
Khi đó, Nhà Ngô lại mắc sai lầm là đẩy các người Quốc Gia Đấu Tranh vào Chùa. Thực tế th́ Chế độ không có những hành vi bạo ngược quá đáng nào với Phật Giáo. Nhưng v́ xem thường một tiềm năng đă kín tiếng từ lâu đời, thế nên, về mặt tuyên truyền, th́ v́ là một vị Tổng Thống Thiên Chúa Giáo ngoan đạo, thường xuyên sốt sắng làm bổn phận của một "Tông đồ", truyền giáo trong giới có chức có quyền. Nên có nhiều kẻ v́ muốn được tin yêu lên chức, đă xin "cải giáo" để được Nhà Ngô trọng dụng. Chính v́ thế, mà trước nhận thức của dân chúng, Nhà Ngô trở thành thiên vị tôn giáo. Và trong quá khứ đă từng phạm lỗi phá tan Cao Đài, Phật Giáo Ḥa Hảo hai tôn giáo địa phương, nên mới bị dư luận kết án là "Kỳ Thị Tôn Giáo".
Càng vào cuối thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, quyền hành Nhà Ngô từ tay Tổng Thống Diệm, được chuyển sang tay vợ chồng lănh tụ Đảng Cần Lao Nhân Vị, Ngô Đ́nh Nhu. Đáng tiếc Ông Nhu là một lănh tụ không trưởng thành trong trường đấu tranh, mà sự hiểu biết hoàn toàn t́m trong sách vở, và uy quyền dựa vào người anh Tổng Thống mà có. Nên nặng phần lư thuyết, rồi xây dựng Đảng bằng Chủ Nghĩa Nhân Vị Duy Linh, vốn là kết tinh của khuynh hướng Xă Hội Dân Chủ Thiên Chúa Giáo Âu Châu, khó đáp ứng với tâm t́nh người Việt.
Tư tưởng Nhân Vị Duy Linh được ông Nhu phối kết với tư tưởng Dân Tộc tối thắng của lănh tụ Duy Dân Lư Đông A, và nghiên cứu kiểu làng chiến đấu của Do Thái, để sản ra tư tưởng Ấp Chiến Lược, mà ông gọi đó là "Quốc tế sách" chống Cộng. Ông Nhu đă đi vào chủ trương Tự giác, Tự túc, Tự cường Chống Cộng. Nhưng đă quá muộn. Ḷng Dân không c̣n ở với chế độ nữa. Lực lượng chính yếu chống lưng cho chế độ củaTổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đứng vững tới ngày đó, đang bắt Gia Đ́nh Nhà Ngô phải trả giá.
Cái giá phải trả là Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa, Ngô Đ́nh Diệm, đó là Mỹ buộc ông phải chính thức mời Binh Đội Hoa Kỳ vào tham chiến tại Việt nam. V́ Hồ Chí Minh đă trả nợ cho Mỹ, là nhận lệnh của Liên Xô, để tung quân vào Miền Nam, tạo ra chiến tranh, đó là hành động “bắc cầu” cho Quân Mỹ đổ vào Việt nam, nhằm TRIỂN KHAI CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU CỦA MỸ. Đă đành là ông Diệm, mọât nhà Nho yêu nước kiểu phong kiến, chẳng đời nào chịu làm như vậy, mà đến ông Nhu người làm chính trị, cũng chẳng nh́n thấy những việc cần phải làm đúng thời, đúng lúc để cứu nước, mới là đáng buồn.
Thử nghĩ xem, nếu Nhà Ngô chính thức cho Quân Mỹ vào tham chiến tại Việt Nam qua một HIỆP ƯỚC AN NINH MỸ VIỆT, th́ làm ǵ sau này có cảnh, Tổng Thống Mỹ nghiễm nhiên trở thành vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao của cuộc chiến Việt Nam. Muốn đánh, muốn ḥa, thậm chí muốn thua, đều do Tổng Thống Mỹ quyết định. Cuối cùng trói tay Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa để trao Miền Nam vào tay kẻ địch, nhận lấy thảm bại nhất thời, đề đạt chiến thắng toàn diện trên Chiến Lược Toàn Cầu. Chỉ một ḿnh Dân Tộc Việt Nam là bị hy sinh đau đớn, khốn khổ.
Thất bại của ông Ngô Đ́nh Nhu, là bỏ địa bàn chiến lược Quốc Tế, để rút về chính sách bảo thủ Quốc Gia, mà chín năm cai trị, Gia Đ́nh nhà Ngô đă hoàn toàn đánh mất. Đây là sự cạn nghĩ bậc nhất, không thể tha thứ, đối với những người sắm vai tṛ quyết định chiến lược, mà lại không biết tới NHU CẦU CHIẾN LƯỢC của Thế Lực đă tạo ra ḿnh, và thừa khả năng tiêu diệt ḿnh. Nếu đă biết, th́ sao không vừa đáp ứng nhu cầu của người, rồi cột người vào THẾ phải đáp ứng nhu cầu của ḿnh?
Chính v́ không nắm vững Chiến Lược Toàn Cầu của Mỹ, nên ông Nhu đă ngầm nhờ Giáo Sư Bửu Hội vận động với Tổng Thống Pháp De Gaulle, chỉ thị cho Đại sứ Pháp tại Saigon, Roger La Louette, mượn Mieczylaw Maneli Đại Diện Ba Lan trong Ủy hội Kiểm soát Quốc tế (ICC) làm trung gian, bắt liên lạc với Hồ Chí Minh lănh tụ Cộng sản Bắc Việt, nhằm thương thảo, t́m biện pháp Hai Miền Nam Bắc sống chung ḥa b́nh với nhau. Pháp tỏ ra đắc lực trong việc này, c̣n Cộng Sản Việt Nam th́ thâm độc khôn lường: Đồng ư đấy, nhưng bán tin cho Mỹ, mà được lợi hơn th́ Việt Cộng tha sao được! Đó là nghề của Hồ Chí Minh kia mà? Thế là những hoạt động bí mật của Lănh tụ Ngô Đ́nh Nhu, lại diễn ra trước sự quan sát của Ngưởi Mỹ mới là khổ.
ĐẤU TRANH B̀NH ĐẲNG TÔN GIÁO
Chỉ do một biến cố nho nhỏ, lúc khác th́ chẳng đáng ǵ, nhưng đúng thời, gặp thế, lập tức bùng lên thành cơn băo lửa, thiêu rụi cả một chế độ tưởng là "thiên thu nhất thống". Việc cấm treo cờ Phật Giáo, nhân mùa Phật Đản 1963, chỉ để khỏi làm chướng mắt ông anh của Tổng Thống, vốn là vị Tổng Giám Mục Thiên Chúa Giáo thuộc địa phận Huế, nơi đó lại là thủ phủ năng động của Phật Giáo Việt nam. Tức khắc gặp phản ứng quyết liệt.
Một cuộc Đấu Tranh Bất Bạo Động, đ̣i TỰ DO VÀ B̀NH ĐẲNG TÔN GIÁO bùng lên. Lựu đạn nổ. xe tăng tràn qua những thân xác của tuổi trẻ hiền lành chắp tay cầu nguyện, cho B́nh Đẳng Tự Do. Kể từ đó, những ngọn lửa TỰ THIÊU bừng lên, lớp trẻ lao xuống đường làm "Cách Mạng". Công luận Thế giới từ sững sờ tới hết ḿnh ủng hộ. Nhất là dư luận Mỹ đứng hẳn về phía đấu tranh.
Phong trào đấu tranh của Phật Giáo từ phạm vi Quốc Gia tràn sang Quốc Tế. Chính phủ Mỹ quyết tâm loại bỏ Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu. Buộc ông Nhu phải ra đi. Nhưng lúc này ông Nhu là linh hồn của chế độ, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm không thể thiếu người em trai của ḿnh. Biết thế Phong Trào Đấu Tranh không nhắm mũi nhọn vào ông Diệm, mà đánh thẳng vào vợ chồng ông Nhu.
Mỹ và Giới Đấu Tranh Việt Nam gặp nhau ở điểm đó. Nhưng Mỹ đă lầm là ông Diệm sẽ bỏ ông Nhu, c̣n người Việt th́ biết rơ do t́nh máu thịt, và ai mới là rường cột của Chế độ. "Nhu đi th́ Diệm đổ". Bởi thế ông Diệm phải giữ ông Nhu, nên "Mỹ đành bỏ Diệm". Chiếc đũa thần Mỹ kim rung lên. Viện trợ bị cúp. Quân đội Đảo chính, một vụ binh biến kết quả do cuộc Tranh Đấu Bất Bạo Đọâng. Gọi là CÁCH MẠNG 01-11-1963.
CUỘC CÁCH MẠNG 01-11-1963
Cách mạng vốn chẳng phải là một cuộc lật đổ, để thay chính quyền này, bằng một chính quyền khác, nhiều khi c̣n tệ hơn chính quyền cũ. T́nh thế của Miền Nam Việt Nam đă rơi vào trường hợp bi thảm đó. Cuộc lật đổ tại Miền Nam, không nhằm mục đích tạo ra một cuộc Cách Mạng thực sự. V́ về phía dân chúng và những người có quyền lực lúc bấy giờ, trong đầu chưa có một sự chuẩn bị sẵn sàng nào cho Cách Mạng hết. Chỉ có Người Mỹ là có chuẩn bị cho công cuộc "MỸ HÓA CHIẾN TRANH VIỆT NAM” mà thôi.
Với thế mạnh vô địch trong tay, sau khi Chế độ Nhà Ngô sụp đổ, Hoa kỳ đă bằng mọi cách, bằng mọi phương tiện tối ưu, "băm" cho nát vụn những đối lực của Người Việt, mà họ nghĩ rằng có thể chống lại chủ trương "Mỹ Hóa Cuộc Chiến". Quân đội là mục tiêu gần nhất. Các cuộc đảo chính quân sự diễn ra liên tục. Chính phủ này chưa nóng chỗ, đă bị kéo xuống để thay bằng chính phủ "cách mạng" mới. Làm cho dư luận nhàm chán, không c̣n tin ǵ vào chính quyền nữa. Hàng ngũ Tướng Lănh hoang mang chia rẽ cắn xé nhau tột cùng. Các "chính khách" th́ long đong, lật đật, chạy hết đầu này sang đầu kia, để chờ dịp chia ghế. Tất cả đều cùng chung một lối nghĩ: “Chỗ dựa vững nhất là dựa vào Mỹ”ơ. Chủ quyền đất nước tuột khởi tay Người Việt.
Để ngừa trước một cuộc Vận Động cho Ḥa B́nh, thế nào cũng phải xăy ra, khi Mỹ đưa quân vào Việt Nam, lúc chiến tranh lên cao độ. Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là nạn nhân thứ nh́ sau Quân Đội. Giáo Hội vừa mới thống nhất phục hoạt, hào quang chiến thắng c̣n đó. Những nịnh bợ, chèo kéo, chống đối, vây quanh. Lại vốn là một tôn giáo xa rời chính trị từ lâu. Nay bị đẩy lên chính trường, nơi đó vốn đầy mưu ma chước quỷ. Hỏi sao chẳng gặp nguy!
Lănh đạo là các bậc tu sĩ thật thà nhân hậu, có trí tuệ nhưng không rành mưu mô thế tục. Cán bộ hoàn toàn thiếu để ứng phó với thực tế. Quần chúng có ḷng nhưng ô hợp. Thường th́ tin đạo qua thầy, nên từ từ bị phân hóa, bởi những bàn tay tinh vi của các nhà chuyên môn khai thác tâm lư quần chúng, nhằm chia bè kéo cánh. Giáo hội bị chia thành hai khuynh hướng. 1- Thỏa hiệp với chính quyền. 2- Giữ Dân đ̣i Lập Hiến.
Về phía Chính Quyền th́ chiến tranh mỗi ngày mỗi thêm quyết liệt. Hoa Kỳ có nhu cầu phải đưa quân đội ḿnh vào “Mỹ Hóa Chiến Tranh”, nâng tầm vóc chiến tranh cục bộ thành chiến tranh có tầm mức Quốc Tế, để ứng dụng Chiến Lược Toàn Cầu mới. Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng của Tướng Dương Văn Minh và nội các Nguyễn Ngọc Thơ, không sẳn sàng đáp ứng cho chiến lược của Mỹ, bị chỉnh lư. Tướng Nguyễn Khánh đứng đầu Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng kiêm Thủ tướng, đặt tướng Minh làm Quốc Trưởng bù nh́n.
Tướng Khánh đưa ra bản Hiến chương Vũng Tầu, tự đặt ḿnh vào chức Chủ Tịch toàn quyền, bị hàng trăm ngàn Sinh viên Thanh niên và Phật tử xuống đường phản đối. Tướng Khánh buộc phải xé Hiến Chương, trở về giữ Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân, trao chức Quốc Trưởng cho ông Phan Khắc Sửu, Thủ Tướng chính phủ cho ông Trần văn Hương.
Chính phủ của Thủ tướng Hương bị giới Phật Tử năng động chống đối, v́ họ thấy rằng sau lưng của ông Hương, vẫn là tướng Khánh, với mưu đồ vô hiệu hóa chính quyền dân sự, để trở lại nắm quyền. Nhân cuộc đảo chánh bất thành của số tướng lănh bất măn với tướng Khánh. Một nhóm tướng trẻ chống đảo chánh, sau khi thành công, đă buộc tướng Khánh trao quyền cho chính phủ dân sự Phan huy Quát để đi lưu vong.
Ông Phan Huy Quát là một chính trị gia khôn khéo, nhưng không có tính quả cảm, chẳng dám đương đầu với những khó khăn chồng chất của thời đại loạn, nên không bao lâu đă phải trả chính quyền lại cho Quân Đội. Trong thời gian ông Quát từ chức, Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Oánh giữ Quyền Thủ Tướng. Không lầm th́ ông Oánh đă chính thức nhân danh chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa kư nghị định cho Mỹ đổ quân vào Việt Nam. Thực ra th́ đây cũng chỉ là sự hợp thức hóa việc Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đă đổ bộ lên Đà Nẵng trước đó, mà Chính Phủ Phan Huy Quát không được cho hay biết, và Quân Lực Mỹ tiếp tục rầm rộ vào Việt Nam mà thôi.
Đây được xem như một văn bản chính thức đầu tiên mà Việt Nam, mời Mỹ vào tham dự cuộc chiến. Kể từ đó chính t́nh Miền Nam vào ổn định. 19-06-1976 Hội Đồng Quân Lực trực tiếp đứng ra cầm quyền. Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia; Tướng Nguyễn Cao Kỳ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương. Cuộc chiến Việt Nam hoàn toàn bị “Mỹ Hóa”. Tổng Tư Lệnh Tối Cao Chiến Tranh Việt Nam, nghiễm nhiên nằm trong tay Tổng Thống Hoa kỳ. 2 tướng Thiệu, Kỳ chỉ có việc đối phó với những cuộc đấu tranh đ̣i phải Lập Hiến của Phật Tử, và lo chống đối với nhau.
ĐỆ NHỊ VIỆT NAM CỘNG H̉A
Năm 1967 Hiến Pháp Việt Nam Cộng Ḥa đệ nhị ra đời, Tướng Thiệu trở thành Tổng Thống, Tướng Kỳ chịu đứng Phó, nhưng được quyền chỉ định ông Nguyễn Văn Lộc lập nội các. Tướng Thiệu luôn dùng sự xuất hiện trước Quốc Hội để giành lại vị thế chính thức của Tổng Thống. Gặp dịp Việt Cộng tổng tấn công tết Mậu Thân 1968. Quân đội phản công thắng lợi, tư thế của tướng Thiệu trong quân đội được củng cố, ông mạnh dạn giải tán chính phủ, chỉ định ông Trần Văn Hương lập nọâi các. Vai tṛ tướng Kỳ lu dần. Nhưng Thủ tướng Hương chỉ là lá bài độn. Ông Thiệu dùng uy tín của một Nhân sĩ Miền Nam để lấy chính quyền khỏi tay tướng Kỳ. Rồi sau đó trao lại cho tướng Trần Thiện Khiêm.
Cuộc tổng tấn công của Việt Cộng Tết Mậu Thân, chẳng những là cuộc tàn sát tập thể dân chúng đô thị khắp Miền Nam, mà c̣n là dịp tạo cơ hội cho quân đội Việt Nam Cộng Ḥa tiêu diệt tiềm lực của Quân Giải Phóng Miền Nam, để Quân Đội Bắc Việt hoàn toàn khống chế chiến trường. Khiến cho Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam phải hoàn toàn tuân theo sự lănh đạo của Hanội, có như vậy Cộng Sản Hanội mới đủ thực quyền ngồi vào bàn đàm phán với Mỹ.
Mặt khác, đây c̣n là cơ hội để Mỹ tung ra một đợt thử vũ khí mới. Súng M 16 tiểu liên tự động cầm tay, hơn hẳn tiểu liên AK của Liên Xô. Về mặt chiến đấu Việt Cộng cũng hết sức bất ngờ, khi quân đội Việt Nam có thứ súng M 16 dữ tợn đó trong tay, lúc phản công. Trước đấy, họ đă đươc dậy bảo: “AK là loại vô địch trên thế giới hiện nay”.
Nhưng có một thứ vũ khí tất thắng, Tổng Thống Mỹ Lyndon Johnson trao cho Nguyễn Văn Thiệu, mà ông ta không biết cầm. Đó là việc khuyến cáo và hỗ trợ cho cuộc CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT. Nhiệm vụ chiến lược của Johnson là đẩy cuộc chiến Việt nam tới mức cần thiết. C̣n đưa Miền Nam ra khỏi cuộc chiến tranh du kích lâu dài, th́ tùy ở Việt nam có giữ được Dân, có tách được Dân ra khỏi tay Du Kích Cộng Sản hay không ? Người Mỹ rất thực tế. Chia ruộng cho Dân là bước khởi đầu.
Johnson không tái tranh cử, ông Thiệu ủng hộ cho Nixon đảng Cộng ḥa, không chịu ngồi vào bàn đàm phán với Việt Cộng theo đề nghị của TT Johnson. Nixon đă thắng cử, Hội nghị Paris mở được, nhưng để mà làm nơi tuyên truyền hơn là thương thuyết. Chiến trường Việt Nam quyết liệt hơn. Mỹ đă tận dụng cuộc chiến Việt Nam để áp lực Trung Cộâng: 1- Phải trực tiếp nhẩy vào Việt Nam để đánh Mỹ, theo đúng kế hoạch của Liên Xô. 2- Phải bắt tay đề huề với Mỹ, chống lại Liên Xô. Sau khi tiến hành xong cuộc Đại Cách Mạng Văn Hóa, thanh trừng hết tay chân của Liên Xô và các kẻ có khả năng chống đối. Mao Trạch Đông lănh tụ Trung Cộng đă nhận điều kiện số 2.
Cuộc họp Thượng đỉnh Mỹ, Tầu tại Trung Hoa 1972, giữa Nixon & Mao trạch Đông, với sự hiện diện của hai nhà đạo diễn thời cuộc là Kissinger và Chu Ân Lai. Ngày 28-02-1972 tại Thượng Hải, Mỹ-Hoa kư tuyên cáo chung “đề huề” giữa Tổng Tống Mỹ Nixon và Thủ Tướng Trung Quốc, Chu Ân Lai. Cuộc chiến Việt Nam xong nhiệm vụ. Hội Nghị Paris bắt tay vào việc. Quân Mỹ rút về. Tổng Thống Nixon chủ trương “Việt Hóa Chiến Tranh”, thúc Tổng Thống Thiệu phải mau mau cải cách ruộng đất. Việt Nam ban hành "Luật Người Cày Có Ruộng". Nhưng than ôi ! thời gian đâu c̣n. “người cày có ruộng, mà ruộng không có người cày nữa”. TT Nixon phải tức tưởi ra đi giữa nhiệm kỳ. Kế hoạch trói tay Việt Nam Cộng Ḥa trao cho kẻ thù Cộng Sản đă thắng chủ trương Việt Hóa Chiến Tranh.
Những cuộc rút quân khỏi Vùng II và Vùng I chiến thuật, một cách thiếu kế hoạch an toàn, lệnh lạc bất nhất ban ra từ một người duy nhất là Tổng Thống Thiệu, mà đến Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng, khi được hỏi cũng ú ớ không biết đâu mà trả lời. Đă cho thấy, có thể ông Thiệu lúc đó cũng khổng hiểu nổi việc ḿnh đang làm sẽ dẫn tới hậu quả như thế nào. Rơ ràng đó là tạo ra sự hỗn loạn, mất tinh thần, “triệt tiêu” khả năng chiến đấu của một Quân Đội to lớn thiện chiến quả cảm bậc nhất Á châu.
Ông Thiệu từ chức Tổng Thống, trao lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Ông Hương trao lại cho Đại tướng Dương Văn Minh có sự biểu quyết chấp thuận của Lưỡng Viện Quốc Hội (đại diện của dân). Dù đây là việc làm cưỡng chế Hiến Pháp. Nhưng cũng đủ để tuyên cáo với toàn Thế Giới rằng : “Chính phủ và Quốc hội Việt Nam Cộng Ḥa đă đồng thuận trao chức Tổng thống cho ông Dương Văn Minh” để có tư cách mà “bàn giao” cho đối phương. Vậy sau khi “bàn giao” quyền hành điều khiển đất nước cho một chính quyền mới, th́ vận mệnh và tư cách pháp nhân của Việt Nam Cộng Ḥa đă bị dứt tuyệt trước công luận Quốc Tế. Nên từ đó Việt Nam không c̣n lập nổi “Chính Phủ Lưu Vong” nào, mà khiến cho Quốc Tế nh́n nhận được nữa. Dù cho đa số Dân Biểu, Nghị Sĩ, cựu Tống Thống, cựu Thủ Tướng, đều di tản khỏi Việt Nam, định cư tại hải ngoại.
Lá bài “bàn giao” của Đại tướng Minh đă đươc chuẩn bị từ nhiều năm trước. Khi ông đươc đưa từ ngoại quốc về ngổi ở dinh Hoa Lan, đóng tṛ “Ḥa Giải Ḥa Hợp Dân Tộc”. Nếu không phải là một vị Đại Tướng lớn nhất trong quân ngũ ra lệnh buông súng, th́ không ai có thể làm nổi việc đó. V́ chắc chắn binh lính sẽ chống lại. Khi nước Đức đầu hàng, cũng phải do một vị Thống Chế thực hiện. Nước Nhật đầu hàng, cũng do Nhà Vua, mặc quân phục đứng đầu Quân Phiệt, chính thức công bố. Những thủ tục “đầu hàng” kiểu đó, người Mỹ đă thuộc kỹ lắm.
VIỆT CỘNG NUỐT VOI THỐNG NHẤT
Sau lần thất bại Tết Mậu Thân, sau những vụ bị phản công tiêu diệt tại Quảng Trị, An Lộc, Viêt Công nằm mơ cũng không dám nghĩ là họ cướp được trọn vẹn Miền Nam một cách quá dễ dàng. Chính v́ thế mà họ phải dừng quân lại tại Ninh Ḥa ngoài thành Nha Trang, để chờ động tĩnh. C̣n ở Saigon th́ chỉ sau khi Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu chính thức đưa ra tuyên cáo: Yêu cầu Người Hoa kỳ rời khỏi Việt Nam 29-04. Lúc đó, Việt cộng mới yên tâm tiến vào Thủ Đô, nhưng cũng phải chờ cho chiếc trực thăng chở Đại Sứ Mỹ, bay ra hạm đội, th́ đoàn xe chở quân mới từ từ lăn bánh vào Saigon, đúng lúc Đại tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân Đội Viêt Nam Cộng Ḥa buông súng, 30 - 04 -1975.
Đoàn quân "chiến thắng",ngỡ ngàng tiến vào thành phố đồ sộ, ngoài sức tưởng tượng của họ, khác với tất cả những ǵ mà Đảng đă nhồi sọ họ. Nào là Miền Nam nghèo đói, "bị Mỹ Ngụy bóc lột không có áo mặc, bát ăn". Càng đi sâu vào đời sống dân chúng Miền Nam, người Miền Bắc mới có dịp nhận ra những dối trá của Cộng Sản . Những giầu có của Miền Nam. Những phương tiện tối tân của Mỹ, đă khẳng định rằng: Ở chế độ Tự Do, dân chúng sống sướng hơn dưới chế độ Cộng Sản gấp ngàn lần.
Trong khi đó th́ giới lănh đạo Hanội cho vơ vét tất cả của cải, kho tàng của Miền Nam chuyển về Bắc. Đúng như cảnh trong phim dưới thời Trung Cổ Âu Châu, các lănh chúa chiến thắng đoạt chiến lợi phẩm chở về chính quốc. Những sự kiện đó diễn ra trước mắt Mặt Trận Giải Phóng, Chính Phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam, và những người theo Cộng, thích Cộng. Tất cả đều vỡ mộng, mà không dám phản ứng. Toàn Dân Miền Nam ngao ngán, bỗng thấy ḿnh bị cướp sạch. Nuốt tủi, cúi đầu khi đi qua những khẩu hiệu: "Chủ nghĩa Mác Lê bách chiến bách thắng" "Chủ nghĩa Cộng sản vô địch muôn năm". Để cùng tự hỏi: "Giải phóng Dân Tộc liệng đâu mất rồi ?!"
Chính sách trả thù rửa hận của Cộng Sản giáng xuống đầu các Người Lính Chiến, Công Chức, Đảng Phái, Tôn Giáo. Trí Thức, Chính Khách, Văn Giới, Tư Sản...tất cả, không chừa một ai. Thậm chí Cộng Sản c̣n tung ra những màn phục quốc giả tạo để lừa bắt những người yêu chuộng tự do, những thanh niên nhiệt huyết thù ghét Cộng Sản. Đau thương, tang tóc, đói khổ chụp xuống số phận hầu hết các gia đ́nh Người Cộng Ḥa Việt Nam.
Số phận của những người Miền Nam theo Cộng Sản, tuy không khổ, nhưng nhục là cái chắc. Các lănh tụ Miền Bắc khi vào tiếp thu Miền Nam. Họ nhận ngay thấy một điều, nếu không kíp thời giải thể Mặt Trận Giải Phóng, và Chính Phủ Miền Nam, tiến tới thống nhất do Đảng độc quyền lănh đạo, th́ Mặt Trận và Chính Quyền tay sai đó, sẽ nắm lấy dân chúng bất măn của Việt Nam Cộng Ḥa, để đ̣i tự trị th́ nguy cho Hanội. Chính v́ vậy, mà Cộng Sản vừa gấp rút đưa những Người Tù Cải Tạo ra Bắc, vừa cưỡng bức gia đ́nh của họ đi vùng Kinh Tế Mới, vừa thẳng tay bóp chết cái Chính phủ và Mặt trận con đẻ của chúng, khi bọn này chưa kịp trở tay.
Bị đầy đọa, đói khổ, bất măn dâng cao, Người Người Vượt Biên, Nhà Nhà Vượt Biển. T́m "TỰ DO HAY LÀ CHẾT". Chưa lúc nào, thời nào lột tả được trọn vẹn hết ư nghĩa câu nói đó như vậy. Chưa lúc nào Người Việt lại thương sự Tự Do, dù ít ỏi của Miền Nam ḿnh trước kia như vậy. Trong khi đó th́ Cộng Sản đă hiện nguyên h́nh thành những con "Quỷ Đói". Họ không chừa thứ ǵ mà không vơ vét. Sách nhiễu từ điếu thuốc lá, đến căn nhà người dân đang ở. Năm 1976 Đảng Lao động VN chính thức xưng danh là ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM, đổi tên nước là CỘNG H̉A XĂ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM, để độc quyền toàn trị, bóc lột Dân Chúng cho trọn nghĩa.
Dân Chúng Miền Nam âm thầm lặng lẽ áp dụng đối sách với Cộng đảng độc tài bằng cách "Ỳ RA ĐÓ", cũng như đa số dân chúng Miền Bắc "Làm Hết Giờ Chứ Không Hết Việc". Thế là mọi kế hoạch chỉ có trong báo cáo, chứ thực tế đều gẫy đổ, lẽ đương nhiên Nước Nghèo Đi, và Dân Đói Hơn, c̣n bọn Cán bộ th́ càng phải cố Tham Nhũng thật hăng để được đầy túi. Trong khi đó th́ Thế Giới Cộng Sản, ngấm đ̣n Chiến lược "DÙNG CỘNG DIỆT CỘNG" của Mỹ. Qua việc trao Việt Nam vào tay Việt Cộng để các Đồng chí Nga, Tầu chém giết nhau.
VIỆT CỘNG THEO LIÊN XÔ CHỐNG TRUNG CỘNG
Khi nước cờ đă đi vào "THẾ", th́ phải là những tay cao thủ thượng thừa mới mong gỡ thoát. Việt Cộng cũng đă cố gắng hết ḿnh, chạy chọt với Pháp để hy vọng Pháp giúp làm ḥa với Mỹ. Nhưng trong bài toán của Mỹ, Việt Cộng phải ở thế đi với Nga để đánh Tầu kia mà, thay đổi sao được. Thế là đẩy đi, kéo lại, cuối cùng rồi Việt Cộng cũng phải kư Hiệp Ước An Ninh Toàn Diện với Liên Xô, bỏ rơi Trung Cộng.
Lập tức Trung Cộng cho Khmer Đỏ khuấy phá vùng Tây Nam Việt Nam. Rồi Liên Xô đổ tiền của vơ khí vào cho Việt Cộng làm "Nghĩa vụ Quốc tế", đuổi Khmer Đỏ khỏi Nam Vang, đặt lên đó một chế độ "bù nh́n" của Việt Nam. Lănh tụ Trung Cộng, Đặng Tiểu B́nh đi thăm Mỹ, và thề quyết dậy cho Việt Cộâng một bài học. Cuộc chiến biên thùy Việt, Trung nổ ra, hai bên đều ăn đ̣n đau. Thế nhưng Liên Xô lại c̣n đau gấp ngàn lần hơn.
Sau khi thấm đ̣n do tham vọng đánh thắng Mỹ và vượt Trung Cộng trên khắp Thế Giới, Liên Xô kiệt quệ tận cùng vèâ mọi mặt. Lănh tụ Liên xô Gorbachev thi hành chính sách Đổi Mới, Mở Cửa. Tài giảm vơ khí chiến lược. Đối thoại Ḥa b́nh với Mỹ. Tháo chạy khỏi Afghnistan. Buông luôn đàn em Đông Âu. Giải tán Liên bang Xô Viết...cuối cùng bị Cộng Sản đảo chính. Rồi chính Quyền rơi vào tay ông Yeltsin. Chế độ Cộng Sản Liên Xô bị giải thể.
Tổng thống Nga Yeltsin tạo ra một chính quyền nhiều tính chất "Chuyên đoán thư lại khoác áo Dân chủ", Cán bộ Cộng sản vẫn đầy đặc trong cơ cấu hành chánh, trong các Công Ty Quốc Doanh, nắm các Nông Trường Tập Thể. Hệ thống thư lại cộng sản tùy tiện đó, đă làm ruỗng nát đất nước, làm kiệt quệ mọi khả năng Dân Tộc, đẩy toàn dân vào cảnh thiếu thốn.
Tinh thần Dân Tộc quá khích được dịp bùng lên. Tập đoàn Cộng Sản phục hoạt, trở lại cầm quyền. Nhưng vẫn không dám bỏ “Chiếc Áo Dân Chủ” .V́ tất cả đều hiểu rằng: Thời của Cách Mạng Xă Hội Chủ Nghĩa, của Vô Sản Chuyên Chính đă hết. Thế của Quốc Tế Cộng Sản vỡ. Dân chúng dù đói, dù chán chế độ Dân Chủ nửa vời, nhưng tất cả đang sống trong không khí tự do: Tự Do Ngôn Luận, Tự Do Tôn Giáo, Tự Do Đảng Phái, Tự Do Nghiệp Đoàn. Nhất là cả trào lưu Nhân Quyền, Dân Chủ Trọng Pháp, và Kinh Tế Thị Trường Tự Do Toàn Cầu Hóa đang dâng cao. Nên Cộng Sản Nga đành chịu sinh hoạt theo Dân Chủ, mà chưa dám nghĩ tới dùng bạo lực để đoạt quyền, và dùng Bạo Trị với Quốc dân.
Khi Liên Xô đổi mới, Việt Cọâng cũng phải đổi theo, Lê Duẫn thường xuyên bị gọi sang Nga để nhận chỉ thị, từ nhận chỉ thị tới ở lâu để chữa bệnh. Bệnh chẳng những không khỏi, khi đưa về tới Hanội th́ chết luôn. Trường Chinh được lên Quyền Tổng Bí Thư. Đại hội Đảng kỳ VI năm 1986 Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ đều buộc phải ra đi để nhường ngôi Tổng Bí Thư cho Nguyễn Văn Linh "ĐỔI MỚI".
“Đổi Mới” hay “Để Cũ”, đối với Việt Cộng th́ cũng chẳng thay đổi là bao. Vẫn Đảng Lănh Đạo, Chính Quyền Quan Lư, c̣n Dân được tiếng là làm chủ, nhưng thực tế th́ chỉ là những thân gầy nô lệ để Đảng bóc lột. Trước đây Đảng bóc lột qua h́nh thức hợp tác xă chấm công, cửa hàng quốc doanh, muốn cho mua thứ ǵ tùy cán bộ, nay cho buôn bán, làm ăn cởi mở, để công an ,sách nhiễu, thuế vụ tùy tiện thu thuế. Có điều hơi khác là, nếu dân biết điều đút lót cho cán bộ để được bao che, th́ cũng dễ thở đôi chút. Cán bộ đút lót cho thượng cấp để được nâng đỡ. Từ đó tạo thành một “Hệ Thống Tham Nhũng Quy Mô”và “Hệ Thống Buôn Lậu Hiện Đại”. Tất cả được gọi là KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TỰ DO, THEO ĐỊNH HƯỚNG XĂ HỘI CHỦ NGHĨA.
Năm 1991 khi Liên Xô tan ră, th́ Trung Cộng cũng đang tiến vào Thị Trường Tự Do, dù bị vụ tai tiếng Thiên An Môn, nhưng về mặt chiến lược, th́ chưa phải là lúc Mỹ tính tới. Nhờ vậy mà Việt Cộng cũng được yên lây. Việt Cộng ngó chừng Trung Cộng để làm Kinh Tế Thị Trường và bảo vệ quyền lực của Đảng. Thế nên, từ vị trí kẻ thù, bước dân sang địa vị đồng cảnh.
Việt Cộng hết c̣n Liên Xô trợ giúp, buộc phải rút quân khỏi Campuchia. Nhưng v́ muốn dùng việc rút quân để đặt điều kiện với Mỹ, với các nước ASEAN, và Liên Hiệp Quốc, nên đă bị Thế Giới ghét bỏ. Năm 1991, Đỗ Mười thay Nguyễn Văn Linh. Rồi v́ nhu cầu tồn tại phải van xin để Mỹ bỏ cấm vận. Năm 1994 cấm vận đă được bỏ, Việt Nam được nhận vào làm hội viên của Khối ASEAN. Mỹ thiết lập bang giao, nhưng không vội trao đổi Đại Sứ, v́ Việt Cộng đă cố áp dụng chính sách "đu giây" giữa Mỹ và Tầu. Chính tṛ chơi này, đă dẫn Việt Cộng vào tử địa, và Dân chúng Việt Nam rơi vào ṿng nguy hiểm.
THẾ NƯỚC L̉NG DÂN VIỆT NAM
Giấc mơ hoang tưởng Thiên Đàng Cộng Sản đă dứt. Lư tưởng Xă Hội Chủ Nghĩa đă tan. Quyền lực Vô Sản Chuyên Chính đă tàn. Hệ thống Quốc Tế Cộng Sản đă vỡ. Việt Cộng thực sự đă hết lư do tồn tại. Nhưng như đă tŕnh bầy ở trên, Việt Cộng vốn không phải v́ những lư do đó mà xuất hiện và tồn tại ở vùng đất này. Nó tồn tại chính v́ vai tṛ chiến lược của nó, trong cuộc cờ thế giới thời đại. Đă đến lúc xin được phép nói trắng ra rằng: Chính Hoa Kỳ là người chủ động xử dụng Cộng Sản Việt Nam vào việc: DIỆT PHÁT XÍT, CHỐNG THỰC DÂN, và c̣n tinh vi khôn lường là PHÁ CỘNG SẢN Quốc Tế trong kế sách "Dùng Cộng Diệt Cộng" nữa.
Quả thật THẾ NƯỚC của Dân Tộc chúng ta, bị đặt vào thế dù có biết rơ mười mươi, cũng khó ḷng mà thoát ra nổi, nói ǵ đến nhóm Cộng Sản Việt Nam, vốn chỉ là những kẻ được đào tạo ra trong ḷ đúc NÔ LỆ, họ chỉ nh́n thấy có một chiều. Mất lư tưởng, nhưng đă có quyền, phải bám chặt lấy quyền, bất chấp thủ đoạn, bất cố liêm sỉ, bất cần khổ đau dân chúng, bất kể quyền lợi Dân Tộc, và sự giầu, nghèo của Đất Nước. Miễn sao bọn họ CÓ QUYỀN, CÓ TIỀN là đủ rồi.
Do vậy, về THẾ NƯỚC th́ họ sẳn sàng làm đàn em, cho bất cứ thứ Thế Lực Quốc Tế nào nắm được họ. Mỹ vốn là thế lực điều khiển từ xa, nên thực t́nh họ không biết rơ vai tṛ chủ động của Mỹ. Nhưng họ hết sức trung thành với Liên Xô. Bắt họ phải chọn giữa Liên Xô và Trung Cộng đương nhiên họ chọn Liên Xô. Giữa Trung Cộng với Mỹ, th́ theo quán tính họ chọn Trung Cộng. Nhưng Trung Cộng vừa mới là kẻ thù gần đây, nên họ cũng ngán. C̣n trong thực tế làm giầu, th́ Mỹ vẫn hấp dẫn hơn hết. Mà đi với Mỹ th́ sợ Mỹ lật. Tâm lư NGÁN TẦU, SỢ MỸ, đă phổ biến từ thượng tầng lănh đạo xuống tới toàn thể đảng viên. Rồi được thể hiện ra qua "Chính Sách Đu Giây".
Chính sách “đu giây”, vốn là biểu hiện của sự mất hướng tư tưởng, mất NIỀM TIN vào Lư tưởng, vào Lănh đạo, vào Chế độ và vào Chính Bản Thân Ḿnh. Tất cả chỉ c̣n kết cấu với nhau v́ QUYỀN LỰC để TRỤC LỢI cho bản thân. Thế nên mọi sinh hoạt tại Việtnam hiện nay đều lấp lửng nửa vời không dứt khoát, chẳng cái ǵ ra cái ǵ cả, chẳng cái ǵ đi tới đâu hết. Kinh Tế Thị Trường theo Định Hướng Xă Hội Chủ Nghĩa là vậy đó. Đừng trông mong Luật Pháp trong sáng. Đừng trông mong Chính Sách minh bạch. Đừng trông mong Lời Hứa danh dự. V́ ở Việtnam hiện nay giới lănh đạo đâu c̣n danh dự nữa. Họ không được đặt danh dự của họ lên trên sự bảo vệ quyền hành lănh đạo của Đảng.
Chính v́ vậy mà Đảng đă chọn Đỗ Mười để đặt lên ghế Tổng Bí Thư đầy quyền lực, mà lại chỉ có khả năng của cấp thừa hành hạng tồi, nhằm làm cho Đảng đỡ sợ Đỗ Mười trở thành thứ Gorbachev của Liên Xô, hay Đặng Tiểu B́nh của Trung Cộng. Không những chức Tổng Bí Thư thành "bù nhin", mà Bộ Chính Trị mất dần quyền ban hành nghị quyết, cuối cùng hủy bỏ luôn Ban Bí Thư, nhằm thu quyền quyết định tối hậu về tay 170 ủy viên Trung Ương Đảng. Ở nơi đây băi bỏ việc biểu quyết công khai giơ tay, thay vào đó bằng bỏ phiếu kín. Thế là một Đảng Độc Tài trước đây hoàn toàn dựa vào Ư Chí Độc Đoán của cá nhân lănh tụ, giờ đây thành "Cá Mè Một Lứa", không thể đưa ra được một quyết sách đúng thời đúng thế. Như vậy là Cộng Đảng đă bị biến chất.
Nhưng sự Biến Chất đó không theo hướng tốt, mà lại theo hướng xấu. Hướng làm giầu cho cá nhân, cho phe nhóm. Bằng mọi thủ thuật kiếm tiền, dùng chức quyền để THAM Ô, BUÔN LẬU. Tạo ra quanh ḿnh các tổ chức BĂNG ĐẢNG làm ăn đen tối. Móc ngoặc với bọn con buôn gian xảo, mánh mung trong các Công ty Quốc Doanh, và bên ngoài Tư Thương, để trốn xâu lậu thuế. Dựng lên các Công ty "Ma" để lừa vốn đóng góp của dân chúng, lừa cả Tư Bản Ngoại Quốc ngây thơ, mượn vốn Ngân Hàng rồi khai lỗ...Tóm lại không có một "mưu ma chước quỷ" nào, mà lại không đem ra tận dụng vào cái gọi là Kinh Tế Thị Trường Tự Do Theo Định Hướng Xă Hội Chủ Nghĩa.
Lẽ đương nhiên, Tất cả bọn gian trong đó đa số là Đảng Viên thực quyền và bọn người "vệ tinh" của chúng, đă tạo ra một giai cấp giầu có, sống "sa đọa", nổi lên trên mặt tầng xă hội đô thị. Làm cho cuộc sống thoạt nh́n có vẻ phồn vinh hơn thời mới thống nhất. Nhưng thực chất Dân vẫn c̣n nghèo đói, nhất là Nông Dân sống hết sức cơ cực. Tuổi trẻ không được học thứ đáng học, trường thiếu, thầy dở. Học ra rồi không có vây cánh cũng đừng mong có việc hợp với khả năng. Ấy là chưa nới tới tuyệt đại tuổi trẻ thuộc gia đ́nh quá nghèo, đâu có được đi học, Họ sớm phải vào đời kiếm sống, trong cảnh gian manh tàn nhẫn của một xă hội lănh đạo bởi những kẻ Phi Nhân Tính, Vô Văn Hóa.
Xă hội Việtnam đă ung thối tận cùng. Dân chúng bất măn dâng cao, nhưng hệ thống Công An Trị quá dầy đặc. Họ được đặc quyền tham nhũng, trợ giúp cho những việc làm ăn phi pháp để sinh sống, họ có thể làm ngơ đi những lời chửi bới chế độ, lên án lănh tụ. Nhưng họ hết sức bén nhạy về những mưu đồ "tổ chức", để kịp thời chận đứng trong trứng nước. Không những v́ lệnh đảng, mà chính bọn họ cũng ư thực được rằng: "Đảng đổ th́ họ cũng khó sống".
Thế nhưng Công An hoàn toàn bất lực trước sự nhất tề bùng lên của Nông Dân tỉnh Thái B́nh: Chống Tham Nhũng Áp Bức Đ̣i Tự Do. 1997. Đảng bắt buộc phải mượn đến sức Quân Đội để trấn áp. Chính v́ vậy mà Quân Đội buộc được Đỗ Mười phải xuống giữa nhiệm kỳ, đưa viên tướng Lê khả Phiêu lên làm Tổng Bí Thư. Quân đội chính thức được tham gia làm kinh tế, lẽ đương nhiên là ngồi ở ghế lănh đạo Đảng, lănh đạo chính trị rồi.
Ấy vậy, mà Lê khả Phiêu khi đụng tới Trung Ương Đảng là đụng phải bức tường không thể vượt qua. Nghị quyết “Đổi Mới hay Bảo Thủ” ǵ cũng không thông qua được trong các lần biểu quyết. Đổi Mới th́ Cộng Đảng Mất Quyền Hành, mà Bảo Thủ th́ Quân Phiệt Thay Đảng Phiệt. Tóm lại đổi mới hay bảo thủ th́ Cộng Đảng cũng bị hất cẳng. Chỉ có con đường duy nhất để Đảng tạm thời tồn tại là vẫn như cũ. Trói chặt Tổng Bí Thư ở ghế "bù nh́n", Thủ tướng chính phủ th́ đi hô hào “đổi mới”, nhằm xin tiền, vay tiền, kêu gọi đầu tư quốc tế. C̣n quyền quyết định tối hậu vẫn nằm trong tay của 170 ủy viên Trung ương, với những quyền lợi địa phương, phe cánh hết sức trái ngược, nhưng họ đều nhất trí cao là phải duy tŕ quyền lănh đạo của Đảng.
Thế rồi đến Đại Hội IX, Lê Khả Phiêu bị tố 5 tội: 1- Bán rẻ lợi ích cho Ngoại Bang. Cụ thể là đă “hiến đất dâng biển” của Tổ Quốc cho Trung Cộng. 2 - Chuyên quyền cục bộ địa phương. Đưa tay chân vào nắm các chức vụ then chốt trong Đảng và Chính Phủ. 3- Củng cố quyền lực cá nhân. Tổ chức một đơn vị “đặc vụ” nằm trong Tổng Cục 2 thuộc bộ Quốc Pḥng để theo dơi các Ủy viên Bộ Chính Trị và Trung Ương. 4 – Thiếu khả năng và tư cách lănh đạo. Đối thoại khiếm nhă với vị Quốc Khách, TT Mỹ Clinton. 5 – Hủ hóa với các nữ nhân viên. Cuối cùng Lê Khả Phiêu bị bay chức Tổng Bí Thư. Nông Đức Mạnh được đưa lên làm Tổng Bí Thư với đúng vị “bù nh́n”. Hủy bỏ Thường Trực Bộ Chính Trị, lập lại Ban Bí Thư như cũ. Quyền tối hậu quyết định thuộc về 150 Ủy Viên Trung Ương. Nhưng các Thành Tỉnh được tự quản về Kinh Tế.
Giới đầu tư Quốc Tế đă nhận ra sự thật là không thể làm ăn với Việt Cộng, họ dần dần rút khỏi thị tường Việt Nam. Các cơ quan Tài Chánh Thế Giới, các nước cho vay và cấp viện cho Việtnam, đ̣i hỏi Việt Cộng phải đổi mới thêm nữa, nếu muốn nhận được trợ giúp. Nhưng tất cả những đ̣i hỏi khuyến cáo đều "như nước đổ đầu vịt" .Thế Giới hiểu, Toàn Dân hiểu, mà Việt Cộng cũng hiểu rằng: Việt Nam muốn đổi mới thực sự theo đúng yêu cầu của giới đầu tư Quốc Tế th́ trước hết phải VIÊN DUNG HÓA tư tưởng, phải TƯ NHÂN HÓA truyền thông, phải DÂN CHỦ HÓA chế độ, phải TỰ DO HÓA xă hội, TƯ HỮU HÓA kinh tế, mới hội nhập được vào tiến tŕnh TOÀN CẦU HÓA.
Tới đây đă thấy rơ NHU CẦU của toàn dân Việt Nam, và Đ̉I HỎI của toàn thể Thế Giới đă gặp nhau, là VIỆT NAM CẦN PHẢI CÓ MỘT CUỘC CÁCH MẠNG NHÂN CHỦ NHÂN VĂN TOÀN TRIỂN, chứ không phải là những Thay Đổi Nửa Vời, th́ mới hoàn tất nỗi sứ mệnh chiến lược tế nhị trong THỜI ĐẠI NHÂN CHỦ TỰ DO ĐIỀU HỢP H̉A B̀NH PHÁT TRIỂN này.
===================================================================
THẾ NƯỚC
THẾ NƯỚC VIỆT NAM MỘT ĐỘNG ĐIỂM TOÀN CẦU
Thế nước thời Đế Quốc Phong Kiến
Thế nước thời Thực Dân Thống Trị
Thế nước thời Phát Xit Quân Phiệt
Thế nước thời Độc Lập Kháng Chiến
Thế nước thời Nam Quốc Bắc Cộng
Thế nước thời Chiến Tranh Việt Nam
Thế nước thời Thống Nhất Đất Nước
======================================================================
THẾ NƯỚC VIỆT NAM
MỘT ĐỘNG ĐIỂM TOÀN CẦU
Ở vào THẾ NƯỚC đại hung hiểm như Việtnam hôm nay, th́ chỉ có ḷng Yêu Nước không thôi, th́ chưa đủ Cứu Nước, mà c̣n cần phải nắm vững Thế Nước nữa. Nhưng nắm vững Thế Nước, mà lại Xa Dân th́ lập tức trở thành tay sai Ngoại Bang, tội đồ thiên cổ đối với Dân Tộc. Bởi vậy người Lănh Đạo phải có đủ ba yếu tố : THẬT TÂM YÊU NƯỚC - NẮM VỮNG THẾ NƯỚC – HIẾU DÂN DỰNG NƯỚC, mới cứu nổi nước, mới giữ nổi dân, mới toàn được mạng, mới đưa Dân Tộc thoát ṿng hung hiểm.
Có thể nói, từ gần một thế kỷ nay, khi mà các nước lớn nuôi ư đồ tranh giành thuộc địa với Thực Dân, th́ đủ loại Chiến Lược Toàn Cầu của các Thế Lực Quốc Tế thi nhau xuất hiện, nhằm đánh phá nhau, tạo ảnh hưởng lên các nước bị trị. Mà Việt Nam được kể như là một nơi gặp gỡ của hầu hết các mưu đồ Đế Quốc tập trung vào, để tranh chấp.
Hết Thực Dân Pháp, Phát Xít Nhật, đến Tư Bản Mỹ, Cộng Sản Nga, Đàn Anh Tầu, Trung Lập Anh, Ḥa Giải Pháp...Hầu hết các thứ Sách Lược của Thế Giới, đều trực tiếp ảnh hưởng tới t́nh thế Việt Nam. Phân hóa, dẫn tới phân liệt triệt để Nhận Thức của Người Việt. Làm tan vỡ tận cùng tiềm lực Dân Tộc. Đẩy Dân Việt vào một chiến trường để bảo vệ và tranh giành cho những thứ lư tưởng bóng bẩy, hoàn toàn xa xỉ đối với một đất nước lạc hậu nghèo đói. Chỉ một ḷng Yêu Độc Lập, Khát Tự Do, Cần Dân Chủ.
Chính v́ tâm t́nh chân thật của đại khối Dân Việt, chỉ một ḷng Yêu Độc Lập, mà đă bị dối gạt thảm thương, đă hiến dâng tâm hồn, lẫn mạng sống cho kẻ gian dối, không công sức ǵ, mà v́ nhanh tay đưa ra đúng lúc hái được những đóa hoa đầu mùa Độc Lập. Trước mắt người dân hiền lành vô tội, những người thực sự Yêu Nước bỗng bị biến thành Việt Gian Phản Quốc. C̣n những kẻ thực sự là Việt Gian, làm tay sai cho Thế Lực Ngoại Bang đen tối, th́ nghiễm nhiên trở thành Người Hùng Cứu Quốc.
Trong khi đó THẾ NƯỚC mỗi ngày mỗi phức tạp chồng chéo lên nhau. Đan kết với nhau, BẠN, THÙ khó phân. “Đang là Bạn bổng biến thành Thù, Đang Thù hóa Bạn”. Đấy là nói về Thế Quốc Tế. C̣n tương quan giữa người trong nước với nhau, th́ ngay một Gia Đ́nh, mà đă chia ra nhiều khuynh hướng, đôi khi c̣n đối nghịch cả về Lư Tưởng, Chánh Kiến. Có trường hợp Cha, Con, Anh, Em nhiều lúc cả Vợ, Chồng, mỗi người ở một chiến tuyến thù địch với nhau nữa.
Kịp tới khi, tàn cuộc, trắng đen đă lộ nguyên h́nh, th́ buồn thay, Đất Nước đă tan hoang. Dân Chúng đă kiệt lực. Dân Tộc đă bị bít đường tiến. Thế giới đang vươn ḿnh lên một tiến tŕnh mới. Ư niệm Dân Tộc Độc Lập, đă mở rộng và vươn cao thành: NHẬN THỨC NHÂN CHỦ NHÂN VĂN, mà mỗi DÂN TỘC PHẢI TỰ DO HÓA, DÂN CHỦ HÓA, ĐỂ CHỦ ĐỘNG gia nhập vào diễn tiến ĐIỀU HỢP TOÀN CẦU HÓA.
Trong khi đó th́ đa số Người Dân Việt v́ chưa được hưởng cảnh Dân Tộc Độc Lập thực sự, nên rất dễ rơi vào thảm trạng của các nước lạc hậu, bị bọn cầm quyền thiển cận, dùng thủ đoạn mị dân, khai thác tâm lư yêu nước quá khích và tinh thần DÂN TỘC CỰC ĐOAN, để cũng cố quyền lực, địa vị, nhằm chống lại trào lưu Dân Chủ Hóa, và khuynh hướng ḥa b́nh điều hợp của Thế Giới. Đó không phải là mưu cầu Độc Lập Dân Tộc, mà đúng là tự cô lập, tự hủy diệt Dân Tộc.
Thế nước, không những xuất hiện, ở thời đấu tranh, chiến tranh, tranh chấp, mà ngay ở trong tương quan thời b́nh cũng vẫn xuất hiện. V́ đă có NƯỚC, tất nhiên phải có THẾ của NƯỚC. Nước giầu th́ ở Thế Nước Giầu. Nước Nghèo th́ ở Thế Nước Nghèo. Mạnh, Yếu, Lớn, Nhỏ, tự chúng đă khẳng định các Thế khác nhau, những tương quan, tương giao với Lân Bang, và với Thế Giới, đương nhiên phải có chỗ khác nhau. Khi nói tới B̀NH ĐẲNG DÂN TỘC, th́ đó chỉ là lời nói xă giao, để tốt ḿnh đẹp người mà thôi. Đừng có tự lừa ḿnh dối người, mà phải nhận cho rơ nước của ḿnh đang ở VỊ THẾ nào ? Th́ mới cứu nổi Nước.
THẾ NƯỚC THỜI ĐẾ QUỐC PHONG KIẾN.
Thật là bất hạnh cho Dân Tộc Việt có tính tự chủ, quật cường, mà lại phải sống cạnh Dân Tộc Tầu có chất Đế Quốc truyền thống ngay từ ngàn xưa. Chính v́ bản tính hiếu ḥa, muốn bảo tồn Dân Tộc hơn là thôn tính các ṇi giống khác, để mở mang Quốc Gia Phong Kiến, Nên Người Việt, ṇi giống của Thần Nông, Kinh Dương Vương và Long Nữ, Lạc Long Quân và Âu Cơ, ngay từ thuở xa xưa, khi gặp cường địch hiếu sát, con cháu của Phục Hy, Hoàng Đế, là Đế Khải Phong Kiến cực vi Phương Bắc tràn lấn, đă có lựa chọn hết sức chính đáng là: "BỎ ĐẤT, GIỮ DÂN". Bảo tồn Huyết Thống. Tiếng Nói và Truyền Thuyết lên đường Nam Tiến.
Ngược lại Dân Tộc Tầu, ṇi giống của Phục Hy, Hoàng Đế, Đại Vũ bắc phương hiếu chiến, luôn luôn nuôi dă tâm thôn tính các Dân Tộc khác để mở mang Đế Quốc Phong Kiến. Cho nên Quốc Gia Phong Kiến Trung Hoa là nơi pha giống của nhiều Sắc Tộc, chứ không c̣n thuần giống Phục Hy nữa. Nhưng với nhiều ngàn năm sắm vai tṛ Đế Quốc, nên truyền thống xâm lược đă trở thành tính chất thực dụng của ngưởi Tầu ở các thời đại mất rồi.
Sông liền sông, núi liền núi với một nước khổng lồ, có truyền thống Đế Quốc lâu đời, quả thật, giữ nổi mạng của Dân Tộc tới ngày nay, là cả việc làm khó trên hết mọi sự khó. Trong khi các Dân Tộc khác cùng sống trong lục địa Trung Hoa đều đă bị đồng hóa. Các Dân Tộc hùng mạnh ở chung quanh nhiều khi cướp được Ngai vàng Đế Quốc Trung Nguyên, rồi cuối cùng lại cũng bị đồng hóa. Thua Tầu lẽ tất nhiên là bị tiêu diệt. Thắng Tầu mà cũng bị tiêu diệt luôn.
Thế mà Dân Tộc Việtnam đă nhiều lần thua và cũng đă nhiều phen thắng, mà vẫn bảo tồn được Dân Tộc, không bị đồng hóa thê thảm, th́ đủ biết mưu lược của người Việt đâu có thua ai. Mưu lược của Thế Nước nhỏ đối phó với Đế Quốc Phong Kiến th́ phải nói Việtnam là nước có truyền thống hết sức tinh tế ít ai b́ kịp.
Lẽ cố nhiên là về mặt tinh thần TỰ CHỦ DÂN TỘC, khả năng DUNG HÓA TƯ TƯỞNG, ư chí NHẪN NHỤC mà QUẬT CƯỜNG, đức tính CẦN CÙ mà LINH HOẠT là chính. Nhưng nếu không có mưu lược thực tiễn, chuyển nổi những yếu tố tinh thần vào thực tế, để ứng phó với thời thế th́ cũng khó ḷng giữ nổi Dân Tộc.
Xét mưu lược, về mặt Quân Sự th́ biết tấn công thẳng vào đất địch, nhằm đánh tan các cơ sở hậu cần xâm lăng của địch, rồi ngay lập tức lui về pḥng vệ, chuẩn bị chiến thắng đợi xâm lăng của địch. Buộc địch phải thừa nhận quyền Độc lập Dân tộc lâu dài. Đây là thời Lư Thường Kiệt đánh Tống, b́nh Chiêm.
Khi xâm lăng đă tràn vào đất nước, th́ bỏ trống thủ đô, phát động Du Kích Chiến: Toàn Dân Vi Binh, Toàn Tài Vi Dụng, Toàn Địa Bố Pḥng...để tiêu hao địch, tập trung chủ lực đánh vào nơi trọng yếu của địch. Buộc địch luôn luôn ở thế bị động. Tức là làm chủ được cuộc chiến. Cuối cùng hẳn nhiên phải chiến thắng. Đây là thời Trần Hưng Đạo thắng Đế Quốc số một thế giới là Mông Cổ.
Tránh khí thế hung hăng của địch, tạo cho địch tinh thần tự măn khinh thường đối phương, rồi bất ngờ đem quân tinh nhuệ tiến lên “Tốc Chiến, Tốc Thắng”. Đánh cho địch không kịp trở tay, phải cắm đầu chạy. Đây là thời Quang Trung chiến thắng quân Thanh. Ba chiến pháp của ba nhà chiến lược ưu việt của ta, đều nói lên tính cách Tùy Thời, Thuận Thế, Dụng Binh hết sức mưu lược, thoáng đạt, tinh tế.
Về đối sách Chính Trị cũng hết sức thực tế, chủ động, nghệ thuật. Chiến thắng Đế Quốc xong, lập tức nghị ḥa, triều cống, cầu phong. Dứt khoát không nhân đà thắng, tiến chiếm Trung Thổ, xưng "Đế" như các Dân Tộc phương bắc, để rồi bị cái biển người khổng lồ đó đồng hóa. Đối với Đế Quốc th́ nhận phong Vương. C̣n đối với dân nước th́ đương nhiên xưng Đế. V́ ở thế của kẻ thắng, nên Đế Quốc dù có biết, mà cũng đành phải lờ đi.
Mặc dù vậy, nhưng v́ chủ trương hiếu dân, nâng cao tinh thần Tự Chủ của người dân, nên triều đ́nh Việt Nam đă chọn ước sách bất thành văn "PHÉP VUA THUA LỆ LÀNG" ra ứng dụng. Ở thời phong kiến "Vua Là Luật". Luật Vua là luật tối thượng. "Ư Vua là ư Trời", mà riêng Việt Nam từ ngàn xưa đă đề cao "Lệ Làng hơn Phép Vua", đủ thấy phép Giữ Nước, Hiếu Dân của người xưa tùy duyên thâm thúy biết chừng nào.
Một nước nhỏ, dù thắng trận cũng buộc phải "Xưng Thần" với Đế Quốc, mà về mặt tinh thần, cứ bắt dân phải tuyệt đối tuân phục quyền uy mệnh lệnh của ḿnh, th́ có khác ǵ vua đă làm "bày tôi" cho ngoại bang, bắt luôn dân của ḿnh cũng làm “nô lệ” cho người ngoài rồi. Thật đáng khâm phục, đáng kính trọng nghệ thuật chính trị tuyệt hảo của cha ông ḿnh. Đáng buồn, đáng trách cho những kẻ cầm quyền ngày nay, chỉ muốn độc tôn, độc tài, nhưng lại ngoan ngoăn vâng phục ngoại bang, khiến Dân mất Chủ Động, Nước mất Chủ Quyền.
Tóm lại nguyên tắc giữ nước dựng nước của Dân Tộc Việt có hai chủ điểm : CHIẾN LOẠN TH̀ TRUNG ƯƠNG TẬP QUYỀN. THỜI B̀NH TH̀ ĐỊA PHƯƠNG PHÂN QUYỀN. Đối với Thế Nước Việt Nam th́ chiến loạn, phần lớn là bị nạn ngoại xâm, toàn dân dốc ḷng theo Vua chống giặc. Yên giặc, lính về làm dân chăm lo cày cấy, sống trong lệ làng.
Lệ Làng lẽ đương nhiên không ngoài Phép Vua. Nhưng Vua th́ ở xa, mà Làng lại gần, nên tục lệ của Làng được người Dân biết tới nhiều hơn. Nếu dân có việc "đáo tụng đ́nh", th́ quan triều cũng căn cứ vào tập tục của Làng Xă, mà phán xử. Đó là lư do, tạo thành TRUYỀN THỐNG PHÉP VUA THUA LỆ LÀNG. Đây c̣n là đặc tính của NỀN DÂN CHỦ TRỰC TIẾP NAY MAI.
THẾ NƯỚC THỜI THỰC DÂN THỐNG TRỊ.
Thực Dân Pháp, đem quân chiếm Việt nam từ năm 1858 đến năm 1862 th́ cướp được hết toàn Miền Nam Việt Nam. Buộc triều đ́nh nhà Nguyễn phải nhường cho nước Pháp làm thuộc địa trực trị. Tham lam của Thực Dân đâu có dừng ở đó. Chúng tiếp tục tiến chiếm Miền Trung và Bắc Việt, buộc triều đ́nh Huế phải nhận sự bảo hộ của Pháp. Và cũng buộc triều đ́nh Măn Thanh phải kư thỏa ước Thiên Tân ngày 11 tháng 5 năm 1884, Trung Quốc phải từ bỏ quyền bá chủ đối với Việt Nam. Trung Hoa hiện tại và tương lai phải tôn trọng những hiệp ước kư giữa Pháp và Việt. Ngày 06 – 06 – 1884, Triều Đ́nh Huế chính thức kư hiệp ước với Chính Phủ Cộng Ḥa Pháp. Đặt Việt Nam dưới sự đô hộ của nước Pháp. Kể từ đó Thực dân Pháp hoàn toàn thống trị Việt nam.
Cùng một lúc Pháp áp dụng hai chính sách cai trị Thuộc Địa và Bảo Bộ. Nam Kỳ thuộc địa được xem như một phần nước Pháp tại hải ngoại. Luật pháp như chính quốc. Cai trị từ quận hạt trở lên do chính người Pháp đảm nhậân. Cai Tổng trở xuống tới Hương Quản, trao cho người bản xứ. Triều Đ́nh Huế không có bất cứ thứ quyền hành ǵ tại đây.
C̣n Bảo Hộ th́ cũng có hai quy chế khác nhau. Xứ Bắc Kỳ th́ Pháp kiểm soát kỹ hơn. Tuy Pháp chỉ đặt Công Sứ cho toàn Bắc Kỳ và Chánh Sứ cho mỗi tỉnh. Tiếng là triều đ́nh được bổ nhiệm Tổng Đốc người Việt cho mỗi tỉnh và các quan chức Phủ, Huyện, Tổng, Xă. Nhưng từ Huyện trở lên đều phải được ṭa sứ chuẩn thuận. Riêng Trung Kỳ th́ triều đ́nh Huế tương đối được rộng tay hơn đôi chút. Chỉ có Ṭa Khâm Sứ bên cạnh triều đ́nh. Không đặt các Chánh Sứ ở mỗi tỉnh. Nhưng các cơ sở Hải Quan, Công Chánh, Bưu Điện đều do công chức Pháp đảm nhiệm.
Về luật pháp và tổ chức hành chánh, Thực Dân Pháp đă dùng cách CHIA ĐỂ TRỊ, đối với ba miền đất nước, và có tên gọi chính thức là Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. C̣n về mặt nhân sự trong giới cai trị, th́ song song với quan lại triều đ́nh, Thực Dân đă đào tạo ra lớp thông ngôn, thông phán làm việc trực tiếp với Chính Quyền Bảo Hộ. V́ các quan triều Bắc Kỳ phải nhận lệnh từ Công Sứ, Chánh Sứ, hoặc ở Trung Kỳ, triều đ́nh giao dịch với quan chức Pháp đều phải nhờ tới thông ngôn, do vậy giới này rất có thế lực, lấn vượt các quan chức bản xứ.
Riêng đất Thuộc Địa Nam Kỳ, th́ ngoài các viên chức người Pháp, Thực Dân đă đào tạo ra một lớp Đốc Phủ Sứ, người địa phương có quốc tịch Pháp. Họ cùng với người Pháp cai trị dân chúng Việtnam theo lối của Pháp. V́ ở đây không có quan triều đ́nh, xă hội tổ chức gần như rập khuôn với "Mẫu Quốc", tính cách phong kiến cũng loăng dần. Đa số trí thức có "Dân Tây" và cũng được học tại Pháp, nên về mặt kiến thức và sinh hoạt báo chí cũng được hưởng đặêc quyền tự do hơn hai miền Trung, Bắc. Nếu chỉ xét về mặt Tự Do Báo Chí thời đó ở Nam Kỳ, th́ phải nói, hơn hẳn thời Đệ nhất, Đệ nhị Cộng Ḥa Miền Nam. Lẽ cố nhiên với thời Cộng sản th́ tệ quá mất rồi, không thể đem so được.
Dù Miền Nam bị Pháp hóa, Miền Trung, Miền Bắc bị trực trị, nhưng Làng Xă Việt Nam cả ba miền vẫn là "Cái nôi nuôi dưỡng tinh thần Dân Tộc", vẫn là "Cái ḷ hun đúc tinh thần quật cường tự chủ của dân chúng". Thứ văn minh của những người tự mệnh danh là đi "khai hóa" cũng chỉ phổ biến được ở các đô thị có người Tây sinh sống. Nhưng điều thâm độc nhất là Thực Dân Pháp không cho Người Việt được mở mang về kiến thức Khoa Học. C̣n người Nông Dân Việtnam th́ vẫn sống với câu ca dao, ḥ vè, với truyện Trầu Cau, Tấm Cám, Rồng Tiên, bà Trưng, bà Triệu, Lư Thường Kiệt, Trần Hưng Đao, Lê Lợi, các vị đó đều trở thành Thần Linh, trong tin tưởng của dân gian, với hội hè, cúng lễ, chèo hát, Đ́nh, Chùa, Đền, Miếu, Điện và những phong tục cổ truyền không hề quên lăng.
Đó là thế cách giữ ǵn bản sắc Dân Tộc ngàn đời của người Việtnam. Phải nói rằng: từ khi tiếng Việt được phiên âm bằng mẫu tự La Tinh, mỗi ngày một hoàn chỉnh, để thành Việt Ngữ, th́ đúng là TINH THẦN VIỆT NAM được chắp cánh bay cao, lan rộng không cùng. Công cuộc Phục Việt bùng lên rất mau.
Chỉ lúc này Người Thôn Dân Việtnam, mới bắt đầu chịu tiếp xúc với những ǵ của Tây Phương, nhưng đă được lọc qua những "Tim Óc" của lớp Trí Thức Mới, c̣n có tâm hồn Việtnam. Việt ngữ dễ học, dễ nhớ. Sách báo tiếng Việt dễ đọc, dễ hiểu và cũng dễ viết. Chẳng những khơi lại được nguồn cội Dân Tộc, mà đến các tư tưởng thâm thúy của nền Đạo Học Phương Đông cũng được đưa tới gần với sự hiểu biết của Con Người hơn. Những công tŕnh ngày xưa phải mất Ngàn năm, Trăm năm mới mong làm xong, nay th́ chỉ thu lại vài ba chục năm.
Gần một thế kỷ bị thực dân Pháp trực trị, với chủ trương khai thác tài nguyên Việt nam là chính, c̣n danh nghĩa "khai hóa" là phụ, dù có các trường Tiểu học, Trung học theo chương tŕnh Pháp tại các thành phố và một trường Đại Học chưa đủ khoa tại Hanội, nhưng đó cũng chỉ đào tạo nổi một thiểu số trí thức khoa bảng Tây học đô thị, c̣n đại khối dân chúng vẫn sống trong nếp nghĩ, nếp sống cổ xưa. Vẫn coi người Pháp da trắng, mắt xanh là dị chủng xa lạ. Người Việt miền Bắc, miền Trung cho việc lấy chồng Tây, vợ Đầm là nghịch thường, không được chấp nhận, bị lên án nặng nề.
Phải nhận rằng: Ngay từ ngày đầu cho tới ngày cuối, cuộc xâm lăng Pháp tại Việt Nam, không thời nào, ngày nào không có nghĩa sĩ nổi lên chống giặc. Càng thất bại, phong trào càng dâng cao và phổ biến. Nhất là sau phong trào Đông du của cụ Phan Bội Châu, và Tây du của cụ Phan Châu Trinh, được giới trí thức mới đô thị hưởng ứng nhiệt liệt, tạo ra các phong trào đấu tranh cách mạng, và các đảng phái chính trị mang tính cách thời đại. Ngay với nhiều tín đồ cùng một tôn giáo với người Pháp, cũng tích cực tham gia các cuộc đấu tranh giành Độc Lập Dân Tộc cùng với Toàn Dân.
Xét về Thế Nước của Việt nam đối với Thực Dân Pháp th́ thật là giản dị. Dân tộc chỉ có một kẻ địch duy nhất là Thực Dân. Toàn dân chỉ có một mục tiêu duy nhất là Độc Lập. Bất cứ đoàn thể, đảng phái nào cũng chỉ là tập họp của những người Yêu Nước. Dù cho giữa các đoàn thể đó, có những chủ trương, đường lối hết sức trái nghịch nhau, th́ cũng chỉ được xem đó có tính cách lư thuyết cho đẹp, cho oai vậy mà thôi. C̣n thực chất th́ các đảng viên, và dân chúng cũng chỉ đơn giản nghĩ đó là các lực lượng Cách Mạng Dân Tộc, chống Thực Dân không hơn không kém. Chính ở điểm dễ dăi này, mà Cộng Sản mới "mập mờ đánh lận con đen" ở đầu mùa Độc Lập được.
THẾ NƯỚC THỜI PHÁT XÍT QUÂN PHIỆT
Ngay từ ngày 07 tháng 07 năm 1937, Phát Xít Nhật đă khởi sự xâm lăng Trung Hoa. Đến năm 1939 Hitler của Quốc Xă Đức, phát khởi cuộc Đại thế chiến thứ II, đánh vào các nước trùm Thực Dân: Anh, Pháp, Ḥa, Bồ của Âu châu, lập tức Quân Phiệt Nhật liên kết với Đức, Ư để làm thành "Trục Phát Xít" chiếm lại các thuộc địa của Thực Dân tại Châu Á. Chiếm Măn Châu, Trung Hoa, Nam Dương, Mă Lai và Đông Dương. Đồng thời tiến đánh Phi Luật Tân thuộc Mỹ. Ngày 14 – 06 -1940 Paris thất thủ, ngày 20 – 06 - 1940 nước Pháp đầu hàng Phát Xít Đức. Chính phủ Petain thân Hitler cầm quyền tại Pháp. Quân Nhật tràn vào khống chế Việtnam. Nhưng vẫn để chính quyền bảo hộ bù nh́n Pháp tại vị. Thế là Việtnam bị rơi vào thế nước có hai "ông chủ". Lẽ cố nhiên ông chủ Nhật có quyền hơn, nhưng ông chủ Pháp vẫn là kẻ cai trị.
Đây là cơ hội để tinh thần Độc Lập Dân Tộc phát triển mạnh. Và đây mới là lúc Người Việt phải thực sự đối đầu với thứ gọi là THẾ NƯỚC THỜI ĐẠI. Thế nước hết c̣n đơn thuần giản dị giữa một bên là Nước Bị Trị, bên kia là Nước Thống Trị nữa. Thế nước giờ đây là THẾ NƯỚC NHƯỢC TIỂU, TRƯỚC NHỮNG MƯU ĐỒ CỦA CÁC THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Các thế lực Quốc Tế tranh nhau miếng mồi Nhược Tiểu. Nước Nhược Tiểu bắt buộc phải lựa chọn một trong nhiều ông chủ mới. Lựa ông chủ nào th́ cũng là một vết chém chí mạng vào tinh thần Độc Lập Dân Tộc cả. Đây là một lựa chọn đau đớn và khó khăn của Người Cách Mạng, đôi khi mất mạng, mất luôn cả sinh mệnh chính trị của một đời hy sinh tranh đấu nữa là khác.
Viết tới đây, đọc tới đây xin mỗi người "tự thắp một nén hương ḷng" để thương tưởng đến các bậc cha anh đă chịu nhiều oan khiên, trong thế nước cực kỳ khó khăn hung ác vừa qua. "Ai Yêu Nước? Ai Việt gian? Ai hy sinh? Ai bỏ cuộc? Nào những Ai? Ai hiểu được Ai?" Nhưng một điều chắc chắùn có thể dễ nhận ra là: Ai làm lợi cho Dân? Ai làm hại đến Dân? Ai làm hại Dân ít hơn? khi họ đă có quyền hành trong tay th́ mới định nổi giá. V́ không có DÂN th́ chẳng làm ǵ có NƯỚC. Nói yêu Nước mà không thương Dân là nói láo.
Ḷng Dân th́ thiết tha với Độc Lập Dân Tộc, c̣n Thế Nước th́ bắt buộc phải thỏa hiệp với một trong nhiều Thế Lực Quốc Tế. Chính v́ vậy mà khi chưa có chính quyền th́ "Thân Dân và Dân thương" khi có chính quyền rồi th́ phải thực hiện một đường lối chiến lược Quốc Tế nào đó, thường thường là ngược lại với ước nguyện của Dân, nên dân oán. Dẫn tới hai trường hợp tồi tệ: Một là xa Dân, hai là dối Dân. C̣n những người được Dân kính trọng yêu thương th́ chẳng thể có chính quyền ở các nước như Việtnam trong thời điểm đó.
Khi cùng một lúc hai thế lực Nhật, Pháp có mặt tại Việtnam th́ bắt buộc họ đều phải tạo ảnh hưởng Chính Trị. Những người làm việc cho Tây th́ khó ḷng đi theo Nhật. Những lực lượng đấu tranh chống Thực Dân th́ cũng rất dè dặt trước thái độ hung hăn lạnh lùng của Quân Đội Thiên Hoàng. Dân chúng th́ lo tránh loạn. Và cũng là lần đầu Người Viẹât Nam được đích thân chứng nghiệm thế nào là máy bay Mỹ bắn phá, thả bom.
Người Nhật nêu cao chiêu bài Đại Đông Á, nhằm thu hút các Dân Tộc Da Vàng Á Châu đuổi Thực Dân Da Trắng Âu Châu. Nhưng thực tế Quân đội Nhật cũng chỉ là một đoàn quân xâm lăng không hơn không kém. Nước Nhật tuy sớm hiện đại hóa kỹ thuật, để theo kịp với kinh tế và kỹ nghệ chiến tranh Âu Châu. Nhưng Chế độ Chính trị vẫn là Phong Kiến Quân Chủ cực quyền. Hiển nhiên, nếu giấc mộng Đại Đông Á mà thành, th́ vị Thiên Hoàng Nhật Bản sẽ là vị Đại Đế của toàn Á Châu. Người Việt đă quá quen thuộc với các vị Đại Đế của Tầu rồi, bởi đấy, chẳng thiết tha ǵ với chiêu bài Đại Đông Á hết.
Tuy nhiên v́ thế nước buộc phải chọn giữ cựu Thực Dân và tân Phát Xít, th́ các lực lượng Quốc gia cũng buộc bị chia đôi. Bộ phận sinh hoạt trong nước th́ tập hợp lại thành ĐẠI VIỆT QUỐC GIA LIÊN MINH thỏa hiệp với Nhật. Bộ phận sinh hoạt hải ngoại th́ thành VIỆT NAM CÁCH MỆNH ĐỒNG MINH [Việt Cách] đi với Mỹ, Anh, Pháp, Tầu, chống Phát xít Nhật.
Ngày 29 tháng 11 năm 1941, Mỹ chính thức lên án Nhật xâm lăng Đông Dương, ngưng thi hành thỏa ước mậu dịch Mỹ, Nhật. Ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật tấn công Mỹ tại Trân Châu Cảng. Đại Thế Chiến II mặt Đông bùng nổ. Quân Nhật phong tỏa chặt chẽ Việt Nam. Hoạt động của T́nh Báo Pháp Hải Ngoại bất lực. Mỹ quyết định dùng người Việt để thay thế. Theo lẽ thông thường th́ Mỹ phải nhờ tới người của Việt Cách. Nhưng không, Mỹ đă chọn Nguyễn Ái Quốc, lănh tụ Cộng Sản Đông Dương, đang cầm đầu Mặt Trận VIỆT NAM ĐỘC LẬP ĐỒNG MINH, [Việt Minh], thành lập ngày 19-5-1941, bắt thay họ đổi tên thành Hồ Chí Minh, để dùng làm mật báo viên cho quân đội Mỹ đóng tại Trung Hoa.
Từ đó Mỹ giúp Hồ Chí Minh thành lập khu chiến tại Việt Bắc, huấn luyện quân sự, t́nh báo, cung cấp vơ khí, tiếp tế cho Việt Minh thành một lực lượng vũ trang cách mạng hùng hậu tại Việtnam, hơn hẵn các lực lượng của người Quốc Gia vốn có tiếng là đi với Đồng Minh, được Trung Hoa Quốc gia coi là bạn.
Năm 1944 quân đội Đồng Minh phản công mạnh tại Âu Châu, Nhật Bản quyết định loại chính quyền thuộc địa Pháp khỏi Đông Dương. Dùng một chính quyền hoàn toàn Việt nam thân Nhật. Nhóm cần vương cũ nhất là Cao Đài Giáo Miền Nam th́ hết sức vận động cho giải pháp Quân Chủ Lập Hiến của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, hiện sống lưu vong tại Nhật, c̣n Đại Việt Quốc Gia Liên Minh và các nhân sĩ Trung, Bắc th́ muốn có nội các Ngô Đ́nh Diệm.
Nhưng sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 09-03-1945, Nhật lại giữ Vua Bảo Đại ngồi tại vị, và trao cho Học giả Trần Trọng Kim thành lập một Nội Các ngày 17-04-1945, toàn là nhân sĩ trí thức học giả độc lập nổi tiếng, nhưng không phải là chính trị gia hay người tranh đấu. Điều nổi bật cần ghi nhận là cả Nhật lẫn Mỹ đều gặp nhau ở một điểm: Không dùng, không giúp những người THÂN hoặc CHỐNG Pháp trong ván bài tế nhị này. Nhật th́ đă rơ là một đế quốc mới, không thể trao quyền cho những người Quốc Gia tranh đấu. C̣n Mỹ th́ sao? Sao lại chọn Cộng Sản trong việc Diệt Phát Xít, mà không phải là Quốc Gia? Đây là một đặc điểm chiến lược của Thế nước Việtnam, chúng ta sẽ được lịch sử giải đáp dần dần.
THẾ NƯỚC THỜI ĐỘC LẬP KHÁNG CHIẾN
Ngày 07 tháng 05 năm 1945 Đức Quốc Xă đầu hàng. Ngày 14 tháng 8 năm 1945 Phát xít Nhật đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện. Thế giới vào giai đoạn mới. Giai đoạn: hận thù quỷ quyệt, mê hoặc ngụy tín, dối gạt tế nhị, vỗ béo làm thịt, bạn thù điên đảo, chiến tranh ủy nhiệm, chạy đua vơ khí, ảo trận mà chết thật, đang thắng hóa bại, định vị quốc tế, kinh tế làm chủ...
Do nhu cầu chiến lược toàn cầu của Mỹ, Cộng Sản Việt Nam được hà hơi tiếp sức, tạo được sức mạnh, cướp được thời cơ, đoạt được chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim, qua một cuộc biểu t́nh tự phát của dân chúng Hanội, sau khi Phát xít Nhật đầu hàng trước Mỹ.
Hồ Chí Minh, tên tuổi lạ hoắc, không những đối với dân chúng ,mà ngay cả đảng viên Cộng Sản cấp thấp, các đoàn thể Quốc Gia, và chính khách Quốc Tế cũng chẳng biết tí ǵ về cái tên cầm đầu Mặt Trận Viẹât Minh này, bỗng trở thành vị Chủ Tịch của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời, rồi đứng ra kêu gọi phe Quốc Gia thành lâp Chính Phủ Liên Hiệp. Đúng ngày 2 - 9 - 1945, ngày Nhật kư văn kiện đầu hàng Mỹ. Hồ Chí Minh cũng tuyên bố thành lập nước VIÊT NAM DÂN CHỦ CỘNG H̉A với Hồ Chí Minh - Việt Minh - làm Chủ Tịch nước, Phó Chủ Tịch là Nguyễn Hải Thần - Việt Cách - và nhiều bộ mặt Quốc gia trong thành phần nội các.
Chính phủ Hồ chí Minh, tuy được bộ phận Quân Báo của Mỹ công khai trợ giúp, và xuất hiện với Hồ trên khán đài Ba Đ́nh trong ngày lễ Độc Lập, nhưng chính phủ Hồ Chí Minh lại không được Chính phủ Hoa Kỳ công nhận, mặc dầu Hồ Chí Minh gởi 6 lá quốc thư tới Tổng thống Mỹ Truman, xin được công nhận, nhưng vẫn bị lờ đi.
Chính phủ ngồi chưa nóng chỗ, nhiều bộ trưởng c̣n chưa có trụ sở, và cũng chưa kịp làm ǵ, th́ Việt Minh đă ra đ̣n tuyên truyền rỉ tai rằng : Các vị bộ trưởng người Quốc Gia đều là Việt gian phản quốc. Chỉ có "Hồ Chủ Tịch" mới là người yêu nước chân chính, đă có công đầu trong cuộc giành Độc Lập.
Kể từ đó tên tuổi Hồ chí Minh gắn liền với nền Độc Lập Dân Tộc trong đầu óc chất phác của toàn dân. Những người Quốc Gia Chân Chính th́ bị biến dạng thành Việt Gian tội lỗi. Sau đó chúng tổ chức ám sát, giết những người, mà chúng cho là nguy hiểm, rồi đổ cho phe Quốc Gia. Cuối cùng chính chúng thực hiện các cuộc thanh toán các thành phần Quốc Gia. Việt Minh bảo sao Dân chúng TIN vậy. Đây đúng là một thảm họa cho Dân Tộc chưa từng có.
Cùng lúc đó th́ Anh Quốc và Trung Hoa được Đồng Minh ủy nhiệm vào tước vơ khí Quân đội Nhật tại Đông Dương. Người Anh đă cơng Thực Dân Pháp trở lại Đông Dương từ vĩ tuyến 20 vào Nam. C̣n Trung Hoa Quốc Gia từ vĩ tuyến 20 ra Bắc.
Các đoàn thể Quốc Gia đinh ninh rằng: Người bạn Quốc Dân Đảng Trung Hoa sẽ hậu thuẫn cho ḿnh để tranh thắng với Việt Minh Cộng Sản. Nhưng không, Hồ Chí Minh đă ma lanh, phát động "Tuần Lễ Vàng", thu góp tất cả vàng của dân chúng, đem dâng cho viên tướng Tầu tham nhũng Lư Hán, tổng chỉ huy đạo quân Tầu tại Việt nam. Thế là Lư Hán đứng hẳn về phe Hồ Chí Minh làm lơ với cụ Nguyễn Hải Thần vốn là bạn thân của Thống chế Tưởng Giới Thạch. Hiểu người Tầu không ai hơn được họ Hồ là thế.
Thực Dân Pháp, mau chóng triển khai lực lượng, làm chủ được các đô thị Miền Nam và tỏ dấu quyết tâm tái lạâp thuộc địa trên cả ba nước Đông Dương. Hiệp ước sơ bộ 06-03-1946 chính phủ Liên Hiệp Hồ chí Minh cho Pháp đổ bộ Hải Pḥng, đóng quân khắp Bắc Việt vào tới Quy nhơn và lờ luôn sự hiện diện của quân Pháp tại Nam Bộ. Đồng thời họ Hồ xin được sang Pháp, vận động với chính quyền Pháp cho Việt nam được "Độc lập trong Liên hiệp Pháp", nhưng giới Thực Dân Pháp nhất định không cho dùng chữ "Độc Lập". Cuối cùng Hồ Chí Minh đang đêm 14-9-45 phải đến nhà riêng Bộ trưởng Hải ngoại Pháp Moutet để xin kư vào tạm ước: "Việt Nam trong Liên hiệp Pháp" với điều kiện là quân đội Pháp phải được hiện diện trên toàn cơi Việt nam. C̣n tệ hơn ḥa ước 1884 mà triều đ́nh Huế kư với Thực dân Pháp nữa.
Trong khi Hồ Chí Minh chấp nhận điều kiẹân của Pháp, th́ tại Quốc nội, Cộng sản bắt đầu chiến dịch vu cáo, công khai khủng bố các lănh tụ Quốc gia, phá tan Chính phủ Liên Hiệp c̣n non trẻ, nhằm chận trước những phản ứng chống đối lại chủ trương rước Quân Thực Dân trở lại Việt Nam của Hồ Chí Minh. Ngày 19-05-1946 Việt Minh "trống giục cờ dong" đón rước quân đội viễn chinh Pháp đặt chân lên bến cảng Hải pḥng, để vào Bắc Việt. Thế là Việt Minh hợp tác với Thực Dân trong kế hoạch liên thủ tiêu diệt các lực lượng vũ trang của Việt Nam Quốc Dân Đảng và các khu chiến của Duy Dân.
Khi sức đối kháng của Quốc Gia tan vỡ. Ngày 19-12-1946, Việt Minh Cộng Sản một ḿnh lănh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn dân. Cuộc chiến tranh Việt Pháp kéo dài 9 năm. Một bên là Việt Minh với cuộc "tiêu thổ kháng chiến" của chiến tranh "du kích", hoàn toàn dựa vào tinh thần Dân Tộc của toàn dân. Một bên là Thực Dân Pháp với cố gắng cuối cùng của tham vọng tái lập thuộc địa, nhưng sức đă cùng, lực đă kiệt, nên càng lúc càng lún sâu vào sự trợ giúp của Mỹ. Cuối cùng sự thắng bại của Pháp lại rơi vào sự toan tính chiến lược của Mỹ.
Từ khi Mỹ triển khai mặt trận Phương Đông chống Phát Xít Nhật, th́ Mỹ đă quyết định dùng Cộng Sản Việt Nam để đương đầu với Thực Dân Pháp, tự ḿnh đứng làm người cấp viện cho Pháp, giúp Thực Dân đi hết quăng đường tham vọng tái lập thuộc địa lỗi thời, nhất định bại vong thảm hại; mà trên danh nghĩa, nước Mỹ với nước Pháp vẫn là Đồng Minh Chống Cộng.
Cộng Sản Việtnam lại c̣n là con đẻ của Liên Xô, khi Mỹ dùng Hồ Chí Minh, cũng có nghĩa là một sự đồng thuận mặc nhiên, cho Stalin yên tâm triển khai lực lượng Cộng Sản khắp Thế Giới, đương cự với các nước Thực Dân. Buộc các nước Thực Dân phải dựa hẳn vào Mỹ. Mỹ từ địa vị một nước Đồng Minh với Âu Châu trong cuộc chiến chống Phát Xít, được đặt vào ghế Chủ Soái Quân Lực từ Âu sang Á, trong thời chiến tranh lạnh với Quốc Tế Cộng Sản Liên Xô.
Cũng với chính sách buông lỏng Cộng Sản, Mỹ dễ dàng nắm vững được rằng: Trung Hoa Quốc Gia: tham nhũng, quân phiệt, thế tất phải bại trước sức mạnh đấu tranh "Cách Mạng" quyết liệt đầy xảo quyệt mị dân của Trung Cộng. Vậy lấy ǵ chận được "làn sóng đỏ" dữ dội, sau khi Cộng Sản làm chủ được Hoa Lục, để khỏi tràn xuống vùng Đông Nam Á lạc hậu. Đó chính là sự hiện diện của Cộng Sản Việt Nam, kết hợp với cuộc Chiến Tranh Việt Pháp.
Sự có mặt của Chính phủ Cộng Sản tại Việtnam, đă là hàng rào cản quân bại trận của Thống Chế Tưởng Giới Thạch không có đường chạy sang Việtnam, Sự hiện diện của Việt Cộng và cuộc chiến tranh Việt Pháp đúng là cái nút chặn đà thừa thắng tràn tới của Hồng quân Mao Trạch Đông. Quân Trung Cộng dừng bước tại Ải Nam Quan năm 1949, để quay ngược lên phía bắc tạo ra Chiến Tranh Triều Tiên.
Biết rơ được thế củaTrung Cộng sẽ chiếm trọn Hoa lục, Thực Dân Pháp thấy không thể thắng Việt Minh với đạo quân viễn chinh không chính nghĩa được nữa, đành phải viện cầu tới lá bài Bảo Đại. Ngày 05-06-1948 cựu hoàng Bảo Đại chứng kiến kư kết thỏa ước Vịnh Hạ Long giữa Pháp và Việt Nam trên chiến hạm Duguay-Trouin. Ngày 08-03-1949 Quốc Trưởng Bảo Đại kư với Tổng Thống Pháp Vincent Auriol thỏa ước Elysée. Những ǵ Việt Minh trước kia đ̣i hỏi Pháp không được, nay Pháp phải trao cho Quốc Gia Việt Nam. Việt Nam Độc Lập Thống Nhất toàn vẹn cả ba miền, trong Liên Hiệp Pháp, có quân đội riêng và được thiết lập lấy hệ thống cai trị cho Quốc Gia ḿnh. Lẽ đương nhiên lính Pháp vẫn là lực lượng chính trong cuộc chiến.
Năm 1949, Trung Cộng toàn thắng tại Hoa Lục, th́ năm 1950 Hồ Chí Minh cùng với Mao Trạch Đông bí mật đi Moscow gặp trùm Quốc Tế Cộng Sản Stalin, để nhận mệnh lệnh. C̣n trước đó họ Hồ chỉ một ḿnh nhân danh Quốc Tế Cộng Sản tự ra lệnh cho Đảng. Hồ bị Stalin hạch hỏi là tại sao dám tự chuyên giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương 1945 và không bắt tay ngay vào việc“Cải cách ruộng đất?” Dù Hồ có lư do chính đáng là phải dấu Đảng trong cái vỏ Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác để đoàn kết toàn dân chống Pháp, và cuộc kháng chiến quá gay go, nên chưa thể tiến hành được cải cách ruộng đất. Stalin vẫn không vừa ḷng, cho Hồ là kẻ không đáng tin.
Măi đến lúc đó, ngày 30-01-1950, Liên Xô mới chính thức thừa nhận Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, nhưng Stalin nhất định không tiếp xử với Hồ trong tư cách Quốc Trưởng một nước. Chính ở dịp gặp này, Stalin đă đặt vai vế Mao Trạch Đông lên trên Hồ Chí Minh, nên sau đó Cộng Sản Việt Nam mới phải tuyệt đối nghe lệnh Trung Cộng trong phong trào Cải Cách Ruộng Đất.
Hồ chí Minh về nước, buộc phải triệu tập đại hội đảng kỳ 2 vào tháng 12 năm 1951, chính thức cho đảng công khai xuất hiện và nắm quyền với danh xưng là Đảng Lao Động Việt Nam, đồng thời mời cố vấn Tầu sang chỉ đạo cho cuộc phóng tay phát động Phong Trào Cải Cách Ruộng Đất dă man tàn bạo vô nhân đạo, đập chết không biết bao người Việt Nam ngây thơ tin vào Hồ. Cũng từ đó, quyền hành từ tay Hồ Chí Minh chuyển dần sang tay Trường Chinh Tổng Bí Thư Đảng.
Cuộc chiến Triều Tiên 1950 - 52 , là một cuộc đụng độ giữa chiến tranh "Biển người" của chí nguyện quân Trung Cộng, với chiến tranh "Kỹ thuật" của Mỹ. Kết quả kỹ thuật đă bẻ gẫy ư chí chiến đấu của biển người. Tuy ở thế thắng gần như tuyệt đối, Mỹ đă chọn giải pháp chia đôi xứ Cao Ly năm 1952, như đă chia đôi nước Đức 1945 cho Liên Xô một nửa, và rồi sẽ đến lượt Việt Nam 1954 sau đó, nhằm tạo ra thế "quân b́nh cán cân lực lượng" trong chiến tranh lạnh.
Chiến tranh Cao Ly đă cho Trung Cộng một bài học đích đáng là không thể chọi thẳng bằng quân sự với Mỹ được, nên khi đem quân vào Việt Nam, Trung Cộng không dám ngang tàng ra mặt đánh Pháp, sợ Mỹ lấy cớ nhảy vào tiêu diệt, đành núp sau lưng Việt Minh, giữ vai tṛ cố vấn thực quyền, c̣n danh nghĩa phải để cho Việt Minh làm chủ.
Cuối cuộc chiến Việt Pháp, người Pháp đă mắc sai lầm chí tử, v́ không hiểu nổi "CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU CỦA MỸ". Đối với Mỹ th́ cuộc chiến Việt Pháp, chỉ là giai đoạn " Mượn tay Cộng Sản tiêu diệt Thực Dân" chứ không phải "Nhờ tay Thực Dân đánh tan Cộng Sản". Thế nên khi người Pháp bày ra "cuộc chơi Điện Biên Phủ”, tưởng là sẽ nhờ được kỹ thuật của Mỹ tiêu diệt biển người, để hủy hoàn toàn chủ lực của quân Việt Minh. Nhưng Mỹ không đáp ứng, khiến cho chủ lực của Quân Đội Viễn Chinh Pháp bị bao vây, buộc Pháp phải đầu hàng tại Điện Biên Phủ và chấp nhận chia đôi Việt Nam, đúng như dự kiến của Mỹ.
Quốc trưởng Bảo Đại, trao chức Thủ Tướng toàn quyền cho ông Ngô Đ́nh Diệm 07-07-1954, một lá bài của Mỹ, để nhận lấy kết quả của hội nghị Quốc tế Genève chia đôi Việt Nam ngày 20-07-1954. Miền Bắc rơi vào tay Quốc Tế Cộng Sản, mà đại diện là chính quyền Hồ chí Minh. Miền Nam dưới sự bảo trợ của Mỹ, do chính quyền Ngô Đ́nh Diệm quản lư, c̣n người Pháp cuốn cờ về nước, chấm dứt Thời Đại Thực Dân tại Đông Dương và trên toàn Thế Giới.
THẾ NƯỚC THỜI NAM QUỐC, BẮC CỘNG.
Hiệp định Genève, ngày 20 tháng 07 năm 1954 chia đôi Việt nam, lấy ḍng sông Bến Hải nằm ở vĩ tuyến 17 làm ranh giới: Miền Bắc thuộc Cộng Sản với danh xưng là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Miền Nam thuộc Tự do với danh xưng là Quốc Gia Việt Nam, sau được đổi thành Việt Nam Cộng Ḥa.
Nhưng thực tế th́ Thế Nước được đặt nằm trong tay hai thế lực Quốc tế đối đầu nhau, dưới danh nghĩa hết sức lớn lao, lư tưởng, thần thánh cuốn hút là Ư THỨC HỆ, nhằm tranh nhau đặt lại giá trị tư tưởng, định lại quan hệ xă hội, và sắp lại trật tự thế giới. Tuy vậy với người Dân Việt Nam hiền lành th́ phe nào khéo léo khoác được chiếc áo Dân Tộc lên ḿnh, là phe đó chiếm được ḷng Dân.
Chính v́ vậy mà ba yếu tố THẾ NƯỚC, L̉NG DÂN, DANH NGHĨA đă chi phối toàn thể cục diện Việt Nam, chồng chéo lên nhau, đan kết với nhau, tạo thành một trận "cuồng phong mờ mịt", khiến cho không mấy ai c̣n nhận ra phương hướng để đưa Dân Chúng thoát khỏi cảnh mê vong, thù hận, tương tàn, do ư chí của các thế lực Quốc Tế định đoạt. Trái lại những người có quyền thế lại ra sức đào sâu thêm hố ngăn cách, nhằm cũng cố địa vị cầm quyền cho thêm vững, để đáp ứng những yêu cầu của các người chủ từ xa.
Hai thế lực Quốc Tế đối đầu nhau công khai là Tư Bản và Cộng Sản. Nhưng trong Quốc Tế Tư Bản, c̣n có sự khác biệt, nhiều khi xung đột giữa chính sách của các cường quốc Anh, Pháp, Mỹ, mà đều ảnh hưởng khốc liệt đến t́nh thế Việt nam. Quốc Tế Cộng Sản tuy đứng đầu là anh cả Liên Xô, đến anh hai Trung Quốc, rồi mới tới em nhỏ Việt Nam, nhưng tinh thần Quốc Gia, quyền lợi đất nước và tham vọng cá nhân dần dần thắng thế tư tưởng Quốc Tế Vô Sản Đại Đồng, tất cả những thứ đó âm thầm, hoặc bộc phát, đều đă tác động trên chính trường, chiến trường Việt Nam, tạo thành THẾ NƯỚC Việt Nam không tiền khoáng hậu của Thế Giới ở thế kỷ 20.
Chế độ Cộng Sản độc tài khủng bố trùm phủ lên số phận dân chúng Miền Bắc. Cuộc cải cách ruộng đất do Trung Cộng chỉ đạo, và Đảng Lao Động Việt Nam thi hành, khởi đi từ trong kháng chiến, lại đă được trải rộng khắp nơi sau khi Việt Cộng làm chủ đất Bắc. Ở nông thôn vẫn giữ cái tên Cải Cách Ruộng Đất hắc ám, c̣n ở đô thị th́ có tên mới nhẹ nhàng hơn là Cải Tạo Công Thương Nghiệp. Tựu trung th́ cũng là thực hiện nguyên lư cơ bản của Cộng Đảng là KHỦNG BỐ để THỐNG TRỊ một bầy người, buộc phải mất hẳn tính người, mới đúng mục đích của chủ nghĩa Duy Vật Cộng Sản.
Chính v́ vậy, mà Cộng Sản thường xuyên tạo ra những đợt “Cải Tạo” nhất là về mặt tư tưởng, gọi là "tẩy năo", nhằm khảo đả tinh thần Con Người, buộc đầu óc Con Người trở thành thứ "giấy trắng" chỉ để ghi những mệnh lệnh của Đảng, chỉ để nhớ có công ơn Đảng và Lănh Tụ, cũng như sức mạnh tuyệt đối của Quốc Tế Cộng Sản. Ngoài ra đều là kẻ thù phải bị tiêu diệt. Những kẻ càng được tẩy rửa sạch, càng có vị thế cao ở trong Đảng. Nhất là những đầu óc tinh ma, bề ngoài càng chứng tỏ được ḿnh thành khẩn, bên trong thấu hiểu được nhu cầu của lănh tụ, để trổ tài "nịnh bợ", th́ càng mau leo lên hàng lănh đạo. Rút cục quyền hành thực sự sớm muộn ǵ cũng rơi vào tay những kẻ tinh ma quỷ quyệt.
Cuộc đại khủng bố tư tưởng nhằm vào người trí thức Việt Nam, theo kháng chiến, nhưng không cùng lư tưởng với người Cộng Sản, đă khai diễn khi kháng chiến thành công, th́ họ liền bị lôi ra làm thịt. Đây cũng là bài học mà Trung Cộng đă dậy cho Việt Cộng. “Phải moi chúng ra khỏi nơi trú ẩn, bằng phong trào "trăm hoa đua nở", khuyến khích, tạo điều kiện cho những tư tưởng "phản động" đồng loạt xuất hiện, để một lần tiêu diệt cho xong. Đó là chủ trương của vụ án NHÂN VĂN GIAI PHẨM tại Miền Bắc. Kết quả là Văn Nghệ Sĩ chân chính bị quét sạch, để lại trên văn đàn Miền Bắc chỉ c̣n toàn bọn Văn Nô.
Kể từ đó Đảng Cộng Sản Việt Nam được xây dựng, củng cố và phát triền bằng một bầy NÔ LỆ, đẩy đoàn xe đi trên "đường ray" do một lănh tụ duy nhất cầm lái. Lănh tụ ấy lại là lănh tụ vĩ đại Quốc tế. Sau khi Stalin chết 1953, Malenkov lên thay, nhưng chưa ngồi ấm chỗ th́ Khrushchev đă đoạt mất ngôi. Đại hội 20 của đảng Cộng sản Liên Xô 1956, Khrushchev đọc bản báo cáo chính trị lên án nạn sùng bái cá nhân. Hạ bệ thần tượng Stalin, làm cho toàn thể Quốc Tế Cộng Sản lao đao mất hướng. Lập tức Mao Trạch Đông công khai lên tiếng chống lại "bọn xét lại Khrushchev.” để tự khẳng định tư thế người cầm lái vĩ đại phong trào Cộng Sản Thế Giới.
Lẽ đương nhiên Đảng Cộng Sản Việt Nam, phải dấu biến bản cáo trạng lên án Stalin đi, để giữ thế lănh đạo cho Hồ Chí Minh. Thế là vô h́nh trung Cộng Đảng Việt Nam bị đặt vào thế phải nhận Mao Trạch Đông là người cầm lái vĩ đại, tuy vẫn không dám lên án bọn xét lại Liên Xô. Cộng Đảng Việt Nam một lượt phải "làm tôi" hai chúa. Nhưng bề ǵ th́ cánh thân Tầu vẫn lợi thế hơn, v́ Việt Nam đang thực hiện cuộc cải cách theo kiểu Tầu và được cán bộ Tầu trực tiếp chỉ đạo.
Cuộc cải cách ruộng đất, vừa là cơ hội cho Cộng Đảng Việt Nam củng cố, xây dựng đảng, vừa để tự khẳng định vai tṛ lănh đạo, vừa để giới thiệu bản chất tàn bạo trước quốc dân, vừa nói lên được thật đầy đủ thế nào là nguyên tắc lănh đạo của Cộng sản: “KHỦNG BỐ, KHỦNG BỐ ĐẠI KHỦNG BỐ. THÀNH CÔNG, THÀNH CÔNG ĐẠI THÀNH CÔNG”. Nhưng đó chỉ là sự thành công đối với việc “Làm Dân Sợ để Trị Dân”, chứ không phải thành công trong việc “Làm Dân Giầu Nước Mạnh”. Chính v́ vậy, mà dù ḥa b́nh đă trở lại trên đất Bắc, nước vẫn nghèo dân vẫn đói.
Riêng với Cộng Đảng tuy lớn mạnh, nhưng lại rơi vào t́nh thế của "Con rắn tự nuốt cái đuôi ḿnh". Càng đẩy mạnh phong trào phát động đấu tranh t́m "kẻ thù dấu mặt" th́ con rắn Cộng Sàn càng nuốt sâu thêm cái đuôi của nó vào bụng. Đến độ dù ngu dốt tới mấy cũng phải nhận ra rằng: Kết cục, con rắn đó phải chết. Hồ chí Minh đành đứng ra xin lỗi đồng bào, đồng chí để kết thúc màn Cải Cách Ruộng Đất kiểu Tầu, đồng thời Tổâng Bí Thư Đảng, Trường Chinh “con vật tế thần” mất chức. Ngưởi được lên thay thế là Lê Duẩn nguyên bí thư xứ ủy Nam Bộ, nhằm thực hiện cuộc chiến tranh tiến đánh Miền nam.
Việt Cộng từ đó bị đặt vào thế "đu giây" giữa hai quan thầy Nga, Tầu. Sau khi Brejnev hất được Khrushchev khỏi chức Tổng Bí Thư Cọâng Sản Liên Xô để lên cầm lái, th́ phong trào xét lại hiện đại bị thanh trừng, mặc dầu cùng hướng với Mao Trạch Đông, nhưng lúc này Brejnev không c̣n ở thế bề trên của Mao trong Quốc Tế Cộng Sản như Stalin nữa. Do đó Thế giới Cộng Sản có hai kẻ cầm lái, tuy danh nghĩa th́ cùng tiến lên Cộng Sản Chủ Nghĩa, nhưng trong thực tế th́ hai đầu tầu chạy hai hướng nghịch nhau, mà lại cùng nhau thúc đẩy Việt Cộng thực hiện cuốc chiến tranh xâm chiếm Miền Nam. Đấy mới là điều "bí hiểm" khôn lường của tṛ dùng máu Dân Việt mưu lợi riêng của các thế lực Quốc Tế đen tối.
Liên Xô với dụng tâm dùng cuộc chiến Việt Nam, để kéo lực lượng quân sự Mỹ vào Á Châu đụng độ với Tầu. Buộc Tầu phải quay về thần phục với Nga như xưa. Tầu th́ quyết đẩy cuộc chiến tranh lên tầm mức Quốc Tế, để phá vỡ cuộc sống chung "giả vờ" giữa Nga và Mỹ, đă tạo được từ thời Khrushchev nhân nhượng Kennedy. Nếu Nga không dám đụng đầu với Mỹ, th́ Tầu sẽ biến nó thành cơ hội trực tiếp thương lượng với Mỹ về một cuộc sống chung Mỹ Tầu mới.
Như vậy kẻ đắc lợi nhất trong cục diện này, hiển nhiên phải là Mỹ. Có nghĩa là cả Nga lẫn Tầu, đều v́ quyền lợi riêng của họ, đă đẩy cuộc chiến Việt Nam vào đúng nhu cầu chiến lược Toàn cầu của Mỹ. Chiến lược đó tiến hành theo ba thời kỳ: “DÙNG ĐỒNG MINH DIỆT PHÁT XÍT”. “DÙNG CỘNG SẢN DIỆT THỰC DÂN”. “DÙNG CỘNG SẢN DIỆT CỘNG SẢN”. Phát xít, Thực dân đă diệt gọn. Vậy cuộc chiến Việt nam do Nga Tầu đẩy đưa chèo kéo nhằm "đá gị lái" nhau, đúng là thời điểm phát động công đoạn chót trong chiến lược toàn cầu của Mỹ là: “DÙNG CỘNG SẢN DIỆT CỘNG SẢN” vậy.
Chỉ tội nghiệp cho Dân Tộc và Dân Chúng Việt Nam đă bị làm vật hy sinh cho những âm mưu diệt nhau giữa các thế lực quốc tế. Và buồn thương cho những lănh tụ chính trị không nh́n rơ cội nguồn của vấn đề, đă cố t́nh cản đà đi tới của thời cuộc, mà bị vong mạng, trong đó có ba anh em ông Ngô Đ́nh Diệm, Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa. Hai anh em ông Kennedy, Tổng Thống Hoa Kỳ và người chót hết là ông Hồ Chí Minh, chủ tịch Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Chính ông Hồ đă gởi thư qua thủ tướng Nhật xin nói chuyện ḥa b́nh với Tổng Thống Mỹ, Johnson, v́ vậy mà năm 1969 ông bị cô lập, rồi chết luôn.
Về phía Mièân Nam, với một triệu người rời bỏ quê cha đất tổ, theo chân Quốc Gia bỏ rơi Cộng Sản để vào Nam t́m cuộc sống Tự Do. Đây là dịp để cho biết thế nào là sự viện trợ lớn lao của Mỹ. Đây là bước đầu hiện diện chính thức của thế lực Hoa Kỳ tại Việt Nam, mở ra trang sử bi thảm mới. Thực Dân Pháp tuy hết thời, thất thế, thảm bại rút quân về nước, phải trao chính quyền lại cho Quốc Gia Việt Nam, mới được sự bảo trợ tinh thần của Mỹ. Nhưng ảnh hưởng của Pháp vẫn c̣n rất vững trong Quân Đội, Công An Cảnh Sát và các lực lượng vũ trang thuộc các giáo phái. Có nghĩa chính phủ Ngô Đ́nh Diệm chỉ có chính quyền, mà không có một "tấc sắt" nào trong tay. Hơn nữa Pháp lại c̣n có Quốc Trưởng Bảo Đại, kẻ có quyền cất chức Thủ Tướng Diệm bất cứ lúc nào.
Cũng may là Quốc Trưởng Bảo Đại, không xử dụng quyền đó với ông Diệm. dù phe quân nhân thân Pháp đă nhiều lần yêu cầu. C̣n Pháp th́ v́ áp lực của Mỹ, nên đă không dám ra mặt chống phá ông Diệm. Nhờ thế chính phủ Ngô Đ́nh Diệm dần dần, đẩy được tướng Nguyễn Văn Hinh tổng tham mưu trưởng quân đội ra khỏi nước. Như rắn mất đầu, tuy ông Diệm chưa nắm trọn được quân lực, nhưng cũng có nhiều tướng tá ngả về phía ông.
Việc lấy lại quyền kiểm soát Công An Cảnh sát khỏi tay lực lượng B́nh Xuyên mới thực khó khăn. V́ nếu chỉ có B́nh Xuyên kiểm soát Saig̣n không th́ chẳng nói làm ǵ. Đàng này đụng vào B́nh Xuyên là đụng vào thế Liên Minh các lực lượng vũ trang của người Miềân Nam, giữa ba giáo phái Cao Đài, Ḥa Hảo, B́nh Xuyên, vốn là cái kiềng ba chân của chế độ Bảo Đại. Ở những lực lượng đó, tinh thần địa phương và kỳ thị tôn giáo c̣n đầy đặc năïng nề. Nhất lại nữa, ông Diệm là người Miền Trung theo Thiên Chúa Giáo, và được các đoàn thể chính trị người Bắc, người Trung hậu thuẫn.
Thế tất thắng của ông Diệm không nằm ở phía quần chúng Việt Nam, mà nằm ở Thế Quốc Tế. Nhờ vào Thế Mỹ, ông Diệm đă diệt nổi B́nh Xuyên, phá tan các lực lượng của Cao Đài, Ḥa Hảo. Chấm dứt ảnh hưởng của Pháp trong quân đội. Tạo lập chính quyền mạnh, truất phế Bảo Đại, Tổ chức trưng càâu dân ư để đưa ông lên ngôi vị Tổng thống của một chế độ thực chất là GIA TRƯỞNG KHOÁC ÁO DÂN CHỦ.
Chính v́ bản chất của người lănh đạo Miền Nam c̣n đậm đặc đầu óc PHONG KIẾN, nên Miền Nam bỏ lỡ cơ hội thật quư hiếm, để xây dựng một chế độ DÂN CHỦ NGHIÊM CHỈNH, đủ sức, đủ tầm cỡ đương đầu với thế lực CỘNG SẢN ĐỘC TÀI. Hơn thế nữa, Mỹ tuy trên danh nghĩa là thế lực hậu thuẫn cho chế độ Mièân Nam Chống Cộng, nhưng v́ mục tiêu dùng Việt Nam làm quân cờ chuyển động cho chiến lược Toàn cầu của Mỹ, nên không coi việc giúp cho Dân Chúng Miền Nam xây dựng chế độ Dân Chủ thực sự, để đủ sức chống Cộng, diệt Cộng cho sự an nguy của Việt nam là chính. Mà quan trọng là chỉ cần giúp cho một chính quyền làm công việc Chống Cộng, v́ chiến lược của Mỹ, tiêu biểu tập trung vào một cá nhân Ngô Đ́nh Diệm. Phải công nhận rằng: Mỹ cũng nhiều lần khuyến cáo chính quyền Miền Nam phải thực thi Dân Chủ, nhưng đó cũng là việc làm cho phải phép mà thôi.
Thế là chế độ Miền Nam, càng ngày càng lún sâu vào t́nh trạng độc tài. Cả chế độ, từ Quân Đội tới Công An Cảnh Sát đều bị người lănh đạo coi như gia nhân của ḿnh, tùy tiện muốn sai xử cách nào cũng được. Tất cả trở thành phương tiện củng cố quyền lực cho một gia đ́nh thống trị. T́nh thế càng khó, dân chúng càng bất măn. Giới trí thức có lên tiếng phản đối th́ đều bị gán cho tội làm lợi cho Cộng sản. Bất cứ sai trái nào của chính quyền các cấp cũng đều dùng chiêu bài Chống Cộâng để lấp liếm đi hết. Cuối cùng dẫn tới điểm tệ hại nhất là bất kể đúng, sai, phải, trái, người nào không đồng ư, hay không đẹp ư chính quyền, đều bị đẩy về phía Cộng Sản hết. Mất Miền Nam chính là do lỗi của nhà Cầm Quyền đẩy Dân vào tay Cộng Sản đấy.
THẾ NƯỚC THỜI CHIẾN TRANH VIỆT NAM.
Chính đường lối xa Dân của chế độ Miền Nam, đă làm cho tư thế Cộng Sản tại đây, vốn không đáng kể, trở thành ghê gớm trước dư luận trong và ngoài nước. Đây là sự hấp dẫn cho tham vọng của Hồ Chí Minh tiến chiếm Miên Nam. Thực ra th́ theo hiệp định Genève chia đôi Việtnam, có điều khoản sau 2 năm, hai miền Việtnam hiệp thương tiến tới thống nhất bằng bầu cử tự do. Nhưng văn kiện Quốc Tế đó Mỹ không kư tên vào, nên Mỹ đâu có quan tâm tới viẹâc thực hiện. C̣n chế độ Ngô đ́nh Diệm th́ cũng không kư tên trong văn kiện chia đôi đất nước, đời nào chịu hiệp thương với chính phủ Hồ Chí Minh. Bởi vậy Hồ Chí Minh muốn chuộc tội chia đôi đất nước th́ phải đánh mà lấy.
Như vậy việc cài cán bộ lại, đưa người vào tổ chức du kích chiến tại Miền Nam, là một việc làm chẳng những trong sách lược của Cộng Sản Quốc Tế, được thúc đẩy bởi Liên Xô với một thâm ư khác, do Trung quốc với một mưu đồ khác, rồi hợp với Hồ Chí Minh với một hướng nh́n khác, nhưng tất cả đều rớt gọn vào trong thế chiến lược Toàn Cầu của Mỹ hết. Đó là Hồ chí Minh phải "bắùc cầu" cho quân Mỹ đổ vào Việt nam, để thực hiện công đoạn chót của Chiến lược Toàn cầu của Mỹ là "DÙNG CỘNG DIỆT CỘNG".
Nhưng riêng có một ông Ngô Đ́nh Diệm, Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa của Miền Nam, là v́ mặc cảm sợ mang tiếng làm tai sai "bán nước" cho Mỹ, nên đă quyết liệt cưỡng lại việc "Mỹ hóa chiến tranh Việt nam", mặc dù chính ông phải biết rơ hơn ai hết, sự có mặt và sự tồn tại chính quyền của ông đều nhờ vào thế và tiền viện trợ của Mỹ. Có lẽ ông quá thành thật ngây thơ để tin rằng: Mỹ giúp ông là v́ Lư Tưởng Tự Do Chống Cộng của ông với Mỹ là một. Để không kịp hiểu rơ: Nhiệm vụ của Hồ Chí Minh là phải tạo ra chiến tranh tại Miền Nam, để Ngô Đ́nh Diệm có cớ chính đáng yêu cầu Chính quyền Mỹ đem quân vào tham chiến cùng chống xâm lăng Cộng Sản.
Thế là tự tay anh em ông Tổng Thống Diệm đă phá hủy vai tṛ Chiến Lược của ḿnh, để nhận lấy những cái chết bi thảm. Sau một cuộc đấu tranh quần chúng đ̣i Tự do B́nh đẳng Tôn giáo, đă khắc họa đậm nét "độc tài ngoan cố gia đ́nh trị", mà dư luận dân chúng Việt Nam và Thế giới đă hiểu về ông và gia đ́nh của ông.
Những người đảo chính ông Diệm, và các cuộc cướp quyền như cơm bửa sau đó, đă phá nát mọi tiềm lực chính trị. mọi uy tín của Miền Nam, và chỉ để tạo ra các thủ lănh và chính quyền yếu đuối thiển cận không đủ tầm cỡ, tài đức, đảm lược để giành lấy quyền Tổng Tư Lệnh của cuộc chiến tranh Việt Mỹ Chống Cộng. Tất cả quyền quyết định chiến tranh tại Việtnam, đều nằm gọn trong tay Tổng Thống Mỹ.
Thậm chí đến việc hợp t́nh, hợp lư, hợp pháp là yêu cầu nước Mỹ, kư với Việt Nam Cộng Ḥa một "Hiệp ước An ninh song phương", cũng chẳng xuất hiện ở trong đầu những người được gọi là lănh đạo Miền Nam tiếp đó. Chính v́ không có Hiệp Ước, nên Mỹ nhẹ nhàng phủi tay bàn giao Miền Nam cho Việt Cộng, mà không bị luật pháp Mỹ ràng buộc. Vấn đề c̣n lại chỉ là danh dự của nước Mỹ, nhưng khi Liên Xô sụp đổ, Trung Cộng bám đuôi Mỹ...th́ món nợ danh dự đó Mỹ đă trả gần xong, họa chăng chỉ c̣n danh tiếng của các anh hùng thời chiến, sự hấp dẫn của một binh lực trăm trận trăm thắng đối với thanh miên Mỹ, khi nước Mỹ cần tới họ để bảo vệ Tổ Quốc, bảo vệ Tự Do, bảo vệ tư thế của Mỹ trên trường Thế giới sau này sẽ khó mà lấy lại được.
1972, năm mà Chủ Tịch Cộng Đảng Trung Hoa, Mao Trạch Đông nồng hậu đón tiếp, bắt tay thắm thiết TT Hoa Kỳ Nixon tại Bắùc Kinh, cũng là năm mà giai đoạn chót của chiến lược toàn cầu Hoa Kỳ chính thức tŕnh làng: "Dùng Cộng Diệt Cộng". Cuộc chiến Việt Nam song nhiệm vụ. Quân viễn chinh Mỹ thu dọn hành trang về với gia đ́nh. Ḥa đàm Paris về Việtnam phải kết thúc. Nhưng với trách nhiệm tinh thần của ḿnh, Nixon không muốn thành một vị Tổng Thống Mỹ đầu tiên mang nhục "bỏ chạy". Nên ông đă cố gắng đề ra chủ trương "Việt hóa chiến tranh". Nghĩa là lính Việt thay lính Mỹ, tự cầm súng một ḿnh đánh Việt Cộng.
Nhưng đă muộn quá rồi, nếu việc này muốn thành công th́ chính quyền Miền Nam phải được chuẩn bị từ thời TT Johnson khuyến cáo TT Nguyễn văn Thiệu, là phải thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, ngay khi Mỹ ào ạt đổ quân vào Miền Nam. Tức là kế hoạch “nắm nông dân làm giầu thôn làng’’. Nhưng tướng Thiệu đă không hiểu ư của Johnson, chỉ chạy theo súng đạn, mà quên dân lành. Đến khi bị Nixon thúc bách, ông Thiệu mới chịu bắt tay vào thực hiện chính sách "Người cày có ruộng". th́ "Ruộng không có người cày" nữa.
Chính v́ biết được t́nh thế không thể cứu văn nổi, những đầu óc thực tiễn của Mỹ đă chọn con đường tủi nhục, là bỏ rơi Đồng Minh, dập tắt chủ trương "Việt hóa Chiến tranh" của TT Nixon, đẩy ông vào chỗ phải ôm hận rời ṭa Bạch Ốc. Nhớ lại số phận của TT Kennedy chỉ v́ chống lại chiến lược "Mỹ hóa chiến tranh Việt nam", mà đă bị nằm trên xe tang rời ṭa Bạch ốc. Thật ghê gớm cho sự quyết định của Chiến Lược Mỹ.
Thế nhưng lần này, tuy Mỹ đă chọn con đường cùng cực xấu hổ và tàn nhẫn, mà kết quả th́ thắng lợi vô cùng to lớn ngoài sức tưởng tượng của loài người. Việc Mỹ bỏ chạy vô điều kiện tại Việtnam, đối với Liên Xô là một dấu hiệu khẳng định: "Từ nay Mỹ hết c̣n dám can thiệp vào những cuộc chiến tranh ở hải ngoại nữa". Liên Xô có thể tự cứu sự suy sụp kinh tế nội địa bằng cách, phát động các cuộc chiến tranh, nhằm mở rộng ảnh hưởng Đế Quốc Đỏ khắp năm châu. Tiến gấp tới việc hoàn toàn nhuộm đỏ thế giới nhược tiểu, tiến lên cô lập các nước Tư bản.
Điều này đă chứng minh bằng các cuộc chiến Liên Xô đem quân vào Afghanistan 1979, Ethiopa thực hiện chính quyền Xă Hội Chủ Nghĩa. Thuê Cuba đem quân giúp Angola giành chính quyền. và theo đuổi các cuộc chiến tranh tại Mojambique, giúp chính quyền Cộng sản Nicaragua chống với đạo quân du kích Contras ở Trung Mỹ. Thuê Việt Cộng đánh Khmer Đỏ đàn em của Trung Cộng tại xứ Chùa Tháp. Có thể nói bao nhiêu của cải, mà Cộng Sản Liên Xô ḅn góp được của dân chúng, đều đổ vào các cuộc chiến tranh ngoại quốc hết. Đến ngay những chương tŕnh chạy đua vũ trang với Mỹ cũng đành bỏ dở. Mà cuộc chạy đua vũ trang mới là mục đích hơn thua giữa Mỹ Nga. V́ cốt lơi của cuộc chay đua đó, chỉ nhằm khảo đả về mặt kinh tế tài chánh, xem vốn liếng của bên nào nhiều hơn, dài hơi hơn. Liên Xô đă đứt hơi trước khí thế của Mỹ tiếân hành "Chiến Tranh các V́ Sao".
Trở lại việc Mỹ bỏ Việt Nam. Đây phải nói là một cuộc chuẩn bị chu đáo, mới nh́n th́ tưởng rằng hấp tấp thiếu kế hoạch, nhưng nghĩ thế là lầm to. Phải nhận đây là một tính toán của những bộ óc hết sức ghê gớm, dù nó chỉ chính thức được đưa ra thi hành sau khi TT Nixon rời ṭa Bạch ốc. Nhưng nó đă được dự trù từ sớm, từ ngay sau khi TT Johnson đẩy cuộc chiến Việt nam tới mức cần thiết, các chiến lược gia Hoa Kỳ đă nghĩ tới việc trong trường hợp nào, th́ sẽ phải rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam theo cách nào đó, để cho Chiến lược "dùng Cộng diệt Cộng" có hiệu quả nhất. Có nghĩa là dùng Trung Cộng chống Liên Xô hữu hiệu nhất.
Những nhân tuyển thật thích hợp cho giải pháp bỏ chạy khỏi Việt Nam, về phía Mỹ là TT Gerald Ford từ ghế Chủ tịch Hạ viện bước ngang lên ghế PhóTổng thống, rồi Tổng thống không qua bầu cử, và người điều khiển cuộc bỏ chạy có toàn quyền là Ngoại Trưởng Kissinger. Về phía Việt Nam là TT Thiệu, một vị tướng, nắm quyền tổng tư lệnh, nên có thật đầy đủ điều kiện để tự ra lệnh rút quân khỏi Cao Nguyên, chặt đôi Miền Nam, đẩy toàn thể Quân Lực Vùng I vào thế cô lập. Buộc tướng lănh binh sĩ tại đây, dù tinh thần cao cách mấy cũng không dám cưỡng lại với lệnh rút quân ban ra từ TT Thiệu nữa.
Thế là một triệu binh sĩ gan dạ kiêu hùng, từng chiến thắng lẫy lừng trước quân địch, đă bị buộc phải bỏ chạy khi chưa được giao chiến. Được đánh, v́ thiếu lương, thiếu đạn, mà bị thua, th́ tinh thần chưa vỡ. Không giáp mặt địch, mà phải dắt d́u vợ con, đồng bào bỏ chạy, mới thật là thê thảm. Cảnh dẫm đạp lên nhau, tranh cướp lên tầu, miếng ăn, ngụm nước, đúng là "quân hồi vô phèng". Quân càng đông lúc vỡ càng nhiều nguy hiểm.
“Tiến tới là hùng binh danh tướng. Bỏ chạy là bại tướng tàn quân”, đó là nguyên khí của quân lực thời nào cũng vậy. Khá khen cho tướng Nguyễn Văn Thiệu đă thực hiện trọn vẹn được kế hoạch "không bị đánh, mà vẫn bị thua", của chiến lược lui binh theo lệnh Mỹ! Một vị tướng nữa cũng có công trong việc bàn giao Miền Nam cho Việt Cộng vào ngày 30-04-1975, đó là tướng Dương văn Minh!
Sức mạnh của Miền Nam không phải là Chính Trị, Kinh Tế, mà hoàn toàn dựa vào Quân Sự. Quân lực đă vỡ th́ chắc chẳn là bị thua, nhưng làm sao buộc được những đơn vị bảo vệ thủ đô c̣n đông sức, vững ngũ, buông súng, ấy mới là vấn đề. Không thể tin vào việc một vị Tổng Thống Dân Sự lại có thể ra lệnh cho quân đội nhà nghề thiện chiến, buông súng đầu hàng trước khi chưa đọ sức, bởi thế việc ra lệnh có hiệu lực nhất trong hoàn cảnh đo,ù phải nhờ tới một vị tướng đă từng chiến thắng. Chính v́ vậy mà TT Hương phải trao chức Tổng Thống lại cho Đại Tướng Dương văn Minh để làm công việc ra lệnh cho quân đội buông súng trước kẻ thù!
Thực tế pháp lư th́ việc ông Trần Văn Hương nhường chức Tổng Thống cho một nhân vật ngoài dự trù của Hiến Pháp là một việc làm vi hiến, nhưng đă được đại đa số Nghị Sĩ Dân Biểu lưỡng viện biểu quyết tán đồng, th́ trên Tinh Thần Dân Chủ, điều đó mặc nhiên được công nhận, v́ đây là quyết nghị do đại biểu chính thức của toàn dân rồi. nên việc ông Dương văn Minh “bàn giao”, cũng có nghĩa là chế độ Việt Nam Cộng Ḥa đă tự ư nhường Chính Quyền lại cho đối phương. Chính v́ thế, mà dù trong số người di tản có cựu Tổng Thống và đa số đại biểu Quốc hội, mà không c̣n tư cách pháp nhân để thành lập chính phủ lưu vong trước công luận nữa. Đây là sự kết thúc hoàn toàn của một chế độ, kết thúc luôn t́nh trạng chia đôi Việt Nam. Kể từ đó mọi vấn đề thuộc về Việt Nam phải được giải quyết trên toàn lănh thổ với Toàn Dân Việt Nam không phân biệt Nam, Bắc.
THẾ NƯỚC THỜI THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
Chính Việt Cộng và Thế Giới Cộng Sản cũng không dám tin rằng, họ lại có thể chiếm được Miền Nam một cách nhẹ nhàng như thế, cho nên Việt Cộng đă phải cho dừng quân tại Ninh Ḥa để chờ động tĩnh, dù trong lúc đó Nha Trang và các tỉnh như Đà Lạt đă hoàn toàn bỏ trống. Các đạo quân tại vùng III cũng dậm chân ngoài Saig̣n, chờ cho chuyến trực thăng di tản cuối cùng rời nóc ṭa Đại sứ Hoa kỳ tại Saigon, và lời kêu gọi binh sĩ Việt Nam Cộng Ḥa buông súng, chờ bàn giao của tướng Dương Văn Minh, mới dám ra lệnh cho bộ đội của họ vào Saigon.
Phải nhận một sự thực là chính Mỹ đă tạo ra cảnh bàn giao thê thảm, bàn giao trọn gói độc địa, kiểu bắt Việt Cộng phải căng bụng ra mà muốt "Con Voi Thống Nhất". Nuốt luôn mối "huynh đệ tương tàn" giữa Nga Tầu không thuốc chữa, rồi lại bồi thêm viên thuốc độc cuối cùng là Việt Cộng buộc phải phản bội một trong hai quan thầy đều vĩ đại của chúng.
Dù là tay sai Cộng Sản Quốc Tế trung thành, nhưng một khi buộc phải chọn một trong hai quan thầy, th́ mối sợ Đế Quốc Hán truyền thống Bắc phương, ở người Việt trong ḷng các lănh tụ Việt Cộng, sẽ mặc nhiên chỗi dậy, mà nhảy ra khỏi bàn cân Trung Cộng, để đặt về phía Liên Xô. Ở điểm này phải nhận rằng, Mỹ đă cố ư quay lưng đi cho phép Trung Cộng cướp đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Ḥa, trước khi Việt Cộng thống nhất. Khiến Việt Cộng đă phạm lỗi lớn là chấp nhận hành động đó của Tầu. Và đến khi Thống Nhất, Việt Cộng phải đi với Nga, lẽ cố nhiên Vịnh Cam Ranh, làm sao tránh khỏi trở thành căn cứ hải quân đầu tiên của Liên Xô ở Biển Đông, lúc đó th́ Hoàng Sa của Tầu nghiễm nhiên là trạm tiền thám theo dơi hoạt động của Nga rồi.
Thế thống nhất Việt nam, không những đă đẩy Việt Cọâng vào việc thân Nga chống Tầu, mà c̣n đặt Việt Cộng thành kẻ thù đối với toàn dân Miền Nam, trước đây người Miền Nam vẫn nghĩ rằng, Việt Cộng là lực lượng Yêu Nước, thực tâm giải phóng Dân Tộc, đến khi cướp xong Miền Nam, Việt Cộng đă hiện nguyên h́nh là Cộng Sản, v́ Chủ Nghĩa chứ không v́ Dân Tộc. Kẻ chiến bại bị trả thù, tù đầy, tài sản bị cướp sạch. Dân chúng bị đối xử là Dân Ngụy, những kẻ theo Cộng Sản cũng bị phân biệt. Thậm chí thứ tay sai làø Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, cũng bị gạt ra khỏi địa vị quyền hành, cuối cùng bị giải thể đau nhục.
C̣n dân Miền Bắc th́ sau khi nhiều người vào được Mièân Nam, thấy cảnh nhà cao cửa rộng, dân chúng sống sung túc, đang bị bọn cán bộ đảng viên ra tay vơ vét cướp bóc, tịch thu trắng trợn, th́ mới vỡ lẽ ra rằng, tất cả những luận điệu tuyên truyền trước đây, nào là Miền Nam bị "bóc lột tàn nhẫn", cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thậm chí không có dép để mang chỉ là dối trá lừa gạt. Đúng ra những sự kiện đó lại xẩy ra tại Miền Bắc, chứ không phải ở Miền Nam. Thế là NIỀM TIN vào đảng không c̣n nữa. Nhất lại thấy cảnh các vị lănh đạo đảng nhà nước và kẻ có chức có quyền tranh nhau chia chác chiến lợi phẩm, cho đàn em vào vơ vét của cải của dân chúng Miền Nam, th́ mới "giác ngộ" thấm thía được rằng, ḿnh đă bị phỉnh gạt hy sinh cho một bọn cướp ngày, cướp cạn.
Thế là Cộng Sản thống nhất lănh thổ trong sự thù ghét của Toàn Dân, không phân biệt Nam Bắc. Chẳng những người Miền Nam quên cả sự sống chết vượt biển t́m tự do đă đành, đến Dân Bắc có cơ hội cũng phải bỏ nước ra đi. Những người không may c̣n kẹt lại, th́ âm thầm đề kháng bằng mọi cách làm cho kinh tế suy sụp. Trong thời đánh nhau th́ cán bộ đảng viên phần nào chiếm được ưu thế với dân chúng Miền Bắc, nay nh́n rơ bộ mặt thực của nhau, sự ghen ghét đố kị, tranh cướp, lạm quyền được phơi bày làm cho dân chán ngán. Quá mù ra mưa, đồng bọn có quyền thế đổ ĺ, hết c̣n tự trọng mắc cỡ. Nắm được cơ hội kiếm tiền, th́ bất chấp hành vi đốn mạt tới mấy, cũng lăn xả vào giành giật. Thêm vào có chế độ Cộng Sản vốn sinh hoạt tùy tiện, theo ư chí thượng cấp, luật lệ lạc hậu bất minh, hành chánh luộm thuộm vô trách nhiệm, chỉ chờ chỉ thị; thế là cả xă hội sinh hoạt trong một guồng máy hổ lốn.
Toàn đảng núp sau tấm màn lư tưởng xă hội chủ nghĩa, để củng cố quyền lực. Núp sau hào quang chiến thắng, để tự thổi nhau lên hàng vô địch. Rồi gia tăng việc đàn áp khủng bố, đánh mạnh vào sự KHIẾP SỢ của Người Dân mà cai trị; rồi công khai tham nhũng và lấy thế đảng ủy để buôn lậu, làm giầu cho cá nhân, đồng thời góp vào quỹ đảng. Từ nguyên tắc thời đấu tranh và thời chiến tranh của Cộng sản là phải "đặt quan điểm quần chúng nhân dân lên hàng đầu của mọi công tác", th́ nay, khi thành công, cán bộ Cọâng Sản đă đặt quyền lợi cá nhân trên hết, sau đó tới quyền lợi đảng, v́ chỉ có đảng mới bảo vệ quyền lợi địa vị thống trị cho người Cộng Sản đối với dân chúng. C̣n dân chúng th́ luôn luôn là đối tượng bị trấn áp và bóc lột.
Chính v́ đánh mất THẾ NHÂN DÂN, nên Việt Cộng đă hoàn toàn bị cuốn vào ṿng lệ thuộc THẾ QUỐC TẾ. Trong thời chiến th́ Việt Cộng đi với cả Nga lẫn Tầu, tới khi thống nhất th́ cả Nga lẫn Tầu buộc Việt Cộng chỉ được chọn một trong hai đàn anh. Như trên đă nói, Việt Cộng đă chọn Liên Xô, để chỉ mất chủ quyền, thay v́ với Tầu "sông liền sông, núi liền núi" th́ không những mất chủ quyền, mà đến Đất Nước cũng thành quận huyện của Trung Cộng nốt.
Lập tức Trung Cộng cho Khmer Đỏ đuổi Việt Cộng khỏi Campuchia, đồng thời khuấy phá miền Tây Nam Việt Nam. Thế là Liên Xô đẩy Việt Cộng tràn quân tiến chiếm Campuchia, đuổi Khmer Đỏ khỏi Phnom Penh, Việt Nam được đặt tại đó một chính phủ bù nh́n, để rồi bị mắc cạn trong một cuộc chiến tranh du kích, khiến cho bộ đội Việt Cộng vốn lừng danh về Du Kích Chiến, mà cũng bị dập mày vỡ mặt, thắng không nổi, mà thua không đành. Th́ ra chiến tranh du kích là của các Dân Tộc yếu chống ngoại xâm, chứ không phải là thứ chiến tranh Giải Phóng của Cộng Sản, như chúng từng mạo nhận. Dù cho tại Cam Bốt, Việt Cộng đă cố ngụy trang cuộc xâm lăng của họ bằng danh từ mỹ miều là:"Làm nghĩa vụ Quốc tế" cũng vậy
Thế là Việt Cộng bị cả các nước trong vùng và toàn thể Thế Giới kinh sợ ghê tởm, phài hùa nhau giúp Khmer Đỏ, măc dầu bọn này đă mang tiếng là bọn "Diệt chủng". Trung Cộng buộc phải dựng lại lá bài Sihanouk để cho Pol Pot trùm Khmer Đỏ có chỗ đựa, nhằm thành lập chính phủ Dân Chủ Kháng Chiến chống lại Việât Nam. Đồng thời, Đặng Tiểu B́nh sau khi Mỹ du về, kết chặt t́nh thân được với Mỹ, đă ra quân tràn xuống Việt Bắc, dậy cho Việt Cộng một bài học. Và cũng nhận luôn một bài học đáng giá, là Trung cộng chưa đủ khả năng thực hiện một cuộc chiến tranh chống Việt Nam. Có nghĩa là cả Việt Cộng, Liên Xô và Trung Cộng, đều đă rơi vào chiếc bẫy "DÙNG CỘNG DIỆT CỘNG" trong Chiến Lược Toàn Cầu của nước Mỹ, kẻ vừa mới mang tiếng bỏ chạy khỏi Việt Nam.
Thế Giới Cộng Sản tan vỡ thực sự khi Quân Đọâi Trung Quốc bắn nhau với Quân Đội Việt Cộng trên đất Việt. Lập tức Quân Đội Liên Xô dàn trận nguyên tử và binh lực dọc biên giới Nga Hoa, giành nhau từng tấc đất tại Hắc Long Giang. Tuy hai bên chỉ gầm gừ, mà không dám nhả đạn, nhưng cũng khiến quân Trung Cộng mau chóng phải rút khỏi Việt Nam.
Trong nội bộ mỗi nước Cộng Sản đều rạn nứt. Ở các nước trong khối Cộng Sản Đông Âu cũng có nước theo Tầu, hoặc lửng lơ không dứt khoát theo về một bên. Cùng lúc đó Liên Xô bị sa lầy trong cuộc chiến Afghanistan và tốn tiền của thuê Việt Công, Cuba theo đuổi các cuộc chống "Du kích chiến" từ Á sang Phi, tới Mỹ Châu. Thế là kinh tế Liên Xô hoàn toàn kiệt lực, không đủ sức chạy đua vơ khí với Mỹ. Không đủ sức giúp đỡ cho các đàn em Đông Âu nữa. Đành buông rơi tất ca,û để cho bức tường Bá Linh bị dật sập 20-11-1989. Chính Liên Xô cũng bị tan ră, chế độ Cộng Sản tại Nga kéo từ 1917 đến 1991 đă bị giải thể.
Cộng Sản Việt Nam mất phương hướng. Cũng may trong thời kỳ lănh tụ Liên Xô Gorbachev buộc phải “Đổi Mới” để tự cứu, đă thúc ép Việt Cộng phải đi theo đường lối đó. Nên khi Liên Xô sụp đổ Việt Cộng đă có sẵn trong đầu một số ư niệm mơ màng là sẽ phải cởi mở phần nào về sinh hoạt Kinh Tế Thị Trường. Nhất là trước mắt có sự làm gương của công cuộc đổi mới của Trung Quốc. Tuy vẫn không thể ḥa giải ngay với cựu đồng chí đó được, nhưng kinh nghiệm của Trung Cộng th́ nhất định Việt Cộng phải học, là làm thế nào vừa áp dụng kinh tế thị trường kiểu tư bản, vừa giữ được độc quyền chính trị kiểu cộng sản. Đó là đường lối: "Làm Kinh Tế Thị Trường Theo Định Hướng Xă Hội Chủ Nghĩa", lấy Công Ty Quốc Doanh làm chủ đạo.
Thật không may cho Dân Tộc Việt Nam, bị nằm cạnh anh khổng lồ Trung Hoa, chịu lănh đạn chiến tranh cũng v́ Tầu, đến việc có cơ hội ra thoát được chế độ Cộng Sản thối tha độc ác như các nước Đông Âu, th́ cũng v́ Tầu mà bị kẹt lại. Quả đúng như thế, nếu Tầu không là đồng minh chiến lược "bất đắc dĩ" với Mỹ trong viếc chống Liên Xô, th́ chắc là khi Liên Xô tan ră, nếu Tầu không tan theo, th́ cũng bị loạn lạc mù trời. Đến như thế th́ Việt Cộng khó ḷng trụ nổi.
Trung Cộng nhờ đă biết ứng dụng phần nào Kinh Tế Thị Trường Tự Do, biết cởi mở làm ăn với nước ngoài, nhất là được bao bọc bởi việc giao thương với Mỹ, nên Trung Cộng chẳng những không bị ảnh hưởng do sự sụp đổ của Liên Xô, mà c̣n có dịp ăn nên làm ra, mặc dù bị vụ đàn áp sinh viên tại Thiên An Môn làm xấu đi phần nào.
Chính v́ Trung Cộng chưa thực sự từ bỏ h́nh thức Cộng Sản, c̣n mượn chiếc vỏ chủ nghĩa xă hội, để củng cố quyền hành của đảng, thêm vào đó các lănh tụ Trung Cộng đều nuôi tham vọng Đế Quốc, muốn làm trùm các nước lân bang. Trong khi các lân bang th́ vẫn chưa thoát khỏi tâm trạng nghi ngờ của các Dân Tộc bị trị lâu đời. Dù đă thành lập Hiệp Hội Kinh Tế Cấp Vùng, nhưng c̣n năïng đầu óc Quốc Gia chật hẹp. Vẫn coi Mỹ và các nước da trắng là những thứ Đế Quốc mới, như Cộng Sản thường rêu rao. Hơn nữa hầu hết mọi nước trong vùng, chưa thực sự tạo cơ hội cho toàn dân sinh hoạt trong đời sống Dân Chủ Trọng Pháp, chỉ mới tiến tới chế độ "Gia trưởng khoác áo Dân chủ". Tức là chế độ Phong kiến dưới dạng Dân Chủ. Nên Việt Nam vẫn c̣n bị sắm vai tṛ "con tốt" trong ván cờ mới của Mỹ.
Cần ghi nhận một điều là, không phải Việt Cộng không cố gắng làm ḥa với Mỹ, nhưng trong sự làm ḥa đó th́ nổi lo sợ bị Mỹ nuốt chửng lớn hơn, nên vừa muốn đi với Mỹ giống như Trung Cộng, vừa không dám tự tin vào sức ḿnh như Trung Cộng. V́ đúng ra cả Trung Cộng lẫn Việt Cộng đều mắc chứng "tự kỷ ám thị" do chính tâm lư Cộng Sản đă tạo ra cho họ: Mỹ là tên "Đế Quốc Tư Bản Đầu Sỏ". Đi với Mỹ chỉ để lợi dụng, hoặc v́ yếu thế, nhưng vẫn coi Mỹ là kẻ “Thù”Ø nguy hiểm. Do tâm lư cộng sản đó, mà Việt Cộng đă chơi tṛ "bắt cá hai tay", quay về làm đàn em với Trung Cộng, đồng thời vận động ráo riết để được đi với Mỹ. Dùng Tầu để kích thích Mỹ. Dùng Mỹ để giảm những yêu sách của Tầu. Dù sao đây cũng chỉ là tṛ khôn vặt. Không thể che dấu được sự đổ dốc thê thảm của thế lực Cộng Sản.
Đến khi Mỹ chấp nhận cho Việt Cộng b́nh thường hóa th́ ảnh hưởng Trung Cộng đă lậm vào quá sâu, nhất là về mặt buôn lậu. Hệ thống buôn lậu của Tầu và Việt đă quyện lại với nhau thành một thế lực đủ sức khuynh loát quân lực, tác động tới mọi quyết định của Đảng. Việc tệ hại nhất là Trung Cộng đă ép Việt Cộng phải kư kết vào hai Bản Hiệp Ước bất b́nh đẳng, trên Đất ngày 30-12-1999 và trên Biển ngày 25-12-2000. Làm thiệt hại nặng nề tới lănh thổ và lănh hải của Tổ Quốc. Việt Cộng trở thành thứ Việt Gian Bán Nước, trước dư luận trong và ngoài nước. Đúng là thế lực theo Trung Cộng đă là thế lực Phản Động Bán Nước, ḱm hăm sự đổi mới không những về chính trị, mà ngay về mặt kinh tế nữa.
Khi đảng dùng các công ty "Quốc Doanh" làm chủ đạo cho kinh tế quốc dân, cũng có nghĩa là Đảng dùng vốn và thế lực hợp pháp của các công ty có tên là "Quốc doanh" đó, biến thành "Đảng Doanh" để làm những việc sai trái kể cả buôn lậu. Cả Vốn lẫn Lời đều đổ vào quỹ đảng và chia chác giữa kẻ có quyền có thế. Rồi buộc Quốc Doanh khai Lỗ, để nhà nước phải vay nợ nước ngoài mà bù lỗ. Chính v́ vậy, mà Bọn Kinh Tài Đảng quá giầu, Dân Chúng nghèo mạt, đất nước bệ rạc. Tư Bản nước ngoài thi nhau bỏ chạy. Các nước cấp viện và cho vay phải đặt lại vấn đề.
Nhưng dù khuyến cáo thế nào Việt Cộng cũng vẫn ỳ ra đấy. Không phải họ không nhận biết là phải làm theo khuyến cáo của các chuyên gia là đúng. Nhưng họ nằm ở thế không thể nhúc nhích được nữa. Chính v́ thế, dù Mỹ đă bỏ cấm vận từ năm 1994, mà phải bước lần từng bước một, cho măi tới giữa năm 1999 mới h́nh thành được bản thương ước làm cơ sở cho việc hai nước b́nh thường hóa mậu dịch. Nhưng Việt Cộng chưa dám nhấp nhận, bỏ lỡ cơ hội kư kết trước khi hiệp ước Hoa Kỳ – Trung Quốc có hiệu lực, khiến cho Hoa Lục nhận được vốn tư bản Quốc Tế đổ vào làm ăn ngày một nhiều. Măi tới ngày 13-7-2000 hai bên mới chính thức kư. Năm 2001 mới được Quốc Hội hai nước thông qua. Nhưng được Thương Ước, mà Cộng Sản Việt Nam lại rất sợ bị tan chế độ. Điều đó cũng hợp lư thôi.
Vậy nét chính là THẾ NƯỚC của VIỆT NAM đă đi vào quỹ đạo của tiến tŕnh KINH TẾ TOÀN CẦU HÓA. Đi vào sinh hoạt thị trường phát triển tự do trong khối KINH TẾ ASEAN. C̣n việc trở thành một nước có tầm cỡ, hay vẫn là "con vịt đẹt" th́ c̣n tùy ở Việt nam có sớm DÂN CHỦ HÓA chế độ, TƯ HỮU HÓA Kinh tế, TỰ DO HÓA xă hội.và PHÁT HUY VĂN HÓA DÂN TỘC được hay không mà thôi.
======================================================================
VĂN HÓA
D̉NG VẬN ĐỘNG DUNG HÓA TƯ TƯỞNG VIỆT NAM
Về nguồn Dân Tộc t́m Nhân Chủ Đạo
Công cuộc trường kỳ Dung Hóa Tư Tưởng
Thể hiện nền Văn Hiến Dung Hóa
Nền văn hiến dung hóa tan vỡ
TƯ TƯỞNG CHỦ ĐẠO XÂY DỰNG VIỆT NAM
Hồi Nội
Phóng Ngoại
Nhận Thức
Nhân Chủ
D̉NG VẬN ĐỘNG
DUNG HÓA TƯ TƯỞNG VIỆT NAM
Khi Cộng Sản chiếm được toàn cơi Việt Nam, họ đă hăm hở bắt tay ngay vào việc thực hiện chế độ Xă Hội Chủ Nghĩa, theo sự chỉ đạo của tư tưởng Duy Vật Cộng Sản độc tôn, mà họ đă tôn thờ phụng sự từ lâu. Nhưng họ đă bị thất bại thảm thương. Thất bại không những với Người Dân Miền Nam, thất bại luôn với Dân Chúng Miền Bắc, và nhục nhă hơn hết là ngay với Cán Bộ Cộng Sản, cũng chẳng t́m đâu ra được một mống nào c̣n chút lư tưởng của Người Cộng Sản, mà họ vẫn tưởng tượng và từng được học tập nữa.
Với bản chất của một chế độ độc tài, độc tôn, toàn trị, sùng thượng lănh tụ, th́ chỉ cần một lănh tụ với một số tay chân cuồng tín, giống như Stalin hay Mao Trạch Đông thôi, th́ khi trong đầu họ c̣n tin tưởng tuyệt đối vào lư tưởng Cộng Sản, vẫn có thể bức chế toàn Đảng, toàn Quân, toàn Dân phải ḅ lết lên Xă Hội Chủ Nghĩa, ít ra là được bước đầu. Nhưng chính những Lănh Tụ Việt Cộng, cũng lại chẳng biết Con Người Thực Cộng Sản phải như thế nào, mới đúng với tư tưởng của chủ nghĩa. Nên trong đầu của họ chỉ nghĩ là làm sao tồn tại và duy tŕ được quyền hành địa vị. Tuy ngoài miệng th́ hô hào tiến lên Xă Hội Chủ Nghĩa, mà tim óc đă phải đầu hàng thực tế, lươn lẹo chạy theo thời cuộc. Bởi thế cuộc thí nghiệm Xă Hội Chủ Nghĩa tại Việt Nam 1976, vừa lọt ḷng đă yểu tử.
Cũng may cho Dân Tộc ta lúc đó không có những lănh tụ Cộng Sản khát máu như Stalin, Mao Trạch Đông, hay ranh ma như Hồ chí Minh nữa, nên cuộc thí nghiệm Xă Hội Chủ Nghĩa không tốn hao nhiều xương máu của toàn dân, mà chỉ bị đói khổ cùng cực, bởi nạn lănh tụ thiển cận, ngoan cố "sống lâu lên lăo làng", cán bộ tham lam ti tiện mất hết tính người. Làm cho toàn dân sớm nhận chân được giá trị đích thật cái mà Đảng ca tụng là Người Cộng Sản ưu việt, bách chiến bách thắng và tư tưởng Cộng Sản trong sáng vô địch. Thực ra Tư tưởng Cộng Sản chỉ là những khẩu hiệu căm thù, đấu tranh, hủy diệt. Con Người Cộng Sản chỉ là một "bầy thú" chỉ biết nhận lệnh. C̣n thực chất chỉ là lũ ngu si, tham tàn, độc ác, dối trá, dám nghĩ, dám làm và có phương tiện, điều kiện để làm, những việc mà người lương thiện có liêm sỉ không ai muốn làm và dám làm.
Phải nhận rằng: Quốc Dân Việt Nam đă thua trước Cộng Sản chỉ v́ Người Việt Nam Chân Chính quá Lương Thiện. Trí thức Việt Nam nhiều người chỉ biết Cộng Sản qua sách vở tuyên truyền, với những từ ngữ hoa mỹ, về công bằng xă hội và v́ dân nghèo đáng thương. Các đoàn thể Quốc Gia th́ bị tan vỡ từng mảnh, mà nhu cầu chiến tranh của các thế lực Quốc Tế th́ muốn và bằng mọi cách vô hiệu hóa các kháng lực của Dân Tộc đối với chủ trương của họ, trong đó hiển nhiên phải do sự xuống tay của các chính quyền mệnh danh là Quốc Gia, v́ sợ làm Dân Chủ, sẽ mở lối cho các lực lượng Dân Tộc lớn mạnh, dân chúng trưởng thành, có những thế lực đấu tranh tầm cỡ, th́ không c̣n độc quyền cai trị đất nước được nữa. Nên từ hai phía “quyền trong, lực ngoài” đă mặc nhiên tương tác với nhau, nghiền nát mọi tiềm lực Dân Tộc, tiêu phí hết tiềm năng dân chúng Việt Nam bằng chiến tranh.
Chính ngay những nhà trí thức và các đoàn thể đấu tranh v́ lư tưởng Độc Lập Dân Tộc, cũng chỉ có ḷng yêu nước bằng t́nh tự Dân Tộc rất mănh liệt, nhưng chưa có được một Tư Tưởng Chủ Đạo cho công cuộc đấu tranh và kiến thiết đất nước trong một thế mới và thời mới. Nên đă bị mất tự tin trước những thứ lư luận ngụy biện, mang tính cách khoa học môi miệng vay mượn của Cộng Sản. Thậm chí c̣n bị lây chứng bệnh tôn thờ lănh tụ giống như người Cộng Sản thường làm. Khiến cho những người vừa mới bước vào cuộc đấu tranh, đă nghĩ ḿnh phải là một nhân vật trong yếu. Thế là trong giới đấu tranh, trong giới hoạt động chính trị bỗng thừa lănh tụ mà thiếu đoàn viên, không quần chúng.
Chẳng phải không có những tư tưởng sáng giá, mới mẻ xuất hiện trong dân chúng, nhưng v́ phương tiện truyền thông c̣n hạn hẹp, những suy tư đó chỉ mới là tài liệu chuyền tay, học tập lén lút, có tên gọi laø "tài liệu Cách Mạng của hội kín", rất nguy hiểm cho người đọc, người giữ. Bí mật măi thành thói quen, tới khi có cơ hội truyền phổ th́ tam sao thất bản. Thậm chí có những người dấu biến tài liệu đi để làm vốn hiểu biết riêng, ḥng ḷe thiên hạ. Đây là hậu quả thảm hại bởi 500 năm Văn Hiến Truyền Thống DUNG HÓA của Việt Nam bị đứt quăng, kể từ sau thời Nhà Minh Trung Hoa thống trị Đất Nước, tàn phá Văn Hóa Việt Nam. Các triều đại Việt Nam kế tiếp dù nước đă Độc Lập, nhưng lại hoàn toàn dựa vào Nho Thuật để uốn nắn tư tưởng Nho Sĩ, chỉ đạo Xă Hội và lănh đạo Chính Trị. Đẩy Đạo Nho vượt lên địa vị độc tôn toàn thống. Bởi đấy những điều hay của Khổng Giáo th́ ít được đem ra ứng dụng, mà điều tệ của đám Tống Nho Trung Hoa lại được Vua Quan Việt Nam trọng dụïng. Tinh thần lệ sách của trí thức, tinh thần dấu nghề bí truyền của thầy vơ, và các ngành nghề khác, mà người Việt nhiễm phải bởi người Tầu là điều phổ biến. Thế nên Việt nam không tiến bộ nổi và cũng không thích ứng được với những thay đổi của Thế giới.
Đây cũng là lư do chính khiến người Việt thất bại đau thương khi phải tiếp nhận luồng tư tưởng Duy Lư của Văn Minh Âu Châu, nếu lúc ấy Nhận Thức Viên Dung Đa Tôn Giáo và truyền thống Văn Hiến Dung Hóa của Việt Tộc c̣n thịnh hành như thời cổ đại và thời Lư Trần, th́ nền văn minh Tây Phương đâu có đang là người bạn mới mẻ từ xa đến với Việt Nam, có thể trở mặt thành kẻ thù chiếm đoạt Việt Nam được, dù cho họ có nuôi ư đồ Thực Dân, cũng khó có thể thực hiện nổi, khi mà triều đ́nh Việt Nam được chỉ đạo bởi nhạân thức viên dung với tư tưởng sẵn sàng dung hóa, biết tung nhân tài ra khắp nơi học hỏi để về đổi mới. V́ từ khi tiếp xúc với văn minh Tây Phương đến khi Thực Dân Pháp xâm lăng Việt nam, khởi đầu vào năm 1856, th́ trước đó, người Việt đă có một thời gian gần hai trăm năm giao tiếp với nhiều nước Tây Phương rồi. Vào cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, người Bồ, người Tầu, người Nhật đă mở cửa hàng buôn bán tại Hội An Trong Nam. Năm 1614 thời chúa Săi là Nguyễn Phúc Nguyên, th́ người Bồ Đào Nha đă được phép lập ḷ đúc súng tại Thuận Hóa. Năm 1637, người Ḥa Lan, Nhật, Thái Lan đă mở cửa hàng thương buôn tại Phố Hiến ngoài Bắc, thời chúa Trịnh Tráng, đời vua Lê Thần Tông rồi.
Từ tư tưởng Nho Giáo độc tôn đă thua đi trước tư tưởng Duy Thần độc tôn, khiến cho tư tưởng giới đi từ độc tôn này sang độc tôn khác. Đây chỉ là hiện tượng nổi trên mặt tầng trí thức và chính quyền, c̣n dân chúng Việt Nam th́ vẫn nằm trong t́nh trạng đề kháng thường trực với Thực Dân, mà không có tư tưởng chủ đạo. Nên khi phong trào Cộng Sản với tư tưởng Duy Vật độc tôn hoạt động, người Việt cũng chỉ xem như một phong trào yêu nước chống Thực Dân giành Độc Lập, khiến Cộng Sản dễ bề“đánh lận con đen” xuất hiện như một lực lượng yêu nước với lư tưởng Dân Tộc thứ thật. Đây là một trong những lư do làm cho Việt Nam lọt vào ṿng toàn trị của Cộng Sản.
Không kể tới những lư do chính trị và những âm mưu của những thế lực Quốc Tế, đă tác động vào t́nh thế Việt Nam, mà chỉ xét trên mặt tầng tư tưởng tranh chấp, giành quyền toàn trị Việt Nam từ thế kỷ 17 trở lại đây th́ cả ba thế lực tranh nhau, đều là các luồng tư tưởng một chiều độc tôn. Tức là thứ độc tôn này thắng độc tôn kia để thống trị Dân Tộc Việt Nam. Chính v́ vậy việc thua của kẻ kia không làm dân chúng Việt Nam tiếc, việc thắng của kẻ nọ chẳng làm cho dân chúng Việt Nam mừng, v́ toàn dân Việt Nam biết rằng, ḿnh chỉ là đối tượng của sự lợi dụng bóc lột. Phần khổ đau cùng cực trước sau ǵ cũng thuộc về ḿnh.
Đến đây th́ hiểu được tâm lư người Việt luôn luôn có “Tư Tưởng Phù Suy” , thương những người vừa thất thế, chống lại với nhà đương quyền, nhất là dễ để lọt tai với những thủ thuật tuyên truyền, biết khai thác t́nh tự Dân Tộc, nhằm mê hoặc người dân. Nhưng khi đoạt thắng lợi rồi th́ những kẻ có quyền, có thế dễ rơi mặt nạ, v́ họ đều là những kẻ tiếm danh Dân Tộc, đầu óc đặc quánh tư tưởng một chiều, độc tôn, khép kín. Con tim mang nặng tranh đoạt, ganh ghét, hận thù. Hành vi biển lận, trục lợi, bè cánh, không biểu hiện được đặc tính văn hóa truyền thống dung hóa của Dân Tộc, tuy chưa rơ nét trên phần nhạân thức, nhưng lại bàng bạc tiềm ẩn trong tâm trí mỗi người dân. Nên dân vẫn không thể nhận đó là chính quyền của Dân Tộc, v́ lợi ích của chính ḿnh.
Bởi đấy bắt tay vào việc đấu tranh và xây đựng đất nước, việc phải làm là t́m về truyền thống Dân Tộc, để thấy được tư tưởng chủ đạo cho các cuộc đấu tranh dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước của người xưa, nhất là t́m cho được nguyên nhân nào đă giúp cho Việt Tộc thoát khỏi một cuộc đồng hóa quyết liệt của nền văn minh Hoa Tộc, đă từng có hàng ngàn năm thống trị Việt Nam, mà hầu khắp các dân tộc cùng thời đă bị ch́m lỉm trong biển người Trung Hoa không c̣n vết tích nào nữa. Từ đó người Việt sẽ t́m được niềm tin, để tự do chủ động gia nhập tiến tŕnh toàn cầu hóa của Thế giới hiẹân nay, mà vẫn tự chủ triển khai được văn hóa tính rực rỡ của Dân Tộc, trong vườn hoa muôn vẻ rực rỡ, luôn luôn thăng hóa của văn hóa Nhân Loại.
VỀ NGUỒN DÂN TỘC T̀M NHÂN CHỦ ĐẠO
Việt Tộc thuộc giống dân thanh nhỏ, tóc đen, da ngà, mắt sáng. Thông minh cương nghị, trữ t́nh. Xuất hiện tại vùng châu thổ sông Dương Tử. Lập Quốc làm chủ khu vực Động Đ́nh Hồ, Ngũ Lĩnh Sơn trong 682 năm, từ 2879 tới 2197 trước Tây lịch. Theo truyền thuyết th́ “Đế Minh cháu ba đời của Viêm Đế Thần Nông, sau khi sinh được con trai tên là Nghi, Đế Minh nhân đi tuần du phương Nam, đến vùng Ngũ Lĩnh lấy con gái bà Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục. Đế Minh định truyền ngôi cho Lộc Tục cai trị Trung Thổ. Nhưng Lộc Tục xin nhường ngôi cho anh là Đế Nghi, để về quê mẹ ở Phương Nam. Rồi lấy con gái của Động Đ́nh Quân là Long Nữ. Lập Quốc tại đây xưng hiệu là Kinh Dương Vương vào năm 2879 trước Tây lịch”.
Kinh Dương Vương và Long Nữ sinh ra Sùng Lăm. Sùng Lăm được chọn lên kế vị vua cha lấy hiệu là Lạc Long Quân. Long Quân dậy dân trồng cấy, đặt ra đạo nghĩa vợ chồng và luật lệ an dân. Long Quân thường lui về thủy phủ không trực tiếp cai trị dân, mà trăm họ vẫn yên vui vô sự. Ở Phương Bắc Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai, nhân thiên hạ thái b́nh Đế Lai đưa con gái là Âu Cơ chu du phương Nam. Âu Cơ gặp Long Quân hai người lấy nhau. Đó là Cha Mẹ của ḍng Họ Hồng Bàng, Thần Vương của Bách Việt, Thần Tổ của Dân TộcViệt
Khi đó giống dân cực vi hung hăn Phương Bắc thuộc ḍng Phục Hy, Hoàng Đế - sau này được gọi là Hán Tộc - đă thôn tính hầu hết các dân tộc thuộc giống Thần Nông tại Trung thổ. Sau Hoàng Đế là Thiếu Hiệu, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Chí, Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Vua Thuấn truyền ngôi cho Vũ, vua Vũ bỏ lệ truyền ngôi cho người ngoài, chính thức mở ra Nhà Hạ theo chế độ Phụ Hệ, “cha truyền con nối”. Vũ truyền ngôi cho con trai là Khải. Năm 2197 trước Tây lịch, Đế Khải nhà Hạ mở mang đế quốc, xâm lấn Bách Việt. Để tránh nạn bị đồng hóa, Việt Tộc trong hệ Thần Nông, thuộc giống Hồng Bàng của Lạc Long Quân và Âu Cơ, với quyết tâm bảo vệ ḍng máu Lạc Việt đă lựa chọn “Bỏ Đất Giữ Dân” để lên đường “Di Cư” xuống Phương Nam vùng ánh sáng, nắng ấm hứa hẹn bền lâu.
Gần tám trăm năm di cư, lần theo ḍng chảy của Dương Tử Giang ra tới ven biển Đông để xuôi Nam. Thời ấy Dân Tộc Việt do các thủ lănh của họ Hồng Bàng hướng dẫn, kế truyền cho nhau đều nhận Lạc Long Quân vừa là Vua, vừa là Thần, vừa là Bố chung của Dân Tộc. Khi con dân gặp nạn th́ kêu: “Bố cứu Con” lập tức Long Quân sẽ thể hiện độ tŕ. Đến khoảng cuối thế kỷ 13 đầu 12 trước Tây lịch, Việt Tộc xuống tới vùng châu thổ sông Hồng, nước đỏ, ruộng đen, hùng khí bốc lên ngút trời, mới có tên gọi là “Hùng Điền”, các sắc dân bản địa hầu như hoang vắng. Việt Tộc chọn nơi này để định cư lần thứ hai. Thành lập nước Văn Lang, có lănh thổ và tổ chức triều đ́nh cai trị dân chúng. Vĩnh viễn trở thành một nước với đầy đủ đặc tính của một Quốc Gia Phong Kiến Nông Nghiệp.
Cũng như toàn dân đều nhận Lạc Long Quân là cha, nên Hùng Vương thứ nhất cũng nhận Đức Long Quân là “Vua Cha”, khiến làm đảo lộn quan niệm sử của người sau. Đích ra ngay từ thưở định cư lần thứ nhất tại vùng Động Đ́nh Hồ, Ngũ Lĩnh Sơn, khi Kinh Dương Vương truyền cho Lạc Long Quân lănh đạo Bách Việt, th́ các giống dân ở đây cũng vẫn sống trong quan hệ Tộc Thuộc hơn là tinh thần Quốc Gia, tất cả đều nhận Long Quân là Vua chung, theo tục lệ và sự truyền dậy của Ngài, mà tự tổ chức cuộc sống trật tự yên vui phát triển. Bởi thế các vị điều khiển hướng dẫn các ḍng tộc sống trong vùng trung thổ ấy, chỉ có tính cách thân t́nh hơn là nhà cai trị, hoặc thống trị. Khác hẳn với các Vương, Hầu của phương Bắc. Tộc Lạc Hồng và các tộc khác thuộc Bách Việt đă tôn Lạc Long Quân và Âu Cơ, là Cha Mẹ chung lên làm Thần Tổ, sắm hai sứ mệnh tượng trưng cho cả Thế Quyền và Thần Quyền cao nhất của Dân Nước, trong suốt thời gian gần bảy thế kỷ định cư tại lưu vực Dương Tử Giang.
Rồi năm 2197 trước Tây lịch, Tộc Lạc Hồng quyết định “di cư” tránh nạn cường quyền Quốc Gia Phong Kiến Phương Bắc của Nhà Hạ, th́ Dân Tộc Việt vẫn tôn thờ Lạc Long Quân là“Thần Vương” để thống nhất ư chí và hướng dẫn Dân Tộc thiên cư về phương Nam sinh sống, phát triển, trong gần tám thế kỷ dài cam go, vừa di chuyển vừa sinh sống. Có nghĩa là cả hai thời định cư lần thứ nhất và di cư tới sông Hồng, khoảng 15 thế kỷ, Dân Tộc Việt chỉ có vị vua duy nhất là Thần Vương Lạc Long Quân, mà vua Hùng thứ nhất khi định cư lập quốc lần thứ hai tại châu thổ sông Hồng, lại nhận ḿnh là con của Long Quân, nên mới có vấn nạn lịch sử là: Chỉ có 18 đời Hùng mà lại cai trị một Dân Tộc có trên hai ngàn năm lịch sử? Điều đó không thuyết phục nổi đối với những nhà nghiên cứu chính sử. Có thể nên nghĩ, từ lúc Tộc Việt đặt chân vào vùng đất mới, đầu Thế Kỷ 12 trước T L, tới khi ổn định phát triển Dân Tộc đủ mạnh, để có nhu cầu tổ chức thành một Quốc Gia chính thức, cũng phải mất tới vài ba Thế Kỷ, cũng không chừng ? Vậy th́ 18 đời Hùng Vương dài khoảng trên dưới Bẩy Thế Kỷ mà thôi.
Đối với một Dân Tộc có truyền thống lâu đời như Dân Tộc Việt Nam, th́ càng nhiều huyền sử, huyền thoại, linh thoại càng có chiều dầy thâm thúy hơn. Nhưng cũng cần mở kho huyền sử ra để các nhà khoa học có hướng t́m hiểu, và niềm tin của con cháu được củng cố thêm mạnh. Nhất là, lại thuộc về vấn đề suy tư. Trên lănh vực tư tưởng th́ Việt Tộc ngay từ khởi thủy Dân Tộc đă lấy Con Người làm Cứu Cánh, qua sự tôn Cha Mẹ là Lạc Long Quân và Âu Cơ lên làm Thần Tổ Rồng Tiên, không như các dân tộc khác cùng thời, đều chọn một vị Thần Linh nào đó mà thờ kính làm “thần tổ”. Cũng lại hết sức Người, Đa Nguyên, B́nh Đẳng, không trọng Nam khinh Nữ, hay ngược lại, mà tôn trọng cả hai đấng sinh thành. Chính v́ vậy nên khi vào thực tế mới có những quyết định hết sức sáng suốt là biết ‘Bỏ Đất giữ Dân”. “Bỏ Của chạy lấy Người”, tạo thành đặc tính của một Dân Tộc Di Cư, mà lúc nào cũng giữ được truyền thống, huyền thoại và tiếng nói thống nhất của Giống Ṇi. Vậy nên phân biệt giữa Thần Tổ và Quốc Tổ cho dễ nhận: Thần Tổ của Dân Tộc là Lạc Long Quân và Âu Cơ, c̣n Quốc Tổ của Nước Việt là Hùng Vương, người lập ra nước Văn Lang, một tên cũ của Việt Nam.
Chẳng phải v́ trào lưu Thế Giới hôm nay đang tiến vào thời đại Nhân Chủ Nhân Văn, mà người Việt tự cho ḿnh là đă có nền móng tư tưởng Nhân Chủ, trong ḍng sinh mệnh văn hóa từ ngàn xưa, bắt đầu ngay ở Khởi Nguyên Dân Tộc, nhằm đề cao tinh thần truyền thống Dân Tộc ḿnh đâu! Mà do chính linh thoại Rồng Tiên đă ẩn dụ về việc Dân Tộc Việt suy tôn Cha Mẹ ḿnh làm Thần Tổ, đủ khẳng định giá trị Nhân Chủ và sự b́nh đẳng giữa Nam Nữ, do có Đất Nước, mà không thiết lập hệ thống cai trị trung ương tập quyền Quốc Gia Phong Kiến, do hành động “Bỏ Đất Giữ Dân” để bảo vệ ṇi giống, thực hiện một cuộc “Di Cư” vĩ đại. Nên tự những thể hiện và diễn biến của tư tưởng và thực tế lịch sử đó, đă đủ sức thuyết phục mỗi người chúng ta, dù có cứng đầu tới mấy cũng phải nhận rằng: Ư tưởng Nhân Chủ, nhận Con Người làm cứu cánh cho mọi quyết định và lựa chọn, đă xuất hiện trong tư tưởng người Việt ngay từ đầu mùa Dân Tộc. Dù chưa bao giờ gọi ra thành tên, nói lên thành lời, viết ra thành chữ, nhưng Dân Tộc Việt, Con Người Việt đều đă thực hiện hết sức trung thực tư tưởng chủ đạo mặc nhiên đó.
Ngay ở những Thế Kỷ, 18 đời Vua Hùng cai trị cho tới khi mất ngôi về tay Thục Phán, năm 275 trước Tây Lịch, th́ trong cổ sử huyền thoại, hay truyền khẩu nhân gian, cũng chưa hề có nói về đời vua nào bạo ngược hết, chỉ nói tới nhân ái, và quan tâm của nhà Vua tới đời sống, phong tục tốt đẹp của dân nước mà thôi. Điều nổi bật được kể tới về thành tích chống xâm lăng, th́ chỉ có vào đời Hùng Vương thứ VI, một cậu bé con nhà thợ rèn, làng Phù Đổng, đă vươn ḿnh lớn dậy, nhẩy lên ngựa sắt, cầm roi sắt, dẹp tan giặc Ân xâm lăng Văn Lang. Giặc tan cưỡi ngựa sắt về trời, và được tôn là Phù Đổng Thiên Vương. Đó là dấu ấn của thời Việt Tộc đă tiến vào thời dùng Sắt thay Đồng làm binh khí và dụng cụ canh tác.
Đây là một chứng tỏ Việt Tộc bước vào thời đại đồ Đồng rất sớm, hầu như khi vừa có mặt tại lưu vực sông Hồng, nghề luyện đúc Đồng của người Việt phát triển rất cao. Nên đă đúc ra những Trống Đồng lớn và đẹp. Tới khi phát triển Dân Tộc xuống bờ Nam sông Hồng, ḥa máu pha giống với hai ḍng Indonesien và Melanesien th́“Trống Đồng Hùng Vương” cũng theo bước chân của họ lan ra khắp vùng Đông Nam Á, và c̣n lưu dấu tới ngày nay. Thời Hùng Vương thứ 6 Việt Nam đă bước sang thời đại đồ Sắt, và lên cao nhất là vào thời nhà Thục, xây thành Cổ Loa và có nỏ Liên Châu đầu bịt Sắt, làm cho binh tướng Triệu Đà của Phương Bắc phải nhiều phen thảm bại.
Thục Phán thuộc đ̣ng máu Ấn Âu di cư tới miền Vân Nam, rồi vào định cư bên hông Việt Tộc. Họ thuộc giống thiên cư thiện chiến, có óc tổ chức và lối kiến trúc của người cổ Lưỡng Hà Châu. Việt Tộc hiền ḥa không thích giao hảo với họ. Nhân việc Hùng Vương thứ 18 không chịu gả công chúa cho Thục Vương, Thục Vương nuôi chí trả thù. Thục Phán là cháu Thục vương đă dùng binh lực cướp ngôi lật đổ Vua Hùng, nhưng vẫn áp dụng phương pháp tản quyền “Phép Vua Thua Lệ Làng” của nước Văn Lang để trị dân. Thục Phán lấy hiệu là An Dương Vương, sát nhập hai giống Ấn Âu với Lạc Việt làm một, đổi tên nước thành Âu Lạc
Năm 207 trước Tây lịch, Triệu Đà đánh bại được Thục Phán, sát nhập Âu Lạc với các vùng lănh thổ Quảng Đông, Quảng Tây và Hải Nam để thành lập Đế Quốc Nam Việt. Triệu Đà cai trị dân theo chế độ “Quân chủ Tập quyền” của Tần Thủy Hoàng Trung Hoa. Nhà Triệu truyền được 5 đời th́ bị nhà Hán Trung Hoa thôn tính vào năm 111 trước Tây lịch. Kể từ đó Việt Nam bị người Tầu đô hộ tới 1050 năm. Trong đó thường xuyên có những cuộc quật khởi và tự trị, nhưng phải tới năm 939 Tây lịch, Ngô Vương Quyền mới thực sự tạo được một nèân Độc Lập cho Dân Tộc Việt Nam.
CÔNG CUỘC TRƯỜNG KỲ DUNG HÓA TƯ TƯỞNG
Nếu nói về mặt ḥa giống th́ từ ngày định cư ở Châu Thổ Sông Hồng cho tới khi bị Bắc Thuộc, Việt Tộc đă gặp gỡ thêm bốn ḍng máu phụ là Indonesien, Melanesien, Ấn Âu và Nam Việt của Triệu Đà. Về mặt Văn Hóa th́ v́ sự tôn trọng Con Người, nên đưa tới quan niệm Hiếu Dân tức là: Dưỡng Dân, Thân Dân, Thuận Dân thành luật lệ cai trị “Tản Quyền Nhân Trị” không bị các bạo lức Thế Quyền, Thần Quyền khống chế. Dân chúng có nhiều cơ hội và điều kiện phát huy tài năng. Nên tay nghề luyện Đồng, rèn Sắt sớm phát triển, tạo ra được thời đại “Trống Đồng” và thời đại “Ngựa Sắt” hết sức rực rỡ, không chỉ phục vụ triều đ́nh, mà phục vụ toàn dân.
Đến thời Nhà Thục, người Việt mới bắt tay vào xây dựng thành lũy kiên cố, theo kiểu văn minh Lưỡng Hà. C̣n trước kia th́ Vua cũng sống ḥa với Dân, trong đô thị không có nhiều cách biệt. Đến thời Triệu Đà phá đi Cổ Loa Thành, th́ thành lũy theo lối Phong Kiến Trung Hoa mới được xây dựng trên đất Việt. Chế độ Quân Chủ cực quyền, mới hoàn toàn thay thế cho lề lối Nhân Trị tản quyền của Việt Tộc. Dân Việt thực sự sống trong môi trường Quốc Gia Phong Kiến. Ảnh hưởng tư tưởng của Trung Hoa thời Chiến Quốc mới đến với người Việt. Nhưng chưa tạo nổi một tư thế khống chế.
Chỉ khi Nhà Hán xóa bỏ Quốc Gia Phong Kiến Nam Việt, để chia thành quận huyện, đặt người Tầu trực tiếp cai trị, th́ người Việt mới bị tư tưởng Cực Vi Phong Kiến Hán Tộc chi phối quyết liệt. Nhưng một đại sự nhân duyên đến với Dân Tộc Việt là Đạo Phật từ Ấn Độ đă theo chân các nhà hàng hải, vào sinh sống tại đất Việt, ngay đầu thiên niên kỷ thứ nhất Tây lịch, đă êm đềm thấm nhập vào lối nghĩ, lối sống của người Việt. Với Tâm Từ Bi của Đạo Phật quyện nhanh với T́nh Nhân Ḥa của Việt Tộc. Đạo Phật đă t́m đúng môi trường lư tưởng để thể hiện toàn diện ngay trong tâm tư người Việt. Đă mau chóng tạo ra những thiện tri thức cho Dân Tộc Việt và tạo ra những trưởng tử lỗi lạc của Đức Phật như ngài Khương Hội, vào mấy thế kỷ sau đó, đă đưa Đạo Phật truyền vào miền Hoa Nam ở thời Tam Quốc Nhà Ngô Tôn Quyền.
Nền tảng TƯ TƯỞNG NHÂN CHỦ VIỆT hợp với BIỆN CHỨNG NHÂN CHỦ PHẬT đă ḥa quyện với nhau thành một thể thống nhất, tạo ra những tâm hồn Việt hết sức Người Tự do, Tự chủ, Sáng tạo, nhờ đó phát triển khả năng Dung Hóa một cách rất tự nhiên, thấy điều ǵ đẹp, tốt, đúng cho tâm tư Con Người, không phân biệt từ đâu tới, cũng mở rộng ḷng đón nhận, để đăi lọc lấy tinh túy, nhằm vun bồi cho kiến thức, tâm hồn và cuộc sống của ḿnh. Bởi đấy khi tiếp nhận Đạo Lăo từ Trung Hoa do các Đạo Sĩ truyền vào, người Việt đón nhận một cách rất nồng nhiệt, nhất là nhận thức Duy Nhiên của Lăo Giáo rất hợp với phong thái của người phương Nam. Triết lư Vô Vi của Đạo Lăo rất gần với biện minh Không Tôn của Đạo Phật, thành ra hai nền Đạo Học đó đă bổ sung cho nhau, để hướng dẫn suy tư của người Việt phát huy trí tuệ, t́m về nguồn cội Tâm Linh B́nh Đẳng, hội nhập trọn vẹn vào Ḍng Sinh Mệnh Văn Hóa Việt. Đây cũng là sự biểu hiện Nhân Chủ Đạo một cách mặc nhiên, trong lối suy tư và đời sống Việt.
Với Đạo Khổng th́ từ khi Nhà Hán Trung Hoa, nhận là học thuyết chủ đạo trong việc xây dựng chế độ và mở mang Văn Hóa ra khắp Đế Quốc, th́ các Sĩ Phu Nho Học đều lấy việc tiến thân trong quan trường làm mục đích của sự học. Dù trong mức thang giá trị xă hội văn hóa, Đạo Khổng có đề ra trật tự tôn quư của Con Người là “Quân, Sư, Phụ”, trên hết là Nhà Vua, thứ hai là Thầy Đồ, cuối cùng mới đến Cha Ruột. Thế nhưng đối với đẳng cấp Cai Trị th́ “Trung Quân Ái Quốc”. “ Trung thần bất sự nhị quân”.“Quan Chi Phụ Mẫu”. Quan là cha mẹ dân, từ thầy đồ trở xuống tới cha mẹ cũng đều là con dân của quan. Quan chỉ dưới có Vua. Như vậy phẩm trật Văn Hóa, đều bị đặt đưới đẳng cấp cai trị hết. Đạo Khổng đă bị Nhà Hán biến thành phương tiện thống trị của Đế Quốc Phong Kiến.
Một số quan lại của Đế Quốc Hán có học thi đỗ ra làm quan, nghiễm nhiên trở thành những môn đồ sùng thượng Nho Giáo, đem Đạo Nho phổ truyền ra khắp Đế Quốc, trong đó điển h́nh có các Thái Thú cai trị Giao Châu, - tức là một quận lớn thủ phủ tại đất Việt thời đó vào những thế kỷ đầu Tây Lịch - như Tích Quang, năm thứ 2, thực sự đem văn minh chữ Hán vào truyền bá tại đất Việt. Nhâm Diên, năm 29 – 33, đưa tục cưới hỏi của người Tầu vào áp dụng. Sĩ Nhiếp, năm 178 – 226, được kể như Thái Thú có công lớn nhất trong việc truyền bá đạo Nho. Nhưng ảnh hưởng của Nho học cũng chỉ hạn hẹp trong chốn quan trường, và với những người của Đế Quốc đưa từ Trung Thổ sang, c̣n dân chúng Việt th́ vẫn theo đạo “Ông Bà”. Nhất là theo thuyết “Nhân Quả” của Phật Giáo, v́ rất đúng với lẽ công bằng báo ứng của tin tưởng tự nhiên nơi Con Người.
Hơn nữa tinh thần đề kháng Đế Quốc, bảo tồn Dân Tộc, vốn là bản tính hằng hữu của người Việt, nên người Việt cảm nhận nơi Đạo Phật của nước Ấn thân thiết với ḿnh hơn là Đạo Khổng của Đế Quốc Trung Hoa. Riêng với Đạo Lăo, v́ Đạo Khổng được triều đ́nh nhà Hán tôn lên làm Quốc Đạo, nên Lăo Giáo bị hất hủi chèn ép, đă phải phiêu bạt sang đất Việt. Bởi vậy cùng chung thân phận bị trị với Dân Tộc Việt, thành ra cũng được người Việt tin theo nhiều. Phải nhận rằng chính chữ Nho đă là phương tiện lưu truyền đạo Phật, đạo Lăo trong giới trí thức Việt. Dù chữ Nho khó học, khó nhớ, nhưng nếu không có th́ kinh sách Phật Giáo chẳng thể phiên dịch và phổ biến được.
Cũng chính nhờ phương tiện chữ Nho, mà trí thức Việt Nam mới t́m được những giá trị cao đẹp của tư tưởng Khổng Học, ngoài những ước thúc cai trị của văn minh xă hội phong kiến, vốn là phương tiện thống trị Con Người của Đế Quốc Hán. Đây là điều kiện cho những nhà uyên bác Việt Nam sau này, t́m được sự Viên Dung, Đồng Nguyên của ba đạo Phật, Lăo, Khổng để dễ dàng thực hiện cuộc DUNG HÓA trọn vẹn nổi các nền Đạo Học Văn Minh Thảo Mộc Đông Phương, tạo thành tư tưởng chủ đạo cho cuộc vận động và mở mùa Độc Lập Tự Chủ của Việt Tộc và xây dựng được thời đại Văn Hiến Dung Hóa rực rỡ Lư Trần.
Chính nhờ đặc tính Tự Chủ truyền thống của Dân Tộc và được củng cố bởi tinh thần Tự Chủ của đạo Phật, mà tính cách Đề Kháng Cường Quyền Bạo Lực, giành Độc Lập cho Giống Ṇi của người Việt trở thành bền bỉ bất hoại. Trong suốt ngàn năm bị đô hộ, thời nào cũng có anh hùng, liệt nữ nổi lên giành Độc Lập cho Tổ Quốc. Sau khi các Thái thú Tích Quang, Nhâm Diên đem lư tưởng Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín của Khổng Tử ra truyền bá, th́ các Thái thú tham tàn bóc lột dân chúng lại đă xuất hiện. Bởi thế hai vị nữ anh thư của Việt Tộc là Trưng Trắc, Trưng Nhị đă khởi nghĩa đánh đuổi Thái thú Tô Định. Mở nước Độc Lập xưng vương được ba năm, 40 – 43. Rồi đến Sĩ Nhiếp tận lực phổ biến đạo Khổng, th́ liền sau đó các Thái Thú tàn ác khác xuất hiện. Năm 248, một vị nữ kiệt nữa là Triệu thị Chinh nổi lên đánh với viên Thứ sử Lục Dận của nước Ngô, nhà Hán tam quốc, dù chỉ tồn tại có 6 tháng, nhưng đó là sự tiếp lửa cần thiết với Nguồn Sống Tự Chủ của Việt Tộc vậy.
Sau bà Triệu 296 năm, vào năm 544, Lư Bôn quật khởi đánh đuổi quan quân nhà Lương của Trung Hoa lập ra nhà Tiền Lư, xưng hiệu là Lư Nam Đế. Truyền ngôi cho Triệu Quang Phục. Năm 549, Triệu Quang Phục xưng hiệu là Triệu Việt Vương. Đến năm 571 th́ bị cháu Lư Nam Đế là Lư Phật Tử giành ngôi. Cuối cùng bị nhà Tùy Trung Hoa thôn tính vào năm 603. Trong 59 năm Độc Lập, Phật Giáo thực sự vững mạnh trong dân chúng. Năm 580 vị Thiền sư Ấn Độ là Vinitaruci lập ra Thiền phái thứ nhất tại Việt Nam. Hết nhà Tùy đến nhà Đường thay nhau thống trị Việt Tộc. Năm 722, Mai Thúc Loan được mệnh danh là Mai Hắc Đế phất cờ khởi nghĩa đánh quân nhà Đường. Sau Mai Hắc Đế là Phùng Hưng 791, được dân chúng tôn xưng là Bố Cái Đại Vương đuổi được binh tướng nhà Đường về Tầu. Phùng An lên kế nghiệp cha, nhà Đường phải mang quân chính quốc sang mới đặt lại được ách đô hộ.
Chính nhờ những cuộc khởi nghĩa liên tục đó đă buộc nhà Đường phải thay đổi chính sách đô hộ, từ việc cử Thái Thú Tầu trực trị, sang chính sách bảo hộ. Nghĩa là buộc phải phong thân hào người Việt là Khúc Thừa Dụ làm Tiết Độ Sứ cai trị Giao Châu vào năm 906. Kể từ đó trí thức Việt mới phải học“trị thuật” của Đạo Nho để ra làm quan. Do sự thay đổi triều chính của người Trung Hoa, và nhờ các cuộc đấu tranh liên tục của người Việt. Năm 939, Ngô Vương Quyền mở ra mùa Độc Lập toàn diện cho nước Việt sau 1050 năm bị Đế Quốc Phong Kiến Trung hoa thống trị
.
THỂ HIỆN CỦA NỀN VĂN HIẾN DUNG HÓA
Việt Nam Độc Lập khởi từ vua Ngô Quyền năm 939. Sau khi đánh đuổi quân Nam Hán ra khỏi bờ cơi, Ngô Quyền xưng Vương, đóng đô ở Cổ Loa, thiết lập triều chính. Tuy có Triều đ́nh Độc Lập với người Hán, nhưng nhà Ngô cũng chỉ là đổi tên gọi hệ thống cai trị cũ thời Tiết Độ Sứ của người Giao Châu, chứ chưa đặt Quốc Hiệu, chưa tạo được nền Văn Hiến cá biệt. Bởi thế khi Ngô Vương băng hà, các con tranh chấp ngôi báu, tạo loạn triều chính, các Thổ Hào cát cứ từng địa phương, xưng hùng đánh chiếm lẫn nhau. Tạo cảnh Thập Nhị Sứ Quân.
Đinh Bộ Lĩnh, sau khi dẹp tan Sứ Quân, thống nhất toàn vẹn lănh thổ, không c̣n xưng vương như Ngô Quyền nữa, mà năm 968 tuyên xưng đế hiệu là Đinh Tiên Hoàng Đế. Vẽ lại lănh thổ thống nhất, hoàn toàn Độc Lập Tự Chủ với Trung Hoa. Lấy tên nước là Đại Cồ Việt. Thiết lập chế độ Quân Chủ Tập Trung. Không nhận Đạo Nho làm chủ đạo triều đ́nh và xă hội như truyền thống người Hán, mà tôn Thiền sư Khuông Việt làm Tăng Thống Phật Giáo, vừa là quốc sư của triều đ́nh vừa điều khiển các tăng đoàn trong cả nước.
Đạo Phật từ một tôn giáo của người Việt bị trị, cả ngàn năm sống trong sự khổ đau của người dân mất nước, đă có công vun bồi tinh thần chủ động của người Việt, nhằm kiên tŕ giành lại tự chủ cho Dân Tộc, Độc Lập cho Tổ Quốc. Đến thời nhà Đinh thống nhất th́ toàn dân đều cùng có một tín ngưỡng là Phật Giáo. C̣n Đạo Lăo một phần thâm nhập vào giới kẻ sĩ ưu du, phần khác ḥa vào với “đạo đồng bóng” vốn có từ thớ cổ xưa, để mọc lên các Điện Thờ. Tạo thành một hệ thống Đ́nh, Chùa, Điện, Miếu trong nhân gian. Nhưng giữa bốn nơi thờ tự đó không có sự phân chia tôn giáo, Người Việt có thể đến lễ bái bất cứ nơi nào, không hề bị phân biệt đối xử.
Tuy Lăo Giáo bên Trung Quốc có Đạo Sĩ, nhưng tới Việt Nam th́ giới Đạo Sĩ không thành h́nh rơ nét, mà chỉ là giới trí thức theo quan niệm sống Lăo Trang. C̣n các Thầy Pháp, Cô Đồng, Thầy Phong Thủy cũng tự nhận là người theo Tiên Đạo Vô Vi như Lăo Giáo. Nhưng nội dung th́ không c̣n là thứ Vô Vi Đạo Học của Lăo Tử nữa.
Bởi thế xét về mặt Tôn Giáo có Tu Sĩ Truyền Thừa, có hệ thống tu học, và nơi Thờ Tự đặc thù th́ ở Việt Nam thời ấy chỉ Phật Giáo mới là một Tôn Giáo hoàn chỉnh và rộng khắp, ảnh hưởng trực tiếp tới t́nh cảm, suy tư, và đời sống dân chúng. Chính v́ vậy Nhà Đinh đă đưa Đạo Phật lên thành Quốc Giáo, không những lo về việc tâm linh cho Quốc Dân, mà c̣n trao cho những việc ổn định nội trị và ngoại giao. V́ nếu kể về những người có chữ nghĩa trong thời bị đô hộ, th́ giới Tăng Sĩ Phật Giáo là những người được học nhiều nhất so với các giới khác.
Nhưng với bản chất Từ Bi Giải Thoát, Phật Giáo tuy có ưu thế trong Dân Chúng, nhưng trong Chính Trị và Cai Trị vẫn không đúng sở trường của ḿnh. Bởi thế về mặt chủ quan không đáp ứng nổi với một chế độ Quân Chủ Tập Trung vừa mới h́nh thành, c̣n nhiều kháng lực, do quan niệm tranh quyền, đoạt vị. Trước mắt của những lực lượng ấy th́ dân chúng vẫn là con dân chỉ biết vâng lệnh.
Sau khi Nhà Đinh bị loạn thần soán đoạt, Lê Hoàn được triều thần tôn lên ngôi vào năm 980, xưng hiệu là Đại Hành Hoàng Đế, lập ra nhà Tiền Lê, th́ Phật giáo vẫn được trọng vọng. Khi đưa quan niệm từ bi vào chỉ đạo triều đ́nh, tuy là việc Đế Đạo, nhưng lại là một cản lực cho các ư niệm tranh quyền, đoạt lợi vị kỷ của vua quan. Bởi thế Phật Giáo từ thế chỉ đạo triều đ́nh, trở thành chướng ngại cho những tham vọng cá nhân. Đây là lư do đưa đến việc Lê Long Đĩnh, 1005 – 1009, một ông vua hoang dâm, bạo ngược, hiếu sát đă xuống tay đàn áp Phật Giáo.
Dù đạo Phật đă ngàn năm ḥa vào tâm thức người Việt, cùng nhất thể với tư tưởng Việt, nhưng khi cùng các triều đ́nh Việt, bắt tay vào thực tế xây dựng đất nước Độc lập, th́ đă gặp những nhược điểm không thể tránh, v́ thiếu kinh nghiệm an bang tế thế hợp lư của một luật lệ cai trị hữu vi. Phải đợi đến một vị Thiền Sư siêu việt là Vạn Hạnh xuất hiện, mới nhận thức được giá trị an bang tế thế của lớp Nho Sĩ Đạo Khổng, đă phục vụ hữu hiệu cho chế độ của Phong Kiến Quân Chủ ở Trung Hoa là cần cho thực tế cai trị. Rút kinh nghiệm từ đó, nên đă trọng dụng Nho Gia, khuyến khích Khổng Học. Nhờ thế, mới kiến tạo nổi nền Văn Hiến Dung Hóa: Đa Nguyên, Phân Nhiệm, Điều Hợp, tận dụng mọi khả năng của Quốc Dân để phụng sự Tổ Quốc.
Bởi vậy, năm 1010 sau khi góp sức với triều thần đưa được Lư Công Uẩn chịu ngồi vào ghế Hoàng Đế thay cho nhà Lê, thiết lập nhà Lư. Thiền sư Vạn Hạnh đă trả đạo Phật về với toàn dân, trao triều đ́nh cho Nho Sĩ của đạo Khổng phục vụ, đồng thời tạo ra Thế Văn Hóa Ngoài Chính Quyền, chỉ đạo cho vua và triều đ́nh, mà không nhận sắc phong. Do đó hiểu được tại sao vua Lư Thái Tổ là người xuất thân từ cửa chùa, sư Vạn Hạnh tuy là thầy vua, một tay xoay chuyển cơ đồ, thiết kế chế độ, xây thủ đô Thăng Long, mà ngài không giữ chức Tăng Thống theo tục lệ của các triều cũ. Lư Công Uẫn không đưa đạo Phật làm Quốc Giáo như Nhà Đinh, th́ đủ thấy tinh thần V́ Dân, V́ Nước của những Phật Tử đó, đă biết tự đặt quyền lợi Dân Tộc trên quyền lợi Tôn Giáo của ḿnh vậy.
Dù tinh thần viên dung ḥa hợp, khả năng dung hóa vốn rất tự nhiên sẵn có trong tâm thức người Việt, đă hơn một ngàn năm nhận và sống với các luồng tư tưởng Phật, Lăo, Khổng, nhưng phải đợi đến sự xuất hiện do suy nghiệm quán đạt thực tại của Vạn Hạnh, Thiền sư đạo Phật Việt, mới biết thế cách ứng đụng vào thực tế tổ chức, phân công, phân nhiệm, điều hợp trong công cuộc điều hành đất nước. Đạo Khổng hữu vi hợp lư, đưa vào chỉ đạo tổ chức xă hội phong kiến. Đạo Lăo vô vi duy nhiên, tạo cho tâm tư người trí thức sau cuộc đời vật lộn với lợi danh t́m được nơi di dưỡng. Đạo Phật giải thoát, mở lối cho tâm thức Con Người vươn lên thể nhập vào nguồn siêu lư trong trinh của đại thể vũ trụ. Như thế là ổn định được toàn diện cuộc sống tâm linh, tự tại và thực tế của Con Người.
Đến đời Lư Thánh Tông 1045 – 1072, đổi quốc hiệu từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt. Khai hóa văn học, lập văn miếu, tạc tượng Chu Công, Khổng Tử và 72 tiên hiền Nho Học. Năm 1075 đời vua Lư Nhân Tông mở khoa thi Tam Trường để tuyển người văn học ra làm quan. Đây là kỳ thi đầu tiên ở nước ta, mà thủ khoa là Lê Văn Thịnh. 1076 lập Quốc Tử Giám. 1086 lập Hàn Lâm Viện. Nho Giáo thực sự lớn mạnh và nắm giữ công việc triều chính từ đó.
Chính nhờ sự quân bằng nổi Thế Quyền và Đạo Quyền, mà tâm tư Con Người ổn định, triều đ́nh luôn luôn quan tâm tới sự chỉ đạo của thế lực văn hóa, tiêu biểu cho ư nguyện toàn dân, không lệ thuộc ư chí chủ quan của vua quan. Nên dân chúng Việt Nam thời Lư sống hết sức thanh b́nh ấm no hạnh phúc. Phát huy được toàn diện mọi khả năng sáng tạo của một nền Văn hiến Dung hóa, Đa nguyên, Phân nhiệm, Điều hợp, là kết quả sự viên dung tổng hợp giữa các luồng tư tưởng của nền Văn minh Thảo mộc Đông phương.
Người đại diện khai sáng ra Thế Lực Văn Hóa Chỉ Đạo Triều Chính, đó là một Tăng sĩ Phật Giáo, nên mặc nhiên Phật Giáo cực thịnh. Từ Vua Quan tới Toàn Dân đều sùng thượng Đạo Phật. Nhưng đến khi trong giới tăng sĩ không có nhân vật nào đủ tầm vóc, để tiếp nối được sự nghiệp của Ngài Vạn Hạnh nữa, th́ không những Đạo Pháp suy vi, Đạo Quyền thất thế, mà nhà Lư cũng suy nhược theo. Thế Quyền lúc đó lại đă nhiễm sâu vào thói tục hư đốn của bọn hủ Nho là: “nịnh trên đạp dưới”. Vua th́ hoang chơi xa xỉ. Tôi th́ mua quan bán tước, hà hiếp dân lành. Dẫn tới loạn lạc. Tạo điều kiện cho nhà Trần phế bỏ triều Lư.
Tuy phế bỏ nhà Lư, nhưng nhà Trần từ 1225 đến 1400, quan tâm duy tŕ Văn Hiến Dung Hóa do nhà Lư đặt nền. Thế là việc đầu tiên mà nhà Trần phải làm, để tránh vết xe đổ của nhà Lư, là chấn chỉnh lại Tam Giáo. Năm 1227. Vua Thái Tông đời thứ nhất, năm thứ 3 nhà Trần, đă mở khoa thi “Tam Giáo Tử” tuyển chọn những đệ tử sáng giá trong Phật, Lăo, Khổng để phát huy Tam Giáo. Có nghĩa là nâng cao kiến thức, khả năng của những nhà nối tiếp và thi hành Văn Hiến Dung Hóa.
Có thể nói đến đời Trần th́ công tŕnh dung hóa tư tưởng mới được đưa thành Hiến Chế, mở trường học Tam Giáo, thi tuyển nhân tài. Nhờ vậy mà các sinh hoạt Quốc Dân trở thành ổn định. Dù bị ba đợt xâm lăng của Đế Quốc Nguyên Mông. Triều đ́nh phải rời bỏ thủ đô, Vua, Quan, Dân cùng chạy loạn, mà ḷng người không loạn, quân đội không nhiễu. Trái lại đă làm nên những chíến thắng thần kỳ. Chận đứng nổi vó ngựa của đoàn quân đă đánh thắng khắp nơi từ Âu qua Á.
Nhà Trần cũng xuất hiện một nhân vật lẫy lừng, tuy không có công sáng lập triều đại, nhưng lại đă thực tiễn hóa những tư tưởng cũa Tam Giáo, nhất là Đạo Phật một kho tàng Tâm Thức Vô Biên để dung hóa trọn vẹn với hai luồng tư tưởng Khổng Hữu Vi và Lăo Vô Vi để làm thành Tư Tưởng Việt Viên Dung Toàn Diện, Dấn Thân Minh Động. Đó là Trần Trung, viên dung tam giáo, một vị Thiền Gia Cư Sĩ, hiệu là Tuệ Trung Thượng Sĩ, thầy của vua Trần Nhân Tông. Sau khi đánh tan đại quân của Đế Quốc Nguyên Mông, vua Nhân Tông đă nhường ngôi cho con, giữ vị Thái Thượng Hoàng rồi xuống tóc“tu hạnh đầu đà”, “hành cước trong nhân gian”, lấy hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng. Lập ra Trúc Lâm Thiền Phái. Ngài là đệ nhất tổ sư.
Nhà Lư, Vạn Hạnh thiền sư đă tạo lập nổi nền tảng Văn Hiến Việt với Thế Văn Hóa Chỉ Đạo Chính Quyền, triều đ́nh luôn tôn trọng Vạn Hạnh và các bậc Văn Hóa đứng ngoài triều đ́nh, đưa ra ư kiến chân chính, hướng dẫn triều đ́nh, để phục vụ đất nước, lănh đạo toàn dân, đưa Đại Việt lên hàng văn minh rực rỡ nhất Á Đông thời đó. Kể cả về mặt Văn, Vơ và thịnh vượng th́ đủ nội lực, để danh tướng Lư Thường Kiệt “Đánh Tống, B́nh Chiêm”. Lần đầu tiên Đại Việt đủ khả năng đánh phá ngay hậu cứ xâm lăng của nhà Tống trong nội địa Trung Hoa, rồi đợi quân Tống tiến sang xâm chiếm, và bằng trận thắng vượt trội kể cả về binh lực lẫn sách lược, chính trị, làm dứt hẳn mộng xâm lăng của người Tống từ đó.
Nhưng dù sao thời nhà Lư, tuy Thế Văn Hóa đă sắm đúng vai tṛ của ḿnh là làm “thầy” chính quyền, mà chưa đủ uy để kiểm soát chính quyền như nhà Trần. Các vua nhà Trần đều tuân theo lệ tốt, là khi Thái tử đă trưởng thành đủ sức đảm đương triều chính, th́ vua cha đều truyền ngôi cho con, để thành Thái Thượng Hoàng, nhưng không ngồi trong cung, mà xuống tóc đi tu, sống đời hành cước rong ruổi trong nhân gian. Chính v́ vậy, mà biết rơ được cuộc sống thực của dân, để dậy cho Đương Kim Hoàng Đế biết đúng cách trị quốc an dân, đồng thời làm cho quan lại không dám xách nhiễu dân chúng, nhờ đó dân giầu nước mạnh. Thái Thượng Hoàng nhà Trần không những ở vào Thế Văn Hóa làm “thầy vua” mà lại là “bố vua” nữa. Đúng là một thể chế “vô tiền khoáng hậu” không riêng lịch sử Việt Nam, mà hầu như toàn Thế Giới cũng khó có được.
Thời Trần Nhân Tông 1279 – 1293. Quân Nguyên Mông từ năm 1284 đến năm 1288 hai lần tràn vào Đại Việt đều bị đại bại. Tuy đă tạo thành những chiến tích lẫy lừng về mặt quân sự, mà về mặt văn học lại rất hưng thịnh hào hùng, thể hiện qua bài Hịch Tướng Sĩ của Trần Hưng Đạo. Thơ của Trần Quang Khải và Phạm Ngũ Lăo. Đặc biệt là tinh thần độc lập nơi văn tự, khởi đầu là Nguyễn Thuyên sau được vua gọi là Hàn Thuyên, đă dùng chữ “NÔM” đễ làm thơ phú phát âm đúng tiếng Việt, không phải là chữ “HÁN” đọc theo giọng Việt, rồi phải một lần dịch nghĩa ra nữa, th́ người Việt b́nh dân mới hiểu được.
NỀN VĂN HIẾN DUNG HÓA VIỆT TAN VỠ
Với truyền thống tư tưởng Dân Tộc Việt là Nhân Chủ Dung Hóa. Chiến lược chủ đạo cho việc xây dựng và phát triển đất nước là nền Văn Hiến được chỉ đạo bằng Thế Văn Hóa Viên Dung Tam Giáo, đă đem lại một cuộc sống thịnh trị hiển hách dài gần bốn thế kỷ. Thể hiện thật đầy đủ tinh hoa của nền Văn Minh Thảo Mộc Đông Phương. Nhưng đến khi Hồ Quư Ly xuất hiện với một quyết tâm cách mạng triệt để. Dùng Chữ Nôm thay Chữ Hán. Đưa ra học thuyết Minh Đạo. Thay đổi quan niệm về Xă hội. Lấy ruộng đất từ tay Phong Kiến Quư Tộc chia cho Dân cày. Phát hành tiền giấy thay cho tiền đồng. Triển khai kỹ thuật đưa vào phục vụ đời sống. Dù đây là một cuộc cách mạng hết sức sáng tạo, đối với Thế Giới thời ấy, mà chưa một nơi nào phát kiến ra nổi. Nhưng Quư Ly đă không đủ tư thế chọn con đường hóa đạo của Vạn Hạnh và các Thiền sư đời Trần là tạo lập “Thế Văn Hóa” hướng dẫn chính quyền, mà ông cần có độc quyền để thực hiện cách mạng, nên đă đoạt ngôi nhà Trần vào năm 1400.
Đúng ra Hồ Quư Ly khi đem tài ra phục vụ nhà Trần từ năm 1374, nắm quyền tể tướng, ông đă đem chủ thuyết cách mạng Minh Đạo ra thi hành, nhưng vua th́ nhu nhược, quần thần ngấm ngầm chống đối, v́ họ bị mất quyền lợi, buộc ông ở thế “trên lưng cọp”. Nên ông phải đoạt lấy ngôi vua, lập ra nhà Hồ, để rộng tay áp dụng chủ nghĩa. Nhưng việc đó lại đă tạo điều kiện cho nhà Minh Trung Hoa lấy cớ giúp con cháu nhà Trần, đem quân đô hộ Đại Việt vào năm 1407. Thế là nền Văn Hiến Việt bị diệt.
Chỉ trong ṿng 13 năm, nhà Minh thống trị Đại Việt, với chính sách tàn ác thâm độc, tận diệt nền Văn Hiến Việt, đốt phá hết kho tàng văn khố và các tác phẩm của người Việt lưu hành trong nhân gian, bắt nhân tài Việt về làm nô dịch cho Đế Quốc, vơ vét tận cùng tài nguyên Việt Nam, đặt quan quân cai trị trực tiếp, nhằm khống chế mọi sinh hoạt của dân chúng. Chính công tŕnh trùng tu gần như làm mới lại khu Tử Cấm Thành Bắc Kinh, mà c̣n lưu tới bây giờ, cũng do kiến trúc sư trưởng, “phó cả” người Việt chỉ đạo, với những nhà khắc họa và thợ mộc người Việt thực hiện. Có thể nói rằng một ngàn năm Bắc Thuộc trước kia, v́ Văn Hóa Việt chưa có đất thể hiện, nên Đế Quốc có muốn phá hủy cũng không biết đâu mà phá. Nhưng sau Bốn Trăm Năm, Văn Hóa Việt đă biểu hiện cụ thể ra thành Văn Hiến, th́ Đế Quốc dễ thấy, nên sự phá hủy thật hết sức nghiêm trọng.
Hậu quả là sau khi vua Lê Lợi và quân sư Nguyễn Trăi huy động sức toàn dân đuổi được quân Minh khỏi bờ cơi, năm 1428, thiết lập Triều đ́nh tự chủ, th́ sau đó chỉ c̣n là thứ Triều Đ́nh Phong Kiến Thông Tục, không c̣n là Triều Đ́nh Văn Hiến lấy Văn hóa làm chủ đạo, như văn minh Lư, Trần nữa.
Chính nhà thiết kế chế độ là Nguyễn Trăi cũng sớm nhận ra điều đó, nên đă xin được về hưu để mở trường dậy học. Tuy các vua Lê vẫn tôn ông là Quốc Phụ, thường tới tận nhà để vấn an và xin ư kiến. Tức là đă tái lập thế Văn Hóa Chỉ Đạo Chính Trị. Nhưng không may cho Việt Nam, năm 1442, vua Lê Thái Tông đi duyệt binh tại Chí Linh ghé thăm Quốc Phụ Nguyễn Trăi, thấy Nguyễn Thị Lộ ngươi hầu của ông xinh đẹp, hay chữ, nên bắt theo hầu hạ, đến huyện Gia Định vua bị chết. Tộc thần nhà Lê vu cho Nguyễn Trăi âm mưu giết vua, ghép tội chém ba họ. Thế là một lần nữa bọn quyền thần lộng hành đă diệt mất niềm hy vọng của nền Văn Hiến Dung Hóa Việt.
Thế quyền thời Lê vươn lên cực mạnh, nhất là đời vua Lê Thánh Tông đă tạo ra một hệ thống cai trị văn vơ lưỡng toàn, nhằm trị dân theo luật lệ nghiêm minh. Vua sai Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận viết ra bộ Thiên Nam Dư Hạ Tập, gồm 100 quyển về H́nh Luật đời Hồng Đức, tức là niên hiệu của Thánh Tông từ 1470 đến 1497. Đây đánh dấu thời Văn Hóa Tính Hữu Vi và nền Pháp Chế Thành Minh Văn cực thịnh của nước Việt. Nhưng cũng là thời điểm mà Nho Giáo từ từ vượt lên, trở thành độc tôn. Phật giáo mất thế Đạo Quyền đối với Quốc Dân, trở về sống cùng thôn dă.
Khi Đạo Khổng đă trở thành độc tôn chủ đạo Quốc gia, th́ Quốc Gia Phong Kiến Việt Nam lúc đó đâu có khác ǵ Quốc Gia Phong Kiến Trung Hoa. Những thói tục triều đ́nh vốn xấu nhiều hơn tốt, mà không có sức mạnh tinh thần nào kiềm chế th́ sự lạm dụng quyền hành, tranh cướp, thoán đoạt, loạn lạc là điều đương nhiên phải xẩy ra. Năm 1527, Mạc Đăng Dung tay nắm đại quyền, buộc các quan nhà Lê phải thảo chiếu truyền ngôi vua cho ḿnh, để lập ra nhà Mạc.
Kể từ đấy Việt Nam ch́m trong cảnh Chiến Tranh Thường Trực kéo dài nửa Thiên Niên Kỷ. Dưới đủ mọi h́nh thái chiến tranh. Chiến tranh Nam Bắc Triều giữa hai nhà Mạc, Lê 1527- 1592. Chiến tranh Nam Bắc Phân tranh giữa hai họ Trịnh, Nguyễn 1627- 1672. Chiến tranh diệt Nguyễn, Trịnh của Tây Sơn và phá Đế Quốc Thanh, thống nhất của Quang Trung Nguyễn Huệ 1776-1789. Chiến tranh Phục Quốc thống nhất sơn hà, lập ra nhà Nguyễn của vua Gia Long 1778- 1802. Chiến tranh chống Thực Dân Pháp cướp nước của toàn dân 1858- 1945. Chiến tranh giữa Quân phiệt Nhật và Đồng Minh ở Á Châu trên đất Việt 1940- 1945. Chiến tranh chống Thực Dân Pháp tái lập đô hộ tại Việt Nam 1946 - 1954. Chiến tranh Ư thức hệ giữa Nam Quốc, Bắc Cộng 1954- 1975. Chiến tranh Quốc Tế Hóa giữa hai thế lực Cộng Sản và Tự Do 1965- 1975. Chiến tranh huynh đệ tương tàn giữa Việt Cộng và Trung Cộng 1979. Chiến tranh làm nghĩa vụ Quốc tế của Cộng sản tại Cam Bốt 1978 - 1991.
Trên đây là những cuộc chiến tranh chồng chéo lên nhau, với nguyên nghĩa của chiến tranh là tàn sát sinh linh, bằng binh đội và đủ loại vơ khí lợi hại nhất, mà mỗi thời có được. Dưới mọi danh nghĩa hay ho của mỗi thời đă cố tuyên xưng ra. Chưa có nước nào trên Thế Giới, mà lại rơi vào hiểm họa chiến tranh tàn khốc kéo đài gần 500 năm như Việt Nam.
Về phần tương quan khách thể, th́ Việt Nam nằm sát nách một Đế Quốc Phong Kiến khổng lồ Trung Hoa, luôn luôn nuôi mộng xâm lăng. Bất cứ thời nào gặp cơ hội phát khởi chiến tranh xâm lược được là họ cũng chụp bắt lấy liền. Tới khi các thế lực Thực Dân, Phát Xít, Cộng Sản, Tư Bản tranh cướp thuộc địa, tranh giành ảnh hưởng với nhau th́ Việt Nam trở thành trung tâm điểm nóng của chiến lược Quốc Tế.
Về phần nội tại chủ thể, th́ từ khi nền Văn Hiến của Việt Nam bị sụp đổ, nhận thức Viên Dung và truyền thống Dung Hóa của Dân Tộc bị đứt đoạn. Các tư tưởng Độc Tôn cực đoan khống chế tâm tư Con Người, tranh đoạt quyền bính, chia bè kết cánh, triệt hạ, loại trừ nhau, tạo thành đấu trường tư tưởng ngay trong cuộc sống của mổi người và toàn dân, thành cảnh “Tâm Loạn”. Dân Tộc mất nền tảng thống nhất, nên đă rơi vào thế chiến loạn liên miên. Tuy Dân Việt là giống dân thuần nhất, ngôn ngữ duy nhất.
Các luồng tư tưởng ngoại lai, không được tiếp nhận bằng nhận thức viên dung và khả năng dung hóa, mà lại được tin nhận nguyên vẹn, rồi biến thành lư tưởng cho từng nhóm người coi nhau như thù địch. Thêm vào đó những luồng tư tưởng ngoại lai ấy, là sản phẩm của các ư niệm duy lư, duy ư chí cực đoan, cuồng tín của văn minh Hy La, được che đậy cho những tham vọng độc tôn thống trị. Bởi đó, từ tư tưởng tới thực tế người Việt mặc nhiên bị đặt vào ṿng vọng ngoại và ngoại thuộc.
Sau khi Dân Tộc Việt đă đích thân trường kỳ thực nghiệm các lư tưởng cực đoan, và bị cuốn vào ṿng đấu tranh, chiến tranh, chiếm đoạt, nhằm toàn thống dân chúng của phe phái, mà dù các phe đều cố gắng biện minh cho lư tưởng của họ là phù hợp với tinh thần Dân Tộc, th́ bản chất của họ vẫn là những tư tưởng một chiều cực đoan, không thể là tư tưởng truyền thống của Người Việt, Tộc Việt trong thực tại Sử Việt. Bởi Sử Việt đă minh chứng rằng: “Nền tảng của Tư Tưởng Việt là Nhân Chủ. Truyền thống của Văn Hóa Việt là Viên Dung. Yếu tính của Văn Hiến Việt là Dung Hóa: Đa Nguyên, Phân nhiệm, Điều hợp”, đúng với khuynh hướng và nhu cầu của thời đại. Vậy chừng nào Việt Nam được chỉ đạo bởi nguồn sáng nêu trên, th́ ḥa b́nh, thịnh vượng, phát triển mới thực sự trỡ về trên đất nước thân yêu Việt Nam.
.
TƯ TƯỞNG CHỦ ĐẠO XÂY DỰNG VIỆT NAM
Trong đấu tranh, nhất là trong xây dựng, mà thiếu tư tưởng chủ đạo nhất quán th́ cuộc đấu tranh đó bị xem như đă thảm bại trước khi phát động. Các cuộc đấu tranh kiểu ấy chỉù c̣n là những phản ứng theo cảm tính, hơn là một cuộc đấu tranh quy mô cho đại cuộc. Nhất laø trong xây dựng, mà thiếu tư tưởng chủ đạo nhất quán đúng với nhu cầu Con Người, Xă Hội, Lịch Sử, nói gọn là đúng với “Hướng Thăng Hóa của Thời Đại” th́ đó chỉ là những chắp vá luộm thuộm, chồng chéo lên nhau, tạo ra thêm những rối rắm cho cuộc sống, hơn là tổ chức ổn định cuộc sống.
Nhưng như vậy, cũng không nguy hiểm bằng việc tin theo một tư tưởng sai lầm, rồi coi đó là lư tưởng tuyệt đối, tự buộc ḿnh phải hy sinh và bắt người khác phải tôn thờ như ḿnh. Kẻ nào không cùng lư tưởng th́ bị xem là kẻ thù phải tiêu diệt. Giết nhau giành miếng ăn, đất sống c̣n bớt nguy hiểm hơn là giết nhau v́ lư tưởng. Lịch sử Ư Thức của Nhân Loại đă từng ghi đậm nét đau thương về thảm cảnh ấy. Thế mà cho tới ngày nay, Nhân Loại đang bước vào thời đại Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn, cảnh chém giết nhau nhân danh Tôn Giáo, Chủng Tộc vẫn chưa chịu chấm dứt, th́ thật là đáng trách.
Đáng giận nhất là thứ lư tưởng có tên là Duy Vật, Xă Hội Chủ Nghĩa, đă bị khai tử ở hầu khắp nơi trên thế giới, thế mà, không may mắn cho Dân Tộc Việt Nam, có một thiểu số người vẫn c̣n nhân danh nó, để khống chế đàn áp toàn dân, ḱm hăm sự phát triển của Dân Tộc. Điều không thể tha thứ được, là bọn người đó cũng biết thật rơ thứ lư tưởng ấy đă hết thời, nhưng v́ địa vị lănh đạo và quyền lợi bẩn thỉu riêng tư, họ đă cố bám vào thứ lư tưởng nguy hiểm đó, để kéo dài sựï cai trị độc tài mù quáng được thêm ngày nào hay ngày ấy.
Thế nhưng cuộc đấu tranh giành lại quyền làm người, quyền chủ động cho toàn dân, nhằm chấm dứt một chế độ Cộng Sản Độc Tài cũng không phải là điều dễ, v́ dù cho đó là một chế độ ngụy biện phi nhân, nhưng những biện chứng của nó, đă tạo thành nếp suy nghĩ máy móc đối với người theo và dân chúng bị buộc phải theo rồi. Thậm chí đến việc chống lại với thứ lư luận một chiều quá khích và hận thù đó, nhiều người cũng bị rơi vào tư tưởng quá khích một chiều khác, làm cho thế cuộc rối bời không lối thoát.
Bởi đó việc quán suốt để xác lập được một nền tư tưởng toàn diện, phát xuất từ tâm thức thực tại của Con Người, đáp ứng đúng với nhu cầu của Xă Hội và là hướng đi tới của Lịch Sử, để làm chủ đạo nhất quán cho cuộc đấu tranh và xây dựng lại đất nước, là một việc làm tối cần trong lúc này. Nhất là một đất nước sau nhiều thập niên bị chiến tranh tàn phá, bị biến thành một đấu trường Ư Thức Hệ. Bị chế độ Cộng Sản tàn phá khắp mặt tinh thần. Bị tư tưởng một chiều làm cong vênh hết mọi giá trị Văn Hóa truyền thống tốt đẹp của Tổ Tiên, th́ càng phải làm một cuộc tổng duyệt xét, để làm hiển lộ cho được Văn Hóa Tính tiềm ẩn ngay trong Tâm Thức mỗi người, và trong kho tàng c̣n lại của sử sách.
Một điều trước đây là sự mặc nhiên tin nhận như: Tinh Thần Ông Bà, Cha Mẹ, Tổ Tiên vẫn hiện diện trong tâm thức ḿnh, th́ ngày nay khoa học dần dần đă minh chứng được rằng: “Tinh túy của Thần Thức và Đặc Tính của Khí Chất thuộc ḍng máu ṇi giống ḿnh, đều chứa đựng trong những DNA di truyền ở nơi ḿnh”. Lẽ cố nhiên ở đây là chứa đựng toàn diện trọn vẹn những đặc tính tốt và xấu, lành mạnh cũng như bệnh hoạn của huyết hệ. Bởi thế Con người mới cần tới công năng tu tập, để thanh lọc, làm sáng mạnh những Đức Sáng Mạnh trong Tâm Thần của chính ḿnh, khiến cho Trí Tuệ quán suốt thực tại, giúp Từ Tâm bừng nở rộng khắp, thấu đạt được mọi lẽ chân thật của tất cả.
Rồi bằng vào phương pháp Hồi Nội, Phóng Ngoại, Kiểm Chứng để cụ thể hóa Tư Tưởng ra bằng Nhận Thức Viên Dung Toàn Diện, nhằm làm chủ đạo cho Suy Nghĩ thực tế, Hành Động Nhập Cuộc Đấu Tranh và Xây Dựng cho đất nước Tự Do Dân Chủ Điều Hợp. Có như vậy mới sớm đưa Đất Nước thoát khỏi Thân Phận Dân Tộc Nhược Tiểu, để Toàn Dân tự tin phấn khởi chủ động đưa Quốc Gia vững vàng gia nhập tiến tŕnh Toàn Cầu Hóa của Nhân Loại.
HỒI NỘI
Hồi nội là thánh địa linh thiêng sâu kín vô cùng tận cho những người trầm tư t́m chân lư. Nội tại Con Người là một Vũ Trụ thu nhỏ theo vật tướng cụ thể, và mở rộng vô cùng theo tinh thức siêu thể. Nhưng Con Người vốn sẵn có nguồn cảm thức riêng tư, đă được bồi đắp bởi nhiều đợt phù sa hiểu biết, qua lớp Di Thức Huyết Thống, Siêu Thức Vũ Trụ, Thế Thức Xă Hội. Chính ba nguồn Di Thức, Siêu Thức, Thế Thức đă tạo thành Bản Thể Tâm Thức cá biệt nơi mỗi người.
Mà như đă biết Di Thức đă được lưu truyền trong ta từ ngay khi Con Người đă tạo được Gene di truyền cá biệt của Loài ḿnh, để tạo thành Tộc Loại thượng đẳng, gieo truyền mầm sống cho ḍng dơi ḿnh không bao giờ gián đoạn, trừ khi loài người bị tận diệt. Siêu Thức lại có gốc gác vĩ đại sâu thẳm hơn nữa, đó là nguồn Siêu Thức Vô H́nh Vô Biên Vô Hạn của Vũ Trụ, cùng hiện hữu vĩnh hằng với Vũ Trụ, mà càng ngày càng được thăng hóa theo với sự thăng hóa của tinh thức của Con Người, và muôn loài muôn vật không bao giờ ngừng nghỉ. Thế Thức là kiến thức của Loài Người đă lưu truyền dậy bảo cho nhau, ngay trong những sinh hoat của cuộc sống và trong kho tàng Văn Hóa của các Dân Tộc và các khu vực Văn Minh.
Chính do sự kết tập mặc nhiên tinh vi, tiệm tiến, vĩ đại vô cùng đó, mà Tâm Thức mỗi người trở thành những kho tàng bí mật, hầu như dị biệt với tất cả, không những đối với tha nhân phải coi đó là một hiện tượng độc lập bất khả xâm phạm, mà ngay với chính tự thân cũng là một thách đố thường xuyên đối với ư thức quán sát khám phá của ḿnh. Chính do bản thức của mỗi người có nhiều yếu tính dị biệt, nên mỗi người đă tạo thành những đường ray ư thức, khiến cho những suy nghĩ của ḿnh thường ch́m đắm vào đường một chiều chủ quan.
Nên càng hồi nội, hồi nội với một mớ kiến thức và định kiến chủ quan, th́ Con Người càng dễ công bố ra những nhận thức khép kín, rồi nhận đó là Chân Lư tuyêt đối phổ biến, và càng nguy hiểm hơn nữa, là được đem ứng dụng vào thực tế cuộc sống, nó sẽ thành thứ gông cùm tù hăm tư tưởng vốn tự do rộng mở khắp mặt của Con Người vào một lớp vỏ cứng ngắc quá khích, coi kẻ khác lư tưởng, khác ư kiến, ngôn ngữ, mầu da, khác ḍng giống là kẻ nguy hiểm, phải pḥng ngừa, phải chinh phục, phải lợi dụng, phải tiêu diệt. Tâm lư nghi kỵ được khuếch đại ra thành hận thù. Đó chính là những căn nguyên tạo loạn lạc, chinh chiến đă kéo dài trong suốt ḍng lịch sử loài người.
Bởi vậy, tuy phương pháp hồi nội là một phương pháp tối cần cho người suy tư, nhưng để sự hồi nội đó không rơi vào thảm trạng chủ quan khép kín chật hẹp, Con Người cần phải can đảm phá bỏ mọi thành kiến trên Nhận Thức, phá hủy tất cả những ảo tưởng trên Ư Thức, quét sạch những thói quen trong Mặc Thức. Tức là phải tự thân thoát ra khỏi những cùm xích tư tưởng do ḿnh tự tạo, hoặc tiếp nhận từ bên ngoài đổ vào, dù cho đó là những lời chỉ bảo của các bậc Thánh Hiền, Đạo Sư, mà người đời thường xưng tụng là “không thể sai lầm”, hoặc ngay như những nguyên lư, đă được kiểm chứng bằng khoa học cũng vậy. Có như thế tâm tư ḿnh mới thanh thản, khoảng khoát, lắng đọng, đi dần vào cơi tĩnh lặng.
Trong trạng thái tĩnh lặng mặc nhiên đó, Ư hướng tính chủ động của Tâm Thức sẽ quán suốt mọi sinh hoạt của Siêu lư, Tâm lư, Sinh lư, Vật Lư nơi ḿnh, rồi tự do, tự chủ, sáng tạo hợp nhất với sự vận hành Siêu lư, Tâm lư, Sinh lư, Vật lư của tự nhiên, để hoàn chỉnh một tiến tŕnh thăng hóa tốt đẹp thanh thản là: “Chuyển Tinh Lực thành Khí Lực. Chuyển Khí Lực hóa Thần Lực”. Thần Lực càng mạnh th́ Tuệ Linh càng Sáng. Tuệ Linh như ánh mặt trời mùa xuân làm bừng nở hạt giống Từ Tâm vốn sẵn có trong mỗi người, khiến cho T́nh Thương b́nh đẳng rộng mở vô biên. Đây là trạng thái Đạt Đạo của bậc Nhân Chủ. Nhờ đó Con Người mới thấu hiểu được những sự thật về nguồn Di Thức huyền bí của ḍng giống tiềm tàng trong mỗi người, mới ḥa hóa và cảm nhận được sự vi diệu trong nguồn Siêu Thức hằng hữu vô biên của Vũ Trụ, mới quán đạt được những nhận thức đa dạng, đa tính, đa dụng trong nguồn Thế Thức toàn diện của Xă hội và Lịch sử.
Tiếp đến là lúc kiểm chứng những sự đồng nhất và dị biệt tự thân đối với tha nhân và khách thể, nhằm t́m ra ư hướng sống của tập thể và những nhu cầu cần thiết trong việc tổ chức xă hội. Có như vậy mới hoàn chỉnh nổi một Nhận Thức, khả dĩ không gây họa cho Con Người, không đẩy Loài Người vào những trận tuyến đấu tranh, chém giết nhau về lư tưởng như đă thấy, và di họa lâu dài trong Lịch Sử.
Qua sự hồi nội, suy tư và tự kiểm chứng, th́ Con Người vẫn hiện hữu dưới chiều Tự Nhiên với Thân Tâm vaø Vạn Hữu, trong Xă Hội với Tha Nhân và Chuyển Biến, cùng với tất cả những dị biệt và đồng nhất, đă tạo ra biết bao sự trái ngang, hân hoan có, mà khổ đau lại càng nhiều. Vậy cho sự hiện hữu này, chỉ là hư ảo, th́ những hư ảo của Tự Thân, của Tha Nhân và của Khách Thể, đều đă cùng đồng lơa với nhau làm thành một cuộc HIỆN HỮU TRONG HƯ ẢO, rồi chính cuộc sinh hóa, diễn biến, thăng hóa của sự hiện hữu đó, đều tác động trực tiếp vào với cảm thức vui buồn, khổ đau, c̣n mất của từng người, tạo cho mỗi người một Ư Thức Chủ Quan Cá Biệt, để định giá sự vật, sự việc. Khi đă có ư thức về những vui buồn, khổ đau để chấp chứa hay loại bỏ, tức là “Tôi đă có thực”. Vậy, Cái Tôi Có Thực, dù là Thực Hữu, hay Hư Ảo, cũng là Có Thật. Nên vấn đề c̣n lại, là vấn đề Con Người khổ đau cần t́m lối thoát cho ḿnh, ngay trong cuộc đời hỗn tạp này.
Nhưng đến nay càng có nhiều tham vọng công bố lối thoát, th́ cuộc đời lại càng rối bời, rồi níu kéo, đưa đẩy, d́m nhau vào bế tắc. Chính sự khổ đau và nhu cầu t́m lối thoát, mà Con Người đă hiện hữu dưới chiều Tâm Tư Tự Đối, với một ư thức về thân phận mỏng manh, nhưng với nguồn cảm xúc dạt dào, với những thao thức khát vọng, với những giằng xé, trách nhiệm, đóng góp và trăm ngàn ước muốn khác nữa, cùng xuất hiện trong thực tại cuộc sống. Rồi cuối cùng Con Người đă bị chính tâm tư ḿnh cuốn hút quyết liệt vào ṿng xoáy khổ đau tuyệt vọng, khi ư thức về sự chết xuất hiện ở cuối đường hiện hữu.
Sự chết xuất hiện đối với tâm tư mỗi người như một sự thật phũ phàng, phủ nhận triệt để mọi ư nghĩa của sự sống và cuộc sống. Tàn nhẫn bóc lột mọi giá trị của các công tŕnh, mà Con Người đă khổ công xây dựng được ở cuộc đời. Như vậy sự Hồi Nội của chủ thể độc lập cô đơn một chiều, đă dẫn tới t́nh trạng TỰ ĐỐI PHI LƯ, một ngơ cụt của suy tư.
Nhưng khuynh hướng suy tư của Con Người vốn không ngừng ở nơi tuyệt vọng cụt ngủn vô hậu đó. V́ trong tận cùng của Tâm Thân mỗi người, th́ khả năng hiếu sinh hằng hóa thường tại của nguồn Siêu Thức Vũ Trụ, đă ghi đậm nét nơi Mỗi Người, một sự ham muốn trường tồn vĩnh cửu. Đó chính là lực đẩy bí mật hùng hậu cột Con Người vào sự ham sống vĩnh hằng, rồi thể hiện thành ư hướng tính của Nghiệp Dĩ Suy Tư, khiến cho Con Người không thể thoát ra nỗi, dù cho ngay khi nhận biết ư nghĩa phi lư của sự chết, đương nhiên phải xuất hiện ở cuối đường hiện hữu. Con Người càng tiến gần tới sự chết, sự chết càng đe dọa cuộc sống Con Người, th́ sự suy tư của Con Người càng cố gắng muốn ư thức ḿnh soi tỏ được những bí mật núp sau bức tường chết đen ng̣m rùng rợn.
Thế là, sự Ước Muốn Trường Tồn đă là hiện tượng có thực trong các hiện tượng của vũ trụ. Sự chết chỉ là sự kết thúc một hiện tượng có h́nh tướng và sinh hoạt cá thể. C̣n sự ước muốn là đặc tính trường tồn của hiện tượng đó, sẽ tiếp hóa vô cùng trong ḍng hằng hóa của vũ trụ. Nhưng không ở dạng Hữu Thể, Hữu Biên, Hữu Hạn, mà ở tính Siêu Thể Vô Biên Vô Hạnï. Ước muốn trường tồn của sự sống, ư hướng tính hằng hóa tâm thức, khả năng suy tư vô cùng của tinh thức, năng lực siêu nhiên, năng lực sống động và tất cả các nguồn tinh năng khác đều thuộc hiện tượng Siêu Thế Vô Biên Vô Hạn, thuộc về lănh vực Siêu Lư Tuyệt Đối. Có thể trực nhận, hiểu được, có thể kiểm chứng nổi, nhưng lại khó có thể dùng suy luận để biện minh cho Hợp Lư được.
PHÓNG NGOẠI
Như vậy sự hồi nội tự đối luôn luôn đụng đầu với cái chết vô nghĩa tàn nhẫn, nếu Con Người buông xuôi bất lực đầu hàng. Nhưng trong suốt quá tŕnh lịch sử, Nhân Loại đă không cam đành khuất phục trước cái chết. Ngay trong thời c̣n sống bằng Mặc Thức Nhân Nhiên, Con Người đă linh cảm là có một thế lực linh thiêng phù tŕ cho ḿnh. Dù chưa khám phá nổi tinh thần của ḿnh rồi sẽ hội nhập vào với thế giới siêu linh đó. Nhưng đối với “người chết” hầu như không ai dậy ai, tự nhiên cũng có một cảm ứng là phải có cái ǵ đáng “kính sợ”ï hơn là cái chết của các loại thú vật khác. Bởi thế người ta có thể ăn thịt các loài vật khác, mà hiếm lắm mới có bộ tộc dám ăn thịt người..
Khi Loài Người bước sang thời Ư Thức Nhân Loại. Ư thức Con Người chủ đạo cho mọi hành động và lựa chọn, th́ ư thức cũng h́nh thành ra cơi linh thiêng xuất hiện sau cái chết. Loài người đă không ngừng tiếp nối nhau, hướng Ư Thức ḿnh ra bên ngoài để quán sát những hiện tượng của Trới Đất, và những sinh họat của Thế Giới chung quanh, để tạo cho ḿnh những Ư Niệm về cuộc sống và Ư Niệm về sự hằng sống của Tâm Hồn chính ḿnh.
Đây là một cuộc sáng tạo hết sức đa diện và phong phú nhất là về mặt Tư Tưởng của Loài Người. Đây cũng là thời Nhân Loại thực sự tạo lập được cho chủng loại ḿnh một cuộc sống có Văn Hóa, càng ngày càng bỏ xa cuộc sống Động Vật Nhân Nhiên bước vào cuộc sống Nhân Loại Nhân Văn. Đây cũng chính là nguyên nhân phát sinh những cuộc xung đột ư thức, dẫn tới thảm trạng nhân danh lư tưởng để tàn sát lẫn nhau, mà không một mảy may thương cảm.
Chính nhờ ư thức biết suy tư phân biệt, mà nhân loại đă trở thành Con Người Tự Chủ, Thân Tâm khai mở khắp mặt, nhưng lại cũng chính do sự chủ quan của tư tưởng một chiều quá khích bỗng đẩy Con Người xuống hàng Phi Nhân, mất hẳn Tính Người, xem nhẹ T́nh Người, tuy ngoài miệng lúc nào cũng rao giảng toàn những mỹ từ hào nhoáng đề cao Con Người và tràn đầy yêu thương, mà trong Tâm Hồn th́ chứa đầy thủ đoạn thâm độc lạnh lùng, giết những người không cùng lư tưởng một cách không thương tiếc.
Nếu lấy cái mốc từ 20 thế kỷ nay. Nhân loại đă rộng bước ra ngoài biên cương Dân Tộc để trao đổi Văn Hóa với nhau, th́ những sự trao đổi đó chẳng mấy êm đẹp nhẹ nhàng chút nào. Nó đă mang nặng tính cách sát phạt cưỡng ép, nhiều hơn là học hỏi tự nguyện. Với danh nghĩa mở mang Tín Ngưỡng gắn liền với mở mang Đế Quốc, Loài Người đă đẩy nhau vào các cuộc xung đột Tín Ngưỡng kết hợp với xung đột Dân Tộc, hết sức quyết liệt và cuối cùng bao giờ cũng đem tới sự chém giết lớn lao.
Nhất là bước vào thế kỷ 20, Thế giới bị dùng làm trắc nghiệm cho một cuộc chiến tranh Ư Thức Hệ quy mô, không c̣n nằm trong lănh vực lư thuyết tư tưởng, mà nó đă được đưa vào chủ đạo cho cuộc đấu tranh giành quyền lănh đạo, để tổ chức xă hội theo với mô thức và phương pháp của những Ư Thức Hệ một chiều Duy Ư Chí tạo ra. Con Người Toàn Diện, Xă Hội Nhiều Mặt bị các Ư Thức Hệ một chiều đẽo gọt đi cho vừa với Ư Chí Chủ Quan của mỗi Ư Thức Hệ, khiến cho Nhân loại bị rơi vào một tai kiếp hoàn toàn Mất Tự Do, mất sáng kiến có Văn Hóa Tính; mà chỉ c̣n những sáng kiến độc hại nhằm tiêu diệt lẫn nhau. Thế giới chia nhau thành kẻ địch, người người nh́n nhau bằng con mắt nghi ngờ thù hận.
Thế mà Nhân Loại vẫn phải Mặc Thức tiếp cận với nhau, Ư Thức tiếp xúc với nhau, Nhận Thức tiếp sử với nhau, trong sự hoài nghi dè chừng khổ sở. Ở cuộc sống tự tạo phức tạp đầy rẫy trái ngang, oan khiên, bầy hầy đó, những người Suy Tư cảm thấy ḿnh cô đơn chót vót, nên đă khởi dậy khuynh hướng vùng thoát khỏi sự mê hoặc, cuốn hút bởi các Ư Thưcù Hệ một chiều, để tŕnh bày trước nhận thức của Thời Đại về một Con Người Hiện Sinh Tự Do Tuyệt Đối.
Nếu phong trào Hiện sinh tự do tuyệt đối đă có công tŕnh bày được Thân Phận Con Người mong manh bi thảm, trước nhận thức của thời đại, th́ cũng lại gặp bế tắc là tự húc đầu vào ngơ cụt của quan niệm một chiều quá khích tuyệt đối. Tuyệt đối đề cao bản thể cá biệt đơn độc của một Con Người Tự Do toàn triệt, coi Tha Nhân là kẻ thù luôn luôn ŕnh rập đánh cắp bản ngă của Ta. Coi xă hội là hỏa ngục không thể chấp nhận.
Có thể nói đây là tiếng thét đề kháng quyết liệt đối với các hệ thống tư tưởng Duy Thần, Duy Lư, Duy Tâm, Duy Vật của thế kỷ 20 đă và đang đẩy Nhân Loại vào ḷ sát sinh của cuộc chiến tranh Ư Thức Hệ. Nhưng cũng tự bản chất của phong trào Hiện Sinh Âu Châu vẫn c̣n bị đóng khung, bịt kín trong ư niệm Duy Ngă cực đoan của truyền thống tư tưởng CÁ NHÂN CHỦ NGHĨA, cho nên chưa thể khai mở được Nhận Thức Siêu Lư của NHÂN CHỦ ĐẠO vốn tiềm ẩn trong nội tâm mỗi người.
Quả vậy, trong mỗi người đều có khuynh hướng vươn tới trường cửu, đó là thể tính hằng hóa của vũ trụ, đă được biểu hiện ra qua sự ước muốn của Con Người. Hằng Hóa Tính và Ước Muốn Tính đều ở Thể Siêu Động luôn luôn biến dịch thăng hóa khôn lường, nên không thể dùng Nhận Thức Hợp Lư để quy định, hoặc dùng kiểm chứng theo công thức khoa học cụ thể được, bởi đó mới thuộc về lănh vực Siêu Lư Tuyệt Đối của Nhân Thức Siêu Nhiên, rồi hợp cùng với sự Phi Lư Tự Đối của Nhận Thức Chủ Quan, và biện chứng Hợp Lư Tương Đối của Nhận Thức Thực Tế khoa học, thành một lối NHẬN THỨC NHÂN CHỦ NHÂN VĂN VIÊN DUNG TOÀN DIỆN, quán đạt được thực tại nội tâm, xă hội, vũ trụ, cũng như sử tính của các hiện tượng ấy, nhằm ổn định tâm tư chính ḿnh, t́m đúng hướng đi tới của Tư Tưởng Con Người, cũng như nhu cầu Tổ Chức Xă Hội và thuận với sự Thăng hóa của Vũ trụ, để vui sống và chung sống ḥa b́nh phát triển.
NHẬN THỨC
Đi t́m phương pháp ổn định cuộc sống riêng và chung, vốn là việc làm của những người suy tư. Ngay từ buổi b́nh minh của cuộc sống Ư Thức, đă có vô vàn phương pháp được đề nghị, được ứng dụng, được tôn thờ, hợp với tâm ư của Con Người từng địa phương, từng thời đại. Thế rồi mỗi đợt mở rộng tầm vóc Xă Hội, là một lần Loài Người phải thực hiện một cuộc Vận Động Tư Tưởng để có một Thế Giới Quan Mới, cho đúng với thực tại và nhu cầu ổn định cuộc sống hiện đang khởi diễn.
Từ thời Mặc Thức Nhân Nhiên, Con Người sống bằng Cảm Thức Tự Nhược, đă đặt niềm tin vào đủ loại Thần Linh, bởi đó tư tưởng chung của Con Người thời đó là Đa Thần. Đến thời Ư Thức Nhân Loại, Con Người sống có Ư Thức Suy Tư, tầm vóc Xă Hội từ Bộ Lạc săn bắt và du mục, bước vào định cư hợp nhất giữa các Bộ Lạc, mở ra thành Xă Hội Quốc Gia. Xă hội đó đ̣i hỏi phải có tổ chức, có lănh đạo, có điều hành. Tức là Ư Thức Con Người bắt đầu suy nghĩ có biện chứng có hệ thống, th́ trong lănh vực Siêu Linh, Con Người cũng linh cảm thấy một hệ thống thần linh. Mà tối thượng phải là vị Chúa Tể Trời Đất.
Từ đó, tư tưởng và đức tin Duy Thần Tối Cao, được củng cố bằng những biện minh và kinh nghiệm, linh thiêng. Nhưng khi Con Người đă sống có Ư Thức, th́ sự suy tư không bao giờ chịu ngưng ở nơi tin nhận, chỉ dựa trên Cảm Thức hay Linh Thức, mà muốn rọi Ư Thức vào chính Bản Thể của Ḿnh và của Đấng Tối Cao sáng tạo ra ḿnh. Đó là Tư Tưởng Hoài Nghi. Chính tinh thần hoài nghi ấy, đă mở ra cho Nhân Loại một cuộc sống Văn Hóa rực rỡ phồn tạp, đa diện, sai biệt với đủ mọi luận thuyết Duy Thần, Duy Lư, Duy Tâm, Duy Cảm, Duy Thực, Duy Vật, Duy Thức…
Sau trên dưới 50 thế kỷ các biện chứng Duy trên đây đă xung đột với nhau trong tư tưởng giới của Nhân Loại không ngừng nghỉ, nhiều khi đă biến thành những cuộc Thánh Chiến đẫm máu giữa những người tin vào một thứ Duy này, cố tận diệt những người tin vào thứ Duy khác. Hay là những người cùng tin vào một thứ Duy, nhưng lại phân phái, thành nhiều h́nh thức tín ngưỡng khác nhau, xung đột với nhau. Mặt khác có những thứ Duy dù hay đẹp trên lư thuyết, mà không duỗi dài được vào cuộc sống thực của Con Người trong Xă Hội, th́ cũng chỉ c̣n lại trong kho tàng bảo lưu Văn Hóa khô cứng mà thôi.
Cho tới thế kỷ 20 này, th́ chỉ c̣n lại Ba hệ thống tư tưởng đang ảnh hưởng tới sinh hoạt Thế giới. Đó là Duy Thần với các Tôn Giáo tôn thờ một Đấng Tối Cao. Duy Vật với một Xă Hội Cộng Sản đang tan vỡ, nhưng di họa c̣n đầy khắp trong các lối suy nghĩ máy móc cực đoan một chiều thù hận. Duy Thức với sự giác ngộ của Con Người trong việc bị khảo đả bởi cuộc Chiến Tranh Ư Thức Hệ vừa qua, cộng với những di lụy của nó. Ở đây được t́m thấy hai thái độ sống. Một là Duy Thức Hiện Sinh Duy Ngă, đẫn tới thái độ đề kháng tiêu cực, là lên án tất cả, bỏ trốn ḿnh, trốn Xă Hội. Hai là Duy Thức Thực Tại Vô Ngă, đang tích cực nhập cuộc giải quyết những vấn đề Tâm Linh và Nhân Sinh, qua việc Phật Giáo được đất phát triển ở khắp nơi trên thế giới.
Ngoài ba luồng Tư Tưởng trên, Khoa Học đương đại cũng sắm một vai tṛ rất hệ trọng, trong việc giải thích và chứng minh về sự hiện diện của muôn loài trong vũ trụ, cũng như sự xuất hiện của Con Người và Lịch Sử. Mặc dù vậy, chỉ giải thích, chứng minh được về những hiện tượng thuộc lănh vực HỢP LƯ TƯƠNG ĐỐI. C̣n không thể thỏa đáp nổi những PHI LƯ TỰ ĐỐI, và nhất là không đủ sức minh chứng được lănh vực SIÊU LƯ TUYỆT ĐỐI.
Tuy ba lănh vực Phi Lư, Siêu Lư, Hợp Lư, thoáng nghĩ th́ thấy ba lănh vực ấy trái ngược, đi tới đối nghịch nhau, nhưng chúng lại là ba hiện tượng thực tại của tư tưởng mỗi người, khi Con Người đạt tới tŕnh độ Nhận Thức Tổng Hợp Viên Dung Toàn Diện, th́ lập tức hiểu được ba lănh vực đó luôn Bổ Sung cho nhau, đồng thời Phân Hóa nhau, đi tới Điều Hợp trọn vẹn với nhau, để Thăng Hóa Tư Tưởng mỗi người, mỗi lúc một Sáng, Mới, Tốt, Đẹp, Cao, Sâu, Rộng thêm măi. Đó là tư tưởng toàn diện của Thời Đại Toàn Cầu Hóa khắp mặt.
Đây cũng là một bước phải tới của Tiến Tŕnh Thăng Hóa Lịch sử, đi từ thời Mặc Thức Nhân Nhiên, qua thời Ư Thức Nhân Loại, đang vươn lên thời Nhận Thức Nhân Văn, lấy Con Người: Tự Do, Tự Chủ, Sáng Tạo làm Cứu Cánh. Nên mới được gọi là thời đại NHẬN THỨC NHÂN CHỦ NHÂN VĂN.
Dự phóng của tư tưởng Con Người, trước sau ǵ củng chỉ nhằm thỏa đáp tham vọng là t́m ra Nguyên Lư Hằng Hóa của Vũ Trụ, từ đấy Con Người mới ổn định tâm tư, hiểu được khả năng Tự Do, Tự Chủ, Sáng Tạo của ḿnh, đang thực sự tích cực chủ động đóng góp phần ḿnh, trong tiến tŕnh hằng hóa của Vũ Trụ, qua chính những công tŕnh suy tư làm thăng hóa tư tưởng ḿnh, do những góp công, góp sức ḿnh làm Sáng, Tốt, Đẹp, Mới trong kho tàng Văn hóa, và những đóng góp trong việc Xây Dựng Xă Hội về kháp mặt Khoa học, Kinh tế, Chính trị, Luật pháp, Cai trị, Quân sự.
Nhưng nếu Nhân Loại đă hoàn tất được việc t́m ra Chân Lư Tuyệt Đối, th́ Vũ Trụ trở thành bộ máy vận hành không hồn, hết giá trị, cuộc đời cũng mất ư nghĩa, và Suy Tư cũng hết đất phát triển. Bởi đấy mọi thuyết minh về Chân Lư Tuyệt Đối, chỉ nên xem như một giả thuyết đề nghị, không nên khẳng định, để biến thành niềm tin tuyệt đối. Rồi rơi vào lỗi lầm nghiêm trọng là nhắm vào việc tấn công các Tín Ngưỡng, vốn được Con Người c̣n tin tưởng. Cần phải ngỏ cửa để khuyến khích sự t́m thêm, khai phá, khám phá, chứng ngộ, kể cả sáng tạo. Luôn luôn đ̣i hỏi phải minh chứng và duyệt xét cho đúng với tinh thần khoa học, nhưng với một can đảm dự phóng và sáng tạo.
Khoa học đă chứng minh được rằng: Mọi hiện tượng Vật Thể đều tiềm ẩn và bao trùm bởi một nguồn Năng Lực Miên Động. “Khi Động Lực giảm th́ khối thể vật chất giảm. Khi Động Lực tăng th́ khối lượng Vật Thể tăng. Khi Động Lực triệt tiêu th́ Vật Thể biến mất”. Mà chính ngay Vật Thể lại cũng do các luồng Năng Lực Siêu Thể chuyển động xoắn kết với nhau mà thành Hiện Tượng Vật Thể, có h́nh tướng và sắc thái. Do đó trong mỗi Nguyên Tử, là đơn vị nhỏ nhất của Vật Thể, mới bao gồm những luồng Âm Điện Tử, Dương Điện Tử, Trung Ḥa Tử, và c̣n rất nhiều luồng Điện Tử vi tế khác nữa. Gọi chúng là các luồng điện tử , v́ tuy chúng khác tính nhau trong khi kết thành một nguyên tử, mà lại có một thể đồng nhất là Năng Lực Siêu Thể Vô Sắc,Vô Biên, Vô Hạn. Bằng trực cảm và linh thức của người xưa, Quư Ngài đă dùng rất nhiều từ “linh thiêng” để chỉ cho nguồn Tổng Thể Tinh Lực Siêu Nhiên ấy.
Động Lực Siêu Thể Vô Sắc Vô Biên Vô Hạn, như vậy là cùng một Thể Tính của CHÂN THỂ tồn tại VĨNH HẰNG trong CHÂN KHÔNG. Chân Không gồm Lănh Không Vô Sắc Tĩnh Lạnh, Không Gian Vô Biên, Thời Gian Vô Hạn. Như thế Chân Không không phải là Hư Vô, v́ Hư Vô vốn Vô Thể, Vô Năng, Vô Tác, mà trong Chân Không vốn có Chân Thể là Động Lực Siêu Thể, tuy Vô Sắc, Vô Biên Vô Hạn, nhưng Hữu Năng, Hữu Tác, Hữu Chuyển.
Chính tác động chuyển hóa của Động Lực Siêu Thể càng nhanh, càng mạnh, càng làm cho tính của Chân Thể hóa “NÓNG”, và cùng với tính “ĐỘNG” thành ĐỘNG NHIỆT, đối lập với tính của Lănh Không vốn TĨNH LẠNH. Chính nhờ đó, mà tạo ra Tính Âm và Tính Dương của các luồng Điện Tử trong Nguyên Tử. Khi nguồn Động Lực Siêu Thể chuyễn động nhanh, mạnh đủ tầm cỡ xoắn đọng với nhau thành những ÁNH ĐIỂM, tức là các Nguyên Tử đơn thuần, đây là những Vật Thể Hữu Sắc Hữu Biên Hữu Hạn, khởi đầu của Vạn Hữu trong Vũ trụï. Th́, ngay một lúc thành lập Bản Thể của Thực Hữu Hữu Hạn là Động Lực, Vật Tử vaø Năng Lượng, gọi là Bản Thể Động-Tử-Năng, cùng hiện hữu sinh hoạt trong Nguyên Lư Hằng Hóa là:Bổ Sung, Phân Hóa, Điều Hợp. Chính Nguyên Lư Sung-Phân-Hợp ấy, vốn Hằng Hóa, đă Dung Hóa và Thăng Hóa các hiện tượng từ Ánh Điểm Động-Tử-Năng giáp siêu, giáp trần, tức là các Vật Tử kề cận từ lănh vực Siêu Thể sang lănh vực Hữu Thể, tiến lên mức độ vĩ đại cũa Vũ Trụ hiện hữu, có chúng ta hiện diện trong đó, với đủ Thân Tâm sống động và khả năng tự do, tự chủ, sáng tạo.
Chính những Vật Thể Hiện Hữu Sinh Hóa đă tự chiếm cho chúng một Không Gian Hữu Biên, một Thời Gian Hữu Hạn. Do đó, Lănh Không của Vũ Trụ vốn Vô Biên Vô Hạn đă bị các Vật Thể và sinh hoạt của chúng cắt vụn ra thành hữu biên hữu hạn. Như vậy CHÂN KHÔNG, CHÂN THỂ, SIÊU THỂ vô sắc, vô biên, vô hạn thuộc về VÔ NGUYÊN, mà hiện tượng VẠN HỮU HỮU THỂ hữu sắc, hữu biên, hữu hạn là HỮU NGUYÊN, mà nguyên nhân của chúng là ĐỘNG LỰC SIÊU THỂ. Như vậy Vũ Trụ vốn Vô Nguyên, mà Vạn Hữu th́ Hữu Nguyên. Vô Nguyên thuộc về Siêu Lư, c̣n Hữu Nguyên thuộc về Hợp Lư. VŨ TRỤ tuy NHẤT THỂ mà ĐA NGUYÊN, ĐA TÍNH, HẰNG HÓA. Chính nhờ sự Đa Nguyên, Đa Tính và Hằng Hóa đó, mà Vũ Trụ mới Thăng Hóa phong phú rực rỡ muôn màu muôn vẻ như hiện nay.
Đối với sự nhận biết của chúng ta, th́ Loài Người đă đạt được mức tinh anh cao nhất của cuộc hằng hóa thăng hóa của vũ trụ. Nhờ vậy Con Người đủ tŕnh độ hiểu biết về khả năng TỰ DO, TỰ CHỦ, SÁNG TẠO của ḿnh, đang chủ động tích cực đóng góp phần ḿnh trong cuộc ĐẠI THĂNG HÓA của Vũ Trụ. Qua việc tự thăng hóa TÂM THÂN chính ḿnh, và đóng góp trong việc xây dựng XĂ HỘI, thế là trực tiếp góp sức thăng hóa LỊCH SỬ. Mà như đă biết, lịch sử của Nhân Loại, cũng nằm trong Nguyên Lư Hằng Hóa của Vũ Trụ. Đúng là Con Người đang thể chứng giá trị NHÂN CHỦ của ḿnh trong Nhân Nhiên Giới vậy.
NHÂN CHỦ
Nhân Loại hôm nay đang nỗ lực dùng mọi sức mạnh nội tại, để tự thể chứng và cùng giúp nhau phấn đấu kiến tạo một cuộc sống NHÂN CHỦ NHÂN VĂN, trong đó Con Người phải có TỰ DO, phải được TỰ CHỦ để mà SÁNG TẠO. Đây đúng là xu hướng thời đại, không có bất cứ một thế lực nào ḱm hăm nổi.
Tư tưởng Nhân Chủ đă được Đức Phật Thích Ca giác chứng, và là người đầu tiên chính thức công bố với Nhân Loại, khi Ngài khẳng định rằng “Con Người phải tự thắp đuốc lên mà đi”. “Đừng vội tin vào bất cứ thứ ǵ, kể cả những lời rao giảng của các vị Chân Sư; mà phải tự t́m trong thực chứng nơi ḿnh”. “Phật tức Tâm, Tâm tức Phật”. “Tất cả chúng sinh đều có Phật Tính và đều có khả năng tự tu, tự giác để thành Phật”. Nhưng Ngài cũng nhấn mạnh rằng: “Tất cả chúng sinh trong tam giới phải đạt tới ít nhất là một KIẾP NGƯỜI, và cũng chỉ ngay trong Kiếp Người đó, mới hội đủ điều kiện tu chứng thành Phật”.
Chính Con Người là một hiện tượng hoàn chỉnh cả mọi mặt Thân Tâm, kết tinh bởi các nguyên tố Vật Lư, Sinh Lư, Tâm Lư, Siêu Lư biểu hiện thật đầy đủ của một TIỂU VŨ TRỤ, mà ngay cả các bậc thần linh trong Vô Sắc Giới cũng không hội đủ. Xem vậy Đức Phật đă cống hiến cho Nhân Loại một Nhận Thức Nhân Chủ sớm sủa nhất trong Lịch Sử Loài Người.
Nếu nói về Ư NIỆM NHÂN CHỦ không có biện chứng, nhưng đă được thể hiện ngay bằng niềm tin thành Tín Ngưỡng và trải ra trong lối sống, cách sống, cuộc sống th́ phải kể tới VIỆT TỘC là Dân Tộc đă minh chứng được điều đó. Thật vậy trong thời kỳ Nhân Loại bỏ cuộc sống Mặc Thức Nhân Nhiên, mở ra cuộc sống Ư Thức Nhân Loại. Xă Hội buớc vào thời kỳ định cư Lập Quốc, th́ các Dân Tộc đều dùng một biểu tượng thần linh để Tôn Thờ, làm thành tín hiệu thống nhất Quốc Gia, giữ ǵn niềm tin Dân Tộc. Hầu hết đều chọn một vị Linh Thần lớn nhất, linh thiêng nhất, mà Dân Tộc kính tin, làm thành “Thần Tổ” duy nhất, để cho con dân thờ lạy. Nếu ảnh hưởng Mẫu Hệ c̣n nặng, th́ vị đó là Nữ Thần. Nếu Phụ Hệ chiếm lĩnh tư tưởng và điều khiển xă hội, th́ vị đó phải là Nam Thần. Việt Tộc khác hơn, không tôn Thần Linh làm Thần Tổ, mà tôn Con Người: Tổ Phụ, Tổ Mẫu của Dân Tộc ḿnh là Lạc Long Quân và Âu Cơ làm THẦN TỔ, biểu tượng cho hai ḍng giống TIÊN RỒNG.
Như vậy Tộc Việt đă chọn NGƯỜI mà không chọn THẦN làm Thần Tổ. Thờ cả CHA lẫn MẸ, chứ không trọng Nam khinh Nữ, hay ngược lại, như nhiều Dân Tộc khác cùng thời. Điều đó bảo chứng về một Ư Niệm “Trọng Người Trên Hết” “Lấy Con Người làm Cứu Cánh” của Việt Tộc. Không khắc sâu vào truyền thống Dân Tộc sự kỳ thị phái tính. Nhất là trọng Nam khinh Nữ, khi phái Nam tiến lên thống trị Quốc Gia và nắm quyền Gia Trưởng. Đặt được vào tinh thần DânTộc sự b́nh đẳng Nam Nữ, và tư tưởng Bao Dung, Đa Nguyên, Đa Tính trong đời sống Xă Hội. Tạo thành phong cách Văn Hóa khoáng đạt, biết trân quư cái hay, cái đẹp bất cứ từ đâu tới.
Chính nhờ Tư Tưởng Trọng Người Trên Hết, lấy Người làm Cứu Cánh, mà Việt Tộc khi phải đối diện với thực tế buộc phải lựa chọn:“Giữ DÂN hay giữ ĐẤT?” th́ Việt Tộc đă chọn giữ DÂN. “C̣n Dân là c̣n tất cả”, nên đă thành một Dân Tộc thiên cư khổng lồ, sau trên nửa Thiên Niên Kỷ định cư lập Quốc tại miền Trung Thổ. Cuộc di cư kéo dài bảy, tám thế kỷ từ miền Ngũ Lĩnh Động Đ́nh Hồ xuống vùng châu thổ Hồng Hà ph́ nhiêu, định cư Lập Quốc lần thứ hai. Đặt Quốc hiệu là Văn Lang do 18 đời Vua Hùng lănh đạo. Phong cho các Tộc Trưởng làm Lạc Hầu, Lạc Tướng để chăm sóc Dân theo phương pháp “Nhân Trị Tản Quyền”, sau này thành truyền thống “Phép Vua thua Lệ Làng”. Nếu thời nay được đưa ra ứng dụng sẽ là chế độ “Dân Chủ Trực Tiếp tại Làng Xă”.
Trên một ngàn năm bị Trung Hoa thống trị, Dân Tộc Việt phải lo chống đỡ không những với việc mất chủ quyền Quốc Gia, mà nguy hiểm hơn nữa là phải nhận chịu sự xâm lăng của Văn Hóa Cực Vi Hán Tộc . Nếu về mặt đó mà bị đồng hóa, có nghĩa là tư tưởng, ngôn ngữ, nếp sống Việt bị biến mất th́ Dân Tộc cũng bị đồng hóa luôn.
Nhưng không, Dân Tộc Việt vẫn hiên ngang tồøn tại, chẳng những không bị đồng hóa, mà ngược lại c̣n DUNG HÓA nổi các luồng tư tưởng đối nghịch của văn minh Ấn Độ, Trung Hoa, mở đầu cho công tŕnh dung hóa trọn vẹn các luồng tư tưởng của nền Văn Hóa Thảo Mộc Đông Phương nữa.
Làm được điều đó là v́ truyền thống Dân Tộc được xây dựng trên nền tảng NHÂN CHỦ VIỆT vừa quyết liệt giữ NGƯỜI, giữ TÍNH bao dung, vừa giữ TIẾNG thống nhất, và may mắn hơn nữa là ngay vào đầu thời kỳ bị lệ thuộc, Việt Tộc đă êm đềm tiếp nhận được Đạo Phật của Ấn Độ truyền tới. Chính BIỆN CHỨNG NHÂN CHỦ PHẬT kết hợp với BẢN CHẤT NHÂN CHỦ VIỆT đă tạo thành khả năng CHỦ ĐỘNG DUNG HÓA TƯ TƯỞNG cho Người Việt, để vừa đề kháng, vừøa chọn lựa đăi lọc được những cái hay đẹp của hai luồng tư tưởng Đạo Lăo Vô Vi, Đạo Khổng Hửu Vi của Trung Hoa, cộng với tinh túy của Đạo Phật Từ Bi Trí Tuệ nữa, đă vun bồi được một nền Văn Hóa khác biệt hẳn với người Hán Trung Hoa.
Văn hóa khác biệt mỗi lúc một rơ nét, khiến cho Người Việt truyền đời nhận ra nhau cùng một Dân Tộc, đang bị ngoại bang thống trị. Chính nhờ vậy mà không thời nào không có các cuộc khởi nghĩa giành Độc Lập Dân Tộc. Cuối cùng rồi Việt Tộc cũng mở được mùa TỰ CHỦ. Để dùng ngay chính những chất liệu của Văn Hóa Đông Phương, đă dung hóa được, mà kiến tạo một Quốc Gia Văn Hiến rực rỡ của thời đại Lư, Trần. Đặc thù của nền Văn Hiến đó là DUNG HÓA: ĐA TÍNH, ĐA NGUYÊN, PHÂN NHIỆM ,ĐIỀU HỢP maø NHẤT THỂ.
Tiếng là Việt Nam theo chế độ Quân Chủ Phong Kiến, nhưng không toàn trị độc đoán, độc tôn như Phong Kiến Trung Hoa cùng thời, coi Thiên tử là tối thượng tuyệt đối, nắm luôn thế quyền lẫn đạo quyền, mà Quốc Gia Văn Hiến Việt, ngoài thế quyền là TRIỀU Đ̀NH TRỊ QUỐC c̣n có đạo quyền do một thế lực VĂN HÓA CHỈ ĐẠO, nằm trong Dân chúng, đứng ngoài Triều Đ́nh, hướng dẫn tinh thần dân chúng, đồng thời chỉ đạo cho triều đ́nh nữa. Thời Lư Trần chính các vị Thiền Sư Phật Giáo làm công việc Chỉ Đạo ấy, c̣n Nho Sĩ Khổng Giáo th́ giúp vua trị quốc. Riêng Lăo Giáo v́ không c̣n các Đạo Sĩ truyền thừa, nên tư tưởng của Đạo Lăo đă trở thành phong thái nhàn du của cả Thiền Sư lẫn Nho Gia, sau thời đóng góp công sức cho đất nước.
Nền Văn Hiến: Đa Nguyên, Phân Nhiệm, Điều Hợp đó, kéo dài Bốn thế kỷ, th́ bị cuộc xâm lăng của Đế Quốc Minh Trung Hoa tàn phá. Đến khi nhà Lê giành được Chủ quyền Độc lập, th́ không đủ sức tái lập lại được nền Văn Hiến Đa Nguyên, Phân Nhiệm Điều Hợp đó nữa, v́ tinh thần Tống Nho của giới trí thức và triều thần Nhà Lê, đă vượt lên trên nền nếp Viên Dung Tam Giáo, để chỉ c̣n là một Triều đ́nh Tôn quân Toàn thống Độc tôn Cực vi, theo đúng với khuôn mẫu của Trung Hoa.
Kể từ đó, Việt Nam bị rơi vào ṿng chiến họa kéo dài trên 5 thế kỷ, do nạn tranh đoạt quyền thống trị giữ các ḍng họ Lê+Mạc, Nguyễn+Trịnh, Tây Sơn+ Nguyễn Ánh. Các cuộc xâm lăng từ Đế Quốc Thanh, tới Thực Dân Pháp, đến cuộc đoạt quyền của Cộng Sản. Chiến tranh Việt, Pháp. Chiến tranh Nam Quốc+Bắc Cộng, cuối hết là Việt Cộng Độc Tài Đảng Trị chiếm được cơ hội thống trị cả nước, rồi tiến hành cuộc chiến đánh thuê tại Campuchia, và đánh với Trung Cộng.
Thảm họa tranh chấp và chiến tranh, mà Việt Nam mắc phải là do nền Văn Hiến Đa Nguyên của Việt Nam bị phá vỡ, khả năng Dung Hóa Tư tưởng của Kẻ sĩ Việt bị cắt đứt, tính Đa Diện của nước Việt bị biến mất, nhường chỗ cho tư tưởng một chiều độc tôn chế ngự. Khuynh hướng Cực Quyền này, tiêu diệt khuynh hướng Cực quyền kia, để đoạt quyền thống trị Quốc Dân. V́ thế mà khi Văn Ḿnh Tây Phương tràn tới Việt Nam, Người Việt không c̣n tinh thần và khả năng viên dung, như đă từng dung hóa Văn Minh Đông Phương xưa nữa. Chỉ c̣n lại phản ứng chống trả và chính sách thụ động “Bế quan, Tỏa cảng” của Triều Đ́nh, được chủ đạo bởi tư tưởng cực vi, cực đoan của Nho Giáo, mà đă bị thế quyền dùng làm phương tiện từ quá lâu rồi.
Tư tưởng của Văn Minh Tây Phương cũng lại được chủ đạo bởi hệ thống Giáo Quyền Duy Thần cực đoan cuồng tín. Nên hai bên cực đoan gặp nhau th́ phải tàn sát. Cực đoan nào mạnh tất thắng. Văn Minh Tây Phương Duy Thần đă thắng Văn Minh Đông Phương Cực Vi tại đấu trường Việt Nam. Việt Nam bị rơi vào ṿng nô lệ của Thực Dân, vốn là sự quái hóa của nền Tư Sản Dân Quyền Tây Phương.
Rồi vào giữa thế kỷ 20, khắp các luồng tư tưởng của Nhân Loại đă đổ vào mảnh đất nhỏ bé Việt Nam, đủ dữ kiện để cho các Thế Lực Quốc Tế tạo ra một cuộc chiến Ư Thức Hệ, không chỉ bằng lư thuyết, mà c̣n được vơ trang bằng súng đạn và các phương tiện chiến tranh cực kỳ tối tân, để cho người Việt tận t́nh tàn sát nhau, nhân danh các thứ lư tưởng cực đoan đó nữa. Trong cuộc chơi “tàn nhẫn” , kẻ nào độc địa tàn nhẫn ma quái và có tổ chức hơn sẽ nắm phần thắng nhất thời.
Thắng trong chiến tranh mà thua trong xây dựng. Đây là trường hợp của đảng Cộng Sản Độc Tài đang chiếm được Việt Nam. V́ tư tưởng Duy Vật một chiều quá khích của Cộng Sản, chỉ giúp họ mạnh trong chiến đấu, c̣n trong xây dựng Xă Hội Con Người, th́ tất cả những thứ chủ nghĩa quá khích một chiều, đều không đáp ứng nổi nhu cầu đa diện của cuộc sống CON NGƯỜI TỰ DO, XĂ HỘI TOÀN DIỆN được. Chính v́ vậy mà Cộng Sản Thế Giới đă thi nhau sụp đổ.
Việt Cộng tuy h́nh th́ c̣n mà hồn đă mất từ lâu. Dù là sống nhờ tuyên truyền, mà trong thực tế giao tiếp với Thế Giới Tư Sản Tự Do, th́ cũng chỉ dám nhận ḿnh là nước kém phát triển, để nhờ giúp đỡ. B́nh tĩnh vô tư mà xét th́ Chủ Nghĩa Cộng Sản Một Chiều không có khả năng xây dựng và làm cho đất nước phát triển. Chỉ các Xă Hội Tư Sản Tự Do, có được nền Dân Chủ Trọng Pháp Trong Sáng và luôn luôn được cải tiến, mới đáp ứng nổi nhu cầu xây dựng và phát triển về mọi mặt của mỗi nước, để tất cả cùng tiến vào thời đại NHẬN THỨC NHÂN CHỦ NHÂN VĂN, TỰ DO DÂN CHỦ ĐIỀU HỢP, TOÀN CẦU HÓA.
Tới đây có thể tạm rút được kết luận là: “Nền tảng Tư tưởng Việt là Nhân Chủ. Truyền thống Văn hóa Việt là Dung Hóa. Yếu tính Văn hiến Việt là Đa nguyên, Phân nhiệm, Điều hợp”, thật đúng với trào lưu thăng hóa của Lịch sử Nhân loại đang bắt đầu khởi diễn. Đây đúng là Tư Tưởng Chủ Đạo Xây Dựng một nước Việt Nam Tự Do Dân Chủ Điều Hợp của Quốc Dân hậu Cộng Sản. Đồng thời từ đó thấy được định nghĩa toàn diện và rối ráo của Văn Hóa. Văn Hóa bao gồm các đặc tính: Bảo Lưu, Dung Hóa và Thăng Hóa không ngừng. Bảo lưu không những ở mặt hiện tượng cụ thể, qua các sản phẩm Văn Hóa, trên thư tịch, trong các công tŕnh và sinh hoạt khắp mặt lịch sử ; xă hội, chính trị, luật pháp, kinh tế, quân sự, nghệ thuật, học thuật, kỹ thuật khoa học; mà c̣n là sự bảo lưu những tư tưởng có giá trị Văn Hóa: đẹp, đúng, tốt, ngay trong Tâm Thức Mỗi Người, trong Di Thức Huyết Hệ, trong Truyền Thống Dân Tộc. Chính nơi tâm thức mỗi người vốn có sẵn khả năng Dung Hóa, đăi lọc lấy những tinh hoa của các luồng Triết Học, Đạo Học, Tôn Giáo, rồi thể hiện ra bằng những công tŕnh mang Văn Hóa Tính do ḿnh sáng tác, tạo tác. Sáng tạo và tạo dựng, đă được biểu hiện, ứng dụng, để góp phần xây dựng nền Văn Hóa chung của từng thời đại. Mỗi thời đại như thế, đều nằm trên hướng Thăng Hóa của Văn Hóa Sử. Văn Hóa đúng là thực thể Chủ Đạo cho cuộc sống khắp mặt, đă và đang đi tới của Lịch Sử Loài Người vậy.
======================================
XĂ HỘI
XÂY DỰNG XĂ HỘI VIỆT NAM NHÂN CHỦ TỰ DO ĐIỀU HỢP
Khác biệt giữa Cộng Sản, Tư Bản và Điều Hợp
Ứng dụng vào thực tại Việt Nam
Những vấn đề được đặt ra cho xă hội mới
XÂY DỰNG XĂ HỘI VIỆT NAM
NHÂN CHỦ TỰ DO ĐIỀU HỢP
Tất cả mọi lư giải của triết học, mọi vận động của chính trị, mọi sinh hoạt của kinh tế, nếu không muốn trở thành lư thuyết suông, hành vi phiêu lưu, hoạt động hỗn loạn th́ vấn đề Tổ Chức Xă Hội phải ưu tiên đặt ra. Vấn đề đó mỗi ngày một trở thành thiết yếu đối với nhân loại ư thức được ḿnh đang sống giữa một Thế Giới Người Toàn Diện. Trong đó nhu cầu Tự Do, nhu cầu Yên Vui, nhu cầu Phát Triển là thực tại hiện hữu trong tâm thức mỗi người, và cũng là nguyện ước của mọi người. Do nhu cầu sống, bảo vệ ṇi giống, do cảm tính và sự phát triển nhận thức: Nhân Loại từ cuộc sống Mặc Thức Nhân Nhiên đă kết hợp thành Đôi Lứa Mẫu Hệ, hợp quần thành Xă Hội Thị Tộc, tiến tới thăng hóa thành cuộc sống Ư Thức Nhân Loại, qua chế độ Xă Hội Bộ Lạc tiến lên Xă Hội Quốc Gia. Đến nay nhu cầu phát triển Trí Tuệ, Kỹ Thuật, Kinh Tế, loài người đang hướng tới Toàn Cầu Hóa trong cuộc sống Nhận Thức Nhân Văn: Nhân Chủ Tự Do Điều Hợp. Đây là tiến tŕnh thăng hóa xă hội tất yếu vậy.
Đặc tính của Con Người và sử tính của Thế Giới luôn luôn có Khuynh Hướng Kết Đoàn. Trong lúc kết đoàn cũng là lúc Con Người biểu hiện được trọn vẹn cá tính, t́nh tự và tham vọng của ḿnh. Chính những cá tính, t́nh tự và tham vọng của mổi người, mỗi dân tộc, mỗi chủng tộc, mỗi giai tầng xă hội, đă tạo ra những sự hỗn loạn và bất công trên thế giới. Hỗn loạn và bất công không thể giải quyết bằng cách nào khác ngoài vấn đề tổ chức xă hội. Bởi đó, nói tới đổi mới là phải nói tới tổ chức xă hội. Tổ chức Xă Hội trong thời đại này không c̣n tùy thuộc ư chí của một cá nhân, hay phó mặc tự nhiên, mà phải bằng vào Ưù Chí Tự Do, Tự Chủ của Con Người và Nhu Cầu thực tại của mỗi Xă Hội, từ đó tạo thành luật lệ, đă đước tất cả chấp thuận và tuân giữ. Nếu thiếu quan niệm và phương thức tổ chức xă hội hợp t́nh, hợp lư, hợp cảnh th́ không thể gọi là đổi mới được nữa. Mà mọi hành vi của nhóm người mệnh danh là đổi mới lúc đó đương nhiên trở thành phiêu lưu, tạo loạn. May mắn lắm, những hành vi đó bộc phát trong những điều kiện lư tưởng, như chống xâm lăng, chống độc tài, chống bất công th́ cũng chỉ được xem như sự phản tỉnh, sư ïtrỗi dậy của Con Người dưới áp bức nào đó mà thôi.
Sở dĩ có những thái độ đề kháng xă hội, coi xă hội như là hỏa ngục, như một thế lực tù đày Thân Phận Con Người phát khởi từ phong trào Hiện Sinh của thập niên 50 của Thế Kỷ 20, cũng bởiï xă hội thiếu tổ chức, hoặc sự tổ chức đó chưa hợp t́nh, hợp lư, hợp cảnh. C̣n khi xă hội đă có tổ chức uyển chuyển toàn diện, được luật pháp Dân Chủ tôn trọng và bảo vệ, th́ chỉ có những người bất thường, phiến loạn mới có những hành vi, thái độ đối kháng quá khích đó mà thôi. Những người đă đạt tới lẽ sống thường th́ chẳng những không đề kháng, mà càng nỗ lực sáng tạo để làm cho xă hội cùng tiến bộ hơn nữa. Như vậy, yếu tố tổ chức xă hội là một yếu tố không thể thiếu được của công tŕnh đổi mới. Mà kỷ cương của Tổ Chức phải là Luật Pháp minh bạch, trong sáng, nghiêm túc, tùy với quan niệm chung của từng thời đại. Thời Phong Kiến th́ luật pháp để bảo vệ Ngai Vàng, nhưng Nhà Vua đức độ th́ phải biết lo cho Dân, c̣n Bạo Chúa th́ tàn nhẫn với Dân. Thời Dân Chủ th́ Luật Pháp phải đặt trên nền tảng quyền của Con Người, quyền lợi nghĩa vụ Công Dân, trách nhiệm của Nhà Nước đối với Toàn Dân, nhằm điều hợp sinh hoạt Xă Hội.
Xă Hội Việt Nam đang đ̣i hỏi một cuộc đổi mới toàn diện thực sự, v́ từ nội dung tới h́nh thái, Việt Nam đang nằm trong trạng thái ung thối nẩy mầm. Nhất là sau khi Cộng Sản Độc Tài Ô Lậu Toàn Trị chiếm được cả nước Việt Nam, đưa chủ nghĩa xă hội một chiều, độc đoán ra áp dụng đă thảm bại, đành phải chấp nhận sự “đổi mới” nửa vời, để tồn tại, th́ đă tạo ra một xă hội đầy mâu thuẫn bất công. Một guồng máy cai trị bóc lột đàn áp khủng bố cầm quyền, được đặt trong một nền kinh tế bắt buộc phải đi vào tự do kinh doanh, nên đă nẩy sinh ra không biết bao nhiêu trái ngang bế tắc, đưa đến t́nh trạng sinh hoạt tùy tiện. Luật lệ luộm thuộng, chồng chéo lên nhau. Cán bộ có chức, có quyền, lợi dụng đó để sách nhiễu dân chúng. Cả hệ thống đảng lănh đạo cầm quyền, biến thành hệ thống Tham Ô Buôn Lậu, nhiều khi chính luật pháp được làm ra chỉ nhằm phục vụ cho mục đích thu vét tiền của, tài nguyên của Quốc Dân cho nhóm lănh đạo, hơn là tạo kỷ cương sinh hoạt cho xă hội.
Trước sự tham lam tàn phá khủng khiếp của đảng Cộng Sản Độc Tài, Toàn Trị, Tham Ô đă mất hướng - v́ chính người Cộng Sản cũng không c̣n một chút tin tưởng nhỏ nhoi nào vào lư tưởng của họ nữa - Trước mắt họ chỉ có TIỀN, mà muốn có tiền không bằng sức lao động của ḿnh, họ phải bám lấy QUYỀN. Tiền và Quyền là một thể thống nhất trong sinh hoạt chính trị của người Cộng Sản Việt hiện nay. H́nh thái được người Cộng Sản Việt Nam gọi là “Kinh Tế Thị Trường theo Định Hướng Xă Hội Chủ Nghĩa”, nếu được đưa ra tŕnh diện trước các nhà sáng thuyết Xă Hội Chủ Nghĩa th́ nhất định họ phải ôm mặt khóc ṛng. C̣n tŕnh diện trước mắt người tự do b́nh thường của Thế giới, th́ nó đúng là thứ tạp chủng quái dị gớm ghiếc. Ấy thế mà Toàn Dân Việt Nam đang phải sống dưới sự khống chế của nó mới thật là đau.
Tất cả những nề nếp xă hội cổ truyền tốt đẹp, cũng như hủ lậu đều đă bị tróc gốc, bởi những luồng bảo tố thời đại. Tuy đă bị tróc gốc nhưng Tâm Thức Việt Tính của người dân nhất định không thể thỏa hiệp được với bất cứ luồng tư tưởng xă hội lạc hậu nào, đă và đang ngang ngược hoành hành trên đất nước được . Thực tại xă hội Việt Nam đang rơi vào thảm trạng thối nát quái hóa của Chủ Nghĩa Xă Hội quyết giữ nguyên quán tính cầm quyền độc tài hủ lậu của nó, để đầu hàng Xă Hội Tư Bản Tự Do. Mà cả hai hệ thống Xă Hội Cộng Sản Độc Tôn và Xă Hội Tư Bản Cực Đoan như Việt Cộng vẫn quan niệm và đang âm thầm thực hiện, đều không c̣n đáp ứng cho nhu cầu xă hội thời đại, mà nhất là Người Việt lại đă từng là nạn nhân trực tiếp của chúng, th́ không lư ǵ chấp nhận các h́nh thái tổ chức xă hội lạc hậu đó nữa.
Cho rằng: Người Việt không c̣n muốn trở lại nếp sống xă hội cổ xưa theo kiểu Đông Phương t́nh cảm thuần hậu, th́ tính chất Đông Phương và truyền thống dung hóa vẫn là bản chất của người Việt Nam rồi. Bởi đấy với quan niệm duy ư chí thuần lư cực đoan kiểu xă hội chủ nghĩa, hoặc ích kỷ duy lợi của tư bản chủ nghĩa, đều không phải là kiểu mẫu lư tưởng của Xă Hội Việt Nam hậu Cộng Sản. Khi không thể khép ḿnh trong quan niệm Xă hội Chủ Nghĩa độc đoán, không muốn buông thả trong quan niệm Cá Nhân Chủ Nghĩa cực đoan, mà người Việt vẫn chưa vùng thoát khỏi thảm cảnh bị các thế lực chính trị vô minh khống chế, để được sống tự do, để chủ động góp ư, góp sức xây dựng một xă hội mới cho Dân Tộc và cho chính ḿnh, vẫn phải đặt trong t́nh thế thường trực đấu tranh, với thế lực độc tài lạc hậu nguy hiểm và phấn đấu để sống c̣n trong hoàn cảnh ngặt nghèo của đất nước, th́ toàn dân c̣n khổ, đất nước c̣n nghèo, xă hội c̣n loạn.
KHÁC BIỆT GIỮA CỘNG SẢN, TƯ BẢN VÀ ĐIỀU HỢP
Dưới sự áp lực của các thế lực chính trị mặt tầng, trước dư luận toàn Thế Giới đ̣i thực thi Nhân Quyền, với nhu cầu đổi mới của xă hội hiện nay, th́ cuộc Đổi Mới Toàn Diện nhất định phải thành tựu tại Việt Nam. Thành tựu trong ḍng thăng hóa tiêu biểu nhất của lịch sử nhân loại. Khi mà xă hội Phong Kiến Địa Chủ đă bị tróc gốc, trước sự tiến bộ của Dân Chủ và Kỹ Thuật. Khi mà chế độ Tư Bản Cá Nhân Vị Kỷ đă bị coi như lạc hậu trước sự bừng tỉnh của Con Người. Khi mà chế độ Xă Hội Cộng Sản đă bị coi là công cụ của bè nhóm độc tài, trước sự thể nghiệm đau thương của năm thế hệ bị hy sinh tàn nhẫn. Ḍng Thăng Hóa Xă Hội – tức là Đổi Mới Toàn Diện - đang lấn vượt lên những áp bức, vô tổ chức của thế sự, để h́nh thành một nề nếp xă hội mới. Và đương nhiên sẽ thành tựu sớm nhất ở những xứ sở đă đích thân chứng nghiệm các chế độ Phong Kiến, Tư Bản, Cộng Sản. Xứ sở đó điển h́nh là Việt Nam.
Khởi từ những khổ đau tuyệt vọng nhất của một cuộc trường kỳ chứng nghiệm, và đích thân bị thể nghiệm hầu hết mọi chế độ, với những quái hóa của chúng, Người Việt đă hội đủ mọi điều kiện chủ quan để phát hiện một quan niệm Thăng hóa Toàn diện về một xă hội mới. Và xứ sở Việt Nam cũng sẽ là một xuất phát điểm của một cuộc thăng hóa toàn diện của thế giới. Khi nhân loại đă và đang chối bỏ các chế độ Phong Kiến, Tư Bản, Cộng Sản không chấp nhận quan niệm Cá Nhân Chủ Nghĩa Cực Đoan và Xă Hội Chủ Nghĩa Độc Đoán, để cố gắng cùng vươn tới quan niệm Nhân Chủ Tự Do Điều Hợp. Th́ đương nhiên quan niệm đó, không trước th́ sau, cũng phải được biểu hiện thành chế độ xă hội.
Với quan niệm Nhân Chủ Tự Do Điều Hợp, th́ những Con Người tự do có trách nhiệm, sẽ tự chủ biểu hiện một cuộc sống nhịp điệu chừng mực, một cuộc sống hợp t́nh, hợp cảnh, hợp lư cho chính ḿnh và đối với tha nhân trong xă hội điều hợp. Muốn vậy, những ư kiến, những nổ lực công chính của cá nhân, cần phải được đảm bảo và khuyến khích. Nhưng không có nghĩa là dành cho cá nhân những đặc quyền, mà cá nhân không có khả năng và không nỗ lực biểu hiện khả năng của ḿnh. Kinh nghiệm cho biết, một xă hội sẽ trở thành hỗn loạn bất công khi cá nhân được mặc sức tung hoành, nhờ vào những thủ đoạn, xảo thuật, vận dụng tài sức của kẻ khác để trục lợi. Ngược lại, nếu xă hội không dự liệu cho những cá nhân có thực tài, thực lực được hưởng những quyền lợi tương xứng, th́ xă hội lập tức trở thành một guồng máy cứng lạnh, mất hết sinh khí hào hứng, vốn là những yếu tố cần thiết cho sự thăng hóa đời sống và lịch sử. Do đó, chế độ Nhân Chủ Tự Do Điều Hợp được thiết lập trên sự: B́nh Đẳng về Nhân Quyền. Tôn Trọng về Nhân Phẩm. Đắc Dụng về Nhân Tài. Xứng Hưởng về Nhân Lực. Châm Chước về Nhân Cảnh. Giáo Dục về Nhân Cách. Chuyển Khai về Nhân Năng. Bồi Bổ về Nhân Trí. Điều Hợp về Nhân Lợi. Toàn Triển về Nhân Chủ.
Chế độ Nhân Chủ Tự Do Điều Hợp khước từ quan niệm căm thù đấu tranh giai cấp, cũng như quan niệm kêu gọi thương xót ban ân huệ của một số người này, cho một số người kia cùng sống trong xă hội, mà chỉ nh́n nhận sự giác ngộ về giá trị nhân chủ của mọi người, để tất cả đều ư thức được trách nhiệm của ḿnh trong đời sống riêng và chung, cũng như sự tiến bộ của đại khối nhân loại. Giác ngộ về giá trị nhân chủ, tức là biết tôn trọng giá của ḿnh, chủ vị của ḿnh và của người, từ bỏ quan niệm xâm lấn và ra ơn. Tất nhiên trong một xă hội, những dị biệt trên b́nh diện đạo đức, tri thức và hoàn cảnh là phải có. Nếu cứ để cho sự sai biệt đó được mặc sức hoành hành, th́ không thể tránh được hiện tượng xâm lấn, hay khá hơn là ra ơn của những kẻ may mắn có được một hoàn cảnh tốt, hoặc có một tâm thức thiện. Do đó muốn tránh cảnh xâm lấn, ra ơn làm tiêu diệt giá trị nhân chủ của người xâm lấn, lẫn bị xâm lấn, làm hèn kém giá trị nhân chủ của người ra ơn và người chịu ơn, th́ xă hội cần phải có tổ chức qui củ.
Tổ chức xă hội theo quan niệm Nhân Chủ Tự Do Điều Hợp, là chấp nhận sự sai biệt tất nhiên trong đời sống xă hội giữa yếu tố đạo đức, tri thức và năng lực, để quân b́nh hoàn cảnh ở mức tương đối. Không chấp nhận sự sai biệt như một thực tại bất khả hoán dịch, cũng không chấp nhận một mẫu xă hội đồng nhất hoàn toàn đến độ phủ nhận giá trị đạo đức, tri thức và năng lực khác biệt của cá nhân. Khi nh́n nhận giá trị đạo đức, tri thức, năng lực riêng biệt của cá nhân, để dành cho cá nhân đó có những hoàn cảnh đặc biệt, không có nghĩa là tạo ra một ưu quyền cá nhân bất khả xâm phạm và không thể thay đổi, mà chỉ có nghĩa là khuyến khích đối với mọi người, để tất cả cùng cố gắng trao dồi, rèn luyện đạo đức, kiến thức và năng lực, nhằm nâng cao giá trị và phẩm cách cá nhân, khả năng và điều kiện phục vụ xă hội và nỗ lực thăng hóa cuộc đời mà thôi.
Như vậy sự sai biệt hoàn cảnh trong đời sống xă hội của chế độ điều hợp là phải có. Những sai biệt đó không phải là cách biệt lớn lao vĩ đại như giữa tư bản và vô sản ở các thế kỷ trước, mà sự sai biệt đó là do chế độ dự liệu qua Luật Pháp Dân Chủ, nhằm dành cho những người có tâm đức cao sáng, có tài năng dấn thân phục vụ xă hội, có cơ hội, điều kiện, góp tài sức xây dựng và thăng hóa xă hội. Chỉ có như vậy mới tránh khỏi cảnh bất công đối với những người tài đức. Mới bảo toàn được giá trị Con Người, mới không nảy sinh tinh thần tắc trách của những người tài giỏi, mà bị chế độ nghiền nát. Đó là đặc tính của chế độ nhân chủ tự do điều hợp.
Đối với dân chúng b́nh thường th́ bất cứ chế độ nào, từ xưa đến nay, dân chúng cũng dễ bị ngược đăi, dù cho với danh nghĩa chế độ của nhân dân cũng vậy. Dưới chế độ tư bản trục lợi xưa nay, th́ dân chúng được tự do cạnh tranh để vươn lên hàng ngũ tư bản. Nhưng tư bản bao giờ cũng chỉ là một thiểu số, bởi đó đại khối dân chúng không có phương tiện, không gặp may mắn, vẫn chịu cảnh thua thiệt, tự do sống và tự do chết, tự do làm việc và tự do thất nghiệp. Như vậy, quần chúng luôn luôn là đối tượng bị bóc lột, từ trực tiếp trong các xí nghiệp xưa, tới gián tiếp bị bóc lột bằng các kế hoạch kinh tế của tập đoàn tư bản khổng lồ nay.
Dưới chế độ Cọâng Sản, dân chúng tuy được đề cao trên danh nghĩa, nhưng trong thực tế chỉ là công cụ sản xuất, phục vụ cho chế độ, mà những người điều khiển chế độ là Đảng viên của Cộng Sản, kẻ nắm được ưu quyền thống trị. Chế độ Cộng Sản chỉ là chế độ phong kiến tư bản trá h́nh. Tính chất phong kiến trong chế độ Cộng Sản là Đảng trực tiếp nắm quyền điều khiển quần chúng, làm luật, hành luật, và phán xử theo luật Cộng Sản. Tính chất tư bản trong chế độ Cộng Sản là, chỉ có đảng mới nắm được phương tiện sản xuất và ưu quyền kinh tế. Đảng là một công ty tư bản cực quyền. Quần chúng chỉ là phương tiện, là công cụ để đảng khai thác mà thôi.
Chế độ điều hợp, không dành quyền độc tôn cho một lớp người nào. Khuyến khích cố gắng cạnh tranh, mà không khích lệ tranh chấp lấn vượt xâm chiếm. Bảo đảm tự do tư hữu mà không để t́nh trạng tư bản cực quyền bộc phát. Nhà nước nắm phần điều hợp xă hội, qua luật pháp dân chủ, chứ không tạo ra một giai cấp thống trị độc tôn, hoặc một đảng độc quyền trên mặt chính trị. Quyền lực tối cao của nhà nước thuộc về ư chí của toàn dân. Chính Quyền do Dân cử. Tổ chức theo chế độ Phân Lập Điều Hợp giữa ba cơ cấu Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp độc lập. Chế độ luôn luôn duy tŕ ít nhất là hai thế lực đối lập để thay nhau điều khiển nhà nước và kiểm soát lẫn nhau. Khi đă có trên hai thế lực chính trị đối lập như vậy, đương nhiên dân chúng phải được tôn trọng và cử tri mới trở thành thế quyết định chính trị.
Các tổ chức Xă Hội Công Dân như các tập thể Tôn Giáo, Truyền Thông, Chính Đảng, và Nghiệp Đoàn phải được khuyến khích, tạo điều kiện để tự do thành lập và phát triển tối đa, th́ ư thức dân chủ nơi dân chúng mới được chính người dân tự bảo vệ và phát huy. Có như vậy, chế độ Dân Chủ mới thật sự có nền móng vững chắc trong tâm thức người dân và mới trở thành một chế độ vững vàng không một thế lực đen tối nào lợi dụng hoặc bóp méo được.
Các tuyến Xă Hội Công Dân, lúc đó chỉ là các thế lực thực hiện tốt đẹp và hữu hiệu ư chí của toàn dân. Tài sản quốc gia trong xă hội điều hợp là một tài sản khổng lồ, nhưng không nhằm làm giàu cho một người, một đảng, một giai cấp, mà nhằm quân b́nh hóa mức sống của quần chúng, đồng thời tạo điều kiện cho mỗi người tự do tự chủ phát huy toàn diện mọi khả năng để xây dựng một xă hội ḥa b́nh phát triển trong chế độ Nhân Chủ Tự Do Điều Hợp. Đó là nền, nếp của nền Văn Hiến Nhân Chủ Nhân Văn, lấy Văn Hóa làm chủ đạo, lấy Con Người làm cứu cánh cho mọi lănh vực sinh hoạt xă hội và tương quan Quốc tế.
ỨNG DỤNG VÀO THỰC TẠI VIỆT NAM.
Trong thực tại Nam Việt Nam trước 1957, Xă hội bị đặt trong t́nh trạng phân hóa cùng cực. Mọi kế hoạch của các chính quyền chỉ nhằm vào việc cũng cố quyền hành, mà không kiến tạo chế độ xă hội dân chủ. Xă hội hoàn toàn sinh hoạt trong cảnh tự do hỗn loạn, mọi biện pháp xă hội đều chỉ có tính cách chắp vá, mang nặng h́nh thái của tinh thần cứu trợ nhiều hơn là tổ chức. Bộ Xă Hội chỉ là một cơ quan cứu tế của chính phủ. Bộ Lao Động chỉ là một cơ quan trọng tài bất đắc dĩ giữa công nhân và chủ nhân, cũng như cơ quan t́m việc cho công nhân. Bộ Kinh Tế chỉ là cơ quan thương mại miễn cưỡng, thiếu kế hoạch về mậu dịch đúng mức, đúng nghĩa trong việc phát triển nội lực kinh tế Quốc Dân. Bộ Canh Nông, Tài Chính, Xây Dựng Nông Thôn, Nội Vụ… chỉ là những cơ quan phục vụ cho Chính Quyền nhiều hơn Xă Hội. Thế rồi tất cả các bộ trong chính phủ đều hoạt động ở t́nh trạng thiếu phối kết kế hoạch, thiếu trách nhiệm cũng như luôn luôn bị đặt trong t́nh trạng bấp bên chờ thay đổi lớp lănh đạo, chỉ huy. Tất cả các hiện tượng trên đều do nơi thiếu quan niệm, thiếu ư thức tổ chức chế độ xă hội dân chủ hữu hiệu, thiếu một cơ quan đầu năo của nhà nước, để thiết định chế độ, phối kết, điều hợp chính trị, chỉ đạo cho các ngành trong chính phủ, ngoài dân chúng.
Cũng cần nhận rằng: Việt Nam lúc đó đang trong thời học tập sinh hoạt dân chủ. Nhất là bị đặt trong một thực trạng cần phải vượt bỏ chế độ Tư Bản vị kỷ lạc hậu, vượt thắng chế độ Cộng Sản độc tài phi nhân, các Chính Quyền lại bị ảnh hưởng quá lớn của ngoại bang viện trợ và chi phối, nên đă không đủ tư thế làm nổi một cuộc chuyễn đổi lớn lao cho vận nước. Tất cả đều hướng tâm về các nhà Văn Hóa, hay những nhà Cách Mạng Dân Tộc và các Chuyên Gia phải ï gánh lấy trách nhiệm đó. Nhưng một tập hợp như vậy, không thể xuất hiện trong một t́nh trạng b́nh thường, mà phải xuất hiện bởi một cuộc Đại Thăng Hóa Toàn Diện.
V́ chỉ có không khí Thăng Hóa Toàn Diện, có lực lượng Thăng Hóa đúng nghĩa, mới huy động nổi tin tưởng và nỗ lực của quốc dân trong công cuộc thực hiện chế độ Nhân Chủ Tự Do Điều Hợp. Do nhu cầu của đất nước, do đ̣i hỏi của toàn dân Việt Nam, trước sau, sớm muộn ǵ th́ một cuộc thăng hóa toàn diện Nhân Chủ Tự Do Điều Hợp cũng nhất định phải thành h́nh và thành công. Thành công có thể qua một cuộc bừng khởi của toàn dân, để từ đó thành h́nh một Quốc Dân Đại Hội Sáng lập Chế độ. Chỉ có một cuộc Thăng Hóa Toàn Diện Nhân Chủ Tự Do Điều Hợp triệt để, mới đủ khả năng đưa Việt Nam khỏi ngơ bí hiện nay, mới chấm dứt nổi t́nh trạng đại phân hóa của Quốc Dân, mới ổn định nổi đời sống Xă Hội, mới vượt thắng nổi những lực lượng phản động quốc tế, quốc nội đang thao túng xứ sở.
Nhưng t́nh thế Việt Nam trước 1975, cuộc Chiến tranh Quốc, Cộng đă bị Quốc Tế Hóa, nên mọi sức lực của Quốc Dân đều bị đem đốt thành tro trong cuộc chiến. Tiềm lực Quốc Gia tiêu tan. Các chính quyền của hai miền Việt Nam, đều tự biến thành các quân cờ trong bàn cờ Quốc Tế. Kết cục là toàn cơi Việt Nam nhất thời bị rơi vào sự thống trị ngu dốt của Đảng Cộng Sản trực thuộc sự lănh đạo của ngoại bang.
Toàn xă hội Miền Nam bị bọn người Cộng Sản hănh tiến chủ quan phá nát. Việt Cộng chủ trương hạ thấp mức sống của Miền Nam xuống ngang tầm với mức sống của dân chúng Miền Bắc, để cho hợp với những lời tuyên truyền của chúng là: “Dân chúng Miền Nam bị Đế Quốc bóc lột thấu xương”. Bọn chúng không để cho người Miền Bắc ùa vào thăm dân Miền Nam. Cho tới khi vơ vetù sạch trơn tài sản của xă hội. Bắt toàn bộ sĩ quan, công chức và trí thức bỏ tù, mới mở cửa để cho thân nhân của hai miền thăm nhau. Nhưng chỉ thấy những nhà cửa phố phường Miền Nam không thôi, cũng đủ cho người Miền Bắc hiểu được họ đă bị Việt Cộng lừa dối, để đưa con em của ḿnh vào cướp Miền Nam, chứ không phải là giải phóng.
Do chủ trương bần cùng hóa dân chúng Miền Nam, nên Việt Công đă tạo ra sự thưởng lệ cho cán bộ có công được vào cai trị Miền Nam, để có cơ hội cướp đoạt của cải của dân chúng và xă hội. Đây là nguyên nhân gây ra một quán tính tham nhũng cho cán bộ đảng viên sau này. Do chủ trương áp đặt xă hội chủ nghĩa độc đoán, lạc hậu lên trên một xă hội tự do, dù nề nếp dân chủ chưa thực sự trưởng thành, nhưng lối sống tự do, và sinh hoạt kinh tế thoải mái, nhờ vào sự chuyên môn và tháo vát, đă thành thói quen, nên khi bị buộc vào làm ăn sinh hoạt chấm công, chấm điểm, c̣n ruộng vườn, nhà máy do nhà nước làm chủ, sản phẩm, hoa mầu làm ra do Hợp Tác Xă quản lư, th́ người dân Miềm Nam tự thấy ḿnh bị biến thành những kẻ nô lệ không hơn không kém.
Thế là dân chúng đề kháng bằng phương pháp “ ỳ ra đó”. Làm cho qua giờ, không cần xong việc. Làm che mắt cán bộ, hư hỏng mặc bay, không cần biết tới. Việt Cộng hoàn toàn thảm bại trong việc dùng sức dân Miền Nam để phát triển Kinh tế Xă Hội Chủ Nghĩa. C̣n dân Miền Bắc th́ biết được Việt Cộng là phường lừa dối, cướp ngày, nên không c̣n tin tưởng nghe theo lời đảng dậy nữa. V́ họ đều là những người góp sức cho đảng, để đánh Miền Nam. Nên họ không sợ đảng như người Miền Nam sẳn có mặc cảm làm kẻ thù với Việt Cộng. Bởi thế mọi kế hoạch kinh tế của Việt Cộng đều bị đ́nh đốn, phá sản. Xă hội bị băng hoại, đạo đức suy đồi, giáo dục ngu dân lạc hậu, đă đẩy Việt Nam vào bóng tối của mọi tệ đoan.
Trong hoàn cảnh kinh tế kiệt quệ cùng cực, Việt Cộng đành phải chấp nhận “Đổi Mới” theo sự chỉ đạo của Liên Xô thời Gorbachev. Nhưng lúc này, hệ thống cán bộ đă bị tham nhũng hóa, nội lực Quốc Dân đă cạn kiệt, dân chúng không c̣n tin vào đảng nữa. Quan thầy Liên Xô cũng đang bước vào thời mạt vận, đàn anh Trung Cộng c̣n là kẻ thù. Trong không đủ sức, ngoài không tiếp viện. Bởi thế sự đổi mới chỉ là khẩu hiệu, với một vài sự nới lỏng về buôn bán nhỏ, như bỏ bớt việc “ngăn sông cấm chợ”. Cho nông dân được thuê ruộng của nhà nước để tự trồng cấy, gọi cho đẹp là “khoán sản phẩm” cho nông dân. Khi dân tự trồng cấy và thu hoạnh sản phẩm, th́ mức tăng trưởng lúa gạo cũng bắt đầu khởi sắc. Người dân bớt đói, đồng thời cán bộ cũng mất dần quyền và lợi. Họ đành phải dồn sang mặt tham nhũng, lập băng đảng buôn lậu để kiếm sống và làm giầu.
Kẻ dưới kiếm lợi, kẻ trên bao che, để chạy đua với dân chúng trong sinh hoạt kinh tế tự do tùy tiện. Nghĩa là dân muốn tự do buôn bán, làm ăn, th́ phải đút lót cho cán bộ trong ngành. Hệ thống tham nhũng chạy dài từ trên xuống dưới. Thậm chí đảng không thể tồn tại, nếu không dựa vào các hệ thống tham nhũng. Luật pháp trong tay đảng, đảng ra lệnh cho Quốc Hội thay đổi luật lệ vô tội vạ, luật chồng lên luật. Thế là tùy cán bộ từng nơi, từng chỗ giải thích luật tùy tiện, miễn là có lợi cho họ. Dân chúng sống không cần luật, chỉ cần có tiền đút lót cho cán bộ là luật nào cũng lọt hết. C̣n đảng th́ tập trung vào làm kinh tài qua các công ty “Quốc Doanh”.
Thế cho nên ở Việt Nam mới có mọât “nền Kinh Tế Thị Trường Tự Do theo Định Hướng Xă Hội Chủ Nghĩa, lấy hệ thống công ty Quốc Doanh là chủ đạo” dị hợm chẳng giống ai. Nghĩa là đảng Cộng Sản hoàn toàn trực tiếp làm kinh tế ở mặt vĩ mô, trong các lănh vực Công Nghiệp và Ngoại Thương, c̣n dân chúng là lớp tiểu thương và làm theo khoán sản phẩm cho Công Nghiệp Quốc Doanh. Chính v́ vậy mà hai ngành Công, Thương tại Việt Nam không phát triển nổi. Chỉ có Nông Nghiệp, sau khi đảng buộc phải để cho nông dân làm chủ ruộng đất canh tác và hoa mầu của ḿnh, th́ Việt Nam từ nước thiếu ăn bỗng vọt lên thành nước thuộc hàng thứ hai xuất cảng lúa gạo trên thế giới. Xem vậy đủ thấy ngành nào có sự tự do tham dự của dân chúng, th́ ngành đó mới phát triển nổi, ngành nào nằm trong tay Quốc Doanh th́ luôn luôn bệ rạc. Nền Kinh Tế Thị Trường Tự Do không bao giờ có thể sống chung hay thỏa hiệp được với Chủ Nghĩa Xă Hội. “Kinh tế Thị Trường Tự Do” đang lấn vượt và tiêu diệt “Kinh tế Chủ Nghĩa Xă Hội” tại Việt Nam là điều không thể tránh.
Nhưng nếu chỉ biết chạy theo mặt nổi của Kinh Tế Thị Trường để dồn năng lực Quốc Dân vào những hiệu quả hào nhoáng nhất thời, mà không biết tạo ra nội lực Kinh tế Quốc Dân th́ rất dễ bị những đợt suy thoái Quốc Tế kéo đổ theo. Bởi đó Việt Nam cần phải đi vào tổ chức xă hội dân chủ, nhằm huy động tinh thần tự chủ của văn hóa Dân Tộc làm chủ đạo cho sự phát triền nội lực kinh tế Quốc Dân, qua sự tự do, tự chủ và điều hợp của toàn dân, để ứng hợp với nhu cầu thực tại của đất nước và bước đúng nhịp của tiến tŕnh toàn cầu hóa của Thế giới.
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐƯỢC ĐẶT RA CHO XĂ HỘI MỚI.
Một cuộc thăng hóa xă hội đại quy mô và toàn diện không thể thành h́nh một cách vội vàng thiếu chuẩn bị về lư thuyết và nhân sự. Nhưng cũng không có nghĩa là một cuộc thay đổi “ôn ḥa” , thay đổi từ từ, nay một chút, mai một ít; mà đích ra phải chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt, rồi tung ra thành một cuộc thay đổi đột biến, để tạo khí thế hứng khởi trong ḷng người, chỉ khi ḷng người tin tưởng và khởi sắc, th́ lúc đó mới thực sự tạo nổi điều kiện thăng hóa nội tâm, sẵn sàng bắt tay xây dựng. Đột biến như vậy, không có nghĩa là cách mạng đă thành công, mà đúng ra chỉ là một hiện tượng mở đầu của cuộc đại thăng hóa mà thôi.
Tại Việt Nam, các hiện tượng mở đầu đó, thường được người ta mạo nhận là cách mạng, nhưng sau mỗi cuộc đột biến nửa vời ấy, đâu lại hoàn đó. Từ tư tưởng, văn hóa, chính trị, quân sự, kinh tế, xă hội, vẫn theo nền nếp của các chế độ cũ. Cụ thể như Việt Cộng hô hào đổi mới, mà vẫn áp dụng theo chế độ độc tài độc đảng, độc quyền làm kinh tế theo nguyên tắc của Cộng Sản, dù cho h́nh thức có được thay đổi chút ít cho vừa mắt thiên hạ. Như vậy, chỉ làm cho ḷng người bị mất tin tưởng thêm, hoài nghi nhiều, đến độ không c̣n dám nghĩ tới “cách mạng”. Thế nên dù có một cuộc cách mạng thực sự thành h́nh, một không khí rất thích hợp cho cách mạng, cũng không đủ sức gây nổi hứng khởi trong ḷng ngườiø nữa. Nói vậy không có nghĩa là đă tuyệt vọng, v́ dù chán nản tới đâu, Con Người vẫn có một tâm thức thực tại là“hy vọng trong tuyệt vọng”. Bởi đó những thất bại chán chường chỉ làm cho Con Người thêm trưởng thành, và dễ nhận chân ra thế nào mới là một cuộc thăng hóa thực sự lư tưởng.
Trong sự mất tin tưởng của quần chúng vào vận mệnh chung, Con Nguời thường phát sinh quan niệm sống riêng cho ḿnh và cho những liên hệ t́nh cảm của ḿnh. Chính v́ vậy, mà bộ mặt xă hội bị tan vỡ, mọi kế hoạch dù hay, hoặc dở của chính quyền cũng đều diễn ra trước sự bàng quan của quần chúng. Do đấy, điều cần phải tạo ra cho không khí hứng khởi, và triển vọng về một chế độ có tính cách lâu dài, để đảm bảo cho ḷng tin của quần chúng.
Việt Nam sau khi đă đích thân thí nghiệm các chế độ tư bản, cộng sản, sau khi đă phí công tốn sức tạo ra các cuộc đột biến, rồi để bị phản bội, đă nhận được rằng không có một cuộc thăng hóa đại quy mô, đi từ gốc rễ tâm tư ra tới cụ thể tổ chức xă hội, th́ không có cách ǵ chuyển nổi thế hỗn loạn hiện nay của Việt Nam.
Tổ chức xă hội theo quan niệm nhân chủ điều hợp là một tổ chức xă hội giữa Người với những phức tạp và cá biệt của Con Người. Bởi đấy, phải dựa trên t́nh để biện minh thành lư, rồi từ t́nh lư ứng dụng vào cảnh để tạo thành một nếp sống. Lúc đó vấn đề T́nh-Lư-Cảnh hết phải đặt ra một cách quá khắc nghiệt như hiện nay. Con người không c̣n bị hoàn cảnh khống chế, không bị nạn xung đột tàn nhẫn giữa t́nh và lư, mà chỉ c̣n sự tự nổ lực khai triển để làm thành cuộc thăng hóa chung.
Nói tới thăng hóa xă hội dân chủ, điều đầu tiên là phải nói tới cách mạng luật pháp và thủ tục thi hành luật lệ của nhà nước. Tại Việt Nam các luật lệ vốn là di sản của phong kiến, thực dân, độc tài và cộng sản. Không thể phủ nhận có những điều c̣n áp dụng được, nhưng cũng không chối rằng: Có rất nhiều luật lệ đă lỗi thời không ứng hợp với một cuộc thăng hóa toàn diện. Bởi đó sau khi cuộc thăng hóa thành h́nh, th́ việc đầu tiên là phải thành lập một hội đồng luật gia, để xét lại toàn bộ luật pháp Việt Nam, và dựa trên nguyên tắc Nhân Chủ Tự Do Điều Hợp, để sửa đổi luật pháp, đệ tŕnh trước Quốc Hội Dân Chủ để biểu quyết Các luật hộ, thuế khóa dựa trên chế độ kinh tế Dân Chủ Tư Sản Điều Hợp để phân định quyền tư hữu cá nhân và quyền sở hữu xă hội. Tránh cảnh tư bản dùng khả năng kinh tế thao túng nhà nước và ngược lại, nhà nước dùng quyền uy tối thượng để tước đoạt tư hữu cá nhân. Các sắc thuế là phương tiện cần thiết của nhà nước nhằm hạn chế sự độc quyền của tư bản. Nhưng không có nghĩa là tiêu diệt tư bản, mà chỉ cốt duy tŕ mức điều hợp phát triển chung của toàn xă hội. Không có cảnh quá nghèo, mà cũng không sợï tích lũy vốn dư thừa quá đáng. Nhà nước không nắm độc quyền kinh tế, mà chỉ tạo điều kiện cho mọi người phát triển khả năng tự thăng tiến. Đồng thời chiếu theo luật cung, cầu và phân phối để điều hợp mức sống và sự phát triển của kinh tế và xă hội theo luật pháp dân chủ. Việc Điều Hợp xă hội phải dựa trên Luật Pháp Dân Chủ, chứ không do ư chí tùy tiện của cá nhân, đảng phái, tôn giáo nắm được quyền lănh đạo. Vậy nói tới Điều Hợp là nói tới xă hội Trọng Pháp, hay chế độ Pháp Trị cũng thế.
Dù cho Luật Pháp có minh bạch trong sáng đến đâu, mà không có các thế lực của Dân Chúng bên ngoài Chính Quyền để đủ sức và khả năng kiểm soát, giám sát những sinh hoạt của Chính Quyền, th́ Chính Quyền cũng dễ lợïi dụng quyền lực có trong tay để làm bậy. Chính v́ vậy mà các Tập Thể Xă Hội Công Dân như: Tự Do Truyền Thông. Tự Do Tôn Giáo. Tự Do Đảng Phái. Tự Do Nghiệp Đoàn phải được sinh hoạt có tính cách Pháp Nhân, để đủ tư thế và khả năng bảo vệ, và tạo điều kiện cho “Cá Nhân Quyền Tự Do Phát Biểu Ư Kiến” qua phương tiện Truyền Thông, Hội Họp, Hội Luận, Biểu T́nh và Lá Phiếu. Đây là yếu tố hết sức quan trọng trong việc bảo đảm và thể hiện giá trị của Xă Hội Tự Do, của Quốc Gia Dân Chủ thực sự.
Tiếp sau vấn đề luật lệ, đến vấn đề an sinh xă hội, đương nhiên xă hội phải có trách nhiệm đảm bảo sự an toàn của Con Người từ khi chào đời đến khi tắt thở. Ngoài vấn đề luật lệ phân định quyền hạn giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với nhà nước, vấn đề bảo đảm ấm no, lành mạnh và phát triển cho cá nhân cũng phải được đặt ra, xă hội phải hoàn toàn trách nhiệm về việc nuôi dưỡng, giáo dục Con Người suốt thời kỳ thơ ấu, cho đến khi Con Người trưởng thành, nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận gia đ́nh, mà chỉ có nghĩa là giúp gia đ́nh về việc nuôi dậy khi gia đ́nh không đủ khả năng đảm trách.
Nuôi trẻ là việc của Gia Đ́nh, xă hội chỉ trợ lực. Cũng như việc dạy bảo là việc chung của gia đ́nh và xă hội. Chế độ điều hợp phủ nhận tích cách nuôi dạy tập trung, nhưng lên án việc bỏ mặc trẻ con cho gia đ́nh tự lư. Xă hội điều hợp sẽ dùng mọi lợi tức của quốc gia để thực hiện các chương tŕnh nuôi dậy thanh thiếu niên, hướng dẫn thanh thiếu niên tự triển khai toàn lượng giá trị nhân chủ và tinh thần điều hợp xă hội sẵn có nơi mỗi Con Người.
Nhà nước sẽ thành lập những ngân khoản trợ cấp cho gia đ́nh không đủ sức nuôi con. Sự trợ cấp này phải quan niệm là trách nhiệm chứ không phải là ban ơn. Việc phát triển đối với Con Người, mỗi người cần phải có một số kiến thức phổ thông và có một nghề chính, nhằm tự nuôi thân và cùng góp sức phát triển với xă hội. Do đó vấn đề tổ chức Giáo Dục cần phải hết sức công bằng hợp lư, không dành đặc quyền cho những người có tiền của, mà phải là một nền giáo dục đào tạo phổ biến đối với mọi người. Đặt trong hướng triển khai Nhân Chủ, Dân Tộc, Khoa Học, Đại Chúng, nhằm hoàn thiện Con Người Toàn Diện, Tâm Thân phát triển hài ḥa: Đức Độ, Tài Trí, Kiến Thức,Thể Lực vaø Chuyên Môn cùng có điều kiện tận lượng triển khai.
Thế nên trường sở hoàn toàn phải có tính cách công bằng. Để tiến tới một chế độ trường sở công bằng. Ngoài các trường Công Lập, đối với các trường tư, chính phủ phải duy tŕ, nhưng chính phủ giám hộ, tức là bảo đảm về giá trị tinh thần cho học đường, và tài trợ cho những trường sở cần thiết tại các học khu theo nhu cầu giáo dục từng địa phương. Xă Hội giầu hơn một mức, th́ nhà nước đài thọ mọi chi phí học vụ, kể cả thù lao cho ban giám đốc và giáo sư, giáo viên. Có nghĩa là học sinh không phải trả học phí. Như vậy, trường tư đương nhiên biến thành trường công đốâi với học sinh. Nhưng vẫn là trường tư, tự do tạo ra một thế cách Giáo Dục tốt đẹp hiệu quả cá biệt được thành lập, miễn là hội đủ điều kiện trường sở, giáo sư và học sinh theo luật định. Các giáo sư được tự do dậy thêm giờ,ø nếu đủ khả năng, tức là thực hiện chế độ thặng dư theo khả năng.
Chế độ Học Vụ “tư lập, công đảm” này nhằm tạo cho mỗi trường một sắc thái độc đáo, một lối giáo dục riêng biệt, trong một chương tŕnh và kỷ lụật chung. Tính cách “công đảm” dẫn tới sự loại trừ thủ đoạn thương măi trong ngành giáo dục, và nhà trường không phải nuông ch́u học sinh, đến độ làm hư hoại một lớp người tốt đẹp nhất của xă hội. Tuy nhiên, ở mặt khác, nhà trường cũng sẽ bị lâm nguy, khi không hội đủ sỹ số theo luật định. Gặp sự kiện này, hội đồng kỷ luật giáo dục phải nhóm họp để thẩm xét: Nếu v́ lư do áp dụng kỷ luật, mà học sinh tẩy chay th́ nhà nước cần phải duy tŕ, ngược lại do vấn đề dạy dỗ và luân lư, để đưa học sinh đến chổ tẩy chay nhà trường, th́ lúc đó nhà trường mới bị đóng cửa.
Vấn đề giáo dục luôn luôn phải được gắn liền giữa ba lănh vực nhà trường, gia đ́nh và xă hội. Nếu về phía xă hội đă được tổ chức, nhà trường đă tiến tới công bằng, th́ gia đ́nh cũng phải luôn luôn đặt ḿnh trong chương tŕnh giáo dục của con em. Gia đ́nh phải gắn liền với nhà trường trong việc rèn luyện tài đức và nếp sống cho con trẻ. Bởi đó, một hội đồng chỉ đạo của mỗi trường được thành lập gồm các thành phần: Chính phủ, phụ huynh học sinh, ban giám đốc, ban giáo sư, đại biểu học sinh. Gắn liền sinh hoạt của xă hội, học đường và gia đ́nh, theo dơi và hướng dẫn sinh hoạt của học sinh và các nơi.
Đến tuổi trường thành, mỗi người phải có một Nghề Nghiệp và được tự do hành nghề. Tuy nhiên mỗi ngừơi đều được chuyển đổi nghề theo nhu cầu và sở thích của đương sự. Nhưng xă hội có bổn phận phải huấn nghệ cho mỗi người, c̣n việc đổi chọn là do mỗi người quyết định. Trong phần kinh tế sẽ đề cập tới: Chuyên Viên, Công Nhân được chia lời với Công Ty theo hợp đồng do luật định, được quyền có đại diẹân tham dự việc quyết định vận mệnh công ty xí nghiệp khi có tranh chấp. Nông Gia được làm chủ ruộng đất và phương tiện sản xuất của ḿnh. Những người làm thủ công, tiểu công được xă hội hết sức khuyến khích và trợ giúp. Nhưng đă gọi là thủ công th́ những người thợ phải thực thụ có nghề trong tay. Xă hội không giúp qua trung gian, hay một chủ nhân không có nghề. Các công chức phục vụ trong các cơ quan chính quyền, quân đội được hưởng một số lương căn bản đồng đều về gia đ́nh, thêm vào đó có một số lương sai biệt dành cho chức vụ, giờ phụ trội, và một số tiền thưởng lệ hàng năm căn cứ trên trắc nghiệm công tác.
Xă hội hoàn toàn đảm bảo và chăm sóc cho mỗi người từ khi lọt ḷng cho tới lúc bắt tay vào nghề. Từ đó Con Người phải tự đảm nhận lấy cuộc sống của ḿnh và góp phần xây dựng xă hội. Ngoài phần góp công, đóng thuế cho nhà nước, hàng tháng mỗi công tư chức bó buộc phải giành ra một khoảng tiền nhỏ, để tự nuôi ḿnh trong lúc thất nghiệp và về già. Các công, tư sở đương nhiên trừ vào số lương hàng tháng của mỗi người theo luật định, để gởi vào quỹ xă hội. Rồi đến tuổi hồi hưu, hàng tháng đương sự sẽ lĩnh số lương dự trữ đó cho tới hết đời ḿnh. Số lương này có thể được xă hội phụ thêm cho đủ mức nhu cầu của đương sự theo với hoàn cảnh. Về phần con cái của ho,ï khi chưa tới tuổi trưởng thành th́ đương nhiên xă hội bảo đảm về cuộc sống và sự học. Trường hợp những người ly dị sẽ do một đạo luật hôn phối ấn định và do lệnh phán quyết của ṭa án công bố!
Ngoài việc sinh sống làm việc có đảm bảo như trên, vấn đề bệnh tật phải được xă hội chăm sóc cho Con Người. Sức Khỏe phải được đăm bảo đồng đều cho mỗi người. Có bệnh phải được chữa chạy. Trong thời kỳ bệnh tật, công, tư sở vẫn tiếp tục phải trả lương và được điều dưỡng trong các bệnh viện công, nếu đương sự có khả năng th́ vẫn có quyền điều trị tại các bệnh viện tư. Ngoài chính sách y tế đồng đều cho mọi công dân, nhà nước không hạn chế những người có khả năng được điều trị đặc biệt theo quy chế của những người có tiền. Nguyên tắc “Tư Lập Công Đảm” cũng được ứng dụng trong sinh hoạt y tế của xă hội. Mặt khác, xă hội c̣n phải tổ chức những đoàn trị bệnh lưu động, những trạm cứu thương, huấn luyện cho đại chúng biết cách pḥng bệnh, dùng các thứ thuốc trị các chứng bệnh thông thường, để tự bảo vệ lấy sức khỏe của ḿnh và ứng phó với những bất trắc.
Nhà Ở và sự Di Chuyển là vấn đề rất quan trọng cho Con Người. Nhà ở, đường xá, xe cộ sẽ tạo cho Con Người một cuộc sống văn minh thịnh vượng và bảo toàn sức khỏe cho đại chúng. Bởi đó, tất cả mọi khả năng lợi tức Quốc Gia phải dồn vào việc kiến tạo gia cư cho đại chúng và các cơ sở hạ tầng kiến trúc của đất nước. Những nhà cửa đó sẽ bán cho dân chúng bằng cách trả góp. Tại mỗi vùng thôn trang, chính phủ cần phải có kế hoạch kiến thiết làng mạc qui mô vừa tiện cho việc sinh sống cộng đồng làng xă, vừa tiện việc canh tác. Tại đô thị, cần phải giải tỏa các khu mất vệ sinh. Nhưng trước khi ra lệnh giải tỏa, th́ các nhà cửa dành cho dân chúng ở những khu giải tỏa phải được xây cất trước đă, không thể cẩu thả hạ lệnh giải tỏa, mà không có chổ ở ngay cho dân chúng, thêm vào đó phương pháp tốt đẹp nhất đối với công nhân lao động là mỗi khi thành lập một nhà máy, th́ khuyến cáo các Công Ty phải dự tính thành lập quần cư cho công nhân ngay gần đó, hoặc tạo phương tiện di chuyển cho công nhân, để tránh sự phí sức, mất th́ giờ, và làm tràn ứ công lộ mỗi khi tan sở.
Nhà nước không phải là kẻ cướp đối với các chủ nhà, chủ đất, chủ vườn, mà phải thể hiện sự công b́nh tối đa với mọi lớp người. Do đó chính phủ có thể mua lại nhà cửa, vườn đất của các sở hữu chủ hiện nay để bán trả góp cho đại chúng.
Giải Trí là vấn đề rất cần đối với Con Người. Không có giải trí, Con Người sẽ trở thành cằn cỗi tăm tối. Bởi đó, xă hội phải tạo điều kiện cho các nhà làm văn học nghệ thuật phối hợp với nhau để vừa cung cấp, vừa hướng dẩn đại chúng trong việc giải trí. Loại trừ những thứ giải trí đồi trụy. Cung cấp phương tiện và tạo cho đại chúng quan niệm giải trí thanh tao lành mạnh, phải tạo cho đại chúng thực sự bắt tay vào công cuộc tự giải trí, bằng cách giúp phương tiện cho mỗi địa phương thành lập các trung tâm văn hóa, thể thao, các trung tâm sinh hoạt cộng đồng. Phim ảnh, sách báo vừa có khả năng giải trí, giải phiền, giải oan, giải độc, giải thoát cho tâm tưởng con người, thế nên những phim ảnh, sách báo nhập cảng phải được tế nhị lựa chọn cẩn thận ngay từ gốc của nó, chứ không phải để mặc các nhà nhập cảng, nhập cảng rồi mới kiểm duyệt cấm đoán là việc làm tắc trách.
Thể Thao rất cần với thanh thiếu niên. Bởi đó, phải đẩy mạnh phong trào thể thao tới cao độ, thiết lập tạo mỗi làng một vận động trường nho nhỏ, để cho thanh thiếu niên có nơi luyện tập, đồng thời cung cấp cho phương tiện thể thao và những nhà d́u dắt. Trong khi đó cần chọn lựa lấy các nhà thể tháo gia quốc tế. Những người này đương nhiên là tinh hoa của quốc gia, thế nên đời sống của họ, nhà nước cần phải đảm bảo và cung cấp đầy đủ các phương tiện cho họ thao luyện, như vậy mới làm nổi bật khả năng của Dân Tộc đối với thao trường quốc tế, mới hướng được tâm tưởng thanh niên vào những cuộc vận động thể chất cường tráng, khiến cho thanh niên khỏi rơi vào quan niệm hưởng thụ trụy lạc.
Ngoài vấn đề nuôi, dây, ăn, ở, di chuyển, việc làm, sức khỏe, giải trí, xă hội điều hợp c̣n phải dự liệu tới việc tổ chức. Tổ chức đầu tiên là Gia Đ́nh, một tổ chức được thiết lập trên những t́nh cảm thiêng liêng, và nghĩa vụ, bởi đó vấn đề đặt ra là phải huấn luyện cho thanh niên một lối sống, nếp sống, cách sống của gia đ́nh, để cho mỗi người làm tṛn phận vụ làm chồng, vợ, cha, mẹ, ông, bà…Gia đ́nh phải được đặt trong thứ bậc tôn ti, kinh nghiệm và linh nghiệm, tuy nhiên không quá khắc khổ, cách biệt máy móc như lối gia đ́nh Khổng Nho, cũng không quá phóng túng như lối gia đ́nh theo cá nhân chủ nghĩa. Xă hội cũng không biến gia đ́nh thành những cán bộ công an mật vụ của chính quyền, để thành những người suốt đời theo dơi nhau, kiểm soát nhau như kiểu Cộâng Sản chủ nghĩa.
Xă hội Nhân Chủ Tự Do Điều Hợp quan niệm “gia đ́nh là một bản đàn mầu nhiệm, thuần khiết, vốn có sẵn những cung bậc từ tự nhiên, tất cả những nốt nhạc của gia đ́nh đă có, đă sắm vai tṛ thiêng liêng của nó, giờ đây xă hội chỉ làm công việc tiếp giúp triển khai cho những cung điệu thương yêu thêm sáng, đẹp, tốt, mới hơn”. Nói cho rơ, Xă hội giúp mỗi người trong gia đ́nh biết làm tṛn bổn phận, sứ mạng của ḿnh, đồng thời tạo điều kiện cho gia đ́nh, biết cách làm cho gia đ́nh vui sống ḥa điệu và tự giúp nhau triển nở toàn bộ giá trị nhân chủ của ḿnh. Trật tự gia đ́nh như vậy vẫn có, nhưng không mất sự thương vui cởi mở không xa cách nhau, không trở thành tù ngục của nhau, không trở thành thù địch của nhau. Nhất là không trở thành phương tiện của nhau.
Con người ngoài cuộc sống gia đ́nh, c̣n là một hiện hữu giữa tập thể xă hội. Bởi đó song hành với nếp sống T́nh Cảm Thiêng Liêng Gia Đ́nh, các tập thể cũng được thành lập để cung cấp cho nhu cầu sống tập đoàn của Con Người, tùy theo lứa tuổi, thành phần xă hội, tôn giáo, nhu cầu nghề nghiệp. Các đoàn thể xă hội được thành lập để sinh sống và giúp đỡ nhau trong công việc, bổ sung cho nhau về khắp mặt tinh thần và vật chất. Các đoàn thể này không phải là công cụ của chính quyền, nhằm khống chế và kiểm soát đại chúng, mà các đoàn thể đó phải là sự tự do, tự chủ, tự nguyện của mỗi người tham dự vào một nhịp sống thăng hóa toàn diện, một cuộc đổi mới toàn diện, một cuộc cách mạng rốt ráo, từ bản thân mỗi người, mỗi gia đ́nh, mỗi lứa tuổi, mỗi tập thể.
Để ứng hợp với truyền thống Văn Hóa Dân Tộc và một nền Văn Hiến muôn vẻ của Việt Nam và Thế Giới. Xă Hội Nhân Chủ Tự Do Điều Hợp phải được bắt đầu từ đơn vị tổ chức gốc của Quốc Dân là Xă, Phường Việt Nam. Làm sống lại, làm sáng thêm cho quan niệm truyền thống giữ nước và dựng nước của Dân Tộc, là việc thực hiện chế độ Tản Quyền Dân Trị.“Phép Vua Thua Lệ Làng”. Đem áp dụng vào thực tại thời đại, đó là chế độ Dân Chủ Trực Tiếp tại Làng Xă Nông Thôn và Phường Khóm Đô Thị.
Phường, Xă là đơn vị hành chánh gốc của Quốc Dân, mọi giấy tờ liên quan tới Con Nguời và Tài Sản Cá Nhân đều thuộc quyền Xă, Phường chứng nhận mới có giá trị. Do đấy mọi tổ chức và nhân sự điều hành Xă, Phường phải do Dân Chúng địa phương tự do, tự chủ ứng cử và trực tiếp bầu cử ra, rồi được dân chúng kiểm soát và có thể bất tín nhiệm. Ở đây quyết định của cư dân có giá trị quyết định tối hậu, không một quyền lực nào của nhà nước có thể can thiệp được. Chỉ có như vậy, toàn dân với đích thân cảm nhận được quyền công dân của ḿnh trong chế độ Dân Chủ Trực Tiếp. Từ đó Ư Thức Dân Chủ trưởng thành đưa tới những quyết định sáng suốt chính xác trong việc lựa chọn những người điều hành Quốc Gia, cũng như lựa chọn những luật lệ chính đáng được đem ra trưng cầu dân ư.
Hội Đồng Xă, Phường được Dân Chúng trực tiếp bầu ra, theo nhu cầu thực tế, Hội đồng được thuê các chuyên gia hành chánh, kinh tế, kỹ thuật, luật pháp để đảm nhận những việc làm chuyên môn, phục vụ cho sinh hoạt Phường, Xă. Ngoài ra tùy theo phong tục của mỗi Xă, Phường, các tổ chức Hương Phong do các sĩ phu đảm trách, được thành lập để hướng dẫn những sinh hoạt văn hóa trong mỗi làng xă, làm cho nền nếp tốt đẹp của Văn Hóa Dân Tộc được phát huy rực rỡ thêm măi, đúng với nhịp điệu thăng hóa của Thế Giới Nhân Chủ Nhân Văn Thời Đại. Chỉ có như vậy lư tưởng PHỤC VIỆT của bao nhiêu thế hệ cha ông, và ước nguyẹân của Con Người hiện nay mới được thể chứng.
Trên đây mới là những nét đại cương của một cuộc đại thăng hóa toàn diện. Vấn đề c̣n vô cùng phức tạp trước khi đem quan niệm Nhân Chủ Tự Do Điều Hợp ứng dụng vào đời sống quốc dân. Muốn ứng dụng, điều cần là phải quan sát toàn bộ thực trạng xă hội của chúng ta, từ đô thị tới nông thôn, t́m ra các chứng bệnh cần phải đối trị, và thỏa đáp những nhu cầu của từng địa phương. Đối Trị vaø Kiến Tạo đều phải có kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, trong chiến tranh và ở thời b́nh. Muốn có kế hoạch như vậy và muốn thực hiện trọn vẹn được chế độ Nhân Chủ Tự Do Điều Hợp th́ toàn bộ các vấn đề văn hóa, chính trị, pháp luật, quân sự, kinh tế phải phối kết uyển chuyển với nhau, bằng một nguồn tư tưởng chủ đạo sáng bén rộng lớn khắp mặt, và phải có một Tổng Lực Thăng Hóa phát xuất từ nguồn tư tưởng đó, để thể hiện đúng mức và hiệu nghiệm trong cuộc đổi đời này.
======================================================================
KINH TẾ
NỀN KINH TẾ TỰ DO ĐIỀU HỢP
QUỐC DÂN CHỦ ĐỘNG TOÀN CẦU HÓA
Từ Cộng Sản chuyển sang kinh tế Tự Do
Di lụy của kinh tế Cộng Sản quá tệ hại
Khởi dựïng nền kinh tế Việt Nam mới
NỀN KINH TẾ TỰ DO ĐIỀU HỢP
QUỐC DÂN CHỦ ĐỘNG TOÀN CẦU HÓA
Nhân loại thực sự đang vượt lên khỏi những rào cản tâm thức chủ quan hạn hẹp, những trở lực của hàng triệu năm lịch sử Mặc Thức của Con Người, hàng vạn năm lịch sử Ư Thức của Con Người, trong đó với những quán tính Dân Tộc và Văn Minh sai biệt, nhất là có những mê lộ của các Ư Thức Hệ một chiều quá khích, vốn là sản phẩm của những suy nghĩ duy ư chí, để từng bước vững chắc thực tế đáp ứng đúng nhu cầu sống sung túc, ḥa b́nh và phát triển của Nhân Loại, nhằm h́nh thành và hoàn thiện một cuộc sống Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn cho Toàn Thế Giới, mà vẫn chủ động duy tŕ và phát huy được những giá trị cao đẹp của Văn Hóa mỗi Dân Tộc, nhờ vào lối suy nghiệm khắp mặt, và những đóng góp có hiệu quả của các công tŕnh khoa học kỹ thuật, nhất là nhờ sự bùng nổ vĩ đại của ngành tin học truyền thông và những phương tiện chuyển dịch mau lẹ rộng khắp.
Bởi vậy việc tiến tới của một Xă Hội Nhân Chủ Tự Do Điều Hợp đang là Nhu Cầu Thăng Hóa đích thật của lịch sử. Cũng do thế, mà Kinh Tế thời đại đang dứt khoát buộc mọi nước phải thực hiện Nền Kinh Tế Thị Trường Tự Do Điều Hợp, Quốc Dân Chủ Động Toàn Cầu Hóa. Cho dù những Tập Thể Quyền Lực Thiển Cận, hay các Quốc Gia Bảo Thủ Cực Đoan, hoặc các Công Đoàn Lao Động Cục Bộ có cố gắng vùng vằng cách mấy, cuối cùng cũng phải tuân theo, nếu không muốn bị loại trừ . V́ đây là hướng vươn tới của Lịch Sử Nhân Loại, do Nhận Thức và Nhu Cầu thực tại của Con Người trong cộng đồng Xă Hội.
Quá tŕnh Lịch sử Kinh Tế của Nhân Loại đương nhiên không thể nói khác được là: đă đi từ cảnh sống Phi Sản, Nhặt Hái rồi Săn Câu, tới Hữu Sản Du Mục, rồi Nông Nương, sang Tư Sản Chủ Nhân, rồi Tổ Hợp, đến Tư Sản Tự Do Điều Hợp, Quốc Dân Chủ Đồng Toàn Cầu, phát triển trên nền tảng Dân Chủ Tự Do Điều Hợp của từng Quốc Gia và Toàn Thế Giới, mở lối cho Nhân Loại cùng phát huy một cuộc sống Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn trong Ḥa B́nh Thịnh Vượng, mà Kinh Tế Thị Trường Tự Do là khởi điểm không thể thiếu được của nền Kinh Tế Tư Sản Tự Do Điều Hợp, Quốc Dân Chủ Động Toàn Cầu Hóa.
Lẽ cố nhiên, thực hiện nền Kinh Tế Thị Trường Tự Do ở các nước lạc hậu, mà trong tư tưởng, luật pháp và cung cách sinh hoạt của chính quyền, cũng như nơi dân chúng c̣n đặc quánh nề nếp Phong Kiến, chỉ mới leo lét chập chờn trong h́nh thái sinh hoạt chính trị Dân Chủ, ở đấy, các tập thể Xă Hội Công Dân chưa vững mạnh, Tự Do Báo Chí Tuyền Thông Ngôn Luận chưa có đất đứng th́ không sao tránh khỏi cảnh “Độc Tài Tùy Tiện” của các chính quyền “Gia Trưởng Độc Tôn Khoác Áo Dân Chủ”, khiến cho Bọn Cơ Hội Chủ Nghĩa dựa thế chính quyền, để làm chủ kinh tế thị trường, thâu tóm mọi nguồn lợi của Quốc Dân, tạo ra cảnh phát triển rầm rộ, mà rỗng ruột, tức là một thứ Kinh Tế Thị Trường Tự Do không có “Nền Móng Vững Chắc từ Nội Lực Kinh Tế Quốc Dân”. Bởi vậy, những trạng thái Kinh Tế đó đều đang và sẽ sụp đổ, cùng với sự trả giá của các chính quyền cha đẻ của chúng.
Thế nhưng dù sao, ở các nước nửa Phong Kiến, nửa Dân Chủ tiến tới Kinh Tế Tự Do Điều Hợp Toàn Cầu Hóa, tuy có khó khăn, mà vẫn là bước đi thuận hướng lịch sử. Dù có những trở lực lạc hậu nhất định, nhưng không qúa lớn lao như ở các nước mà Cộng Sản c̣n thống trị. V́ họ chỉ cần hoàn thiện chế độ Dân Chủ Trọng Pháp thực sự. Tạo điều kiện cho các Tập Thể Xă Hội Công Dân tự do sinh hoạt và phát triển. Nhà Nước biết đặt quyền lợi của Quốc Dân trong chính sách nâng cao Dân Trí, thăng tiến Dân Sinh và phát triển Kinh Tế Thị Trường Tự Do. Mở rộng giao thương với Thế Giới một cách chủ động mà thực tế, nghĩa là phải biết tới thực lực, quyền lợi của ḿnh và của phía đối tác. Vận dụng Ngoại Lực phục hồi Nội Lực, theo đúng với nhu cầu Quốc Dân và đáp ứng của Thế Giới. Chỉ có làm như vậy, th́ mới vừa phát huy được Chủ Động Tính của Dân Tộc và sự Tự Do Hứng Khởi của Toàn Dân, vừa hội nhập êm đềm vào được với tiến tŕnh Toàn Cầu Hóa của Nhân Loại một cách vững vàng.
Phải nhận rằng: Chính các nước Tư Bản Tự Do, mà Cộng Sản từng lên án là “Tư Bản Đế Quốc Bóc Lột”. Lại chính là những nước đang dễ dàng đi đúng hướng lịch sử, khi các nước ấy đă đi vào nếp sinh hoạt chính trị Dân Chủ Trọng Pháp, mỗi ngày một hoàn chỉnh, các tập thể Xă Hội Công Dân trưởng thành, nền Tự Do Ngôn Luận Truyền Thông được Hiến Pháp vaø Luật Pháp bảo vệ triệt để, th́ Quyền Tự Do Phát Biểu của mổi Người Dân mới được tuyệt đối tôn trọng. Chính trên nguyên tắc ấy, mà Nhân Quyền được đặt vào đúng tầm mức sinh hoạt và phát triển Quốc Gia, cũng như tương quan Quốc Tế.
Vào thực tế, các Công Ty Tư Bản Sản Xuất và Kinh Doanh, nhờ tự do thông tin mới nắm vững nổi Khả Năng hiểu biết và Nhu Cầu tiêu thụ của Từng Người, để hoạch định kế sách cung ứng và đẩy cao nhịp độ phát triển sản xuất. Từ đó mặc nhiên h́nh thành Nền Kinh Tế Thị Trường Tư Sản Tự Do Điều Hợp, dựa trên sự hiểu biết thực tại giữa Cung, Cầu, Vận Chuyển và Chuyển Hoán tài chánh, một cách nhịp nhàng, rồi được Nhà Nước Dân Chủ đưa vào thành luật pháp, không để cho có kẻ độc quyền, độc tôn, dù là các Công Ty hay Chính Phủ.
Cũng bằng vào đấy, Nhà Nước có trách nhiệm phải tạo điều kiện cho Kinh Tế Thị Trường Tự Do Điều Hợp của nước ḿnh Đối Tác với các nước khác, trong những quy chế sinh hoạt Kinh Tế Thế Giới, mà đă được các nước hội viên chủ động chấp thuận. Vậy, chính các nước có Nền Kinh Tế Tự Do Điều Hợp phát triển, đang dẫn đầu trong công cuộc Toàn Cầu Hóa. V́ nhu cầu phát triển của nền kinh tế đó, cũng là nhu cầu phát triển của chính Quốc Gia họ, nên họ lại phải tiếp tay với các nước chậm tiến để tạo điều kiện cho Nền Kinh Tế Thị Trường Tự Do Điều Hợp thành tựu ở khắp nơi, giúp nhau cùng có cơ hội gia nhập chung với Nền Kinh Tế Toàn Cầu Hóa của Thế Giới. Đây là hướng mở ra của NỀN KINH TẾ TƯ SẢN TỰ DO ĐIỀU HỢP, QUỐC DÂN CHỦ ĐỘNG TOÀN THẾ GIỚI. Như vậy, Kinh Tế Tư Sản Tự Do Điều Hợp, được đưa ra và thực thi, không dựa trên Ư Chí Chủ Quan của một người, một nhóm, một đảng, một chủ nghĩa, một tín ngưỡng, mà hoàn toàn phải dựa trên Luật Pháp Dân Chủ. Tức là luật pháp đó, phải do những người làm luật và thi hành luật, đă được đa số Công Dân trong một nước Tự Do bầu lên, hoặc trực tiếp bỏ phiếu chấp nhận từng đạo luật một. Trên b́nh diện Thế Giới th́ phải được các nước liên hệ hoàn toàn Tự Do Chủ Động cùng chấp thuận mới có giá trị. Tóm lại Kinh Tế Tư Sản, Tự Do, Điều Hợp phải gắn liền với Chính Trị Dân Chủ, Tự Do, Điều Hợp, trong Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn, Viên Dung của Nền Văn Hiến Dung Hóa Đa Nguyên, Phân Nhiệm, Điều Hợp trên quy mô Xă Hội Toàn Cầu.
TỪ CỘNG SẢN CHUYỂN SANG KINH TẾ TỰ DO
Thảm hại nhất là đối với các nước do Cộng Sản nắm chính quyền. Sau gần một thế kỷ cướp quyền tại các nước Phong Kiến lạc hậu. Cộng sản đă đem áp dụng Chủ thuyết Cộng Sản Duy Vật vào thành chế độ Chính Trị Độc Tôn, Toàn Trị sắt máu. Kinh tế Chỉ Huy, Bao Cấp chấm điểm. Buộc toàn thể dân chúng vào cảnh “Lao Động Nô Dịch” cùng khổ, c̣n “Vinh Quang Vương Giả” th́ dành cho Lănh Tụ và Đảng Viên. Trong hoàn cảnh Toàn Xă Hội kể cả Giai Cấp Lănh Đạo cầm quyền, lẫn dân chúng đều bị chủ thuyết Duy Vật Cộng Sản Ảo Tưởng, điều kiện hóa một cách triệt để quyết liệt thường xuyên, tàn nhẫn, xảo quyệt, nhằm đoạt hết mọi sự Tự Do và Tư Hữu của Con Người. Khiến ngay chính các lănh tụ khát máu, cho tới những lư thuyết gia Cộng Sản, đều tin tuyệt đối vào lập luận chủ quan, duy ư chí cưỡng bức lịch sử của K. Marx về Duy Vật Sử Quan và Duy Vật Biện Chứng.
Đối tượng chính của cuộc đấu tranh giai cấp là Tư Bản. Cộng Sản cho Tư Bản là kẻ thù không đội trời chung của Vô Sản. Do đó mới đẻ ra quan niệm Giai Cấp Kinh Tế. C̣n dưới thời Phong Kiến, nhất là Xă Hội Phong Kiến Đông Phương th́ chỉ có ư niệm về Đẳng Cấp Xă Hội giầu nghèo, sang hèn, do mức thang Văn hóa và chế độ Chính Trị tạo ra. Về mặt Kinh Tế, Xă Hội th́ chia làm ba cấp Chủ Nông, Trung Nông vaø Bần Nông. Chủ Nông thuộc thành phần Địa Chủ Phong Kiến. Trung Nông là những người tư hữu ruộng đất, tự làm chủ tài sản và canh tác lấy, họ chiếm đa số trong xă hội. Bần Nông là tá điền không có ruộng đất, đi làm thuê cho Chủ Nông hoặc ở đợ. Chính v́ vậy mà Phong Trào Cộng Sản Đông Phương phải mượn chiếc vỏ Dân Tộc và thành phần Nông Dân đậm đặc tư hữu tính làm ṇng cốt đấu tranh.
Khác hẳn với bản sắc Cách Mạng Vô Sản của thời Tư Sản Dân Quyền của Xă Hội Tây Phương. K. Marx sống trong giai đoạn Lịch Sử Tây Phương đang có cuộc bừng khởi tư tưởng Dân Chủ Nhân Quyền, thành Cách Mạng lật đổ hệ thống Phong Kiến Lănh Chúa sa đọa của Tây Phương 1789. Nhưng v́ tinh thần Dân Chủ chỉ mới có mặt trong lớp Trí Thức Thị Dân, chưa phổ cập trong đại chúng, chưa có kinh nghiệm trị quốc, nên đă bị thế lực Phong Kiến Phản Động lật ngược, chiếm thế thượng phong, đẩy các nước Âu Châu vào công cuộc Thực Dân Hóa Toàn Cầu. Hướng ṭan bộ khả năng và tâm trí của Quốc Dân vào việc mở rộng thuộc địa. Thế là Phong Kiến lại làm chủ Xă Hội.
Do nhu cầu mở rộng Đế Quốc và tranh giành Thuộc Địa giữa các Quốc Gia Phong Kiến, nền kỹ nghệ Âu Châu buộc phải đáp ứng, bởi thế Trí Thức Khoa Học và Kỹ Nghệ Gia của Thị Dân dần dần chiếm ưu thế trong Xă Hội, hội đủ thế và lực thực hiện cuộc Cách Mạng Tư Sản Dân Quyền 1848. Mặc nhiên h́nh thành Giai Cấp Tư Bản Cực Quyền, khống chế Vương Quyền, Nhà Thờ, lẫn Lao Động. Nông Nô ở các Lănh Địa Phong Kiến trốn ra Đô Thị để làm Công Nhân trong các Xí Nghiệp. Xí Nghiệp biến thành Lănh Địa của Tư Bản, buộc Công Nhân trở thành Công Nô. Chính đây là chất xúc tác để cho K. Marx sáng tạo biện chứng Duy Vật : Lượng sinh phẩm, vật chất sinh ra tinh thần, kinh tế quyết định chính trị quái ác, mất hẳn nhân tính. Bằng cảm tính hận thù cho là Tư Bản bóc lột Vô Sản, Marx đă đẻ ra quan niệm Đấu Tranh Giai Cấp.
Rồi cũng bằng lối nh́n thiên lệch chủ quan, mà tưởng đó là khoa học, Marx đă vo tṛn, bóp méo, cắt xén lịch sử để đưa ra Duy Vật Sử Quan, và coi đó là lẽ tất yếu khách quan, buộc lịch sử phải tiến trên con đường một chiều khắc nghiệt ṿng trôn ốc: Đi từ Cộng Sản Nguyên Thủy, sang Nô Lệ, qua Phong Kiến, tới Tư Bản, lên Cộng Sản Văn Minh. Thực tế trên tiến tŕnh lịch sử Nhân Loại, chẳng làm ǵ t́m thấy trong cuộc sống Loài Người có thứ Kinh Tế Cộng Sản Nguyên Thủy nào cả, v́ trong cảnh sống Mặc Thức Nhân Nhiên, Con Người sống hoàn toàn tùy thuận thiên nhiên, đói kiếm trái cây, và thực dụng sẵn có chung quanh để ăn, làm ǵ biết tới Sản Xuất Tích Lũy mà gọi là Cộng Sản, tức là cộng sức sản xuất cho được. C̣n chế độ Nô Lệ được phát sinh từ Phong Kiến cướp đất, bắt người đưa về làm Nô Lệ, rồi tạo ra thị trường buôn bán nô lệ, chứ đâu phải là một chế độ tự nhiên, phát sinh từ nhu cầu xă hội, kinh tế, chính trị và nhận thức, trước khi chế độ Phong Kiến thành h́nh.
Thế rồi Marx lại đem trộn lộn xộn những biểu kiến Kinh Tế , Chính Trị vào với nhau, đổi trước ra sau, đổi sau ra trước để làm biểu tượng cho những bước đi của lịch sử. Thực ra Lịch sử Nhân Loại diễn hóa, dựa trên Hướng Thăng Hóa của các thời đại từ Mặc Thức Nhân Nhiên, sang Ư Thức Nhân Loại, tới Nhận Thức Nhân Văn một cách toàn diện gồm ba mặt: XĂ HỘI T̀NH, tức là h́nh thái tổ chức Xă Hội, đi từ Thị Tộc, Bộ Lạc, Quốc Gia, đến Thế Giới. XĂ HỘI CẢNH, tức là sinh họat Kinh Tế, đi từ Phi Sản nhặt hái rồi săn câu, đến Hữu Sản du mục rồi nông nương, qua Tư Sản chủ nhân rồi tổ hợp, tới Tư Sản Tự Do Điều Hợp Toàn Cầu. XĂ HỘI LƯ, tức là h́nh thái chế độ Chính Trị từ thuận thuộc mẫu hệ rồi phụ hệ, đến Phong Kiến tản quyền rồi cực quyền, tới Dân Chủ tùy tiện rồi trọng pháp, tới nền Nhân Chủ Tự Do Điều Hợp Toàn Cầu Hóa, đặt trên sự hiểu biết của Con Người, tức là do Tri Thức, hay VĂN HÓA CHỦ ĐẠO.
Với lối nh́n một chiều chủ quan thiên kiến, với những lập luận dựa trên thứ khoa học non yểu không thực chứng, Marx đă khống chế được giới suy tư mơ mộng đương thời theo Marx, kể cả chống Marx, cũng mặc nhiên nhận thứ sử quan ngụy biện nêu trên. Khiến cho tư tưởng Marx trở nên vô địch, đủ sức thuyết phục giới Trí Thức Trung Lưu Âu Châu, thổi lực lượng Thợ Thuyền Lao Động lên thành biểu tượng của cuộc Cách Mạng Vô Sản, rồi đoạt được chính quyền tại Nước Nga Phong Kiến, vừa mới sang tay cho khuynh hướng Dân Chủ Tư Sản được mấy ngày. Đúng vào lúc Đệ Nhất Thế Chiến lên cao điểm 1917, các nước Thực Dân, Kỹ nghệ Âu Châu c̣n mải mê bắn giết nhau và cũng sắp tới ngày tàn cuộc, không rảnh tay tiếp giúp đồng minh. Thế là Cộng Sản Nga mặc sức tung hoành, tiêu diệt tận cùng các lực lượng Phong Kiến lẫn Dân Chủ, lùa toàn thể Dân Nga và các Dân Tộc thuộc ảnh hưởng Đế Quốc Sa Hoàng vào một Xă Hội Xô Viết sắt máu Cộng Sản Độc Tài Toàn Trị. Áp dụng triệt để Nền Kinh Tế Tập Sản Mệnh Lệnh. Dưới danh nghĩa là Vô Sản Chuyên Chính, nhưng thực chất là do bọn Tiểu Tư Sản Trí Thức đầy ắp tính chất Đế Quốc, độc đoán, tàn bạo lănh đạo.
Ngay sau khi giảm bớt cường độ hăng say đấu tranh cách mạng, buộc phải đi vào cuộc sống ổn định xây dựng phát triển, th́ những nhà thiết kế Xă Hội Chủ Nghĩa mới thấy rơ được sự viển vông của Lư Tưởng Cộng Sản Đại Đồng và Nền Kinh Tế Vô Sản Tập Thể. Chỉ trong ṿng 6 năm từ 1917 đến 1923 nước Nga áp dụng triệt để nền Kinh Tế Tập Sản đă đẩy Đất Nước vào ṿng tan vỡ khắp mặt, kinh tế lụn bại, nông nghiệp khô kiệt, xí nghiệp đ́nh đốn, lao động chây lười, quản lư tùy tiện, dân chúng đói khổ, chính quyền tê liệt, cả xă hội thành một bày thú hoàn toàn vô sản, vô năng, vô sáng kiến, nhất nhất đều chỉ chờ lệnh Trung Ương. Lenin buộc phải cứu chế độ bằng chính sách “Tân Kinh Tế 1923”. Tuy về mặt tuyên truyền vẫn đề cao “Chuyên Chính Vô Sản”, nhưng không chỉ coi “Vô Sản Thợ Thuyền” là chủ đạo duy nhất nữa, mà là do “Liên Minh Công Nông” chủ đạo. Nghĩa là chấp nhận thành phần Nông Dân có Tư Hữu Tính làm ṇng cốt phục hoạt và phát triển Kinh Tế Quốc Dân. Trở lại việc nh́n nhận các Gia Đ́nh Tư Hữu, trong Nhà Nước Công Nông. Quốc Gia là cá thể chính trị, ra pháp lệnh và phát hành giấy bạc để thay cho thứ “ Phiếu Ăn và Giải Trí” của Xô Viết dành cho xă viên và nhân dân.
Cũng ngay từ phút ấy, bọn cầm đầu quái ác liền chuyển hướng nguyên tắc lănh đạo, biến các Chính quyền Xô Viết thành bộ máy “Công An Trị” khủng bố trấn áp toàn dân, đưa vai tṛ Lănh Tụ lên thành thần tượng siêu việt, tiêu biểu cho Tư Tưởng Cách Mạng Cộng Sản. Mọi khẩu hiệu do Lănh Tụ ban ra đều là nguyên lư của chủ nghĩa. Thế cho nên sau này mới có hiện tượng gọi là Chủ Nghĩa Mác - Lê, rồi Mác - Lê – Sít, Mác - Lê- Mao, Mác – Lê – Hồ. Tóm lại Chủ Nghĩa Mác chỉ c̣n là chiếc áo khoác cho các tay trùm Cộng Sản, với bản chất Phong Kiến, Tư Bản, Độc Tài, nắm vững phương tiện khủng bố trấn áp là Cộng Đảng, để khống chế Toàn Dân trong một xă hội khép kín và được điều kiện hóa, chỉ biết tuân phục.
Cơ may giúp Cộng Sản Nga sống sót để có cơ hội trở thành thế lực đối đầu với Thế Giới Tự Do, là nhờ Phong Trào Quốc Xă của Hitler, với chủ trương chống Tư Bản lẫn Cộng Sản, đề cao tinh thần Quốc Gia Xă Hội Cực Đoan của người Trung Lưu Chủng Tộc Đức. Từ 1933, Hitler tạo nổi sức mạnh tinh thần quật cường của Dân Tộc Đức, phục hồi được nền kinh tế và kỹ nghệ tân tiến của Đức, chuyển thành kỹ nghệ chiến tranh, đủ thế lực đánh bại tất cả các Nước Tư Bản Thực Dân Âu Châu vào năm 1939. Dồn chung Cộng Sản Liên Xô vào với các nước Tư Bản Thực Dân thành một trận tuyến. Đến khi Hoa Kỳ nhẩy vào ṿng chiến chống Quốc Xă Phát Xít th́ Liên Xô mặc nhiên được thừa nhận là một Đồng Minh, c̣n có thực lực chống Phát Xít tại Âu Châu. Phía Tư Bản Thực Dân chỉ c̣n một nước Anh là chưa bị Hitler chiếm đóng, Nên trong thực tế Phe Đồng Minh chỉ có Anh - Mỹ - Nga. Anh - Mỹø vốn là “Đồng Minh Cật Ruột” với nhau như một, khiến Nga trở thành thế “Đồng Minh Đối Tác” của Mỹ trong chiến tranh. Nhờ đó sau 1945 Đồng Minh chiến thắng Phát Xít, Liên Xô có thời cơ và điều kiện tiến vào nước Đức bại trận đầu tiên, gom thâu tất cả vốn liếng kỹ thuật, tài sản, tài liệu cùng các nhà Bác Học Nguyên Tử, và Chuyên Viên Thượng Thặng của Đức đưa về Nga.
Sau Đệ Nhị Thế Chiến, trên nguyên tắc Chiến Lược Toàn Cầu của Mỹ, là phải hủy bỏ Chủ Nghĩa Thực Dân, để Mỹ rộng đường bước vào Thế Giới Mới, mà trong chiến thuật th́ Mỹ luôn luôn phải sắm vai tṛ một nước “Bạn” của các nước Thực Dân Âu Châu. Bởi thế đối với Liên Xô, Mỹ nhận là Đồng Minh trong Chiến Tranh, mà phải đặt Liên Xô làm Đối Thủ trong Thời B́nh, ngấm ngầm tạo cơ hội và điều kiện đẩy Liên Xô vào thế công khai đỡ đầu cho các đảng Cộng Sản đàn em ở các Dân Tộc nhược tiểu đấu tranh “Giải Thực”. Buộc các nước Âu Châu phải đứng trong chiến tuyến Chống Cộng do Mỹ lănh đạo trong thời kỳ c̣n tham vọng “tái lập thực dân” , cũng như sau khi đă phải chấp nhận “Giải Thực”. Nhờ thế mà Liên Xô đă được chia cho một nửa Âu Châu, để đủ tư thế tiến lên làm chủ nửa Thế Giới, sắm vai tṛ Siêu Cường Nguyên Tử đối đầu với Mỹ trong chiến tranh lạnh.
Chiến Tranh Lạnh đối với Cộng Sản Liên Xô là cuộc chiến tranh Ư Thức Hệ, kết hợp với tham vọng Đế Quốc của Dân Tộc Nga. C̣n ở các nước chư hầu th́ đề cao tinh thần Dân Tộc Độc Lập chống Thực Dân, Giải Phóng Đất Nước của các nước Bị Trị, mà trong thực tế th́ dùng các Cộng Đảng địa phương cướp Chính Quyền để từng bước đưa vào quỹ đạo chư hầu của Liên Xô. Tận dụng lối Tuyên Truyền học được của Phát Xit Hitler để đánh bóng lănh tụ, và thổi phồng khả năng Quân Sự và Vũ Khí của Liên Xô. Bởi vậy chế độ Xô Viết phải dồn mọi khả năng kinh tế Quốc Dân vào hai mặt là Tuyên Truyền và sản xuất Vũ Khí.
Chính do hai mục tiêu tuyên truyền vaø vơ khí đă tỏ ra có hiệu quả quá lớn bước đầu, lại cũng chính là mối họa sát thân của Liên Xoâ, sau đó. V́ Liên Xô đă tạo ra bộ máy tuyên truyền khổng lồ không trực tiếp tham gia sinh hoạt kinh tế, hoàn toàn ăn bám Quốc Dân. Chẳng những thế, cũng v́ mục đích tuyên truyền, mà Liên Xô đă dồn tất cả nội lực kinh tế Quốc Dân vào việc chạy đua sản xuất vơ khí nguyên tử, và vào các chương tŕnh không gian vĩ đại tốn kém vô bổ đối với cuộc sống thực của Quốc Dân. Như vậy, tuy có thỏa măn được sự kiêu hănh là một Siêu Cường Nguyên Tử đang trên đà chiến thắng, nhưng về mặt kỹ nghệ dân dụng, phục vụ cuộc sống người dân th́ hoàn toàn lạc hậu, so với các nước Tư Bản. Nền Kinh tế thật của Liên Xô đúng là một nền kinh tế cổ lỗ chậm tiến, chỉ có những công tŕnh hào nhoáng bên ngoài được dàn dựng để tuyên truyền theo ư chí của các lănh tụ, cho xứng hợp với địa vị của một Siêu Cường Nguyên Tử mà thôi.
Dân chúng Liên Xô sống trong cảnh đồng loạt nghèo khổ, không có cơ hội để so sánh với người chung quanh, họ chỉ biết nếu cố gắng phấn đấu để trở thành Đảng Viên th́ sẽ có quyền, có thế, có lợi. Đây cũng là lư cớ để cho một Đảng Độc Tài Toàn Trị vững mạnh. V́ chính nó đă trở thành mức thang giá trị cho cuộc sống, buộc tâm thức và ư chí của mỗi người phải vươn tới. Chế độ độc tài toàn trị nhờ vào khủng bố tàn bạo và tuyên truyền và thông tin một chiều mà đứng vững. Nhưng đối phương và những chuyển biến xă hội của toàn thế giới th́ đâu có đứng yên một chỗ, mà trên mặt ngoại giao và giao thương Liên Xô vẫn phải gởi cán bộ ra bên ngoài để giao tiếp với Thế Giới, nhất là với các nước thù địch tiên tiến khắp mặt, từ đó một lớp cán bộ ngoại giao và một số chuyên viên, thương mại đă nhận ra sự yếu kém của Liên Xô . Rồi với những cố gắng không ngừng của Hoa Kỳ và Tây Âu nhằm chọc thủng bức màn bưng bít thông tin của Hệ Thống Toàn Trị đối với Dân Chúng Liên Xô. Thế là khả năng vạn thắng của hệ thống tuyên truyền của Cộng Sản lần lần mất hiệu nghiệm, nhu cầu thực tế của đời sống người thường vươn lên khỏi sự sợ hăi và những ảo tưởng về một thiên đường Xă Hội Chủ Nghĩa, chỉ chờ thời cơ trở ḿnh.
Nguy hiểm hơn là Hoa Kỳø, mỗi ngày một đẩy cao hơn về việc Chạy Đua Vũ Trang, và tăng cường Chương Tŕnh Viện Trợ cho những nước chống cộng, thiết lập các Khối Quân Sự Đa Quốc để bao vây Liên Xô. Ứng phó lại những Cuộc Chiến Mở Rộng Chư Hầu của Liên Xô. Dùng ngay các cuộc chiến đó để buộc dân chúng Hoa Kỳ phải chấp nhận chiến lược Pḥng Thủ Toàn Cầu và Chạy Đua Vũ Trang. Đồng thời cũng có được cơ hội thử nghiệm vơ khí chiến thuật trận địa, nhằm mở ra một “hội chợ vơ khí” đáp ứng với nhu cầu của thị trường tiêu thụ khổng lồ trên khắp các nước chậm tiến. Nếu Cộng Sản có khẩu hiệu “Lấy Chiến Tranh Nuôi Chiến Tranh” th́ Hoa Kỳ thực tế hơn là “Dùng Chiến Tranh Thử Vơ Khí”, “Lấy Thị Trường Vơ Khí Nuôi Chạy Đua Vơ Trang” và “Viện Trợ để Xác Lập Ưu Thế Tuyệt Đối của Đồng Dollars trên Thị Trường Quốc Tế”. C̣n Liên Xô th́ phải “Dùng Kinh Tế Quốc Dân Nuôi Chạy Đua Vũ Trang” và “Bóp Bụng Dân Nga để Viện Trợ cho Chư Hầu”
Bởi thế, Liên Xô đă bị gục ngă trước Thế Lực Kinh Tế ngày một đi lên của Hoa Kỳ, mà nền Kinh Tế Liên Xô th́ mỗi ngày mỗi kiệt quệ. Hay có thể gọi Kinh Tế là chủ đạo của cuộc Chiến Tranh Lạnh, kẻ thắng là do kinh tế mạnh, kẻ thua là v́ suy kiệt kinh tế. Sau chiến tranh Việt Nam, Liên Xô đă đánh giá sai lầm về sự thất trận của Mỹ. Cho rằng: Mỹ không c̣n đủ sức đóng vai “Sen Đầm Quốc Tế” nữa, nên dồn mọi sức lực cuối cùng vào việc tự ḿnh tham chiến và thuê đàn em Cuba, Việt Nam mở ra các trận chiến tranh lấn chiếm khắp các nước từ Á Châu qua Phi Châu tới Trung Mỹ. Với hy vọng là tốc chiến tốc thắng, “Xích Hóa” các nước Nhược Tiểu, dùng chư hầu ở khắp nơi trên Thế Giới bao vây Tư Bản, cô lập Hoa Kỳ với Thế Giới. Đồng thời đánh gục tư thế của Trung Cộng trong khối Cộng. Nhưng ở đâu đâu Cộng Sản cũng vấp phải sự đối kháng bền bỉ dẻo dai của Du Kích Chiến, bởi các lực lượng Dân Tộc Chống Ngoại Xâm chiến đấu, và có sự ngấm ngầm trợ giúp của Hoa Kỳ. Khiến cho Liên Xô và Tay Sai bị sa lầy, buộc Liên Xô phải dùng tới “đồng Rúp cuối cùng” để nuôi các cuộc chiến tranh vô vọng đó.
Mặc dù về tâm lư Hoa Kỳ bị rơi vào “Hội Chứng Việt Nam”. Nhưng nền Kinh Tế Hoa Kỳ là nền kinh tế có nội lực hùng hậu, năng động, kỹ thuật cao, và hệ thống tài chánh, ngoại thương bao trùm thế giới. Khi lính Mỹ được buông tay súng, rút khỏi chiến trường Việt Nam, th́ ngân sách Quốc Pḥng khổng lồ của Mỹ chuyển ngay vào việc “chạy đua vũ trang”, sản xuất vơ khí kỹ thuật cao, khiến cho Liên Xô đuối sức, ngă gục, đành phải kư các Hiệp Ước Tài Giảm Vơ Khí, Khóa và Phá Hủy các kho Vơ Khí Nguyên Tử và Sinh Học. Xin tự động rút khỏi các cuộc chiến. Cuối cùng phải bỏ rơi chư hầu Đông Âu.1989 bức tường Berlin sụp đổ. 1991 Liên Xô tan vỡ. Chấm dứt Xă Hội Chủ Nghĩa tại quê hương Cách Mạng Vô Sản Tháng Mười 1917. Nền Kinh Tế Tự Do đă toàn thắng nền Kinh Tế Cộng Sản tại Nga. Chiến Tranh lạnh chấm dứt, kẻ bại là Liên Xô, kẻ thắng là Hoa Kỳ nhưng chưa thể “ca khúc khải hoàn”.
DI LỤY CỦA KINH TẾ CỘNG SẢN QUÁ TỆ HẠI
May mắn cho các nước Đông Âu, khi thoát ách Cộng Sản là tiến thẳng tới chế độ Dân Chủ, để hội nhập ngay vào nền Kinh Tế Thị Trường Tự Do, không một chút nuối tiếc, chần chờ. V́ chẳng có ǵ để cho người dân các nước cựu chư hầu Cộng Sản Liên Xô phải nuối tiếc. Các nước Đông Âu bị các cường quốc chiến thắng Phát Xít chia phần cho Liên Xô. Liên Xô đă dùng xe tăng để thiết lập tại đó các chính quyền Cộng Sản chuyên chính, hoàn toàn phải nhận lệnh từ Moscow. Chính ngay những kẻ được Liên Xô đặt ngồi vào ghế lănh đạo, cũng tự nhận được thân phận tay sai của ḿnh, nên khi xe tăng của Liên Xô rút đi, Dân chúng vui mừng chào Tự Do để xây dựng cuộc sống Dân Chủ, th́ các cựu đảng viên Cộng Sản, dù có cố gắng duy tŕ đảng để bảo vệ an ninh và sinh mạng chính trị của ḿnh, cũng không c̣n dám mơ tưởng tới Chế Độ Độc Tài Đảng Trị và Nền Kinh Tế Chỉ Huy nữa. Họ có ngay một cái nh́n chính xác đúng với xu thế thời đại là Dân Chủ Chính Trị, Tự Do Kinh Tế, và Hội Nhập Thế Giới. Bởi thế có nhiều nước, Đảng Cộng Sản đă được bầu lại vào Chính Quyền, cũng vẫn nghiêm chỉnh tuân theo Nguyên Tắc Sinh Hoạt Dân Chủ, chứ không dám trở lại lối Cai Trị Độc Đảng Chuyên Đoán Toàn Thống như xưa nữa. Nhờ đó mà các nước Đông Âu sớm chấm dứt nổi các di lụy phải có sau khi chế độ Cộng Sản sụp đổ.
Nhưng tại nước Nga vốn là trung tâm quyền lực của Đế Quốc Liên Xô th́ ngược lại: Từ chế độ Cộng Sản Độc Tài Toàn Trị bị chính biến tan vỡ Liên Xô, thành Cộng Ḥa Liên Bang Nga, rồi ép buộc phải chuyển sang chế độ Dân Chủ Tự Do Đa Đảng, và Kinh Tế Thị Trường Tự Do, nhưng chỉ mới đủ làm thành “Một Tấm Áo Khoác Dân Chủ” cho lănh tụ Chính Quyền vốn là cựu Đảng Viên Cộng Sản, Tổng thống Boris Yeltsin, đầu óc ông c̣n đậm đặc tính cách độc tài chuyên đoán của cựu Ủy Viên Bộ Chính Trị, kiêm Thành Ủy Moscow, rồi Tổng Thống Nga được bầu lên qua cuộc bầu cử kiểu Liên Xô. Bởi vậy, bản Hiến Pháp đầu tiên của Cộng Ḥa Liên Bang Nga, Yeltsin đă tự dành cho Tổng Thống có quyền như một vị Sa Hoàng Đế Quốc Nga, cộng với quyền của Tổng Bí Thư Cộng Đảng, để điều khiển một guồng máy cai trị cồng kềnh tùy tiện, rệu rạo thiếu hiệu năng của thời Liên Xô c̣n lại. Không tạo cho Toàn Dân Nga thực sự có ư thức Dân Chủ và cơ hội Tự Do gia nhập Kinh Tế Thị Trường, mà lại mặc nhiên tạo cho bọn “Cơ Hội Chủ Nghĩa” và bọn “Cộng Sản Tham Ô” bám vào Yeltsin để thao túng thị trường, khiến cho kinh tế Nga vừa thoát khỏi cảnh “Kinh Tế Chỉ Huy” lại lâm vào cảnh “Kinh Tế Đạo Tặc” .
Nền kinh tế Nga kiệt quệ cùng cực, chỉ dựa vào giúp đỡ của Âu, Mỹ qua sự cho vay và viện trợ. Thế nhưng ngoại tệ chuyển vào một th́ bọn “Băng Đảng Kinh Tế” lại tẩu tán ra nước ngoài gấp đôi. Bởi thế Dân Chúng Đói Khổ Nhân Viên Nhà Nước và Quân Đội không có lương đều đặn hàng tháng, buộc họ phải tùy tiện xoay xở kiếm sống, bằng cách lợi dụng chức quyền để rút tỉa của Dân Nước và làm ăn bất chính với các băng đảng kinh tế. Kinh tế Thị Trường của Nga mang nội dung “Thị Trường Chợ Đen” khắp mặt, từ Nguyên Tử cho tới điếu thuốc lá. Dân Chúng đều phải lo pḥng thân, không cần biết tới chính phủ và nhà nước. Các Chính Đảng th́ chỉ nổi lên mặt tầng, với những tranh chấp quyền hành và lối tuyên truyền mị dân, không một đảng nào, từ cực hữu, trung dung, đến cực tả, kể cả đảng Cộng Sản, mà đă đưa ra được một chính sách kinh tế hữu hiệu, để giải quyết sự đi xuống thế tiêu vong của Liên Bang Nga.
Vladimir Putin, Tổng Thống thứ hai của Cộng Ḥa Liên Bang Nga, là một cựu nhân viên Mật Vụ KGB thời Liên Xô, lên thừa kế sự nghiệp Tổng Thống của Yeltsin, với điều kiện phải bảo đảm cho Yeltsin hưởng tuổi già, để không bị luật pháp chạm tới. Putin dùng chiến thắng quân sự đánh dẹp sắc tộc Hồi Giáo Cherchnya đ̣i tự trị, để lấy phiếu trong cuộc bầu cử tại Nga. Có nghĩa là Putin đă sử dụng chiêu bài “Phục hồi tinh thần Quốc Gia Đại Nga”, nhằm làm vơi đi những nuối tiếc của Người Nga về thời ngạo mạn của Đế Quốc Liên Xô. Nhờ vậy Putin đă thắng cử dễ dàng. Nhưng vốn là con người KGB đầy thủ đoạn, Putin dùng ngay những hồ sơ bê bối của các lănh tụ đảng phái để khống chế họ. Đồng thời thâu tóm tất cả các công ty truyền thông vào trong tay, không để cho tiếng nói Tự Do, ngoài sự kiểm soát của Putin được cất lên nữa.
Về mặt Đối Ngoại, Putin sử dụng kho vơ khí Nguyên Tử, Hỏa Tiễn của Liên Xô, để buộc Mỹ, Âu Châu, và Thế Giới không thể làm ngơ được hiểm họa do những kho vơ khí chiến lược này vô t́nh hay cố ư gây ra. Thế nên, dù nền Kinh Tế bệ rạc, nhưng tư thế về vơ khí chiến lược vẫn c̣n đó, Thế Giới vẫn phải đối xử với Nga như một “Cường Quốc Nguyên Tử”. Đồng thời chấm dứt hoàn toàn ở thế đối đầu với Mỹ, bước hẳn vào sinh hoạt trong Minh Ước Bắc Đại Tây Dương, để có điều kiện trở thành đồng minh chiến lược của Mỹ trong tương lai. Nhưng thủ đoạn của Putin không phải là kế sách lâu dài, chỉ có thể dùng được trong khi các thế lực quốc tế c̣n lợi dụng được để “cài, khóa” nhau, chứ chưa phải là kế sách toàn diện phục hồi Xă Hội Nga. Để phục hưng Nước Nga, chỉ có con đường duy nhất là thực sự Dân Chủ Hóa chế độ, để Người Nga Tự Do Chủ Động lo lấy cuộc sống, đủ tự tin, xử dụng những kỹ năng đang có, phát triển kinh tế đất nước.
Trong khi Cộng Sản Đông Âu rồi Liên Xôø theo nhau sụp đổ, th́ Trung Cộng thoát nạn, làm cho các nước Cộng Sản ở xa lănh thổ Liên Xô cũng được sống sót. Sở dĩ Trung Cộng c̣n trụ được chính là nhờ 1972, Mao Trạch Đông thực hiện chính sách. “Trung Mỹ Đề Huề”, chống Liên Xô, để 1986 Đặng Tiểu B́nh có trớn kết thân với Mỹsâu hơn. Vẫn duy tŕ chế độ độc đảng, nhưng từng bước thực hiện chính sách “mở cửa” thị trường tự do. Nhờ vậy, Trung Cộng không bị rơi vào cảnh hoảng loạn khi hệ thống Cộng Sản Thế Giới tan vỡ. Tuy có trải qua cơn biến động lớn do Phong Trào Sinh Viên Bắc Kinh cuồn cuộn dâng lên, đ̣i Tự Do Dân Chủ, dẫn tới cuộc đàn áp đẫm máu tại Thiên An Môn 1989, khiến cho bang giao Trung Cộng - Hoa Kỳ, cũng như với Thế giới Tây Phương trở nên căng thẳng.
Thực ra việc Liên Xô sụp đổ Đông Âu được Tự Do, chấm dứt “Chiến Tranh Lạnh”, nhân loại thoát khỏi hiểm họa cuộc chiến tranh nguyên tử tận diệt, đă là niềm vui lớn lao của Thế Kỷ rồi. Quan tâm hàng đầu của Mỹ là phải đương đầu với sự khủng hoảng tâm lư phải có của Dân Mỹ, từ thời chiến đổi sang thời b́nh, chuyển kỹ nghệ chiến tranh sang ḥa b́nh, cắt giảm một lực lượng khổng lồ nhân viên nhiều năm gắn bó với những dịch vụ chiến tranh, đe dọa một cuộc “Tổng Tŕ Trệ” của Kinh Tế. Các nước Âu Châu th́ phải đối diện với một đống rác khổng lồ do chế độ Cộng Sản để lại ở các nước Đông Âu, và Liên Bang Nga. Thế nên, không một nước nào, một thế lực quốc tế nào lại dám nghĩ tới việc phá đổ chế độ Độc Tài Chuyên Chính đang quản trị một khối dân quá lớn tại Trung Hoa, nếu bể ra, th́ sẽ phải có nhiều di lụy lớn lao cho toàn vùng, và Thế Giới. Trong không thể nổi dậy. Ngoài chẳng nhúng tay vào, đă làm cho Trung Cộng tồn tại, rồi thích ứng với hoàn cảnh để duy tŕ chế độ độc tài.
Trung Cộng từ một Nền Kinh Tế Xă Hội Chủ Nghĩa Bao Cấp Hung Dữ, đổi sang Nền Kinh Tế Thị Trường, dù là mới chỉ hé mở đôi chút về buôn bán nhỏ, cũng đủ cho người dân đă quá lâu năm bị ḱm kẹp, bị khinh khi, bị điều kiện hóa, bị kiểm soát từ miếng cơm, manh áo, phải xếp hàng cả ngày để được mua những sản phẩm tối cần cho đời sống theo tiêu chuẩn, th́ cũng thấy đây đă là một ân huệ của chế độ ban cho rồi, đâu có dám nghĩ ǵ hơn. Dù sản phẩm làm ra hoàn toàn trong tay công ty Quốc Doanh, nhưng tư nhân có thể mở cửa tiệm buôn, để bán lẻ cho công chúng được mua tự do. Bởi thế, ở các đô thị, thương mại bắt đầu khởi sắc, có sự cạnh tranh giữa cửa hàng tư nhân với nhau để ch́u khách hàng, khiến cho người mua không bước vào các cửa hàng Quốc Doanh lạnh lùng nữa. Cửa đă mở ra cho đại chúng chen vào th́ không có sức mạnh nào cản được. Chính v́ vậy, Đảng Cộng Sản đă phải lập ra các “Đặc Khu Kinh Tế” để đón nhận vốn đầu tư của Ngoại Quốc, và vốn của Hoa Kiều, cũng như Tư Bản Đài Loan, Hồng Kông đổ vào làm ăn, hẳn nhiên phải tạo ra một cuộc sống Tư Bản ngay trong Hoa Lục. Quy chế Đặc Khu là nhằm hạn chế tối đa người Dân, nhất là không để giới Nông Dân bén bảng tới. Nhưng chẳng được bao lâu th́ hàng triện, hàng triệu Nông Dân đói khổ tràn ngập các Đô Thị để kiếm sống.
Cán Bộ Đảng Viên từ vai tṛ “kẻ ban ân huệ”, chỉ một thời gian ngắn đă biến thành “kẻ mánh mung ô lậu”. Bọn họ tận dụng mọi quyền lực sẳn có trong tay để bắt chẹt, ăn hớt lợi tức của tư nhân, toa rập với tư thương, trốn thuế của Nhà Nước, rồi tiến xa hơn nữa bao che cho những việc buôn lậu, và tổ chức những đường giây buôn lậu lớn. Tóm lại về hai mặt Tham Nhũng và Buôn Lậu trong nội bộ Cộng Đảng phát triển rầm rộ từ dưới lên trên. Ở Nga th́ t́nh h́nh đột biến từ Cộng Sản sang Tự Do, Cộng Đảng bị mất quyền, nên phát sinh các “Băng Đảng Kinh Tế” c̣n ở Trung Cộng th́ Đảng vẫn c̣n quyền hành, nên “Mặt Trận Ô Lậu” tràn ngập. Tạo ra t́nh trạng tranh ăn giữa hai thế lực cầm súng là Công An và Quân Đội.
Thời mở cửa ở Trung Cộng th́ Công An khống chế thương trường, làm giầu mặc sức. Nhưng sau khi Công An bất lực trước Phong Trào Sinh Viên đ̣i Tự Do Dân Chủ ở Thiên An Môn, Đặng Tiểu B́nh phải dùng tới Quân Đội để đàn áp, th́ tư thế Quân Đội lấn vượt Công An. Họ Đặng cho phép Quân Đội được làm Kinh Tế, để “tự hiện đại hóa Quân Đội”. Các xí nghiệp Quân Doanh hầu như vươn lên làm chủ soái thương trường, nhất là ngành ngoại thương, và buôn lậu, kể cả sản xuất và buôn bán Ma Túy, mà Quân Đội mệnh danh là “hàng chiến lược”, nhằm tiêu hủy tinh thần của giới trẻ ở những nước mà Trung Cộng coi là đối tượng bị thanh toán.
Nhưng tới Giang Trạch Dân, không phải là một Nguyên Soái như Đặng Tiểu B́nh, không thể khống chế nổi Quân Đội, một khi Quân Đội có thể tự túc được về mặt tài chánh. Chính v́ vậy mà họ Giang phải triệt để vận dụng tới thế ngoại giao khôn ngoan nhún nhường trong mật nghị, mà mạnh miệng trước dân nước, và sử dụng mánh khóe ngoại thương cho lợi nhuận để buộc chân hàng tướng lănh tham lam gian dối. Cuối cùng không cho Quân Đội làm Kinh Tế nữa, đồng thời giải thể các công ty Quốc Doanh thua lỗ. Từ từ chuyển vào h́nh thái Tư Doanh. Chấp nhận hàng chục triệu Công Nhân Viên thất nghiệp, mất hoàn toàn chỗ dựa an toàn nhàn thân.
Thay vào đo,ù nhóm lănh đạo Giang Trạch Dân, Chu Dong Cơ, tuyên dương tinh thần Quốc Gia Đại Hán, cổ súy việc Chống Đế Quốc Mỹ và Thu hồi Đài Loan, tận dụng mọi cơ hội có được để “dương danh lập thế” trên trường Quốc Tế. Khai thác tối đa những mâu thuẫn giữa Hoa Kỳ và Âu Châu để tránh việc bị Quốc Tế Lên Án Vi Phạm Nhân Quyền. Đồng thời sử dụng thị trường khổng lồ của ḿnh để tạo ra sự cạnh tranh giữa Mỹ và các nước Tư Bản khác muốn có ảnh hưởng tại đây. Nhờ lối làm ăn thực dụng của người Trung Hoa, Kinh tế Đô Thị và các Đặc Khu tạm thời ổn định phát triển, thu hút vốn đầu tư của tư bản Hồng Kông, Đài Loan, và Hoa Kiều khắp thế giới. Tạo thành các Khu Kinh Tế, Sống và Làm theo luật lệ Tư Bản, rất dễ cho Quốc Tế đổ vốn vào đầu tư.
Thế nhưng, rủi ro về sự khởi loạn, bạo loạn Xă Hội vẫn c̣n ŕnh rập chập chờn quanh các ghế thống trị độc đảng. Sự ổn định Xă Hội dưới chế độ Độc Tài chỉ là sự tạm bợ, khi cái đảng lănh đạo ấy c̣n cần t́m lư do kết tụ với nhau, c̣n dùng nổi những thủ thuật tuyên truyền dựa vào chủ nghĩa Cộng Sản hoang tưởng, hay thứ lư tưởng Quốc Gia cực đoan, hoặc nuôi ảo tưởng tham vọng Đế Quốc trong cảm tính của Dân Chúng ngây thơ. Hiện nay Trung Cộng đang rời bỏ chủ nghĩa Cộng Sản, để chuyển sang Tư Bản Hóa Đảng Viên, cho Tư Bản được vào đảng, dùng lư tưởng Quốc Gia Cực Đoan và tham vọng Đế Quốc Đại Hán làm Chủ Đạo.
Nhưng Trung Hoa là một nước có nhiều sắc tộc, mà Hán, Măn, Mông, Hồi, Tạng là năm giống dân chính, việc bị Hán hóa c̣n nóng hổi. Măn, Mông là hai dân tộc đă làm chủ Hoa Lục, tộc nào cũng cầm quyền nhiều trăm năm, nên việc bị Hán hóa là điều không thể tránh. Riêng hai dân tộc Hồi, Tạng, chỉ là những nước thường xuyên bị Hán trị. Hồi th́ theo Hồi Giáo thuần nhất. Tạng th́ theo Phật Giáo thuần thành, có những lối sống tâm linh và sinh hoạt văn hóa cá biệt với Văn Minh Hán. Thế nên việc Trung Cộng dùng sức mạnh Quân Đội để đàn áp, cai trị họ, vẫn là những hành vi xâm lược của nước lớn với nước nhỏ, vẫn bị thế giới lên án, vẫn phải đối diện thường xuyên với các cuộc quật khởi của hai dân tộc Hồi, Tạng.
Hồi tuy yếu nhưng chuyên dùng bạo lực để chống phá, làm cho Trung Cộng ăn không ngon, ngủ chẳng yên. Tạng th́ có chính phủ truyền thống, chính thức, hợp pháp đang lưu vong tại Ấn Độ. Vị vua của Tây Tạng là Đức Đạt Lai Lạt Ma, Phật Sống của Dân Tộc, lại được cảThế Giới ngưỡng phục, v́ trí tuệ, từ bi. ḥa ái, khiêm cung, và chính kiến trong sáng, chừng mực, đúng với thân phận, vị thế của Dân Tộc. Ngài đă được tặng giải Nobel Ḥa B́nh v́ công cuộc “Đấu Tranh Bất Bạo Động” cho Dân Tộc ḿnh. Ngài là một h́nh ảnh nhân từ, bao dung, vị tha, tương phản với bộ mặt hung hăn, tham lam, quá khích của chế độ Trung Cộng. Chính v́ vậy, mà Tây Tạng và Đài Loan là hai mũi nhọn thường trực đánh thẳng vào những nhược điểm chí tử của Trung Cộng. Tây Tạng và Phong Trào Pháp Luân Công, th́ đột phá về mặt tâm linh và tư thế quốc tế, c̣n Đài Loan đang giữ vị thế là hướng kinh tế chính trị phải vươn tới của người Trung Hoa, kể các mặt Dân Chủ, Tŕnh Độ Dân Trí, lẫn mặt Văn Minh, Thịnh Vượng, đều nghiễm nhiên trở thành một Xă Hội Mẫu Mực của dân chúng Trung Hoa mong muốn đạt thành trong tương lai. Nghĩa là bó đuốc dẫn đường cho toàn dân vận động “Dân Chủ Hóa” chế độ.
Trung Cộng, v́ không dám “Dân Chủ Hóa”, nên phải thổi bùng ngọn lửa Dân Tộc Quá Khích của chủ nghĩa “Đại Hán”. Gấp rút thực hiện tràn người Hoa vào Tây Tạng, nhằm đồng hóa dân tộc nhỏ bé này. Dồn mọi lợi nhuận ḅn kiếm được trong việc buôn bán với ngoại quốc, vào việc củng cố Quốc Pḥng. Thường xuyên đặt Quốc Dân vào vị thế chuẩn bị tràn chiếm Đài Loan, Thống Nhất Lănh Thổ. Sẵn sàng đương đầu với Mỹ, thế lực Siêu Cường đang bảo vệ Đài Loan. Nghĩa là đi đúng vào vết xe đổ của Liên Xô thuở nào. Cũng có nghĩa là rơi đúng vào “Thế Chiến Lược” của Mỹ đang hướng về Á Châu. Mỹ cần một thế lực “Đối Trọng Chiến Lược” với Mỹ tại đây, để các nước Á Châu phải cần tới sự hiện diện của “Vũ Lực Mỹ”, vừa bảo đảm an toàn cho Á Châu, vừa bảo vệ nổi thị trường đầu tư, giao thương của Mỹ. Vậy việc Mỹ đang chịu thiệt trong buôn bán với Trung Cộng, th́ cũng lại là việc giúp cho Trung Cộng đủ tài chánh và tự tin để trở thành “Đối Trọng” của Mỹ. Đúng là “Tiền của Mỹ làm lợi cho Mỹ” mà thôi. Như vậy sự hưng vong của con “Sư Tử” chưa thể ra thoát khỏi móng vuốt của “Chim Ưng”. Chỉ có thực sự Dân Chủ Hóa chế độ, để phát triển nội lực Kinh Tế Quốc Dân, tổ chức thành Liên Bang Quốc Gia, mới đưa Trung Hoa ra khỏi ngơ cụt hiện nay, mà điều đó th́ Đảng Cộng Sản Trung Hoa lại không dám làm.
Đảng Cộng Sản Việt Nam c̣n tệ lậu hơn nữa. Khi Liên Xô mạnh th́ hoàn toàn làm theo mệnh lệnh của Moscow. Khi Trung Cộng mạnh th́ làm theo lệnh của Bắc Kinh. Sau khi chiếm được Miền Nam 1975, th́ Cộng Sản Việt Nam bỏ hẳn Trung Cộng đi với Liên Xô. 1979 theo lệnh Liên Xô đem quân vào Campuchia đuổi Chính Quyền Pol Pot, Khmer Đỏ đàn em Trung Cộng ra khỏi Nam Vang, dẫn tới việc Trung Cộng đánh sang Việt Bắc, nhằm “Dậy cho một bài học”. Hoàn toàn không có một sáng kiến chủ động nào trong việc thực hiện chính sách Kinh Tế, Ngoại Giao Độc Lập của Quốc Dân ḿnh. Chính v́ vậy, Năm 1986, Gorbachev thực hiện chính sách “Đổi Mới” tại Liên Xô, th́ cũng buộc Cộng Sản Việt Nam phải đưa Nguyễn Văn Linh lên làm “Đổi Mới”. Nhưng v́ sống quá lâu trong quán tính nô lệ vào đàn anh, nên cũng chỉ biết “Nói Đổi Mới” mà chẳng biết “Làm Đổi Mới” như thế nào. Đành phải chờ đàn anh ra lệnh.
Trong phạm vi nhỏ hẹp của Nông Nghiêp và Buôn Bán nhỏ, th́ chỉ mới thi hành được chính sách “Khoán Sản Phẩm”. Cho nông dân nhận ruộng của nhà nước về canh tác riêng, không phải làm kiểu “chấm điểm” trong hợp tác xă nữa. Ngoài việc trả thóc cho nhà nước theo tinh thần “Khoán Sản Phẩm”, th́ số thóc c̣n dư ra, được quyền giữ riêng, và được đem ra chợ bán tự do. Theo đó, phải bỏ các hàng rào “Ngăn Sông Cấm Chợ” của thời Kinh Tế Chỉ Huy Bao Cấp. Dân Chúng tương đối dễ thở đôi chút. Nhưng Cán Bộ, Đảng Viên và Công An mất quyền, chúng quay sang tận dụng Luật Pháp Tùy Tiện của nhà nước, để Tham Nhũng và tổ chức Buôn Lậu. Kinh tế mở ra tới đâu Công An và bọn Buôn Lậu chen vào thao túng tới đó.
Từ nền Kinh tế Chỉ Huy Bao Cấp, các Công Ty Quốc Doanh buộc phải làm ăn theo Kinh Tế Thị Trường, tuy không thích hợp, nhưng lại tạo ra một lớp Đảng Viên Kinh Tài cho Đảng và cho cá nhân, biết “thừa gió bẻ măng”. Lợi dụng vị thế độc quyền sản xuất và ngoại thương của các Công Ty Quốc Doanh, dùng vốn nhà nước để buôn bán, thu mua sản phẩm từ các hộ tư nhân sản xuất để xuất cảng, rồi nhập lậu hàng cao cấp từ nước ngoài, để tuồn vào thị trường nội địa, vừa trốn thuế, vừa khai lỗ, buộc nhà nước phải “bù lỗ”. Tức là ăn không cả vốn lẫn lời. Thế là lớp Kinh Tài của Đảng, và Cộng Đảng, giầu lên gấp bội, mà Nhà Nước và Dân Chúng th́ càng ngày càng kiệt sức. Theo hướng đó, nên thương trường Thế Giới càng mở rộng, Đảng càng giầu, Nước càng nghèo.
Đến năm 1991 Liên Xô sụp đổ th́ Cộng Sản Việt Nam mất hẳn điểm tựa và phương hướng. Đúng ra đây là thời điểm tốt nhất trong Lịch Sử Việt Nam, để những người có tinh thần Dân Tộc Tự Chủ, dứt khoát gạt bỏ những tàn tích lệ thuộc ngoại bang, quay về Lấy Tinh Thần Quốc Dân Làm Chủ Đạo. Sắm vai tṛ đàng hoàng, nghiêm chỉnh, tôn trọng mọi nguyên tắc sinh hoạt của một Quốc Gia Hội Viên Liên Hiệp Quốc. Cũng là tôn trọng Nhân Quyền của Dân Việt Nam. Tiến hành cải tổ Chính Trị Dân Chủ song song với Kinh Tế Thị Trường. Chấm dứt việc can thiệp Quân Sự tại Campuchia. Liên Kết tới các nước trong khối ASEAN, làm đất đứng để giao hảo với Nhật Bản, Âu Châu, sau cùng đặt Hoa Kỳ vào thế phải nh́n nhận. Như vậy th́ Việt Nam đă thoát ra khỏi vũng lầy “Hậu Cộng Sản” rồi.
Đàng này v́ quán tính nô lệ, khi thấy mất quan thầy Liên Xô lập tức chạy vào cổng hậu của Mỹ, để xin được cho đi đêm, nhưng lúc đó Mỹ chưa sẳn sàng, nên cứ buộc Cộng Sản Việt Nam phải rút Quân khỏi Campuchia vô điều kiện, mới xét tới sau; mà rút khỏi Campuchia lại sợ Phe Chống Cộng Người Việt được Mỹ hỗ trợ dùng đất Campuchia, để tiến hành lật đổ th́ sao ? Nên chần chờ không dám. Thế rồi cuối cùng cũng phải rút, mà chẳng được ǵ. Không xin làm đầy tớ Mỹ được, Cộng Sản Việt Nam đành quay về với “Đàn Anh” Trung Cộng cũ, để học theo cách “Làm Kinh Tế Thị Trường, mà vẫn giữ được Độc Quyền Đảng Trị”. Trung Cộng từ thế kẻ thù hôm qua, hôm nay lại trở thành vị thầy của Việt Cộng. Thế nên, những ǵ Trung Cộng thực hiện ở Trung Quốc th́ Việt Cộng cũng bắt chước áp dụng tại Việt Nam, lẽ cố nhiên sự tồi tệ th́ hơn thầy, mà sự chậm lụt lại tệ hơn thầy. V́ vị thế có khác nhau, một bên là người đông, nước lớn được thế giới đặt thành “trọng tâm chiến lược”, một bên là nước nhỏ luôn luôn bị rơi vào thân phận “một con cờ thí” trong chiến lược Châu Á và Quốc tế, cho nên Việt Cộng buộc vào thế phải áp dụng chính sách “đi dây” luồn bên nọ, lách bên kia.
Trong nội bộ lănh đạo không thể để cho một lănh tụ độc quyền như ở Liên Xô trước kia, v́ sợ rơi vào t́nh trạng như Gorbachev, mà chẳng có ai có uy thế và linh hoạt như Đặng Tiểu B́nh, nên mấy đầu óc bảo thủ già nua đă loại Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh học tṛ của Gorbachev đi, đẻ ra thứ “quái thai” “Tam Đầu Chế”. Tạo thành thế đứng ba chân “ỳ ra đó”ù, nhằm bảo vệ quyền hành và quyền lợi của Đảng đang kinh doanh đen tối màphát đạt. Các nhà đầu tư ngoại quốc, cũng nghĩ rằng làm ăn ở Việt Nam thời được mệnh danh là”Đổi Mới Mở Cửa”, cũng xuôi chèo mát mái như tại các Đặc Khu của Trung Cộng, nên đă hăm hở đưa vốn vào làm ăn, nhưng ở Việt Nam bất cứ mặt sản xuất kinh doanh nào, cũng đă có các Công Ty Quốc Doanh choán chỗ.
Buộc các Công Ty Ngoại Quốc phải hợp tác liên doanh với các Công Ty Quốc Doanh nếu muốn hoạt động. Ngoại Quốc th́ bỏ vốn, Quốc Doanh chỉ góp “mặt bằng” , tức là đất trống. Đất này được trị giá bằng từ 40% cổ phần trở lên, trong toàn bộ cổ phần của Công Ty Liên Doanh. Như vậy Quốc Doanh chỉ góp nước bọt, v́ đất vốn là của Nhà Nước, mà Liên Doanh bị ràng buộc bởi các thủ tục hành chánh nhiêu khê chằng chịt từ Trung Ương xuống đến Địa Phương, với nhiều bậc thang và ngơ ngách. Đến khi bắt tay được vào việc, th́ vốn ban đầu cũng gần cạn, mà hàng làm ra không có nơi tiêu thụ. Thị trường Nội Địa th́ không tranh được với hàng lậu từ Trung Quốc rẻ mạt chuồn sang, thị trường Ngoại Quốc th́ phải mượn tên một nước thứ ba mới có đất tiêu thụ nhẹ thuế. Thế là các nhà đầu tư ngọai quốc đành chịu lỗ bỏ chạy. Do vậy, nhu cầu của Kinh Tế Việt Nam đ̣i hỏi phải gia nhập với hệ thống Mậu Dịch Quốc Tế WTO, mà muốn vào được đó th́ phải mở nổi cánh cửa thứ nhất là Thương Mại B́nh Thường với Mỹ. Mở nổi cánh cửa mậu dịch của Mỹ ra, tức là Việt Nam đă đáp ứng đúng với luật đầu tư của Mỹ đ̣i hỏi ở mỗi nước đối tác, và như vậy th́ giới đầu tư Quốc Tế mới yên tâm bỏ vốn vào làm ăn tại Việt Nam.
Năm 1994 Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam. Năm 95, Mỹ đặt văn pḥng Liên Lạc b́nh thường hóa quan hệ ngoại giao. Năm 96, khởi đầu đàm phán mậu dịch. Năm 97, bổ nhiệm Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam. Năm 99, hai nước thỏa hiệp được về nguyên tắc mậu dịch. Như vậy, trước khi Mỹ chính thức cử Đại Sứ th́ đă khởi sự đàm phán về mậu dịch rồi. Hoa Kỳ thấy rơ là vấn đề mậu dịch tối cần cho việc phục hoạt nền Kinh Tế Việt Nam. Nhưng những bộ óc lănh đạo tối tăm, tham quyền, cố vị, đầy sợ hăi, nghi ngờ của Hànội, bị quan thầy Trung Cộng hù dọa, áp lực, nên đă từ chối kư với Mỹ vào năm 1999. Phải đợi khi Thương Ước Mỹ- Hoa được kư, mới hoảng hồn, nhận ra được sự thâm độc của người “đàn anh nguy hiểm”, là chỉ nhằm hớt tay trên số vốn đầu tư của tư bản quốc tế mà thôi. Măi tới ngày 13/7/2000 mới xin được với Mỹ cho kư lại.
Thế là toàn thể Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam nhất tề kéo đổ chiếc ghế Tổng Bí Thư của Lê Khả Phiêu, tên đầy tớ của Trung Cộng. Bỏ luôn cơ cấu “Tam Đầu Chế”. Hạ bệ tư thế Quân Đội trong hệ thống lănh đạo. Tạo cơ hội cho Công An vượt lên qua mặt Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh để củng cố vị thế “Công An Trị” như dưới thời “bao cấp”. Thẳng tay đàn áp Tôn Giáo và các nhà Đối Lập. Gây khó khăn trong việc bang giao với Mỹ. Dư luận Mỹ, Quốc Hội Mỹ, cũng như khắp nơi trên Thế Giới đều đă có chung một lối nh́n là: Dù Việt Nam đă được Mỹ ban cho “Quy Chế Thương Mại B́nh Thường”, mà hệ thống Công An Trị c̣n hoành hành ngang ngược, việc Dân Chủ Hóa Việt Nam chưa thực sự tiến hành, th́ Tư Bản Quốc Tế cũng chẳng thể yên tâm đổ vốn vào chiếc hố “Tham Nhũng Tùy Tiện” khổng lồ, hoàn toàn bị Công An khống chế, từ Kinh Tế, Xă Hội, Tôn Giáo, ngay cả lănh vực tối cần của sự phát triển của thị trường tự do là Truyền Thông. V́ chính sự Tự Do là căn bản của Thị Trường, mà Truyền Thông Tự Do là phương tiện tối cần để phát triển Thị Trường. Không có Tự Do Truyền Thông th́ không có Thị Trường Tự Do, và chẳng bao giời Dân Chủ Hóa nổi chế độ.
Chế độ không Dân Chủ, th́ mầm loạn c̣n đó. Chênh lệch giầu nghèo mỗi ngày mỗi đào sâu. Xă Hội bị băng hoại. Đạo Đức bị suy đồi. Dân chúng bị cuốn vào ṿng căm thù đấu tranh bạo loạn. Mất hẳn cơ hội phát triển Dân Trí, mà Kinh Tế thời đại được mệnh danh là “Nền Kinh Tế Tri Thức, hành hoạt trong Xă Hội Tự Do, xây dựng trên hệ thống Luật Pháp Dân Chủ thiết thực nghiêm sáng”. Dựa trên Luật Pháp, các h́nh thái như Công Ty Tư Doanh, Hợp Doanh, Liên Doanh, Đa Quốc…được thành lập và phải có: Quản Lư Tài. Nguồn Vốn Đủ. Kỹ Thuật Cao. Chuyên Viên Giỏi. Công Nhân Thạo. Hàng Hóa Tốt. Sản Xuất Mạnh. Phân Phối Nhanh. Tiêu Thụ Nhiều. Tư Bản Tăng. Dân Nước Giầu. Để cùng nhau Tự Do Chủ Động phát huy mọi khả năng về tài trí, công sức, vốn liếng, tạo thành NIỀM TIN góp phần xây dựng và khởi phát Nền Kinh Tế Tư Sản Tự Do Điều Hợp của Đất Nước.
KHỞI DỰNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM MỚI
Sau khi sơ duyệt lại tiến tŕnh kinh tế của các chế độ hiện hành, cho thấy: Lịch Sử Nhân Loại với xu hướng đang sử dụng “cái đầu” là Văn Hóa, điều khiển “thân ḿnh” là Xă Hội, mà muốn đi về phía trước vững vàng th́ phải dùng tới “cặp chân” là Kinh Tế và Chính Trị với “đôi tay” là Quân Lực và Cảnh Sát để bảo vệ cho sự tự do năng động phát triển, mới đồng đều, cân bằng, ổn định kinh tế được. Nếu thiếu một trong những cơ phận trọng yếu đó th́ hành hoạt của Lịch Sử hẳn nhiên bị rối loạn, ṃ mẫm, lệch lạc, què quặt. Hệ thống Xă Hội Cộng Sản v́ không có “cái đầu” Văn Hóa Chân Thật của Con Người, nên đă hạ thấp Giá Trị Xă Hội Người xuống thành Xă Hội của Bày Thú, dùng uy quyền tuyệt đối của Chính Trị để chỉ huy Kinh Tế, dùng Quân đội Công an để khủng bố và điều khiển Xă Hội, nên Cộng Sản bị sụp đổ. Rồi các nước Cộng Sản c̣n sống sót, lại chỉ chịu “đổi mới” về Kinh Tế, gọi là Thị Trường Tự Do, c̣n Chính Trị vẫn duy tŕ hệ thống Độc Đảng Độc Tài. Thế nên mới nẩy sinh ra những quái thai kinh tế “dở người, dở ngợm, dở đười ươi”, tham ô, buôn lậu, tùy tiện phát triển tràn ngập xă hội, làm băng hoại khắp mặt nhân sinh, khiến cho Quốc Dân lâm ṿng khổ lụy.
Như thế, Kinh Tế Thị Trường Tự Do phải có Chính Trị Dân Chủ Trọng Pháp đi song hành, th́ mới đảm bảo cho sự phát triển kinh tế không bị quái hóa. Xă Hội mới t́m được sự ổn định quân bằng thăng hóa. Khi đă cùng chấp nhận một sự thật là phải thực hiện Kinh Tế Thị Trường Tự Do, th́ ngay lập tức phải dứt khoát bắt tay vào việc “Dân Chủ Hóa” Chế Độ Chính Trị.
Điểm khởi đầu là phải chấp nhận, khuyến khích, và mở ra một cao trào TỰ DO NGÔN LUẬN. Để Tư Nhân ra báo, lập đài phát thanh, truyền h́nh, được Tự Do viết và nói lên quan điểm chân thực của ḿnh. Nghĩa là đặt Quyền Tự Do Phát Biểu Ư Kiến của Mỗi Người lên hàng “bất khả xâm phạm”. Đặt chính Mỗi Người phải chịu trách nhiệm về những phát biểu của ḿnh trước lịch sử, công luận, và Luật Pháp Dân Chủ. Chứ không c̣n là những tội lỗi do chế độ và kẻ cầm quyền gán buộc, dựa trên chủ nghĩa, tôn giáo, tư kiến, hoặc do cảm tính cá nhân.
Có như thế: Mới khởi phát được Dân Khí đă nhiều năm bị chế độ lừa mị, áp bức và “điều kiện hóa”, chỉ biết thu ḿnh vào chiếc vỏ bọc cam chịu, làm cùn nhụt Dân Chí. Mới nâng cao nổi Dân Trí, đă nhiều năm bị nhồi nhét loại tư tưởng một chiều, quá khích, nô lệ chủ nghĩa, làm đàn em ngoại bang, rồi nhả ra nọc độc hận thù, nghi ngờ đánh phá, sát hại lẫn nhau, để Người Dân ư thức được tư cách, vị thế, trách nhiệm Chủ Nhân của ḿnh, về chính cuộc sống của ḿnh và vận mệnh của Đất Nước. Mới huy động được nội lực của Toàn Dân, để Tự Do, Tự Chu,û Sáng Tạo góp sức vào các công tŕnh phát triển kinh tế chung.
Phải thực hiện ngay lập tức “Chế Độ Dân Chủ Trực Tiếp” tại Phường, Xă Việt Nam. Tổ chức các cuộc bầu cử Dân Chủ, để người dân sinh sống trong Phường, Xă trực tiếp ứng cử và bầu cử Hội Đồng Quản Trị Phường, Xă, cùng Phường Trưởng, Xă Trưởng của ḿnh, không có sự can thiệp và sự đạo diễn nào của các thứ gọi là thượng cấp, hay bất cứ thứ cấp ủy nào kể cả chính quyền Trung Ương. Người Dân có quyền bầu lên và cũng có quyền băi nhiệm các viên chức Phường, Xă, dựa theo pháp luật dân chủ về bầu cử. Theo với đ̣i hỏi quản lư, Phường, Xă được tự chủ thuê các chuyên viên hành chánh, và chuyên môn thực hiện những công tác của Phường , Xă, kể cả việc bầu chọn, và băi nhiệm chức vụ Cảnh Sát Trưởng của địa phương ḿnh. Các cấp Tỉnh hay Nước có bổn phận phải đào tạo ra các chuyên gia khắp mặt để cung cấp cho Phường, Xă.
Như vậy, Phường, Xă là đơn vị hành chánh độc lập do dân trực tiếp bầu ra.Trực tiếp Quản Lư về Người và Bảo Vệ Tài Sản của Công Dân. Biết rơ nhu cầu đích thật, quan yếu của kinh tế địa phương ḿnh, đúc kết thành những dữ kiện chính xác giúp các Nhà Làm Luật và Nhà Hoạch Định Quốc Sách, tạo ra luật pháp và sách lược lâu dài cũng như cấp thời, nhằm đáp ứng đúng với nhu cầu của Người Dân khắp nước. Như vậy, người dân mới trực tiếp nhận biết được quyền hạn, nghĩa vụ của Công Dân Một Nước Dân Chủ Thực Sự. Từ xưa tới nay, quan niệm của các nhà Cách Mạng hay Chính Trị th́ cứ cho rằng: Cần có chính quyền Trung Ương, rồi từ Trung Ương đưa ra các chính sách cho địa phương thực hiện. Nhưng nhược điểm chí tử của Con Người là khi có chính quyền, th́ việc bảo vệ Quyền Lực của ḿnh là chính, Quyền Dân hậu xét. Rồi cuối cùng th́ quay lại phản bội những lư tưởng và lời hứa tốt đẹp của ḿnh trước khi lên cầm quyền. Chính v́ vậy, mà tiến tŕnh Dân Chủ và phát triển Kinh Tế luôn bị khựng lại nửa vời, đôi khi bị quái hóa thành độc tài tàn nhẫn, kéo dài nhiều trăm năm, nhiều chục năm, mà Dân Chủ và Thịnh Vượng vẫn chỉ là khẩu ngữ tuyên truyền. Đặt Phường, Xă vào vị thế Chủ Động Tự Quản, tuy ban đầu sẽ gặp nhiều lúng túng, khó khăn, có thể bị lạm quyền, nhưng thời gian điều chỉnh chỉ tính bằng Năm, Tháng, chứ không mất hàng Trăm Năm, Chục Năm, mà chẳng đi đến đâu như đă thấy.
Phải thực hiện trên b́nh diện Quốc Gia một Chế Độ Tam Quyền Liên Lập giữa Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp, để các cơ quan quyền lực đó vừa chế tài nhau, vừa thúc đẩy nhau làm tốt nhiệm vụ của ḿnh. Quan trọng bậc nhất là vấn đề Luật Pháp Dân Chủ phải hết sức minh bạch, trong sáng, nhẹ nhàng, mà nghiêm minh, chí công vô tư, giúp cho các lănh vực Sản Xuất, Đầu Tư, Dịch Vụ, Thương Mại và tất cả những sinh hoạt liên quan tới kinh tế có được sự bảo đảm vững chắc, để thoải mái, tự tin và nâng cao “Chữ Tín” lên thành “Đạo Đức” của Kinh Tế. Đây chính là linh hồn của nền Kinh Tế của một Quốc Gia phát triển.
Đồng thời tạo cơ hội cho các Tập Thễ Xả Hội Công Dân như: Tôn Giáo, Truyền Thông, Chính Đảng, Nghiệp Đoàn… tự do thành lập và phát triển, vừa giám sát các cơ quan công quyền, vừa tạo ra không khí sinh hoạt tập thể phấn khởi trong Dân Chúng, hỗ trợ và tham gia những sinh hoạt Dân Chủ tại Địa Phương, vừa bảo vệ những thành quả của Dân Chủ và phát triển Kinh Tế của Toàn Dân. Đó là một bảo chứng cụ thể của Nền Dân Chủ Trọng Pháp và Kinh Tế Thị Trường Tự Do Điều Hợp Quốc Dân Chủ Động vậy.
Việc đón nhận vốn đầu tư từ Ngoại Quốc, và huy động vốn Quốc Nội, hết sức cần cho công cuộc phát triển nền Kinh tế Tự Do Điều Hợp Việt Nam lên một tầm cao hiện đại, cũng như triển khai các tổ hợp tư doanh về Công Kỹ Nghệ, Ngoại Thương to lớn, để chiếm lĩnh thị trường Thế Giới, thu ngoại tệ mạnh về cho Quốc Gia. Nhưng nếu không lập tức dùng tiền vay ở các tổ chức Tài Chánh Quốc Tế, và từ Các Nước Cấp Viện vào việc phục hoạt Nội Lực Kinh Tế của Quốc Dân lên, mà lại đổ dồn hết vào việc phát triển những kỹ nghệ “ăn sổi” nhất thời, như du lịch, và giải trí, hoặc cho các công ty đầu tư vay vốn để phát triển ở nước ngoài, th́ đó là một việc làm vô trách nhiệm. Tạo thành một nền Kinh Tế “Hào Nhoáng Rỗng Ruột”, mà cuộc khủng hoảng Á Châu 1997 là một bài học. Bởi thế, viẹâc nhận vốn từ ngoài để đầu tư phát triển, tuy hết sức cần, nhưng điều quan trọng hơn hết là phải hướng sự đầu tư đó vào việc Phục Hoạt và Phát Huy Nội Lực Kinh Tế Quốc Dân.
Nội lực kinh tế Quốc Dân của Việt Nam, hẳn nhiên không thể trông vào vốn của các nhà tư bản trong nước, hoặc nền Công Nghiệp phôi thai và nền Thương Mại non kém của Việt Nam, mà phải đặt vào: Công Nghệ Nhẹ và Vừa. Tiểu và Trung Thương. Nhất là Nông Nghiệp, Ngư Nghiệp, Lâm Nghiệp, Nhiên Sản, tức là quặng mỏ và dầu khí.
Việt Nam hiện có được một trữ lượng Dầu Khí rất lớn, nằm ở trong nội địa và thềm lục địa, chạy dài theo bờ biển, đang được khai thác tại ngoài khơi, nhưng chưa đúng mức. Nên Việt Nam chưa được gọi là một Quốc Gia Dầu Hỏa. Đây c̣n là mảnh đất phong phú tiềm ẩn, rất hấp dẫn sự quan tâm của các công ty lớn Quốc Tế, và là một nguồn Nội Lực mạnh của Kinh Tế Quốc Dân, mà thiên nhiên dành cho tương lai Việt Nam Tự Do Dân Chủ. Quặng Mỏ khá nhiều, mà cũng chỉ mới khai thác ở mức thô sơ. Đây cũng là một nguồn Nội Lực khác. Lâm Sản, Việt Nam có một mái che khổng lồ bởi cánh rừng Việt Bắc, chạy dài theo dẫy Trường Sơn vào vùng Cao Nguyên Trung Phần, đang bị rơi vào t́nh trạng chặt phá phi pháp tùy tiện. Cần phải có một kế hoạch cụ thể nghiêm nhặt cấm phá rừng , đồng thời kêu gọi sự trợ giúp đầu tư của Quốc Tế, để tái tạo rừng nguyên sinh, với triển vọng trở thành nguồn Nội Lực lớn. Ngư Nghiệp đang ở mức nhỏ và vừa, cần phải đầu tư nhiều vào lănh vực này, v́ trên hai ngàn cây số bờ biển nhiệt đới, cá tôm phong phú, nên Ngư Nghiệp là một cửa mở vào tương lai đầy hứa hẹn của nền Kinh Tế Việt Nam.
Nông Nghiệp, là đặc thù của Kinh Tế Việt Nam, dưới thời Pháp thuộc được gọi là vựa lúa của Đông Nam Á, Trong thời Chiến Tranh: Miền Bắc Xă Hội Chủ Nghĩa, tuy có ḥa b́nh, mà v́ làm ăn theo kiểu Cộng Sản, nên luôn luôn bị thiếu ăn, rồi Nhà Cầm Quyền đổ cho phải dùng gạo vào việc nuôi chiến tranh chiếm Miền Nam. C̣n Miền Nam, tuy bị chiến tranh du kích quấy phá, diện tích canh tác bị thu hẹp, Nông Dân vừa làm vừa chơi, vẫn dư gạo để ăn. Chỉ sau 1975 Cộng Sản chiếm được Miền Nam, áp dụng lối làm ăn tập thể chấm điểm kiểu Xă Hội Chủ Nghĩa, th́ Việt Nam lâm cảnh thiếu gạo ăn. Nhưng đến năm 1986 Cộng Sản buộc phải “đổi mới”, mở trói cho Nông Dân, tuy vẫn phải trả thuế cao, Tham Nhũng bóc lột, bị mua phân, thuốc, giống đắt, bị các Công Ty Quốc Doanh độc quyền thu mua với giá rẻ, Nông Nghiệp vẫn chưa được hiện đại hóa đồng đều. Thế mà, chỉ trong ṿng 5, 7 năm sau, Việt Nam đă vươn lên hàng thứ nh́ thế giới, sau Hoa Kỳ về xuất cảng gạo. Như vậy đủ thấy, nếu có chính sách Nông Nghiệp thực tiễn hợp lư, đúng với nhu cầu của Nông Dân, th́ Nông Nghiệp Việt Nam sẽ có vai tṛ lớn trong Nền Kinh Tế Thế Giới trong mai sau.
Để thu hút đầu tư vào việc phát triển Nội Lực của Kinh Tế Việt Nam, Ngoài Luật Pháp Dân Chủ Nghiêm Chỉnh, Trong Sáng, Rộng Mở, vấn đề là phải có chính sách khuyến khích đầu tư, qua Hệ Thống Ngân Hàng Tư Nhân cho mỗi lănh vực Kinh Tế Nông Nghiệp, Ngư Nghiệp, Lâm Sản, Quặng Mỏ, Dầu Khí, Thủ Công Mỹ Nghệ, Công Nghiệp Nhỏ và Vừa, Tiểu và Trung Thương. Nhằm giúp cho Dân Chúng vay vốn làm nghề với một lăi xuất nhẹ, đồng thời cũng mở lối cho Dân Chúng có nơi tin tưởng, gởi tiền tiết kiệm của ḿnh để sinh lời. Đó là cách “góp gió thành băo” tạo nguồn Nội Lực Tài Chánh cho Quốc Dân. Cũng có thể mở rộng cho Ngoại Quốc tham gia các loại Ngân Hàng trên, theo đúng luật pháp Dân Chủ Quốc Gia cho phép.
Lẽ tất nhiên khi sinh hoạt Thị Trường Tự Do, có hệ thống Ngân Hàng Tự Do, th́ Thị Trường Chứng Khoán là một sinh hoạt tài chánh có tầm mức Quốc Tế, Việt Nam không thể không “Mở Chợ” để cho các Công Ty Tư Bản Quốc Nội, Quốc Tế buôn bán, trao đổi chứng khoán. Đây là một h́nh thức góp thêm vốn đầu tư từ mọi người. Đồng thời, c̣n là dịp để cho các Công Ty báo cáo công khai lợi tức hàng quư. Cũng từ đó, hàng ngày, hàng giờ cả Nhân Loại biết được giá trị tiền tệ và mức độ doanh thương tăng giảm của Thị Trường từng nước và Toàn Thế Giới.
Nhưng đây cũng là những chiếc bẫy sập đối với thứ “ḷng tham không đáy” của những tay mê đỏ đen. Và cũng một cảnh giác đối với các Công Ty không tôn trọng nguyên tắc “Tự Điều Hợp”, tức là bán ra những “cổ phần gốc” của ḿnh, quá với nhu cầu cần của việc phát triển Công Ty ở thời điểm hiện tại. Tức là tự phá giá cổ phiếu của chính ḿnh, phá vỡ Niềm Tin của khách hàng, gây biến động Thị Trường một cách hợp lệ. Hoặc toa rập với hệ thống kiểm toán, thổi phồng mức lời lên quá giá trị thực, nhằm lôi kéo thu hút người mua, rồi đến mức nào đó, ngầm bán cổ phần của ḿnh ra, trước khi đi tới t́nh trạng khai phá sản. Đó là h́nh thức lừa đảo trong thị trường chứng khoán. V́ phải chấp nhận nguyên tắc tôn trọng sự tự do tuyệt đối của Thị Trường Chứng Khoán Quốc Tế, nên luật pháp, cũng như các chính quyền mỗi nước không thể chế tài. Nếu cố t́nh can thiệp th́ bị Thế Giới tẩy chay lập tức. Trường hợp đă xẩy ra đối với Malaysia và Singapore trước đây.
Lănh vực Tài Chánh Quốc Tế hiện nay đă biến các tờ “giấy bạc thành con số” trong hệ thống điện toán ở các Ngân Hàng, và từ đấy bay vào Thị Trường Toàn Thế Giới như những vị “Thần Tài” trong cổ tích Đông Phương, hào phóng đấy! mà cũng keo kiệt đấy! Hay hiện thân là các “Bà Phù Thủy” Tây Phương, đầy phép mầu, mà quái ác khôn lường, chợt hiện, chợt ẩn, có đấy! mà không đấy! Vừa cho phép người thụ hưởng biết chắc ḿnh là tỷ phú, nhưng chỉ giây phút sau, bỗng trở thành trắng tay. Chính v́ vậy tiền bạc hầu như chỉ c̣n là “ư niệm tài chánh”, vừa thực tế, thực tại, vừa mơ hồ, huyền diệu. Thật đúng là ư niệm “Tiền Tài” của người xưa, nay đă được xử dụng trong giao dịch, chuyển hoán tài chánh, thay cho các “tờ giấy bạc” cụ thể của mọi nước rồi. Chính v́ thế, mà lănh vực tài chánh đă trở nên một “đấu trường”, quyết liệt, khảo đả sức suy tư và tri thức để “tri túc”, cũng như đức độ công b́nh liêm khiết của Con Người tham dự. Để giảm bớt rủi ro, ngoài luật pháp nghiêm minh, c̣n cần phải có một hệ thống kiểm toán chí công, chí chính, trong sáng, công khai, mà mọi người muốn biết, phải được biết.
Nếu hệ thống Ngân Hàng là nguồn sống của Nền Kinh Tế, và hệ thống Truyền Thông Tự Do là cặp cánh vươn rộng của Kinh Tế, th́ hệ thống Giao Thông là phương tiện phát triển Kinh Tế, kể cả Xă Hội và Văn Minh nữa. Ngoài việc nâng cấp các phi trường, bến cảng, ưu tiên hàng đầu của nền kinh tế Việt Nam là phải gấp rút vay vốn Quốc Tế để hiện đại hóa hệ thống lộ vận. Nhu cầu của Việt Nam là phải xây dựng ngay một Siêu Xa Lộ Xuyên Việt. Việc thiết kế càng tránh khỏi xâm phạm vào nơi quần cư của Dân Chúng, được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Để cho các Liên Tỉnh Lộ nối vào với Siêu Xa Lộ, làm thành sự đan kết các khu dân cư, từ đấy tự mọc lên các đô thị mới. Chính hệ thống đường xá hiện đại, hợp với điện khí hóa nông thôn và sự giầu lên của Toàn Dân, sẽ mặc nhiên rút ngắn được giai đoạn “Đô Thị Hóa Nông Thôn”, mà vẫn bảo tồn được nền nếp sinh hoạt văn hóa “Làng Truyền Thống” Việt Nam.
Ở đây chỉ mới là những nét chấm phá của Đề Cương về nguyên tắc chính của một Nền Kinh Tế Tư Sản Tự Do Điều Hợp, Quốc Dân Chủ Động mang tính cách Toàn Cầu Hóa, mà vẫn duy tŕ được tinh thần Dân Tộc Tự Chủ của Việt Nam. Và cũng là sự gợi ư cho tất cả chúng ta cùng suy nghiệm, nhằm góp công sức của ḿnh vào đại cuộc Đất Nước
CHÍNH TRỊ
NỀN DÂN CHỦ TỰ DO ĐIỀU HỢP
QUỐC GIA CHỦ ĐỘNG TOÀN CẦU HÓA
Tiến tŕnh Dân Chủ Nhân Loại
Sự quái hóa của tiến tŕnh Dân Chủ
Tiến tŕnh Dân Chủ Việt Nam
Dân Chủ đa nguyên phân nhiệm điều hợp
====================================================
NỀN DÂN CHỦ TỰ DO ĐIỀU HỢP
QUỐC GIA CHỦ ĐỘNG TOÀN CẦU HÓA
Từ cuộc sống Mặc Thức Nhân Nhiên, nhờ vào bản chất và năng thức thiên bẩm, vốn là kết tinh của cuộc Đại Thăng Hóa Vũ Trụ, mà Nhân Loại đă vượt lên khỏi cuộc sống thuần túy Bản Năng Cảm Tính của Động Vật Hữu T́nh, để thành lập cuộc sống Ư Thức Nhân Loại, với những ư niệm đối đăi: Thiện, Ác. Tốt, Xấu. Đúng, Sai… và cùng nhau tạo lập cuộc sống Xă Hội. Có Xă Hội là có luật lệ và người điều hành, để duy tŕ cuộc sống, phát triển cộng đồng, ứng phó với cảnh sống tự nhiên, đồng thời cũng để đối phó, giao tiếp với các Xă Hội Đồng Loại. Nên đă tạo thành các chế độ sinh sống và thế cách ứng xử, được gọi là sinh hoạt và tổ chức Chính Trị của mỗi Xă Hội.
Như vậy cuộc sống toàn diện của một Xă Hội phải cùng có ba mặt Xă Hội T́nh, là các tầm vóc Tổ Chức Xă Hội như Gia Tộc, Thị Tộc, Bộ Lạc, Quốc Gia, và Thế Giới. Xă Hội Cảnh là các H́nh Thái Kinh Tế như Phi Sản, Hữu Sản, Tư Sản. Xă Hội Lư là các Chế Độ Chính Trị như Phong Kiến, Quân Chủ, Dân Chủ. Tất cả các tổ chức, h́nh thái, chế độ đó đều do Ư Thức, Ư Chí, Ư Hướng của Con Người khai mở, rút ra từ kinh nghiệm, suy nghiệm trong thực tại cuộc sống cộng đồng, tức là từ sự biểu hiện của Tư Tưởng Con Người trong tiến tŕnh Văn Hóa, mà ứng dụng vào thực tại cuộc sống. Vậy đích thật, Văn Hóa mới là chủ đạo của cuộc sống toàn diện Nhân Loại.
Nên khi nói tới Xă Hội Người là nói tới Xă Hội Có Văn Hóa. Nói tới Kinh Tế, Chính Trị là nói tới những Biểu Hiện của Văn Hóa. Mà giá trị đích thực của Văn Hóa phải mang nội dung Đẹp, Tốt, Sáng luôn luôn Mới , đúng với quan niệm và nhu cầu thăng hóa của Con Người từng thời đại. Chính v́ vậy, mà trong cuộc sống Ư Thức Nhân Loại, Con Người đă phải thể nghiệm cách sống, cảnh sống, lối sống một cách hết sức cực nhọc, đến độ cay nghiệt, do chính ư thức chủ quan dựa trên cảm tính, và linh năng của ḿnh, của những kẻ cầm đầu xă hội, và những người trung gian cho ḿnh về tín ngưỡng mà ứng xử.
Trong suốt quá tŕnh vận động cuộc sống Ư Thức Nhân Loại, Con Người đă thể chứng tối đa khả năng sáng tạo của ḿnh, với ư hướng chủ quan của mỗi người, hoặc mỗi lư tưởng chủ quan của tập thể tôn giáo, hay tổ chức chính trị, nhằm làm cho cuộc sống ngày một tiến bộ, phong phú và có giá trị tốt đẹp hơn. Do vậy, mà xă hội thường xuyên có nhu cầu đổi mới. Từ ư hướng đổi mới, dẫn tới hành động đấu tranh đổi mới ấy, đă tạo ra các cuộc cách mạng tư tưởng, cách mạng xă hội, cách mạng kinh tế, cách mạng chính trị, có khi quyết liệt triệt để, có khi cải cách vá víu, có khi sa đọa tụt lùi.
Sở dĩ bị lâm vào cảnh ấy v́ Tư Tưởng Chủ Đạo của các cuộc thay đổi, hay là cách mạng đó, hoàn toàn do Tư Kiến Chủ Quan Phân Biệt Hơn Thua của“Ư Thức Nhân Loại” từng thời đại chi phối, chứ chưa đạt tới tŕnh độ Nhận Thức Toàn Diện Thực Tại là lấy Con Người làm Cứu Cánh cho hoạt động Chính Trị. Cai Trị, Quân Sự, Luật Pháp, Kinh Tế, Xă Hội, nhất là Văn Hóa trong sinh hoạt Cá Nhân, Gia Đ́nh, Cộng Đồng, Quốc Gia và Quốc Tế. Gọi chung đó là thời đại Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn đang tới. Ngay như các cuộc cách mạng Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền, được coi là sự khởi đầu của trào lưu mới, trong thời đại mới, thời đại Nhận Thức Nhân Văn hiện nay, cũng vẫn không tránh khỏi rơi vào t́nh trạng chủ quan thiên kiến của những tôn giáo hẹp ḥi, chủ thuyết một chiều, lối nh́n xơ cứng, rồi tự nhận đó là lư tưởng buộc người theo phải hy sinh phục vụ cho thứ lư tưởng ảo tưởng đó.
Gọi là ảo tưởng v́ những lư thuyết biện minh cho bất cứ lư tưởng nào đó, mà không nhằm vào việc triển khai Con Người Thực Tại, với đầy đủ nhiên tính và đặc quyền Tự Do, Tự Chủ, Sáng Tạo, vốn do luật hằng hóa của vũ trụ vạn hữu, do luật thăng hóa của lịch sử nhân loại đă đạt tới, mà kết tinh thành hiện tượng Con Người Chủ Động. Con Người có đặc tính Tự Do, Tự Chủ, Sáng Tạo; có khả năng Tự Do, Tự Chủ, Sáng Tạo; có nhu cầu Tự Do, Tự Chủ, Sáng Tạo, đó là Sự Thật. Đó là giá trị và vị thế Nhân Chủ chân chính của Con Người và Nhân Loại, mà thời đại phải vươn lên để thể hiện ra trong cuộc sống toàn diện. Bởi vậy nền Tự Do và chế độ Dân Chủ của các nước trên Thế Giới phải được chủ đạo bằng Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn, được Điều Hợp bởi Luật Pháp Dân Chủ của từng nước, và các nước đều được Tự Do Chủ Động trong sinh hoạt Toàn Cầu, th́ Thế Giới mới tạo nổi cuộc sống thương vui, ḥa b́nh, phát triển, thuận chiều thăng hóa của lịch sử nhân loại.
TIẾN TR̀NH DÂN CHỦ CỦA NHÂN LOẠI
Do thuộc tính và nhu cầu cần có nhau, phải nương tựa nhau, nên Con Người luôn luôn gắn bó với nhau, khởi đi từ nguồn cảm thức linh năng của huyết hệ. Do cảm thức tự nhược, tự cảm thấy ḿnh yếu đuối, trước các hiện tượng hung hăn của tự nhiên, mà Con Người, đă tôn những người dũng mănh lên cầm đầu tập thể, và nơi tự thân vốn có sẳn cảm thức linh năng, nên đă nhân cách hóa, hay thần hóa các hiện tượng siêu nhiên thành nhiều vị thần, với những cá tính tùy theo sự biểu hiện là hiền hay dữ, nuôi dưỡng hay phá hủy sự sống, bảo vệ hay tàn phá cuộc sống. Như vậy, trong tư tưởng của Nhân Loại cùng phát sinh quan niệm Đa Thần, và mặc nhiên đă trở thành tín ngưỡng của Con Người. Đó chính là Tinh Thần Chủ Đạo cho Xă Hội Bộ Lạc.
Khi Xă Hội Bộ Lạc đă dần dần h́nh thành hai hệ thống quyền lực. Một là Thế Quyền của Tù Trưởng. Hai là Đạo Quyền của Pháp Sư, với nhiều tên gọi khác nhau, như Phù Thủy, Thầy Mo, Ông Đồng, Bà Cốt. Tù trưởng cầm đầu, hướng dẫn, tổ chức Bộ Lạc trong cuộc sống và việc kiếm sống. Pháp Sư có nhiệm vụ Tế Thần và Trị Bệnh cho Dân. Tùy theo tâm lư, cũng như sự tin tưởng và hoàn cảnh sống của dân, mà Tù Trưởng hay Pháp Sư được trọng vọng hơn hay kém nhau. Đây là mầm mống tranh chấp giữa Đạo Quyền và Thế Quyền trong sinh hoạt xă hội, sau đó thành các cuộc tranh chấp quyền lực chính trị thống trị diễn ra trong lịch sử. Ở đây nói lên một điều hết sức quan trọng, đó là theo nhu cầu tâm linh và cuộc sống, Quyền Thiêng Liêng và Quyền Thế Tục đă xuất hiện trong sinh hoạt chính trị, cai trị, văn hóa, ngay từ thời Nhân Loại mới đặt chân vào lănh vực sinh hoạt có ư thức và biết suy nghĩ, có tổ chức, có kỷ luật, nhằm quân bằng hóa cuộc sống của Con Người và Xă Hội. Nếu quyền lực này lấn vượt quyền lực kia, th́ tư tưởng Con Người sẽ bị khống chế, lập tức Xă Hội mất khả năng thăng hóa.
Càng ngày ư thức nhân loại càng đi sâu vào lănh vực biết so sánh, phân biệt, và cho sự vật, sự việc những giá trị hơn kém, theo với cảm nhận của ḿnh, và của cộng đồng, theo bảng sắp hạng: Thiện, Ác. Tốt, Xấu. Lợi, Hại…được thành h́nh đậm nét. Thần Linh cũng được Con Người đánh giá là Thiện Thần hay Ác Thần. Thường thường th́ mỗi Bộ Lạc chọn cho ḿnh một vị Thần Tổ để tôn thờ, cầu nguyện, làm chỗ dựa cho tinh thần lúc gặp nguy khốn, hay gọi đó là ơn thiêng liêng, ứng nghiệm với mỗi người, ngoài tầm hiểu biết của ḿnh. Các vị Thần Tổ của mỗi Bộ Lạc thường là biểu hiện của tính t́nh, khuynh hướng tâm lư chung của Con Người trong từng Gia Tộc, từng Bộ Lạc. Bởi đấy, những Bộ Lạc hiếu chiến th́ biểu tượng bằng vị Thần Tổ chiến thắng dữ dằn, c̣n Bộ Lạc hiền ḥa th́ có Thần Tổ cưu mang tốt bụng.
Trong hoàn cảnh phải quyết liệt tranh sống với tự nhiên và đồng loại của thời vừa thoát ra khỏi trạng thái Mặc Thức Nhân Nhiên, để h́nh thành cuộc sống Ư Thức Nhân Loại, thường v́ các Bộ Lạc c̣n mang nặng mặc thức, quán tính chiến đấu, chiếm đoạt, nên các vị Thần Tổ của các Bộ Lạc phần đông đă tôn thờ thần chiến đấu. Trong môi trường ấy, th́ những Bộc Lạc dũng mănh thường có khả năng thâu tóm được các Bộ Lạc hiền yếu trong vùng, để tổ chức thành một Xă Hội Quốc Gia Phong Kiến. Đương nhiên vị Thủ Lănh Bộ Lạc chiến thắng trở thành Lănh Tụ Quốc Gia tức là Vua, c̣n vị Thần Tổ của của bộ lạc chiến thắng đó được tôn lên làm một vị Thượng Thần đứng đầu các Thần Tổ của những bộ lạc bị thống thuộc. Xă Hội vẫn sống trong quan niệm Đa Thần, nhưng phẩm trật thần linh cũng được xác lập, rập theo với tổ chức Triều Đ́nh Phong Kiến nơi trần thế. Rồi các bậc Vua, Chúa lại nhân danh và đại diện cho Thần Linh điều khiển Xă Hội. Mặc nhiên xă hội bị chi phối bằng hai thứ quyền lực Thiêng Liêng và Triều Đ́nh.
Từ ư niệm Thượng Thần của từng Quốc Gia đă được các nhà suy tư thông thái, thăng hoa lên thành vị Hoàng Thiên Thượng Đế, chúa tể Vũ Trụ, sáng tạo Trời Đất Muôn Loài, hoàn toàn quyết định số phận Con Người và vận mệnh đất nước. Đến đây th́ sự tranh chấp giữa Thế Quyền và Đạo Quyền xuất hiện. Xă hội nào mà Con Người sùng thượng Tín Ngưỡng th́ Đạo Quyền vượt lên trên Thế Quyền, như văn minh Ấn Độ. Xă hội nào Con Người sống thực tế th́ Thế Quyền vượt lên trên Đạo Quyền, như văn minh Trung Hoa. C̣n những xă hội mà Con Người ưa khám phá, mạo hiểm th́ Đạo Quyền và Thế Quyền ngang sức nhau, tạo thành các cuộc tương tranh, lấn vượt nhau từng thời, từng lúc, như trường hợp các nước thuộc văn minh Hy- La.
Trong không khí tranh chấp vị thế lănh đạo tư tưởng ấy, các Triết Gia và Đạo Gia xuất hiện, nhằm biện giải về nguồn gốc vũ trụ và quyết liệt t́m cho ra chân lư của cuộc đời, xác lập mọi giá trị của cuộc sống, và đ̣i hỏi mỗi người phải t́m cho ḿnh một lư tưởng sống. Bách gia, Chư tử cùng xuất hiện, vừa hướng dẫn, vừa thúc bách, vừa khảo đả sức suy tư của Con Người, đặt tư tưởng Con Người vào cuộc sống phán đoán, so sánh, phân biệt, chia cắt, hơn kém, buộc nhau vào thế phải lựa chọn, t́m bằng được cho ḿnh một lư tưởng để theo đuổi, tạo thành một đấu trường tư tưởng hết sức sôi nổi, gay go, quyết liệt và đa diện. Đó là bản chất của thời đại Ư Thức Nhân Loại bùng nổ.
Văn Hóa Sử gọi đó là Thời Đại Minh Triết. Qua sự trả giá cho những tranh chấp hơn thua, thành bại bằng máu và nước mắt, của ḿnh, Con Người lần lần t́m lấy giá trị Tự Do, Chủ Động và khả năng Sáng Tạo của ḿnh, nhằm tạo ra lối sống, cách sống, thể thống sống cho chính ḿnh cho gia đ́nh và xă hội, làm cho lịch sử thật sự thăng hóa theo ư hướng tính của Nhân Loại. Niềm tin của Con Người cũng đ̣i hỏi phải được gạn lọc, loại dần những thói mê tín dị đoan của quan niệm Đa Thần, đi lần vào tin tưởng Độc Thần Linh Thiêng. Rồi lại được vơ trang bằng những biện chứng triết học, để hoàn chỉnh các hệ thống Tôn Giáo Duy Thần. Các nền cai trị xă hội cũng dựa vào quan niệm Duy Thần để sinh hoạt. Như vậy là Văn Hóa đă đi vào chính vị chủ đạo lịch sử. Khi tư tưởng Duy Thầøn đă chiếm địa vị độc tôn, th́ đồng thời cũng là đối tượng của sự đề kháng, để từ đó ư niệm Hoài Nghi xuất hiện. Chính ư niệm hoài nghi đă là sự thách đố, buộc suy tư của Loài Người phải đi t́m chân lư. Thế là cuộc tranh biện về chân lư nổ ra. Các phái hệ triết học thành h́nh. Các hệ thống tư tưởng tŕnh diện. Các nền đạo học trở thành khuôn vàng thước ngọc cho xă hội.
Hai trung tâm văn hóa lớn của Nhân Loại là Ấn Độ và Trung Hoa, tuy đă thành h́nh và thành nếp văn minh sớm nhất trong lịch sử Loài Người. Nhưng Ấn Độ v́ hệ thống tư tưởng Tôn Giáo đă chiếm vị thế độc tôn, đă tạo ra các đẳng cấp xă hội mang tính chất định luật thiên nhiên, nên dù các phái triết học đủ mọi khuynh hướng đă bừng lên rất sớm, nhưng cũng không tạo nổi sự chuyển đổi lớn lao nào trong thực tế sinh hoạt xă hội. C̣n Trung Hoa th́ Đạo Nho đă tạo thành hệ thống sống và suy tư của lớp Nho Sĩ ngay ở thời đại loạn, Xuân Thu Chiến Quốc, trước khi thành h́nh một Quốc Gia Thống Nhất. Rồi sau khi Nhà Hán làm chủ Trung Hoa th́ Vua Quan Phong Kiến đem nguyên lư của Nho Học áp dụng vào sinh hoạt chính trị, cai trị, xă hội, kéo dài cho tới cuộc Cách Mạng Tân Hơiï năm 1911 của Quốc Dân Đảng. Bởi vậy, mà cả hai trung tâm Văn Hóa đồ sộ trên, đă không tạo ra sự chuyển động vĩ đại nào trong sinh hoạt chính trị cả.
Riêng có nền văn minh Hy- La của Âu Châu, mới thường xuyên có những đột phá văn hóa, kéo theo những đấu tranh chính trị, thay đổi chế độ cai trị xă hội, và bừng khởi kỹ thuật hết sức quyết liệt, tạo thành những bước đi dài của lịch sử. Mặc nhiên biến thành đầu tầu của Thế Giới cả về hai mặt tốt lẫn xấu. Hy Lạp đúng là trung tâm phát sinh ra triết học Tây Phương. Mọi triết thuyết từ Duy Tâm, Duy Thần, Duy Vật của Âu Châu sau này, đều có gốc từ Văn Minh Hy Lạp. Văn Hóa Hy Lạp có đặc tính Tự Do, chưa có quan niệm Tổng Hợp của Đạo Học, tuy đi sâu và phát triển rực rỡ khắp mặt về suy tư của Con Người, mà không đưa ra phương hướng, phương pháp giải quyết cho cuộc sống toàn diện của Con Người và Xă Hội, nên không tạo được chất kết dính cần thiết, chủ đạo cho một Xă Hội Quốc Gia. Mất hẳn khả năng tự bảo vệ và tạo ra môi trường tồn tại, phát huy của Văn Hóa, đó là tinh thần truyền thống Dân Tộc. Dù Hy Lạp là một giống dân riêng biệt, thông minh, sáng tạo, đă thực hiện được một Nền Cộng Ḥa đầu tiên trên thế giới; họ là tổ của mọi học thuyết, là thầy của Âu Châu, nhưng họ không chủ động làm việc ấy, mà do các đạo quân xâm lược của những đợt Đế Quốc tràn vào, tàn phá nền Văn Minh của họ, rồi đem văn minh của họ đi phổ biến khắp nơi.
Đế Quốc La Mă dùng sức mạnh quân đội và luật pháp thống trị toàn vùng Âu Châu và Địa Trung Hải. Học từ văn minh Hy Lạp, kết hợp với sức mạnh La Mă, dựng nền Văn Minh Hy La. Đế Quốc La Mă sau khi đóng đinh Giáo Chủ Thiên Chúa Giáo, Đức Jesus tại Do Thái, Đạo Thiên Chúa với đức tin tuyệt đối vào một Thượng Đế toàn năng duy nhất sáng tạo trời đất muôn vật, đă vào truyền giáo ngay tại thủ phủ La Mă. Ban đầu Đế Quốc tàn sát Thiên Chúa Giáo, nhưng tư tưởng Duy Thần của tôn giáo này, đáp ứng đúng với nhu cầu tâm linh của dân chúng các nước trong đế quốc, nên Hoàng Đế La Mă Constantine de Great năm 313, đă buộc phải đưa Thiên Chúa Giáo lên thành Công Giáo của toàn Đế Quốc. Dùng đức tin Thiên Chúa Giáo khống chế tư tưởng các Vua và Dân Âu Châu, nhằm củng cố thêm cho quyền lực đế quốc. Nhưng đến khi Đế Quốc La Mă suy tàn, th́ Giáo Triều Thiên Chúa Giáo La Mă lại đă nghiễm nhiên trở thành Tôn Giáo Toàn Thống khắp vùng Âu Châu.
Một thế lực Tôn Giáo cực mạnh khác, xuất hiện tại vùng Trung Đông là Hồi Giáo, vào thế kỷ thứ 7. Sau khi tiếp xúc với Do Thái Giáo và Thiên Chúa Giáo, Giáo Chủ Mohammed thành lập Hồi Giáo cũng tại Do Thái. Tin thờ một đấng Thượng Đế toàn năng, tạo ra một Đế Quốc Tôn Giáo Toàn Thống, phía Tây từ Y Pha Nho, phía Đông tới sông Hằng Ấn Độ. Tiến vào Âu Lục tranh giành ảnh hưởng văn hóa, chính trị, cai trị với Thiên Chúa Giáo, tạo thành một cuộc Thánh Chiến kéo dài từ năm 1096 đến 1720. Cuối cùng Hồi Giáo bị Thiên Chúa Giáo đánh bật khỏi Âu lục. Nhưng tinh thần và đức tin của Hồi Giáo rất mạnh, họ tiếp tục để lại ảnh hưởng ở các nước vùng Nam Âu, tạo thành Đế Quốc thống trị khắp các nước Ả Rập, tràn vào lục địa Ấn Độ. Ở đây họ gặp sức đề kháng của Bà La Môn Giáo, cũng là tôn giáo Duy Thần cổ xưa, đă thành định luật tư tưởng và định chế truyền thống xă hội, nên Hồi Giáo chỉ tạo ảnh hưởng được ở các tiểu quốc miền bắc Ấn. Tuy Hồi Giáo gặp trở lực ở Âu lục và Ấn lục, nhưng họ đă phát triển thong thả tại các nước cực nam Đông Nam Á. V́ ở đó chưa có Tôn Giáo Nhất Thần ngự trị.
Cuộc Thánh Chiến tàn khốc đẫm máu trièân miên trên Sáu Trăm Năm giữa Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo, vừa là thời cơ củng cố quyền lực tối thượng của Giáo Hoàng La Mă, vừa là một ngọn roi quất mạnh vào sự suy tư của Giới Trí Thức Âu Châu, tạo ra không khí hoài nghi về đức tin, và chống đối lại với quyền lực, cũng như sự xa hoa đọa lạc của Giáo Hội. Thế Kỷ 13 tại Anh Quốc do sự đ̣i hỏi mạnh mẽ của trí thức và thị dân, Anh Hoàng đă buộc phải chấp nhận thành lập Viện Thứ Dân, tuy không có thực quyền bằng Viện Quư Tộc, nhưng cũng là sự khởi đầu cho chế độ Đại Nghị sau này. Thế kỷ 15, Phong trào Phục Hưng Văn Nghệ bừng lên, đi từ văn nghệ, triết học, tới tôn giáo. Buộc các nhà thần học phải theo gót Saint Augustin và Thomas d’ Aquin thời trung cổ, dùng biện chứng Duy Tâm của Platon và Aristot thuộc Hy Lạp xưa, để minh chứng cho tín lư Thiên Chúa Giáo. Nhưng phong trào này đă chia làm hai ḍng chính 1- Dùng duy lư để bài bác truyền thống Thiên Chúa Giáo, đại diện là Pomponazzi. 2- Chủ trương tự do trong tín lư Thiên Chúa Giáo, do Erasme đại biểu, ông đ̣i Giáo Hội phải khoan hồng, phải tẩy uế và cởi mở cho tư tưởng tự do.
Từ những cuộc tranh biện trên lư thuyết, đầu thế kỷ 16 đă tác động vào thực tế thành cuộc cách mạng Tôn Giáo quyết liệt, chia những người tin thờ Thượng Đế thành nhiều tôn giáo đối kháng nhau. Năm 1517, Linh Mục Luther đứng ra phản đối hành động phản lại giáo lư của Giáo Hoàng La Mă Léon X. Năm 1520 ông dịch thánh kinh ra tiếng b́nh dân của Đức. Lập thành giáo lư mới. Thu hút được mọi thành phần đối lập, và các nạn nhân bị trị của Giáo Hội. Đúng lúc lớp tư sản quư tộc vua chúa đều muốn thoát khỏi quyền lực khống chế của Giáo Hoàng, nên mọi phía đều tôn ông làm Giáo Chủ Tin Lành Giáo. Khi được bọn Phong Kiến Âu Châu hùa theo kính trọng, ông dần dần bỏ rơi những dân lành đau khổ bị bóc lột, để đứng hẳn về phe vua chúa thống trị. Lúc đó ông chủ trương băi bỏ quyền uy Giáo Hoàng La Mă, để đặt vào tay vua chúa phong kiến. Ông cho là: “Ư chí của Thượng Đế thể hiện nơi miệng Vua Chúa”. Đây đúng là quan niệm “Vua là Thiên Tử” của phong kiến Trung Hoa.
Ngược lại với chủ trương củng cố chế độ phong kiến của Luther, năm 1533 Calvin dựa vào lư trí của mỗi người để mở mang kiến thức soi đường cho Con Người tự khám phá, tự tiến tới với Thượng Đế, không cần đến kẻ trung gian là Giáo Sĩ hay Vua Chúa. Ông cho “Ư chí Thiên Chúa nằm ngay trong ư thức Con Người rồi”. Ông chủ trương Chế Độ Đại Nghị Tự Do. Từ tư tưởng Tự Do, chính trị Dân Chủ, đến kinh tế Tư Bản. Chủ trương của Tân Giáo Calvin đă thành một hệ thống đáp ứng đúng với nhu cầu của thời đại. Đây cũng là căn bản tư tưởng của những người tránh cuộc đàn áp Tôn Giáo ở Âu Lục, sang định cư tại Tân Thế Giới, tức là Mỹ Châu.
Nhờ thế mà 04 – 07 – 1776, ngày Độc Lập của Hoa Kỳ, cũng lại là ngày khai sinh của một Quốc Gia Dân Chủ, một chế độ Cộng Ḥa và nền kinh tế Tự Do đầu tiên của mùa Tự Do Dân Chủ trên Thế Giới. Cũng từ cuộc bứt phá mănh liệt của Tôn Giáo Tây Phương, tinh thần tự do của triết gia Âu Châu, tác động vào trí thức, chính giới Pháp, được kích thích bởi nền Cộng Ḥa từ Tân Thế Giới vọng về, đă tạo thành phong trào rộng lớn, động viên được giới thị dân đứng lên làm cuộc Cách Mạng Dân Chủ 1789, tại Pháp, lật đổ chế độ Phong Kiếân mục nát, xây dựng một chính quyền Dân Cử, một chế độ chia thành ba quyền Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp độc lập. Ảnh hưởng của cuộc cách mạng này quá sâu rộng trong quảng đại quần chúng Âu Châu, nên Giáo Hội và Vua Chúa khắp nơi đều ra sức triệt phá. Mặt khác v́ ư thức Dân Chủ c̣n non kém, lối nghĩ phong kiến c̣n đậm đặêc trong giới lănh đạo và dân trí c̣n quá thấp, nên “Cách Mạng” bị quái hóa thành “đao thủ phủ” tiêu diệt ngay những kẻ làm cách mạng. Dẫn tới việc Napoléon Bonaparte tái lập nền Đế Chế 1804. Dùng sức mạnh quân đội thôn tính khắp Âu Lục.
Giữa cảnh đại loạn, trong t́nh trạng thoái trào Dân Chủ ấy, các triết nhân xuất hiện đa dạng, trong đó Auguste Comte đề ra quan niệm thực tiễn qua hệ thống Duy Thực Nghiệm, đă chỉ đạo cho cuộc Cách Mạng Tư Sản Dân Quyền 1848, cũng diễn ra tại nước Pháp, và được khắp Âu Châu cùng thực hiện. Tuy bị thế lực Phong Kiến tŕ kéo lật ngược nhiều phen. Nhưng cuối cùng giới Tư Bản đă trở thành lực lượng thực tế điều động xă hội, kinh tế và khống chế chính trị. Kỹ nghệ phát triển rầm rộ. Các nước thi nhau đóng tầu lớn vượt đại dương đi t́m đất mới. Chế độ Thực Dân xâm chiếm thuộc địa mở ra. Thế là cuộc cách mạng này bị biến thái: Bên ngoài thành chế độ Thực Dân thống trị các nước lạc hậu. Bên trong là Tư Bản bóc lột Lao Động, giống như thời Quân Chủ, lănh chúa bóc lột Nông Nô.
SỰ QUÁI HÓA CỦA TIẾN TR̀NH DÂN CHỦ
Trong môi trường đen tối ấy, các nhà xă hội học đề ra các chủ thuyết xă hội, nhằm đả phá Tư Bản bóc lột lao động, đ̣i hủy bỏ quyền tư hữu, để Karl Marx tổng hợp thành Ư Thức Hệ Duy Vật Cộng Sản độc đoán, cực đoan, nhằm thủ tiêu mọi tự do của Con Người, loại bỏ tất cả những giá trị tâm linh nơi Con Người, đẩy Con Người xuống thành Con Vật Lao Động, chỉ biết nhận lệnh của những kẻ cầm đầu xă hội. Nhưng nó lại xử dụng đúng những khẩu hiệu kích động hận thù giai cấp, mà giới lao động thợ thuyền cảm nhận trực tiếp được, qua cách đối xử tàn nhẫn của giới chủ nhân thời đó, khiến ngay cho giới trí thức mềm ḷng v́ thương kẻ bị bóc lột, cũng phát sinh sự đồng cảm, để gia nhập công cuộc vận động cho phong trào Cộng Sản. Nhờ vậy mà Tư Tưởng Duy Vật và Phong Trào Cộng Sản trở thành sức mạnh của quần chúng, dẫn tới cuộc Cách Mạng Vô Sản tại Nga 1917.
Năm 1914, sự tranh chấp ảnh hưởng Thuộc Địa giữa các nước mới kỹ nghệ hóa và các nước Thực Dân đă làm bùng nổ Đại Chiến Thế Giới Thứ Nhất. Đến năm1917 chiến tranh giữa các nước Âu Châu lên tới tột đỉnh, nước Nga bứt khỏi cuộc chiến bằng một cuộc Cách Mạng Tư Sản Dân Quyền do Kerensky cầm đầu. Trong lúc các nước Tư Bản đang bắn giết nhau. Tư Bản Nga đă kiệt lực, lớp Trung Lưu Trí Thức th́ ảo tưởng, phân hóa, dân trí c̣n thấp kém, nên đă bị cán bộ Cộng Sản lợi dụng, đoạt lấy chính quyền, để thực hiện cuộc Cách Mạng Vô Sản Chuyên Chính. Cộng Sản hoàn toàn bẻ ngược tiến tŕnh Dân Chủ tự nhiên của Nhân Loại, để quái hóa thành một chế độ Độc Tài Toàn Trị. Hủy diệt truyền thống văn hóa của các Dân Tộc và các nền Văn Minh Nhân Loại. Những giá trị được xây dựng bằng Nhân Linh, Nhân Tính, Nhân T́nh đều bị loại bỏ. Những quyền Tự Do căn bản của Con Người đều bị tước đoạt. Thay vào đó là một Xă Hội Chủ Nghĩa Phi Nhân hận thù, một thứ chế độ Cộng Sản mang tính Phong Kiến, cai trị bằng phương pháp Khủng Bố sắt máu, nhằm hạ thấp bản tính lương tri của Con Người xuống thành cảm tính phản ứng của con vật, chỉ biết nhận lệnh, mà không dám hỏi tại sao? Với những hứa hẹn một Thế Giới Đại Đồng viển vông không bao giờ đạt tới.
Sở dĩ Cộng Sản thành công và tồn tại phát triển lên hàng thế lực siêu cường chiến tranh, v́ do điều kiện Quốc Tế cho phép. Đúng vậy, cách mạng tháng 10 Nga thành công do cuộc thế chiến sắp tới hồi kết thúc, và sau khi chiến tranh kết thúc năm 1918, th́ mỗi nước Tư Bản Âu Châu phải lo tái thiết, để mặc cho Cộng Sản Liên Xô tiêu diệt lực lượng đối kháng Bạch Nga và thiết lập Xă Hội Xô Viết khủng bố. Tiếp đến là khi Đức Quốc Xă phát khởi Đệ Nhị Thế Chiến 1939 - 1945, th́ Liên Xô may mắn được đứng trong hàng ngũ “Đồng Minh Chống Phát Xít”với Mỹơ, để rồi v́ nhu cầu “Giải Thực” , tức là do chiến lược toàn cầu “Dùng Cộng Sản Diệt Thực Dân” của Mỹ, nhằm chấm dứt chế độ Thực Dân Âu Châu, nên sau khi Đức Quốc Xă đầu hàng, Mỹ đă chia một nửa Âu Lục cho Liên Xô. Từ đó tư thế của Liên Xô thành một đối trọng nguyên tử với Mỹ, buộc các nước Thực Dân Âu Châu phải đứng xếp hàng trong Liên Minh Quân Sự - NATO- do Mỹ lănh đạo. Nhất là sau khi Trung Cộng làm chủ trọn vẹn Hoa Lục và Việt Nam đánh thắng được Thực Dân Pháp, th́ Liên Xô thực sự trở thành một siêu cường nguyên tử phi đạn, đối thủ ngang tầm với Mỹ trong chiến tranh lạnh.
Cộng Sản Trung Hoa chiếm được Hoa Lục là một thắng lợi to lớn cho Quốc Tế Cộng Sản, nhưng đó lại là mối họa sát thân của Liên Xô sau này. V́ cũng như Stalin đă lợi dụng chiêu bài Quốc Tế Cộng Sản để thỏa măn tham vọng cá nhân độc tôn, dùng Đế Quốc Liên Xô để thống trị các nước chư hầu, th́ Mao Trạch Đông cũng chỉ dùng Cộng Sản như một phương tiện phục hồi Đế Quốc Đại Hán, và củng cố địa vị bản thân, để trở thành một Đại Đế Cực Quyền. Hai tham vọng đó gặp nhau trong một môi trường độc tài toàn trị. Trung Cộng tuy là nước đông dân nhất, nhưng v́ ở thế đàn em, nên lúc c̣n sinh thời Stalin, chưa dám qua mặt. Đến khi Stalin chết, Khrushchev chủ trương xét lại, lên án việc sùng bái cá nhân, thẳng tay hạ bệ thần tượng Stalin, tạo cơ hội tốt cho Mao Trạch Đông công khai chống xét lại, chống luôn quyền lănh đạo của Liên Xô. Nội bộ khối Cộng rạn nứt.
Nhằm tạo thế quân bằng cán cân giữa Đông và Tây trong thời chiến tranh lạnh, ba nước là Đức, Hàn, Việt lần lượt bị chia đôi, một nửa thuộc Thế Giới Tự Do, một nửa thuộc Thế Giới Cộng Sản. Khi sự xung đột giữa hai nước Cộng Sản khổng lồ Nga, Hoa có chiều nổ lớn, tạo ra sự phân hóa trong nội tại mỗi nước, mỗi đảng th́ khối Cộng Sản Quốc Tế bắt đầu đổ dốc. Trong ba nước bị chia đôi, Đông Đức đă hoàn toàn thuộc Liên Xô; Bắc Hàn thuộc ảnh hưởng của Trung Cộng; riêng Bắc Việt v́ chính sách “đi dây” giữa Liên Xô và Trung Cộng của Hồ Chí Minh, nên cuộc tranh giành giữa Trung - Xô hết sức phức tạp. Lợi dụng tham vọng muốn gấp rút thống nhất Việt Nam của Hồ Chí Minh, Liên Xô gia tăng viện trợ khí giới, thúc bách Bắc Việt mở chiến tranh xâm chiếm Nam Việt, một nước Cộng Ḥa non trẻ do Hoa Kỳ bảo trợ. Đây không phải để giúp cho Bắc Việt thống nhất lănh thổ, mà thâm ư của Liên Xô là muốn kéo Hoa Kỳ vào cuộc chiến để đụng độ với Trung Cộng, giống như cuộc chiến tranh Triều Tiên trước kia. Nhằm bắt Trung Cộng phải nhận sự trợ giúp vũ khí của ḿnh, để đánh nhau với Mỹ, từ đó buộc Mao Trạch Đông phải thần phục Liên Xô như cũ. Mưu thâm th́ họa cũng thâm.
Hoa Kỳ chỉ chờ có thế, để xuống tay thực hiện chủ trương “Dùng Cộng Diệt Cộng”. V́ cả về nội lực kinh tế lẫn khả năng quân sự, Hoa Kỳ đă đến lúc cần phải làm lệch cán cân quân bằng của chiến tranh lạnh, để đi tới một trận thế mới. Việt Nam lại cũng chính là nơi thích hợp nhất để gây ra sự chấn động toàn cầu. Nếu chọn điểm chiến tranh nóng tại Đức Quốc th́ chiến tranh nguyên tử giữa Đông – Tây phải nổ ra; c̣n chọn Hàn Quốc th́ chỉ là đánh nhau với Trung Cộng, không thể tạo ra thế xung đột toàn diện giữa Trung – Xô tại địa bàn Việt Nam và Đông Nam Á mai sau. Chính v́ vậy mà Dân Tộc Việt Nam bị chọn làm “quân cờ thí” cho chiến lược toàn cầu mới. Chiến tranh Việt Nam không để giải quyết những vấn đề của Dân Tộc Việt Nam. Quân đội Mỹ cũng không được quyền chiến thắng tại đây. Chiến tranh Việt Nam chỉ có mục đích duy nhất là gài Liên Xô và Trung Cộng vào thế đối đầu sinh tử với nhau thôi.
Như vậy là đi ngược hẳn lại với mưu đồ của Liên Xô. Hoa Kỳ không Mỹ Hóa Chiến Tranh Việt Nam để dụng độ với Trung Cộng; mà đem quân tham chiến tại Việt Nam, nhằm hỗ trợ cho Mao Trạch Đông yên tâm thực hiện “Cuộc Cách Mạng Văn Hóa”, để diệt cho bằng hết những lănh tụ và cán bộ Trung Cộng thân Liên Xô. Tập trung quyền hành quyết định chính sách vào một tay họ Mao “Người Cầm Lái Vĩ Đại”. Nhờ vậy mà năm 1972 Chủ Tịch Trung Cộng Mao Trạch Đông mới đủ tư thế, đủ uy tín cùng Tổng Tống Mỹ Nixon, công bố chính sách “Trung Mỹ Đề Huề”.
Đến đây th́ chiến tranh Việt Nam đối với Mỹ đă không cần tới nữa. Hiệp Định Paris 1973 được kư kết. Lính Mỹ lần lượt lên đường về nhà. Nhưng sự bắn giết nhau giữa người Việt vẫn c̣n đó. Chẳng những tiếng súng không ngưng nghỉ, mà lại càng gia tăng cường độ. Tổng Thống Mỹ Nixon chủ trương “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”. Tức là tiếp tục viện trợ cho Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa chiến đấu chống Cộng, mà không có sự hiện diện của lính Mỹ. Nhưng ông Nixon bị vướng vào vụ án – Watergate - nghe lén đối phương Dân Chủ trong cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ, nên bị buộc phải từ chức Tổng Thống giữa nhiệm kỳ II. Thế là chủ trương Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam đă thắng chủ trương Việt Nam Hóa Chiến Tranh. Việt Nam Cộng Ḥa bị hy sinh tức tưởi, đồng thời cũng hy sinh luôn danh dự của nước Mỹ. Hoa Kỳ lần đầu tiên mang nhục thất trận, để cho chiến lược “Dùng Cộng Diệt Cộng” trên toàn cầu của Mỹ được thực hiện, nhằm tiêu diệt Quốc Tế Cộng Sản, đưa Mỹ lên vị thế Siêu Cường vô địch thủ.
V́ vậy, mà quân độâi Việt Nam Cộng Ḥa rơi vào thế bị trói tay. Viện trợ quân sự lẫn kinh tế đều bị cắt đứt. Địch quân chỉ chiếm Buôn Mê Thuột, một tỉnh vùng cao nguyên, mà quân đội không được phản công tái chiếm. Kết quả là đội quân thiện chiến gan dạ chưa kịp nh́n thấy địch quân, đă nhận được lệnh phải rút lui. Nhường Vùng II chiến thuật cho địch. Miền Nam bị chặt đứt ra làm hai khúc. Trên một triệu lính chiến lâm vào cảnh “quân hồi vô phèng”, rút lui vô trật tự. Ră ngũ trên tay c̣n cầm súng. Dân, Quân dẫm đạp lên nhau cùng chạy loạn. Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa Nguyển văn Thiệu từ chức. Chính phủ Dương văn Minh tiếng là “Ḥa Giải Ḥa Hợp” ra đời, rồi ôm hận bàn giao chính quyền cho đối phương vào ngày 30-04-1975. Cộng Sản Bắc Việt chiếm được trọn vẹn Việt Nam. Liên Xô, Trung Cộng quyết liệt tranh nhau miếng mồi Việt Nam. Cuối cùng Liên Xô đă thắng.
Cộng Sản Việt Nam biến thành tên lính đánh thuê cho Liên Xô. Diệt chính quyền Khmer Đỏ tay sai của Trung Cộng tại chiến trường Campuchia. Năm 1979, Trung Cộng đánh xuống Bắc Việt, để dậy cho tên đàn em phản bội một bài học, và cứu Khmer Đỏ. Lập tức Liên Xô đem quân dàn trận chiến với vơ khí nguyên tử dọc biên giới Trung – Xô, nhằm buộc Trung Cộng phải rút quân ra khỏi Việt Nam. Cộng Sản Việt Nam đă đánh bật Khmer Đỏ ra khỏi thủ đô Nam Vang. Nhưng bị du kích chiến của Khmer Đỏ cầm chân tiêu hao không lối thoát. Chiến tranh Campuchia kéo dài cho măi đến ngày Liên Xô tan vỡ, Cộng Sản Việt Nam mới hết cách, chịu buông tay.
Nhân lúc Quốc Dân Mỹ bị rơi vào tâm lư “Hội Chứng Việt Nam”. Quân đội Mỹ bị buộc phải lui vào thế tạm thời chịu thua. Trung Cộng ráo riết tranh giành ảnh hưởng, th́ Liên Xô vội vàng triển khai kế hoạch quân sự toàn cầu, nhằm thống trị khắp các nước nhược tiểu. Ngoài việc thuê Cộng Sản Việt Nam tiến chiếm Campuchia, thuê Cu Ba mở thêm các mặt trận tại nhiều nước Phi Châu và nhiều nơi ở Trung Mỹ, lính Liên Xô cũng nhẩy vào chiếm đóng Afghanistan. Nhưng nơi đâu cũng gặp phải du kích chiến cầm chân tiêu hao không lối thoát. Cộng Sản Nga, Việt đều nổi tiếng về “du kích chiến”, nhưng khi chúng trở thành Kẻ Xâm Lăng th́ lại bị du kích chiến của các Dân Tộc yếu đánh bại. Vậy du kích chiến tuyệt đối không phải do tinh thần Cộng Sản chủ đạo, mà do Tinh Thần Dân Tộc Chống Ngoại Xâm chủ đạo mới làm nên chiến thắng.
Toàn bộ nội lực kinh tế của Liên Xô đều bị các cuộc chiến tranh rút cạn, khiến cho Liên Xô không c̣n đủ sức chạy đua vũ trang với Mỹ và viện trợ cho các chư hầu ở Đông Âu nữa. Gorbachev lên cầm quyền quyết liệt thực hiện Perestroika & Glasnot, tức là đổi mới và trong sáng Liên Xô. Cởi trói cho truyền thông báo chí. Tiến hành các cuộc bầu cử tại Trung Ương và các Bang. Xuống thang chạy đua với Mỹ. Kư các hiệp ước tài giảm vơ khí chiến lược. Chấm dứt viện trợ chiến tranh cho các chư hầu ở xa. Cam chịu rút quân khỏi Afghanistan. Nhưng tất cả đều đă muộn. Phong trào dân chúng đ̣i tự quyết ở Ba Lan và các nước Đông Âu cuồn cuộn dâng cao. Năm 1989 bức tường Bá Linh bị phá sập. Khối Cộng Sản Đông Âu tan vỡ. Năm 1991 Gorbachev gặp đảo chính, buộc phải từ chức Tổng Thống Liên Xô. Liên Bang Xô Viết bể vụn. Cộng Đảng Liên Xô bị giải thể. Quốc Tế Cộng Sản hết thời. Nước Nga Dân Chủ tái xuất hiện.
Trung Cộng v́ là trợ thủ chiến lược chống Liên Xô của Mỹ trong chiến tranh lạnh, nên đă thoát nạn chết chùm với Cộng Sản Liên Xô. Nhờ thế mà các nước Cộng Sản ở ngoài khối Đông Âu như Trung Cộng, Việt Cộng, Lào Cộng, Hàn Cộng và Cu Ba vẫn c̣n giữ được h́nh hài của chế độ Độc Tài Đảng Trị. Nhưng lại đang bị trả giá rất đắt v́ lỗi lầm ngu muội là không thức thời tự thay đổi để đi đúng với trào lưu Dân Chủ của Nhân Loại đang lừng lững bước tới. Ngoại trừ Cu Ba và Hàn Cộng, ở đó bị đặt trong sự độc đoán chủ quan khắc nghiệt ngoan cố của ư chí cá nhân Lănh Tụ, mặc cho dân chúng đói khổ, đất nước lạc hậu, họ quyết giữ độc quyền cai trị, không sẵn sàng mở cửa giao tiếp với bên ngoài, và các thế lực bên ngoài cũng chưa có nhu cầu giao tiếp với họ. C̣n Trung Cộng và Việt Cộng th́ buộc vào thế phải mở cửa thỏa hiệp với Mỹ và các nước kỹ nghệ tiên tiến, lẽo đẽo chạy theo Kinh Tế Thị Trường. Nhưng t́m mọi cách tránh né thực thi Dân Chủ với Toàn Dân. Thế nên luôn luôn bị Thế Giới lên án là vi phạm Nhân Quyền, tước đoạt Tự Do của Con Người.
Để lấp vào lỗ trống lư tưởng Cộng Sản đă lỗi thời bị tan biến, các nhà lănh đạo Trung Cộng từ Đặng Tiểu B́nh đến Giang Trạch Dân đều triệt để khai thác ước mộng bá chủ của Người Hoa, nuôi ư đồ bành trướng lănh thổ ra các nước lân bang, thổi lớn ư đồ phục hồi Đế Quốc Đại Hán trong ư chí của cán bộ đảng viên và quân đội, nhằm cũng cố địa vị lănh đạo của họ. Đồng thời thuyết phục Đảng phải thực tế mở cửa, đón nhạân thành phần Tư Bản vào Đảng, để Đảng đủ tư cách đại diện cho lực lượng sản xuất và quyền lợi của toàn dân. Tức là cố t́nh lờ đi nguyên tắc: “Đấu Tranh Giai Cấp” “ Vô Sản Chuyên Chính” của chủ nghĩa Mác và chủ trương “Liên Minh Công Nông” của Lê Nin, để đề cao tư tưởng Đại Hán của Mao Trạch Đông, lư luận thực dụng của Đặng Tiểu B́nh và thuyết Ba Đại Diện của Giang Trạnh Dân, đó là “Đảng Cộng Sản 1- đại diện cho nhu cầu phát triển sức sản xuất tiên tiến của Trung Quốc. 2- đại diện cho phương hướng tiến lên của nền văn hóa tiên tiến Trung Quốc. 3- đại diện cho lợi ích căn bản của đông đảo nhân dân Trung Quốc”. Tóm lại thực tế là Cộng Sản Trung Quốc đă đầu hàng Tư Bản. Nhưng quyết không Dân Chủ Hóa chế độ, để cho người dân được Tự Do lựa chọn thể chế và người lănh đạo đất nước, vẫn duy tŕ chế độ độc đảng độc tài toàn trị, dù nội dung của đảng không c̣n là Cộng Sản. Như vậy là chế độ của Trung Cộng đă quay lại bản chất của chế độ Tư Bản bóc lột ở thế kỷ 19, mà lại được kết hợp với quán tính Duy Vật thô tục, tổ chức Cộng Sản sắt thép, và phương pháp khủng bố tàn nhẫn, để thành hệ thống Tư Bản Quái Vật Độc Đoán Bạo Trị, th́ đúng là một tai họa không nhỏ cho dân Trung Hoa và các nước không may lọt vào quỹ đạo khống chế của nó.
Riêng Cộng Sản Việt Nam v́ thiếu người có khả năng lănh đạo tự chủ, mà lại muốn duy tŕ độc quyền lănh đạo cho Đảng, thế nên không biết làm sao hơn là phải học theo Trung Cộng, lẽ cố nhiên là sẽ làm tệ hơn Trung Cộng. Trong tâm thức của nhóm cầm đầu Đảng, th́ rơ ràng không c̣n lư tưởng Cộng Sản nữa, mà chỉ có lư tưởng “Quyền và Tiền”. Nên họ phải chạy theo ngoại bang có tài lực để mưu cầu hai thứ đó. Do đó họ mặc nhiên trở thành Việt Gian bán nước, săơn sàng vâng lời bất cứ thứ chủ nhân nào, miễn là giúp họ tŕ hoăn việc Dân Chủ Hóa chế độ. Vậy có thể nói, dù chủ nghĩa Cộng Sản đă tan đi, nhưng chính nó đă là một trở lực của Dân Chủ trong quá khứ, trong hiện tại, và c̣n kéo dài tới tương lai ở những nước không may đă nuốt phải nọc độc của nó.
TIẾN TR̀NH DÂN CHỦ TẠI VIỆT NAM
Việt Nam cũng như bất cứ một nước nào khác, do nhu cầu định cư phát triển cuộc sống Nông Nghiệp, th́ khi lập quốc, cũng đều theo quán tính của Thị Tộc và Bộ Lạc, để tổ chức thành một Quốc Gia Phong Kiến, đứng đầu là một vị Vua, điều khiển Quốc Dân theo tinh thần của bậc Gia Trưởng. Nước Việt do Kinh Dương Vương, thành lập năm 2879, - tính đến năm 2002 này - đă được đúng 4881 năm. Rồi truyền ngôi cho con là Sùng Lăm, hiệu Lạc Long Quân, kết duyên cùng Âu Cơ. Hai vị Âu và Lạc, cai quản các Bộ Tộc Bách Việt ở khắp miền Động Đ́nh Hồ và lưu vực Dương Tử Giang. Bởi vậy mới có linh thoại mẹ Âu Cơ sinh được một bọc trăm trứng, nở ra trăm con.
Các Bộ Tộc Bách Việt đều nhận là con ruột của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Lạc Quân không lập vương triều Bạo Trị như lối Phong Kiến Phương Bắc con cháu của Phục Hy, Hoàng Đế, mà theo lối Nhân Trị, đi tới khắp nơi dậy cho Dân các Bộ Tộc Bách Việt nếp sống Gia Đ́nh, lối sống Thuận Thảo và cách sống Nông Tang. Làm ruộng, cấy lúa, trồng dâu, nuôi tằm, kéo tơ, dệt vải. Trao việc Trực Quản con dân cho các Trưởng Tộc, rồi cùng với Âu Cơ lui về Thủy Phủ tại hồ Động Đ́nh. Khi nào dân gặp khó khăn th́ xuất hiện giúp đỡ. Do vậy người Việt mới không chọn một vị thần linh vô h́nh nào làm Thần Tổ, như các Dân Tộc cùng thời, mà tôn Lạc Long Quân và Âu Cơ laø Cha Mẹ chung của Dân Tộc ḿnh, tức là chính Con Người làm Thần Tổ Dân Tộc. Hai vị Thần Tổ Âu Lạc, thành biểu tượng qua linh thoại Tiên Rồng, đă trở nên suối nguồn tâm linh của Người Việt, ngay từ thuở khởi nguồn lịch sử. Đó cũng là sự bắt đầu của Ḍng Sinh Mệnh Văn Hóa Việt, ngay từ lúc định cư tại Dương Tử, qua thời trên đường thiên cư xuống Phương Nam, tới thời lập quốc tại lưu vực Hồng Hà, và sẽ tồn tại cùng với Người Việt Nam măi măi về sau.
Khoảng trên dưới 10 thế kỷ trước Tây Lịch, Hùng Vương thứ nhất tự nhận là con trưởng của Lạc Long Quân, lập ra nước Văn Lang, có Quốc Dân, Lănh Thổ và Triều Đ́nh, đưa Dân Tộc Việt bước vào sinh hoạt chính sử của một Quốc Gia Văn Hiến. Từ đây Dân Tộc có Thần Tổ là Lạc Long Quân và Âu Cơ, Quốc Tổ là Hùng Vương, truyền được 18 đời vua. Đến năm 257 trước Tây Lịch th́ bị Thục Phán thuộc giống Ấn Âu thôn tính nước Việt, đổi tên Văn Lang thành Âu Lạc. Nhưng vẫn giữ nền nếp Lạc Hầu, Lạc Tướng của Hùng Vương. Đến năm 207 trước Tây Lịch, Triệu Đà viên tướng của Tần Thủy Hoàng đánh bại Nhà Thục, sát nhập Âu Lạc với vùng trấn nhậm của ḿnh là Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam thành lập Đế Quốc Nam Việt, xưng là Triệu Vũ Đế, theo chế độ Quân Chủ Tập Quyền kiểu Nhà Tần. Hùng cứ khắp Hoa Nam. Họ Triệu truyền ngôi được 5 đời, đến năm 111 trước Tây Lịch, th́ bị Nhà Hán Trung Hoa tiêu diệt. Nước Việt bị chia thành quận huyện do người Hán trực trị. Khởi đầu trên Ngàn Năm Dân Tộc Việt bị Đế Quốc Hán thống trị và áp dụng chế độ Bạo Trị bóc lột hà khắc
Chính huyền thoại Tiên Rồng đă kết thành linh thức truyền thống trong tâm hồn mỗi người Việt xưa, nay, và sẽ măi măi lưu truyền trong Ḍng Sinh Mệnh Văn Hóa Việt Nam. Nhờ vậy mà Dân Tộc Việt mới có bản chất Tư Tưởng Nhân Chủ, có đức tính B́nh Đẳng Nam Nữ, có tinh thần Tự Chủ, Tự Lập, Chuyên Cần, có khả năng mở rộng tiếp nhận chọn lựa, để hoàn thành công tŕnh Dung Hóa Tư Tưởng, có truyền thống chính trị Làng Xă Tự Quản “Phép Vua Thua Lệ Làng”, tạo thành trú khu an toàn để hội tụ Nội Lực Dân Tộc, giữ ǵn bản sắc Văn Hóa Việt Tộc, nuôi dưỡng sức đề kháng ngoại xâm, hóa giải nổi các đợt bị ngọai bang đồng hóa khắc nghiệt. Đồng thời giúp Giới Thức Giả trên mặt nổi, vững tâm thâu thái các đợt phù sa văn minh từ khắp nơi đổ vào, để thực hiện công cuộc viên dung tư tưởng. Nhờ vậy, tới thời Tự Chủ th́ đă đủ sức vươn ḿnh lên, thể hiện được một nền Văn Hiến Dung Hóa: “Đa Nguyên, Phân Nhiệm, Điều Hợp” vững vàng ở thời đại Lư Trần. Có thể nói đó là kết tụ đầy đủ những nét tinh túy của nèân Văn Minh Đạo Học Ấn Hoa Đông Phương.
Một Thiên Niên Kỹ dài Bắc thuộc. Kể từ năm 111 trước Tây Lịch đến năm 939 sau TL, là 1050 năm. Nhưng trong đó có Hai thời kỳ tự chủ, gồm: 3 năm của Trưng Nữ Vương, 58 năm hai nhà Lư và Triệu. C̣n hầu hết là Nước Việt đều bị sống trong chế độ Phong Kiến Bạo Trị khắc nghiệt bóc lột tàn nhẫn, bởi các triều đại Trung Hoa thay nhau thống trị. Trong 150 năm đầu Bắc thuộc, tuy nhà Hán đổi Nam Việt thành Giao Chỉ Bộ, chia làm 9 Quận, cử quan chức người Tầu làm thái thú để cai trị và thứ sử để giám sát. Nhưng tất cả người Việt chỉ mới có 3 họ chính là Hồng Bàng thị. Thục thị, Triệu thị, nên chỉ dùng tên gọi, chứ không dùng “họ đặt trước tên”. Riêng Quận Giao Chỉ th́ vẫn cho các Lạc Hầu, Lạc Tướng được thế tập – cha truyền con nối – trực tiếp cai quản các Huyện trở xuống. Nên năm 40, Hai bà Trưng, con của một vị Lạc Tướng ở huyện Mê Linh, mới có thế lực nổi lên khởi nghĩa, đánh đuổi bạo quyền ngoại bang, chiếm được 65 thành tŕ của Giao Chỉ Bộ, để xưng Vương và tự chủ được 3 năm.
Thời Bắc thuộc lần thứ II, gồm 501 năm, nhà Đông Hán áp dụng chính sách kê khai đinh, điền, buộc mỗi người Việt phải bỏ ḍng họ chung là Hồng Bàng để có thêm một cái “họ” như người Tầu. Bởi vậy năm 248 anh em Trinh Nương phất cờ khởûi nghĩa, đánh lại Đông Ngô nhà Hán, th́ mới thấy xuất hiện “cái Họ trước Tên gọi”, như trường hợp của vị nữ anh thư là Triệu Thị Trinh. Năm 544 Lư Bôn khởi nghĩa đánh đuổi thái thú Tiêu Tư của nhà Lương về Tầu, xưng là Nam Việt Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Sử gọi đó là Nhà Tiền Lư. Năm 548 Lư Nam Đế bị bệnh mất, Đại tướng Triệu Quang Phục lên thay, xưng là Triệu Việt Vương chiếm lại thành Long Biên, lập ra Nhà Triệu. Năm 571, Triệu Việt Vương bị cháu của Lư Nam Đế là Lư Phật Tử đánh chiếm mất ngôi. Lư Phật Tử xưng Đếâ. Sử gọi là nhà Hậu Lư. Nhưng chỉ được tới năm 602 th́ bị Nhà Lương của Tầu tiêu điệt.
Thời Bắc thuộc lần thứ III, từ năm 603 đến năm 939, kéo dài 336 năm. Trung Hoa thay ba triều đại: Lương, Tùy, Đường. Năm 679, nhà Đường đổi Giao Chỉ Bộ thành An Nam Đô Hộ Phủ, chia đất nước ra làm 12 Châu. Năm 722, Mai Thúc Loan người huyện Thiên Lộc – tỉnh Hà Tĩnh bây giờ - nổi lên chống nhà Đường, xưng là Mai Hắc Đế, nhưng thế yếu bị thua chạy, rồi mất. Năm 791, Phùng Hưng nổi lên đánh chiếm Đô Hộ Phủ, được dân chúng xưng tụng là Bố Cái Đại Vương. Vương mất, binh sĩ tôn con là Phùng An lên kế nghiệp. Nhưng chống không nổi với binh lực của nhà Đường.
Đến đây th́ Nhà Đường đă suy yếu, không dám bổ nhiệm người Tầu sang cai trị nữa, mà phải dùng người bản xứ vào việc quản trị An Nam. Năm 906, Khúc Thừa Dụ quê ở Hồng Châu – nay thuộc Hải Dương - được Đường Chiêu Tuyên, cử lên làm Tiết Độ Sứ Giao Châu. Khúc Thừa Dụ truyền cho con là Khúc Hạo, rồi đến cháu là Khúc Thừa Mỹ, được 3 đời, năm 923 th́ bị Nhà Nam Hán sai tướng Lư Khắc Chính tiêu diệt. Năm 931 Dương Diên Nghệ là tướng của Khúc Hạo đánh đuổi Lư Khắc Chính, tự xưng là Tiết Độ Sứ. Nhưng rồi bị nha tướng của ḿnh là Kiều Công Tiện giết đi cướp quyền. Ngô Quyền là vị tướng và là con rể của Dương Diên Nghệ cử binh về báo thù. Kiều Công Tiệân cầu cứu nhà Nam Hán. Nam Hán cử Thái Tử Hoằng Tháo đem quân sang tiếp ứng, th́ bị Ngô Quyền đánh tan, bắt sống đem giết đi. Từ đó Nam Hán không dám đem quân sang quấy phá nữa.
Nước Việt thoát khỏi ách đô hộ bạo trị của Tầu. Năm 939, Ngô Quyền xưng Vương, đóng đô ở Cổ Loa, mở ra thời kỳ Độc Lập Tự Chủ dài lâu cho Dân Tộc Việt, qua các triều đại Ngô, Đinh, Lê, Lư, Trần, Hồ, Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn, Thực Dân, Dân Chủ Cộng Ḥa, Quốc Gia, Cộng Ḥa, rồi Xă Hội Chủ Nghĩa của Cộng Sản, và toàn dân đang nỗ lực vận động loại bỏ chế độ Cộng Sản đỉnh cao của Bạo Trị, để xây dựng chế độ DÂN CHỦ Đa Nguyên Phân Nhiệm Điều Hợp, đúng với nhu cầu của Quốc Dân, đúng với truyền thống Văn Hiến Việt Nam, và đúng với khuynh hướng đi lên của Thế Giới thời đại.
Với một ngàn năm Bắc Thuộc, Dân Tộc Việt vượt khỏi cuộc đồng hóa về ba mặt: Chủng Tộc, Tư Tưởng, Chính Trị, chính là nhờ ở tinh thần tự chủ, tiếp nhận để viên dung các nguồn Đạo Học Phật- Lăo- Nho của hai nền văn minh Ấn Độ – Trung Hoa, rồi dung hóa thành Đạo Học Việt, làm cho tư tưởng của Việt khác Tầu, có tính chất đặc thù sẵn sàng Việt Hóa ảnh hưởng ngoại lai, để không bị ngoại lai đồng hóa, nhằm tạo ra lối sống, cách sống, nếp sống riêng biệt. Đồng thời thường xuyên tự đặt ḿnh trong thế đề kháng khi cần tới, để có được hành động chừng mực chính xác.
Nhất là từ khi Ngô Vương mở mùa tự chủ cho Dân Tộc, th́ chỉ 69 năm sau, đến thời Lư, Trần, Việt Nam đă tạo ra được một Nền Văn Hiến Dung Hóa: Đa Nguyên, Phân Nhiệm, Điều Hợp, khác hẳn với Trung Hoa và Ấn Độ. Tức là trả Đạo Quyền lại cho Tôn Giáo, trả Thế Quyền về cho Triều Đ́nh, Tôn Giáo ở ngoài Triều Đ́nh, giữ vai tṛ chỉ đạo cho Thế Quyền; mà không cao áp Triều Đ́nh. Trái lại Triều Đ́nh cũng tôn trọng Đạo Quyền; mà không khống chế Tôn Giáo. Hai bên hỗ trợ nhau, để đem phúc lợi lại cho Quốc Dân, thay v́ tranh giành lấn vượt nhau như thường gặp trong lịch sử loài người. Nhưng điều quan trọng là sau khi trên mặt tầng tri thức tiếp nhận tư tưởng văn minh bên ngoài, để dung hóa, tạo ra được nèân Văn Hiến rồi, th́ phải có nơi bảo tồn, nuôi dưỡng và phát triển, mới mong ḥa quyện, thấm sâu vào với truyền thống văn hóa Việt được. Nơi đó chính là chiếc nôi “Làng Xă Tự Quản” đă có từ khởi nguyên Dân Tộc. Làng Xă thời xa xưa chính là nơi sinh sống của mỗi Bộ Tộc hay Gia Tộc. Sau này là của các ḍng họ, mà thường có bà con thân thuộc nội ngoại xa gần “giây mơ rễ má”với nhau. Ngoài Gia Đ́nh, đây là một Xă Hội T́nh thân cận nhất trong cuộc sống thường ngày.
Chính nhờ loại Xă Hội T́nh truyền thống này, mà Việt Tộc không mất bản chất, bản tính, bản sắc của ḿnh. Đến ngay trong chế độ Phong Kiến Đông Phương, coi Vua là Con Trời, thay Trời trị Dân, lệnh Vua là lệnh Trời, phép Vua là phép Trời, ấy thế mà đến với Việt Nam th́ cũng đành phải chấp nhận thực tại là “Phép Vua thua Lệ Làng”. Phong tục tập quán của Làng đối với Dân là trên hết. Luân lư Gia Đ́nh, Gia Tộc là gốc Đạo Đức của Con Người, mà sự bảo vệ những giá trị đó, chính là phong tục Làng Xă. Nếu không tôn trọng tập tục của làng, th́ chỉ có con đường “tha phương cầu thực” mà thôi. “Dù cho vương, tướng, giầu sang, tiếng tăm lừng lẫy sơn hà, không về ra mắt Làng nhà vẫn không”.
Truyện kể rằng: Trong thời Thực Dân Pháp đô hộ Việt Nam. Tổng Đốc Hoàng Cao Khải sau khi có công với Pháp, phá tan các tổ chức Cần Vương, diệt hết các nhà Cách Mạng yêu nước của Việt Nam. Nước Pháp coi ông như một vị Phó Vương Bắc Kỳ, buộc triều đ́nh Huế phải bổ nhiệm ông vào chức Khâm Sai Đại Thần Toàn Quyền Bắc Kỳ, với tước phong là Quận Công, chỉ đứng sau Vua. Công thành danh toại, th́ việc phải làm là “vinh quy bái tổ” làm rạng mặt tổ tiên ḍng họ nơi Làng Xă.
Quận Công ŕnh rang, cờ mở trống dong, kèn tây vang dậy, quân hầu nghi vệ, vơng lọng về làng. Khải sai gọi Lư Trưởng đến chầu, dậy việc. Dậy rằng : “Quận Công mời toàn thể dân làng đến ăn khao. Mọi nhà cấm không được nhóm lửa bếp đúng 9 ngày”. Lư trưởng vâng lời, tối đến cho “ mơ làng” đi rao tŕnh, đúng nguyên văn lời dậy của Quận Công. Hôm sau, Lư Trưởng lại cho rao mơ mời huynh thứ trong làng ra đ́nh bàn việc. Tiên Chỉ hỏi Lư Trưởng: “Theo lệ làng, kẻ muốn khao vọng, th́ việc đầu tiên là phải có “cơi trầu” tŕnh làng. Vậy Quận Công đă có lễ đó chưa ?” Lư trưởng thưa: “Không có ǵ cả, Quận Công chỉ hạ lệnh, mời dân làng ăn khao mà thôi”. Làng bắt đầu bàn thảo và đi đến kết luận là: Quạân Công đă phá lệ làng và thất lễ. Làng đồng thanh quyết định: Lư Trưởng phải cho rao mơ lại nguyên văn như sau: “Làng có lệnh ! Tuyệt đối cấm không người nào được dự đám ăn khao tại nhà Quận Công. Ai trái lệnh bị làng phạt vạ !” Thế là không có người dân nào dám bước vào cổng nhà của Khải. hàng núi thịt thà thức ăn phải đào lỗ chôn đi. Khải giận lắm, truyền cho Quan Huyện sở tại phải lập tức cách chức tên lư trưởng. Huyện quan tuân lệnh. Triệu tập dân làng chọn lư trưởng mới.
Dân làng đồng thanh thưa rằng: “Làng chúng tôi nghèo, ít học, chỉ duy có hai người biết chữ, một là Quận Công, hai là cựu Lư trưởng . Nay bị quan cách chức đi rồi th́ chỉ có Quận Công mới đủ sức làm lư trưởng thôi”. Quan huyện đành chịu. Dân chúng ra về. Huyện quan tŕnh việc ấy lên với Khải. Khải tím mặt, ngay lập tức bỏ làng ra đi, đếân cổng làng, Khải giơ tay chỉ mà thề: “Kể từ nay thề không bước qua cái cổng này nữa”. Khải chết, dặn con cháu không được đưa xác về làng chôn, không được lập tự thờ tại làng. Mả Hoàng Cao Khải hiện nay c̣n thấy tại Thái Hà Ấp ngoại thành Hanội.
Xem vậy, từ cổ chí kim, thời nào Lệ Làng của Việt Nam cũng được bảo trọng. Không nói chi ở thời xa xưa, trong cảnh Bắc Thuộc, dân làng phải đùm bọc lấy nhau trong t́nh đồng bào, nghĩa đồng hương để tồn tại. Do vậy, đến thời tự chủ mới có đầy đủ nội lực để phát huy thành nền Văn Hiến rực rỡ tại Đông Phương. Ngay thời Thực Dân đô hộ, tiếng là đem Văn Minh Tây Phương khai hóa Việt Nam, cũng không thể chen vào phá vỡ nổi Xă Hội T́nh của Dân Tộc Việt được. Với đạo Thiên Chúa hồi đó, giáo luật hết sức nghiêm ngặt, không chịu chấp nhận tục lệ cổ truyền, hoặc tín ngưỡng của các Dân Tộc. Nhưng đụng phải Làng Xă Việt Nam, cũng mặc nhiên phải nhượng bộ. Dù cho người theo đạo Chúa có chiếm đa số, hay thiểu số dân trong làng, th́ ngoài việc giữ đạo, các tục lệ luân lư, ma chay, kỵ giỗ, cưới hỏi, khao vọng, hội đ́nh, lễ tết hàng năm, cũng đều tuân giữ như các người không cùng đạo. Nếu, các làng thuần nhất đạo Chúa th́ phải nhận, trong sinh hoạt cũng có phần nặng về tính chất tôn giáo riêng hơn.
Nhưng điều đặc biệt là phong tục tập quán của mỗi Làng Xă Việt Nam không phải rập khuôn như nhau, dù rằng trong đại thể vẵn giữ nguyên tắc “Tự Quản”, và tổ chức hành chánh giống nhau. Linh hồn của Xă là vị Tiên Chỉ, có một hội đồng Tộc Biểu đại diện cho các ḍng họ, một Lư Trưởng điều hành Xă, các Phó Lư điều hành các Thôn, và các Trương Tuần giữ an ninh. Tùy theo mỗi Làng Xă trọng Lăo, trọng Văn, hay trọng Công; mà Hội Đồng Tộc Biểu suy cử lên vị Tiên Chỉ tượng trưng cho giá trị tinh thần đó. Nếu trọng Lăo th́ vị cao niên nhất sẽ được suy tôn làm tiên chỉ. Nếu trọng Văn th́ vị đỗ đạt cao nhất, dù là trẻ tuổi vẫn được suy tôn làm tiên chỉ. Nếu trọng Công th́ người có công đóng góp nhiều nhất, như các cựu viên chức, hay các quan hồi hưu, mà có đóng góp cho xă, hoặc xă sinh sống trong một nghề với nhau, th́ người có công lớn nhất trong nghề sẽ được tôn làm tiên chỉ. C̣n Lư Trưởng, và các chức việc khác th́ phải được Hội Đồng Tộc Biểu bầu ra. Thế nhưng tất cả công việc lớn nhỏ trong Xă, mà trên mặt lư, các chức việc không phân giải nổi, th́ tiếng nói của Tiên Chỉ là tiếng nói chung quyết, buộc huynh thứ và viên chức trong Xă phải tuân theo. Rất hiếm khi nào Làng Xă chịu để lôi nhau ra trước công đường của Triều Đ́nh. Nhưng dù có đến công đường th́ Huyện quan sở tại cũng xét việc theo nguyên tác “t́nh lư tương tham”. Nghĩa là vẫn tôn trọng phong tục tập quán làng xă. Phong Tục Tập Quán đó được xem như là thứ Hương Ước bất thành văn.
Ngoài tổ chức thực tế, mỗi Làng đều thờ một Thần Làng, các vị đó thường là những Anh Hùng Dân Tộc từng xuất thân tại làng, hay có công ơn với làng. Hoặc là những người hiển linh được vua sắc phong làm Thần Làng. Thời xưa mỗi làng ngoài một ngôi Đền Thờ Thần, đều có một ngôi Chùa thờ Phật, Điện thờ Thánh, Văn Miếu thờ Chu Công - Khổng Tử và người trong làng đỗ đạt. Trung tâm làng có một ngôi Đ́nh để hội họp và sinh hoạt nghệ thuật. Sau này các làng theo Đạo Thiên Chúa đông, th́ có Nhà Thờ Xứ, làng ít người theo đạo th́ có Nhà Thờ Họ. Tóm lại từ tổ chức, điều hành, tới tín ngưỡng, Làng được xem như nơi thể hiện thật đầy đủ đặc tính Văn Hóa của một Dân Tộc có truyền thống viên dung hài ḥa tôn giáo.
Từ năm 1945, Cộng Sản lợi dụng tinh thần Dân Tộc, làm chủ được các làng xă, vận dụng nông dân, và toàn dân lao vào việc chống Thực Dân. Tiêu thổ kháng chiến nơi thành thị và các vùng lính Pháp hành quân. “Mượn gió bẻ măng”, chúng cho phá hủy các đền, chùa, miếu, điện, nhà thờ và đ́nh làng, làm thay đổi hẳn bộ mặt nông thôn. Thêm vào đó dân thành phốù tản cư về sinh sống tại nông thôn, đă làm nền nếp xă hội và phong tục Làng Xă hoàn toàn bị đảo lộn. Đến khi chúng thiết lập chính quyền được ở nơi nào, th́ ở đó, chúng chọn ra những thành phần ít học hănh tiến, rồi vơ trang cho một mớ lư sự hận thù lẻo mép, tiến lên cầm quyền, thay cho những nhân sĩ, mà dân làng đă tự bầu lên trong ngày đầu mùa Đất Nước Độc Lập, nhằm phát động phong trào “phóng tay đấu tố” tiêu diệt các thành phần, mà chúng gọi là Trí, Phú, Địa, Hào và giới Tu Sĩ. Thế là chỉ có Cộng Sản mới đủ mưu mô thủ đoạn và khả năng thực hiện chủ trương đào tận gốc, trốc tận rễ tinh thần và bản chất Dân Tộc Việt đi. Từ đó, truyền thống Làng Xă Tự Quản, nền nếp Văn Hóa Dân Tộc, thuần phong mỹ tục của Tổ Tiên Việt Nam mới bị hủy diệt.
Vậy, việc xây dựng Dân Chủ tại Việt Nam, trước hết phải loại bỏ chế độ Cộng Sản độc tài toàn trị. Đồng thời phục hoạt tinh thần truyền thốngViệt trên căn bản Làng Xă Tự Quản, vốn có từ ngàn xưa. Khởi từ đó, áp dụng tại Làng Xă ở Nông Thôn và Phường Khóm ở Đô Thị một nền Dân Chủ Trực Tiếp, th́ mới thực hiện trọn vẹn được công cuộc Dân Chủ Hóa Chính Trị, Tự Do Hóa Xă Hội, Tư Sản Hóa Kinh Tế, đáp ứng đúng nhu cầu của toàn dân và xu hướng đi lên của thời đại.
DÂN CHỦ ĐA NGUYÊN PHÂN NHIỆM ĐIỀU HỢP
Nhân loại đang thực sự vượt khỏi những rào cản của tâm hồn mông muội, hoang tưởng, cố chấp, chật hẹp, vốn do hàng triệu năm Lịch Sử Mặc Thức Nhân Nhiên tạo ra, vượt thoát khỏi những Tư Tưởng chủ quan, các Ư Thức Hệ một chiều, duy ư chí, cũng như những Giáo Điều độc tôn, quá khích của hàng vạn năm Lịch Sử Ư Thức Nhân Loại sáng tạo, để từng bước vững chắc thực tế đáp ứng đúng nhu cầu sống sung túc, ḥa b́nh, phát triển của toàn Nhân Loại, nhằm h́nh thành và hoàn thiện một cuộc sống NHẬN THỨC NHÂN CHỦ NHÂN VĂN cho toàn Thế Giới, mà trong đó mỗi Người, mỗi Dân Tộc, mỗi Tôn Giáo vẫn Tự Do Chủ Động duy tŕ và phát huy được những giá trị đặc thù cao đẹp của nguồn Văn Hóa cá biệt nơi ḿnh sẵn có, để cùng đóng góp vào cuộc thăng hóa không ngừng của Văn Hóa chung toàn Nhân Loại.
Nhờ vào Nhận Thức Toàn Diện Viên Dung và sự Suy Nghiệm Tự Do Chủ Động có Biện Chứng, Thực Chứng, Kiểm Chứng, mà những đóng góp của các công tŕnh Khoa Học Kỹ Thuật mỗi ngày một tiến bộ vượt bậc, nhất là sự bùng nổ vĩ đại của ngành Tin Học Truyền Thông và những Phương Tiện Chuyển Dịch mau lẹ rộng khắp, đă làm cho Nhân Loại cảm nhận được như Thế Giới thu nhỏ lại, cùng chung một mái nhà. Bởi vậy việc tiến tới của một Xă Hội Nhân Chủ Tự Do Điều Hợp đang là nhu cầu thăng hóa đích thực của lịch sử. Cũng do đó, mà nhu cầu phát triển kinh tế thời đại đang dứt khoát buộc mọi nước phải tôn trọng sự B́nh Đẳng Hóa Nhân Quyền, Tự Do Hóa Xă Hội, Dân Chủ Hóa Chế Độ, để các Quốc Gia tự chủ thực thi nền Kinh Tế Thị Trường Tự Do Điều Hợp, Quốc Dân Chủ Động Toàn Cầu Hóa.
Chúng ta đang sống trong một Thế Giới Đa Dân Tộc, Đa Chủng Tộc, Đa Tôn Giáo, Đa Văn Hóa, không thể và không nên để cho tham vọng Đại Đồng khống chế, v́ đó là điều không tưởng, không bao giờ thực hiện được ở trong vũ trụ đa nguyên hằng hóa, trong cơi đời vô thường đối đăi, trong xă hội thăng hóa chênh lệch giữa mỗi người, mỗi nước, mà chỉ nên giúp nhau có một Nhận Thức Toàn Diện Viên Dung, chân thực rộng mở khoan ḥa, để Con Người biết chấp nhận nhau, quư trọng nhau, lắng nghe và tôn trọng ư khiến riêng của mỗi người, nhất là phải kính trọng tín ngưỡng của nhau. Thế nên về mặt tâm linh, tư tưởng, nhận thức cần hết sức thoáng đạt, không cố chấp, không cao áp, không cưỡng cầu, mà luôn luôn mở rộng tâm bao dung, thức viên dung, sống tương dung giữa Ḿnh với Tha Nhân, giữa Con Người với Xă hội, giữa Giai Cấp với Giai Cấp, giữa Tôn Giáo với Tôn Giáo, giữa Quốc Gia với Quốc Gia, giữa Loài Người với Vạn Hữu hằng hóa, thăng hóa trong Vũ Trụ. Như vậy, Viên Dung là chấp nhận toàn vẹn chủ thể cá biệt tự do của nhau, không loại trừ hoặc đồng hóa, mà giúp nhau cùng phát triển.
Nhưng trong môi trường sống Nhận Thức Toàn Diện Viên Dung giữa các Tôn Giáo, các nền Đạo Học, và các luồng Tư Tưởng đó, hẳn nhiên sẽ ảnh hưởng tới cảm thức, suy tư, và quan niệm sống của mỗi người, giúp cho mỗi người nhận chân và thâu thái được những tinh hoa của các Tôn Giáo, các luồng Tư Tưởng của Đạo Học, rồi đăi lọc lấy cái đẹp, cái đúng, cái tốt, cái mới của tất cả, làm vốn liếng Văn Hóa cho riêng ḿnh, làm Chủ Đạo cho Tư Tưởng ḿnh, chuyển thành t́nh cảm, nếp nghĩ, nếp sống của từng cá nhân. Như thế là mặc nhiên đă tạo ra Tâm Thức Dung Hóa nơi mỗi người. Nếu được nhiều người cùng chung một ư hướng, th́ thành xu hướng và nhu cầu tâm linh, tâm thức, và công lư của Cộng Đồng Xă Hội. Qua đó các bậc Thiện Tri Thức có viễn kiến, tạo ra biện chứng, chuyển hiện vào thực tế cuộc sống của từng Quốc Gia để thành các cấu trúc, lề luật, và cung cách ứng xử cho khắp mặt nhân quần, chính trị, kinh tế, gọi chung là Nền Văn Hiến Dung Hóa. Như vậy mới thật là đi đúng hướng thăng hóa của lịch sử, lấy Con Người Tự Do, Tự Chủ, Sáng Tạo, gọi gọn là Nhân Chủ làm Cứu Cánh, lấy Văn Hóa làm Chủ Đạo cho khắp mặt nhân sinh: Xă Hội, Kinh Tế, Chính Trị, Quân Sự, cả về đối nội lẫn đối ngoại.
Xét theo quá tŕnh lịch sử Việt Nam, th́ nhờ vào Bản Chất Nhân Chủ Việt của Dân Tộc ḿnh, kết hợp với Biện Chứng Nhân Chủ Phật của Tôn Giáo đầu tiên du nhập Việt Nam, đă khiến cho Người Việt hồn nhiên có được một nguồn Tâm Thức Nhân Chủ sâu bền, dùng làm nền móng cho Nhận Thức Toàn Diện Viên Dung, sẳn sàng chấp nhận những luồng tư tưởng trái ngược nhau của nền Đạo Học Trung Hoa như Đạo Lăo Vô Vi, Đạo Nho Hữu Vi để cùng với Đạo Phật Giải Thoát, chuyển hiện, ứng dụng vào thực tế của chế độ Quốc Gia Phong Kiến, tạo ra nền Văn Hiến Dung Hóa cho Việt Nam. Đặc thù của nền Văn Hiến đó là Đa Nguyên, Phân Nhiệm, Điều Hợp, giúp Việt Nam tuy cũng là chế độ Phong Kiến, nhưng thế lực Văn Hóa được ngang tầm với Triều Đ́nh, tức là Đạo Quyền, không làm công cụ cho Thế Quyền, trái lại c̣n sắm nổi tư thế Chỉ Đạo cho Triều Đ́nh trong việc Cai Trị, và Hướng Dẫn tâm linh Dân Chúng trong cuộc sống Văn Minh toàn diện kéo dài suốt hai Triều đại Lư Trần 1010-1400 và đầu Triều Lê, gần nửa Thiên Niên Kỷ. Khác hẳn với hai nèân Văn Hiến Trung Hoa đặt Vương Quyền trên Giáo Quyền, và Văn Minh Ấn Độ đặt Giáo Quyền trên Thế Quyền. Khiến cho hai Xă Hội đó dù người đông, có những trí tuệ siêu việt, mà không chuyển hóa nổi cuộc sống thực tế và thể chế chậm lụt của ḿnh hàng bao thế kỷ.
Trong thời đại hôm nay, hầu hết các Tôn Giáo tại Việt Nam đều có cùng một hướng nh́n là: “Đem Đạo Vào Đời”. Nhưng dứt khoát không tự biến ḿnh thành công cụ thống trị cho Thế Quyền, vốn mang tà tâm đen tối là: “Dùng Tôn Giáo để khống chế sự Tự Do Con Người”. Cũng không chủ trương để Tôn Giáo bao trùm lên Thế Quyền, nhằm nắm quyền toàn thống Xă Họâi, biến Con Người thành nô lệ của Tôn Giáo, và tiêu diệt các Tôn Giáo khác để chiếm ghế Độc Tôn, như trong gần Hai Thiên Niên Kỷ vừa qua. Các Tôn Giáo đều nhận đúng sứ mệnh và trách nhiệm của ḿnh là: “Làm nơi nương tựa cho Tâm Linh Con Người. Hướng dẫn Tâm Thức Con Người thăng hóa theo hướng Thiện. Tạo môi trường thương yêu, cảm thông, kính trọng nhau giữa nhửng người không cùng Tôn Giáo, hay khác Lư Tưởng. Dứt khoát loại trừ sự thù hận, quá khích trong cảm thức mỗi người. Quy hướng sức mạnh của Dân Tộc nhằm loại bỏ các chế độ Độc Tài, Tham Ô, Phi Văn Hóa”. Góp sức cùng Toàn Dân tái lập Nền Văn Hiến Dung Hóa quán suốt rộng lớn của Thời Đại Tự Do Dân Chủ Điều Hợp Ḥa B́nh Phát Triển.
Chỉ v́ nền Văn Hiến Dung Hóa của Dân Tộc bị tan vỡ, thế lực Vương Quyền dùng Đạo Nho làm phương tiện, chiếm thế độc tôn, nên Việt Nam mới rơi vào cảnh tranh quyền đoạt vị theo thói tục Phong Kiến Trung Hoa, dẫn đến t́nh trạng Chiến Tranh triền miên. Hết khả năng tiếp nhận êm đềm được nền Văn Minh Duy Lư Tây Phương. Nền Văn Minh này vốn mang nặng tư tưởng chủ quan, duy ư chí, quá khích, cực đoan, cạnh tranh, lấn vượt, dẫn tới cảnh bất tương dung, cấm đoán, chiếm đoạt, bóc lột, đầy đọa, rồi nối dài thêm cảnh chiến tranh trên xứ sở Việt Nam. Vậy muốn Xây Dựng lại Ngôi Nhà Việt Nam, việc phải làm là triển khai bằng được lối Nhận Thức Viên Dung Toàn Diện ở mỗi người, nhất là ở giới Thiện Tri Thức Việt Nam trong tất cả các Tôn Giáo đang hiện hành tại Việt Nam, nhằm hóa giải những vướng mắc, mặc cảm, quán tính do quá khứ hơn thua, lấn vượt nhau c̣n sót lại, đểâ sớm chấm dứt chế độ Cộng Sản Độc Tôn Tham Ô, Phi Văn Hóa, cùng hướng về tương lai Xây Dựng cho Dân Tộc một nền Văn Hiến Dung Hóa mới.
Hiện nay tại Việt Nam hai Đạo lớn đại diện cho hai nền văn minh Đông, Tây là Đạo Phật vaø Đạo Chúa, với hai hệ thống biện chứng, thoạt nh́n th́ có vẻ trái ngược nhau, khiến cho giới Thức Giả nghĩ rằng, không thể nào ḥa đồng viên dung nổi, giữa một bên là Đạo Phật t́m Giải Thoát, một bên Đạo Chúa tin Thượng Đế - gồm cả Ky Tô Giáo lẫn các Giáo Hội Tin Lành - Nhưng một sự thật hiển nhiên là từ khi Đức Thích Ca Toàn Giác Thành Phật, thuyết giảng Đạo Giải Thoát, th́ chưa một lần nào Ngài phủ nhận sự hiện hữu của Thượng Đế. Chẳng những vậy, khi Ngài đạt được Chính Quả, Chính Đẳng, Chính Giác trọn vẹn Giải Thoát Sinh Không, th́ Ngài đă công bố : “Đại Thiên và Chư Thiên cùng vui mừng, xin Ngài đừng nhập diệt vội, hăy ở lại cơi Ta Bà Vô Thường, Hằng Hóa này, để giáo hóa hướng dẫn chúng sinh thoát khỏi bến mê”. Nhờ đó, mà hầu như đại đa số Người Việt hồn nhiên, từ ngàn xưa tới nay, vẫn có thói quen thốt ra thành lời: “Cảm Ơn Trời Phật”. Hay là khi phải chứng tỏ ḷng thành của ḿnh với người khác th́ phân bua “Xin Trời Phật chứng giám !” Như vậy Đạo Trời Hằng Hóa, Đạo Phật Giải Thoát đâu có chống lại nhau! Nhất là ở trong ḷng người hồn nhiên.
V́ trong công tŕnh Đại Thăng Hóa của Vũ Trụ, th́ Con Người chính là sinh loại kết tinh, linh khí, anh hoa cao diệu nhất của Trời. Tùy từng thời, tùy từng Tôn Giáo, mà tuyên xưng là: Đạo của Trời, hay Đạo của Đại Thiên, Đạo của Jéhova, Đạo của Thiên Chúa, hoặc Đạo của Allah. Chính do Đạo Trời đă phú cho Con Người khả năng và có quyền Tự Do Tuyệt Đối, kể cả quyền Tự Do rốt ráo nhất là Tự Giác Ngộ Giải Thoát, vượt ra khỏi cảnh Vô Thường Nhân Quả Luân Hồi, tức là thoát ra ngoài Luật Trời Hằng Hóa. Như vậy, Tự Do hoàn toàn thuộc về Người. Con Người gieo Nhân Thiện th́ Trời trao Thiện Duyên xuống để Con Người hưởng Thiện Quả. Con Người gieo Nhân Ác th́ Trời giáng Ác Duyên xuống để Con Người lănh Ác Quaû. Người Tu gieo Nhân Giải Thoát th́ Trời tạo Duyên An Lành cho để Người Tu đạt Phật Quả. Trời hoàn toàn vô tư, vô ngă, vô chấp, luôn luôn hào phóng với sự Tự Do lựa chọn của Người, miễn là chính mỗi Người phải biết Tự Chủ để, nhận lấy Trách Nhiệm về kết quả của sự Tự Do nơi ḿnh.
Như vậy, Đạo Trời luôn luôn trợ duyên cho Con Người hoàn thiện giá trị Nhân Chủ của ḿnh. Do đó, các Tôn Giáo Chân Chính đều lấy Con Người làm Cứu Cánh. Đức Thích Ca ngay khi thành Phật, đă công bố rơ ràng: “Ta là Phật đă Thành chúng sinh là Phật sẽ thành” và không quên nhấn mạnh đại ư: “Tất cả chúng sinh phải thăng hóa thành Người Tâm Thân hoàn chỉnh, có năng lực Từ Bi Trí Tuệ, mới đủ nhân duyên tu tŕ thành Phật”. Đức Jésus th́ biểu hiện bằng lời khẳng định: “Ta là Ngôi Hai Thiên Chúa và là anh em với Loài Người”. Rơ ràng Đức Jésus đă nâng vị thế Con Người lên hàng con cái Thượng Đế. Đặt Thiên Chúa vào trong Tâm Hồn Con Người. Thiết lập t́nh thương yêu Cha Con giữa Trời và Người. Để từ đó Loài Người thấy thương yêu anh em ḿnh hơn, v́ cùng chung một Cha. Vị thế Nhân Chủ của Con Người đă được hai đấng Giáo Chủ siêu phàm cùng xác nhận. Khi tất cả đă lấy Con Người làm Cứu Cánh, th́ đương nhiên Tôn Giáo trở thành phương tiện giúp Con Người hoàn thiện giá trị Nhân Chủ Tự Do Tự Chủ Sáng Tạo của ḿnh, để Nhân Loại cùng chung sức thăng hóa cuộc sống toàn diện.
Khi đă có Nhận Thức Toàn Diện Viên Dung để quán sát thực tại, th́ tất cả cũng đều thấy rằng: Thế Giới chúng ta đang không ngừng nỗ lực tiến tới cuộc sống Nhân Chủ Nhân Văn Toàn Cầu. Chứng nghiệm về cấu trúc, luật lệ, hành hoạt qua Xă Hội, Kinh Tế, Chính Trị, Cai Trị của nước này, thành công hay thất bại cũng ảnh hưởng tới nước kia, và phải là bài học thiết thực cho tất cả Thế Giới. Hiện nay, về mặt cấu trúc xă hội th́ hoàn toàn thoáng rộng: Xă Hội Tự Do Điều Hợp, triệt để đề cao Nhân Quyền. Thông qua chế độ Chính Trị Dân Chủ Trọng Pháp, tất cả mọi cấu trúc, mọi sinh hoạt chính trị, kinh tế Quốc Dân và Quốc Tế, đều phải dựa trên sự Điều Hợp của Luật Pháp Dân Chủ, phải được Luật Pháp bảo vệ và cho phép, tạo điều kiện cho Toàn Dân phát huy khả năng trí tuệ và phát triển khắp mặt tinh thần lẫn vật chất, đủ sức Tự Tin, Tự Do, Tự Chủ nhận lấy Trách Nhiệm Điều Hợp Xă Hội Mở Rộng. Cùng hợp tác, tướng tác, đối tác trong môi trường sinh hoạt Kinh Tế Thị Trường Tự Do Toàn Cầu Hóa. Như vậy vấn đề Nhân Quyền và Dân Chủ Hóa chế độ ở mọi nước, không c̣n là việc riêng của mỗi nước nữa, mà đă gắn liền với Vận Mệnh Chung của Nhân Loại, v́ nền Ḥa B́nh, Ổn Định, Phát Triển, Giầu Mạnh của Toàn Thế Giới. Nên việc Điều Hợp khắp mặt Xă Hội, Chính Trị, Cai Trị, Kinh Tế, Đối Nội, Đối Ngoại đều phải dựa trên Luật Pháp Dân Chủ, do cử tri hoàn toàn tự do, chủ động lựa chọn, chứ không do ư chí chủ quan tùy tiện của cá nhân, của đảng phái, hay tôn giáo quyết định.
Phải nhận rằng: Nhân Loại đă tốn không biết bao tâm huyết, trí tuệ, khổ nhục, kể cả lao tù và mạng sống, mới giành lại được quyền tự do làm chủ vận mệnh của chính ḿnh, qua việc h́nh thành và hoàn thiện chế độ Dân Chủ. Cho đến hôm nay th́ sự thật không thể chối căi: Chỉ có các Quốc Gia Dân Chủ, luật pháp hoàn chỉnh, minh bạch, tôn trọng Nhân Quyền, bảo vệ hữu hiệu Quyền Công Dân, Quyền Tư Hữu và kiện toàn các tổ chức Xă Hội Công Dân, hiến pháp và luật pháp triệt để bảo đảm Quyền Tự Do Phát Biểu Ư Kiến của Mỗi Người Dân, th́ mới tự bảo vệ hữu hiệu được Chủ Quyền Dân Tộc, mới trở thành nước Giầu Mạnh Phát Triển, mới là các Cường Quốc Kinh Tế, mới có tư thế vững vàng trên trường Quốc Tế, dù cho đó là nước nhỏ, dân ít, không có vũ khí chiến lược dữ dằn. Bởi thế, nhu cầu và xu thế của các nước và Nhân Loại hiện nay là DÂN CHỦ HÓA TOÀN CẦU, đi song hành với Thị Trường Tự Do Toàn Cầu Hóa, th́ các nước mới ổn định an toàn phát triển được.
Việt Nam là một Quốc Gia c̣n đang nằm trong t́nh trạng chậm lụt về công cuộc Dân Chủ Hóa chế độ. Ư thức Dân Chủ nơi Toàn Dân chỉ mới là khái niệm mơ hồ, tuy ư hướng th́ đều muốn tiến tới một cuộc sống Dân Chủ Tự Do thoải mái hơn là cuộc sống do Cộng Đảng Độc Tôn, Độc Tài, Độc Quyền cai trị một cách tùy tiện, phi nhân, phi pháp, ngập ngụa tham ô, bất công, áp bức, chiếm đoạt quyền Tự Do Công Dân và Tài Sản của Con Người. Cộng Đảng tự tạo ra Hiến Pháp, cho phép Đảng Lănh Đạo nhà nước vĩnh viễn, mà không cần thông qua Ư Dân. Đảng giành quyền chọn lựa Ứng Viên Quốc Hội, chỉ cho Dân bầu trên danh sách mà Đảng đă chấp nhận.
Nên nhu cầu thực tại của Việt Nam là: phải đập bể hệ thống Độc Đảng Độc Tài, thay vào đó bằng hệ thống Đa Nguyên Đa Đảng kiểm soát lẫn nhau. Ở những nước mới thành h́nh chế độ Đa Đảng, thường rơi vào t́nh trạng quá nhiều đảng vụn vặït, khó tạo nổi thế cách sinh hoạt Lưỡng Đảng đủ sức kiểm soát nhau, dẫn đến cảnh kẻ nắm được Chính Quyền, có thể dùng quyền thế và tiền bạc chi phối nổi các đảng phái nhỏ yếu, để thành Độc Tài Độc Đoán, trường hợp này đă là hiện tượng phổ biến ở những nước mới Dân Chủ Hóa, c̣n theo quán tính chính trị “Gia Trưởng khoác áo Dân Chủ”. Để tránh t́nh trạng đó, Quốc Hội phải biểu quyết một đạo luật về Ngân Sách Tài Trợ Chính Đảng, cho Hai hoặc Ba đảng có nhiều ghế Dân Biểu trong Quốc Hội nhất, th́ được Ngân Sách Quốc Gia tài trợ, c̣n các Đảng Nhỏ vẫn có quyền sinh hoạt tự do, luật pháp hoàn toàn tôn trọng, nhưng không được dùng tới ngân sách Quốc Gia.
Cấu trúc Quyền Lực Quốc Gia Dân Chủ có tính phổ cập gồm có ba quyền: Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp phải hoàn toàn độc lập, chế tài lẫn nhau trong việc cai trị và thi hành luật pháp. Thích hợp với thực tế Việt Nam là chế độ Tổng Thống và Quốc Hội một viện, do Công Dân bầu ra trong cuộc phổ thông đầu phiếu tự do trực tiếp. Tổng Thống chỉ định Thủ Tướng lập Nội Các, và do Quốc Hội tấn phong. Nhằm đảm bảo cho Ṭa Án hoàn toàn độc lập trong những phán quyết, để không bị chi phối trực tiếp bởi Hành Pháp, th́ Hội Đồng Tư Pháp phải được thành lập, để điều hành tổ chức và sinh hoạt của ngành Tư Pháp. Tổng Thống lựa chọn những chuyên gia luật làm thành viên của Hội Đồng, và do Quốc Hội tấn phong. Hội Đồng Tư Pháp độc lập tự chủ. Tự bầu ra các nhà lănh đạo của ngành ḿnh, có quyền bổ nhiệm nhân sự thuộc Ṭa Án và điều hành sinh hoạt của Hội Đồng.
Thành lập ba Hội Đồng Tư Vấn Quốc Gia là Văn Hóa, Kinh Tế và Nghiệp Vụ, do Tổng Thống đề cử các thành viên và Quốc Hội tấn phong. Nhằm hợp hiến hóa các đóng góp tích cực của các lănh vực chuyên môn cho Quốc Gia, để tạo sự công bằng trong cuộc sống Dân Chủ. Như vậy là Cấu Trúc Quyền Lực Lănh Đạo và Điều Hành Quốc Gia có Sáu ngành Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp, Văn Hóa, Kinh Tế, Nghiệp Vụ. Hội Đồng Nghiệpï Vụ gồm các đoàn thể Xă Hội, Nghiệp Đoàn và các Lực Lượng Chiến Binh nhà nghề. Hội Đồng Kinh Tế gồm các chuyên gia kinh tế. Hội Đồng Văn Hóa gồm các nhà làm Văn Hóa về cả ba mặt Nghệ Thuật, Học Thuật và Kỹ Thuật Khoa Học, cùng đại diện Tôn Giáo, Sắc Tộc.
Tổng Thống và Sáu vị Chủ Tịch: Quốc Hội, Nội Các, Tư Pháp, Văn Hóa, Kinh Tế, Nghiệp Vụ lập thành Hội Đồng Điều Hợp Quốc Gia do Tổng Thống đứng đầu, có trách nhiệm quyết định đường lối chính sách và chiến lược Quốc Gia. Điều giải những trở ngại vướng mắc giữa các Hội Đồng Trung Ương. Ban Hành Sắc Luật cấp thời, khi Quốc Hội chưa hoàn thành được các Đạo Luật. Là một nước chưa có hệ thống chính đảng vững vàng, nên Việt Nam cần có các khóa họp định kỳ của Đại Hội Đồng Quốc Gia Tối Cao, gồm ½ là toàn thể Dân Biểu của Lập Pháp, ½ c̣n lại chia đều cho các đại biểu của năm hội đồng: Hành Pháp, Tư Pháp, Văn Hóa, Kinh Tế, Nghiệp Vụ cử vào tham dự Đại Hội, nhằm kiểm điểm toàn bộ những sinh hoạt Quốc Gia, hoạch định hướng phát triển. Suy cử ra Hai Ứng Viên Tổng Thống qua nhiều ṿng bỏ phiếu, để đưa ra dự tranh trong cuộc Tổng Tuyển Cử Tự Do. Người nhiều phiếu đắc cử thành Tổng Thống, người thất cử đương nhiên trở thành Nhân Vật Đối Lập Hiến Định.
Đại Hội Đồng Tối Cao Quốc Gia là cơ quan quyền lực cao nhất nước. Quyết định chiến lược bảo vệ và phát triển Quốc Gia về mọi mặt, trong từng khóa họp. Có quyền tăng hoặc giảm quyền hành của Tổng Thống. Đại Hội Đồng Quốc Gia Tối Cao suy cử hai ứng viên Tổng Thống cho một cuộc Tổng Tuyển Cử Tự Do, có quyền truất nhiệm Tổng Thống với 2/3 tổng số phiếu hội viên biểu quyết thuận. Quyết nghị thay đổi những điều khoản của Hiến Pháp, trừ việc thay toàn bộ Hiến Pháp th́ phải đem ra trưng cầu dân ư.
Tổng Thống lănh đạo Quốc Gia. Lănh Tụ Hành Pháp. Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Đội. Có quyền tuyên chiến và nghị ḥa. Kư các Hiệp Ước với nước khác. Ban hành Đạo Luật và Sắc Luật. Công bố chính sách Quốc Gia. Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hợp Quốc Gia. Triệu tập và chủ tọa các phiên họp khoáng đại của Đại Hội Đồng Quốc Gia Tối Cao.
Hội Đồng Điều Hợp Quốc Gia là thường vụ của Đại Hội Đồng Quốc Gia Tối Cao. Biểu quyết các Sắc Luật tạm thời. Quyết định chính sách đối nội và đối ngoại. Quyết nghị trao cho Tổng Thống toàn quyền tham chiến hay nghị ḥa. Giải quyết những trở ngại giữa các cơ cấu Trung Ương.
Quốc Hội là cơ quan Lập Pháp. Đại biểu Quốc Dân. Làm Luật. Quyết định Ngân Sách. Tấn phong Chính Phủ, và các thành viên của các Hội Đồng Trung Ương. Giám sát Chính Phủ và các Hội Đồng Trung Ương. Yêu cầu Tổng Thống giải tán Nội Các, và truất nhiệm từng thành viên của các Hội Đồng Trung Ương. Trong trường hợp Tổng Thống quả tang phạm pháp, th́ Quốc Hội với 2/3 tổng số yêu cầu Tối Cao Pháp Viện phán xử. Khi Tối Cao Pháp Viện phán là có tội th́ đương nhiên Tổng Thống bị băi chức. Tuyệt đại 2/3 tổng số dân biểu Quốc Hội có quyền yêu cầu Tổng Thống triệu tập Đại Hội Đồng Quốc Gia Tối Cao bất thường
Hội Đồng Chính Phủ là cơ quan Hành Pháp. Thừa ủy nhiệm Tổng Thống điều hành mọi sinh hoạt của nhà nước. Thi hành luật pháp. Thực thi chính sách đối nội đối ngoại của Quốc Gia. Tổng Thống ủy cử Thủ Tướng thành lập Nội Các. Quốc Hội tấn phong Nội Các và quyết nghị yêu cầu Tổng Thống giải tán Nội Các, hoặïc băi miễn từng Bộ Trưởng một.
Hội Đồng Tư Pháp. Cơ quan giải thích luật pháp. Toàn bộ các thành viên của hội đồng phải là các luật gia, bao gồm cả ba ngành Thẩm Phán, Công Tố, Luật Sư đă được Tổng Thống chọn và Quốc Hội tấn phong. Hội đồng tự bầu cử nhân sự điều hành nội bộ. Hội Đồng Thành lập các Ṭa Án để phán quyết tội trạng của can phạm. Phán quyết của Toà Án hoàn toàn độc lập ngay cả với Hội Đồng Tư Pháp. Riêng Tối Cao Pháp Viện cũng do Hội Đồng bầu chọn ra các thẩm phán, nhưng phải được Tổng Thống chấp nhận và Quốc Hội tấn phong.
Hội Đồng Văn Hóa, Hội Đồng Kinh Tế, Hội Đồng Nghiệp Vụ là ba hội đồng chuyên biệt, đại diện các ngành sinh hoạt của Quốc Dân. Tư vấn chuyên môn cho Tổng Thống, Chính Phủ. Tư vấn cho Quốc Hội về các luật lệ thuộc lănh vực chuyên môn. Đệ tŕnh quốc hội biểu quyết các đạo luật liên hệ trực tiếp tới sinh hoạt của ngành ḿnh. Các hội viên của Ba hội đồng này do các hội đoàn của mỗi ngành sinh hoạt bầu lên, và Tổng Thống chọn mời những cá nhân tiêu biểu thuộc các lănh vực. Tất cả đều phải được Quốc Hội tấn phong.
Hệ thống Quản Trị Địa Phương: Tỉnh, Hội Đồng Đại Diện Tỉnh và Tỉnh Trưởng do Chính Quyền Trung Ương tổ chức cho dân chúng bầu trực tiếp. Tỉnh Trưởng thành lập Ủy ban Hành Chánh và được Hội Đồng Đại Diện Tỉnh bỏ phiến tín nhiệm. Quận, chỉ có một Hội Đồng và người nhiều phiếu nhất trong cuộc bầu cử được nhận chức Quận Tưởng. Quận Trưởng thành lập Ủy ban Hành Chánh và do Hội Đồng Quận biểu quyết chấp thuận. Tất cả các cơ cấu và viên chức dân cử từ Tỉnh xuống Quận đều có thể bị Chính Phủ Trung Ương đề nghị Quốc Hội biểu quyết giải nhiệm. Xă hoặc Phường cũng theo nguyên tắc bầu cử và tổ chức như Quận. Ngoài thủ tục giải nhiệm bởi Chính Phủ và Quốc Hội, th́ 1/3 chữ kư của cử tri trong Xă, Phường có quyền yêu cầu băi miễn một người hay toàn thể Hội Đồng Xă, Phường.
Tất cả cơ cấu trúc, luật lệ, thế cách sinh hoạt của các cơ quan quyền lực trung ương và địa phương như trên, chỉ nhằm mục đích là không để thảm cảnh độc quyền xẩy ra. Luật pháp thực sự sắm đúng vai tṛ Điều Hợp Quốc Gia, đảm bảo cho Tự Do, Nhân Phẩm, Tài Sản của Người Dân, và làm cho guồng máy vận hành nhà nước, xă hội, kinh tế ổn định phát triển. Nhưng vẫn chưa đủ, điều cần nữa là Hiến Pháp, Luật Pháp phải triệt để tôn trọng và khuyến khích tạo điều kiện cho các tập đoàn Xă Hội Công Dân, như Tự Do Tôn Giáo, Tự Do Ngôn Luận, Tự Do Chính Đảng, Tự Do Nghiệp Đoàn thành h́nh và phát triển vững mạnh, để vô hiệu hóa những tham vọng thống trị tùy tiện của các thế lực chính trị cầm quyền đen tối, từ trong sinh ra, từ ngoài đặt vào, nhằm đảm bảo cho Quyền Tự Do Phát Biểu Ư Kiến của Cá Nhân qua Truyền Thông, Hội Thảo, Biểu T́nh, và Lá Phiếu có giá trị thực tiễn và triệt để. Từ Ư Kiến Cá Nhân đó, những ư: Đẹp, Đúng, Tốt, Mới sẻ được công luận nh́n nhận là chính đáng, phản ảnh đúng nhu cầu và nguyện vọng thăng hóa chung của toàn dân, th́ đó mới là tiếng nói của Văn Hóa Chỉ Đạo Quốc Gia vậy. Đến đây th́ Nền Văn Hiến Dung Hóa: Đa Nguyên, Phân Nhiệm, Điều Hợp hiện đại đă được h́nh thành.
Phải nhận rằng: về Ư Thức Dân Chủ và Thế Cách Sinh Hoạt Dân Chủ chưa có cơ hội phổ cập trong quảng đại Dân Chúng Việt nam, nhất là ở những vùng núi rừng, thôn dă. Bởi thế công việc chuyển hiện ư thức Dân Chủ tới toàn dân, đưa vào thực tế sinh hoạt xă hội, không thể ứng dụng theo lối xưa là làm từ trên xuống, mà phải tiến hành Ba mặt cùng một lúc: Trong khi h́nh thành chế độ Hiến Định và cơ cấu Quyền Lực Trung Ương, Địa Phương, và thành lập các Đoàn Thể Xă Hội Công Dân, th́ ngay lập tức tiến hành tổ chức một cuộc bầu cử Dân Chủ Trực Tiếp của Người Dân tại Phường, Xă. Công Dân sinh sống hợp pháp tại mỗi địa phương, hội đủ tiêu chuẩn, được quyền Tự Do Ứng Cử, Bầu Cử vào Hội Đồng Quản Trị Phường hay Xă, đây là hai đơn vị hành chánh nền tảng của Quốc Gia. Phường ở Thị Tứ, Xă ở Nông Thôn. Dân có quyền Truất Nhiệm những người ḿnh đă bầu ra, nếu không làm đúng nhiệm vụ đă được trao phó. Nhưng cư dân Phường hay Xă, phải hội đủ được một số chữ kư của dân chúng tại Phường hay Xă theo luật định, th́ mới yêu cầu Chính Phủ Trung Ương truất nhiệm được. Như vậy là để toàn dân trực tiếp thực hiện quyền Tự Do, Chủ Động về quyết định chính trị của ḿnh. Trực nhận ngay được ư nghĩa thiết thực của Quyền Làm Chủ Xă Hội. Mới thấy rơ trách nhiẹâm của ḿnh trong sinh hoạt chính trị, biết tôn trọng và trân quư giá trị Dân Chủ.
Trên đất nước Việt Nam, c̣n có nhiều Dân Tộc, Sắc Tộc thiểu số sinh sống ở miền cao, mà hầu như trong quá khứ, chưa có một vương triều nào của Việt Nam lại ngược đăi họ, hoặc bắt họ phải triều cống như vua quan Trung Hoa, trái lại luôn luôn tôn trọng tín ngưỡng, tập tục và đời sống tự do của họ, để họ hoàn toàn tự quản, cung cấp lương thực khi họ cần. Chính v́ Triều Đ́nh Nước Nam tốt, nên khi có giặc xâm lăng Phương Bắc tới, th́ họ tự ư tham gia chống giặc. Giữa người Kinh và Thượng sống rất thuận thảo trong tinh thần: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Không t́m thấy dấu hiệu nào có nạn kỳ thị Chủng Tộc cả. Như thế việc áp dụng chế độ Dân Chủ Trực Tiếp, hết sức đúng với lối sinh hoạt tự do của các Buôn Làng. Không những Buôn Làng được làm chủ lấy ḿnh, mà c̣n tạo ra một môi trường để cho các Sắc Tộc, Dân Tộc sống quần tụ với nhau, phát huy được đặc tính Văn Hóa của Sắc Dân ḿnh, ngay trong cuộc sống hiện tại. Đồng thời tiếp nhận dễ dàng với Thế Giới rộng lớn bên ngoài, làm cho Văn Hóa Việt Nam phong phú thêm măi.
Qua đó Trung Ương nắm rơ nhu cầu của từng địa phương, để đưa ra đường lối chính sách đúng với nguyện vọng toàn dân. Đào tạo những chuyên viên hành chánh, an ninh vaø chuyên môn, cung cấp cho Phường, Xă. Trong tinh thần mỗi người tự kư khế ước hợp đồng với Hội Đồng Quản Trị, để phục vụ cho Phường, Xă, theo quyết định của Hội Đồng Quản Trị, chứ không phải là viên chức của Trung Ương hay Tỉnh, Quận gởi về điều khiển Xă, Phường. Thực hiện theo truyền thống tản quyền ngay tại làng xă, làm thoáng nhẹ quyền lực của thượng cấp, để toàn dân ư thức được thật rơ, chỉ có Luật Pháp Quốc Gia mới là quyền lực tối thượng, buộc mọi người phải tuân hành nghiêm chỉnh, th́ cuộc sống tự do của mỗi người mới được bảo vệ, và mới tạo nổi cuộc sống chung an ninh và phát triển. Như vậy mới giúp cho Người Dân ư thức được thật gần với nguyên tắc Dân Chủ là: Quyền Lực Quốc Gia đặt trong Ư Chí của Toàn Dân. Nhất lại có các đoàn thể Xă Hội Công Dân bén rễ trong dân chúng, luôn luôn nâng cao Ư Thức Dân Chủ nơi Người Dân, qua các sinh hoạt chính trị tập thể và sẵn sàng bảo vệ hữu hiệu những quyền lợi chính đáng của mọi người, th́ chắc rằng, chỉ một thời gian ngắn, tinh thần và sinh hoạt Dân Chủ sẽ thành cách nghĩ, nếp sống phổ biến của Người Việt không c̣n khó nữa.
Khi Dân chúng đă ư thức được quyền làm chủ chính trị của ḿnh, th́ việc chủ động phát triển kinh tế mới trở thành nhu cầu thiết thân. Đây là lúc Nhà Nước dễ dàng áp dụng đường lối và chính sách phục hồi Nội Lực Kinh Tế Quốc Dân, qua các ngành Nông, Ngư, Lâm Nghiệp và Hầm Mỏ, Buôn Bán Nhỏ và Vừa, Thủ Công, Kỹ Nghệ Nhỏ và Vừa, song song với những kế hoạch đầu tư vào Công Nghiệp Lớn và Kỹ Thuật Cao, cũng như nhận vốn đầu tư của ngoại quốc. Chuyển vốn vay của Quốc Tế vào các Ngân Hàng Chuyên Ngành Địa Phương phục vụ các ngành phát triển. Huy động vốn của Quốc Dân vào việc phát triển kinh tế khắp mặt. Có thể vững tin để mở rộng cửa cho vốn đầu tư ngoại quốc vào các sinh hoạt kinh tế của Quốc Dân, khi ư thức Tự Chủ của Người Dân đă vững vàng. Quốc Gia Việt Nam hoàn toàn chủ động đóng góp vào sự hưng thịnh chung của thị trường khu vực ASEAN, cũng như nền ḥa b́nh phát triển không ngừng của Thế Giới. Như vậy, mới thực hiện đúng nguyên tắc Chính Trị Dân Chủ Trực Tiếp, Kinh Tế Thị Trường Tự Do Điều Hợp, Quốc Gia Chủ Động Toàn Cầu Hóa, của xu hướng Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn và cũng là leơ tất yếu lịch sử thăng hóa Dân Tộc và Nhân loại.
QUÂN SỰ
QUYỀN LỰC QUỐC GIA
TOÀN DIỆN CHIẾN PHÁP
BẢN TÓM TẮT
======================================================================
QUÂN SỰ
QUYỀN LỰC QUỐC GIA
Ở Xă Hội Dân Chủ th́ Quyền Lực của Quốc Gia được đặt trong Ư Chí của Toàn Dân, mà những người đại diện cho Dân là Chính Quyền, bởi Dân Tự Do Chủ Động lựa chọn ra, qua một cuộc bầu cử tự do, trong sáng, được nắm quyền lực ấy. Vậy quyền và lực của Quốc Gia có được từ Dân, để bảo vệ cho Dân và cho Nước. Chiếu theo Hiến Pháp và Luật Pháp Dân Chủ, mà tổ chức ra Chính Quyền, để sử dụng quyền lực ấy làm phương tiện điều hành luật pháp; giữ an ninh và bảo vệ tự do cho Con Người; giữ an ninh và bảo vệ ḥa b́nh cho xă hội, toàn vẹn lănh thổ, lănh hải, không phận của Tổ Quốc. Tất cả được gọi là Quân Sự.
Như thế Chính Quyền phải hoàn toàn dựa trên Luật Pháp để tổ chức và điều hành việc quân, trong công cuộc bảo vệ Quốc Dân, không được phép coi đó là công cụ phục vụ cho tư kiến chủ quan của Cá Nhân kẻ cầm quyền, hay Đảng Phái, hoặc Chủ Nghĩa và Tôn Giáo. Từ xưa tới nay, các chế độ Độc Tài, Độc Đảng, Độc Tôn, đều sử dụng hai hệ thống Quyền và Lực là Cảnh Sát và Quân Đội của Quốc Gia, để chứng tỏ uy quyền độc đoán của ḿnh, rồi quay lại khống chế đàn áp ngay chủ nhân đích thực của quyền lực ấy là Toàn Dân.
Theo sự phân công một cách tự nhiên ở mọi chế độ, th́ Quyền của Quốc Gia thể hiện nơi hệ thống Cảnh Sát. C̣n Lực của Quốc Gia th́ do nơi tổ chức Quân Đội. Ở các Chính Quyền Dân Chủ thực sự, th́ Chính Quyền nắm quyền lănh đạo, điều động hai hệ thống Quyền và Lực đó cũng bằng Luật Pháp. Các hệ thống trên phải tuyệt đối tuân theo mệnh lênh của Chính Quyền, v́ đó là làm theo Luật Pháp. Chính Quyền có thực quyền là do có hệ thống Cảnh Sát dưới tay, nên mới gọi là Chính Quyền được. Chính quyền có Quân Lực trong tay mới có sức mạnh và tự tin, trong công cuộc nội trị và ngoại giao được.
Nhưng khi các nhà lănh đạo chính quyền, sử dụng hai hệ thống đó theo ư chí chủ quan, bất cần luật pháp, vượt trên Hiến Pháp, hay là tạo ra thứ luật pháp không dựa vào Ư Chí Toàn Dân, không do Dân được quyền lựa chọn và giám sát, qua các hệ thống Truyền Thông Báo Chí Tự Do, mà chỉ do ư chí cá nhân độc đoán, hay đảng độc tài, th́ hai hệ thống Quyền và Lực đó sẽ chỉ c̣n là công cụ trấn áp Toàn Dân, để củng cố quyền lực cá nhân, hay đảng phái mà thôi. Trong trường hợp, Lực mà khống chế nổi Quyền, th́ đó là chế độ Quân Phiệt. C̣n Quyền mà khống chế nổi Lực th́ đó là chế độ Mật Vụ Khủng Bố, SS của Hitler và KGB của Stalin rồi vậy,
Bởi thế, vấn đề Hiến Pháp, Luật Pháp để tổ chức và điều hành hai hệ thống Quyền và Lực này, phải hết sức rành mạch, minh bạch, nghiêm túc. Tuy hai hệ thống này nằm trong cơ cấu Quyền Lực Quốc Gia, mà họ phải được đào tạo có tính cách chuyên môn. Nên phải xem những người phục vụ trong hai hệ thống này, thuộc lănh vực Nghiệp Vụ Chuyên Môn, được gọi là Cảnh Sát nhà nghề. Quân Đội chuyên nghiệp. Đó là Nghiệp Vụ Bảo Vệ Quốc Dân. Giữ Nước, An Dân. Họ là những người chỉ biết có một nhiệm vụ duy nhất là Bảo Vệ Quốc Dân, không phục vụ cho bất cứ lư tưởng nào khác, như Chính Trị Đảng Phái, hay Chủ Nghĩa, hoặc Tôn Giáo Toàn Thống, nhất là họ không phải là công cụ cho các Lănh Tụ Cầm Quyền. Nghiệp Vụ của họ được đào tạo ra để Giữ Nước, An Dân, đó là mục đích tối thượng của cuộc đời cầm súng của họ. Cuộc sống của họ trong suốt thời phục vụ cho tới trọn đời là thuộc về Quốc Gia.
Tùy hoàn cảnh và khả năng của Quốc Gia, mà tổ chức hai hệ thống này sao cho gọn nhẹ mà hữu hiệu, nhưng phải được trang bị với những kỹ thuật hiện đại cao trong ngành nghề. Điều quan trọng không thể thiếu là khả năng chuyên môn phải tinh nhuệ, ư chí phải kiên cường, đạo đức và phong cách nghề nghiệp nghiêm chỉnh. Cảnh Sát cũng như Quân Lực được tổ chức theo hệ thống dọc, kỷ luật phải hết sức nghiêm nhặt trong sáng. Mệnh lệnh ban ra từ thượng cấp, thuộc cấp phải tuyệt đối tuân phục. Đó là quân kỷ. Cả hai hệ thống Cảnh Sát và Quân Lực, nhận mệnh lệnh từ Chính Quyền, mà Tổng Tư Lệnh Tối Cao các Lực Lượng Vơ Trang theo Hiến Pháp là Tổng Thống. Nhưng không có nghĩa là Cảnh Sát và Quân Lực là công cụ riêng của Chính Quyền và Tổng Thống, mà Tổng Thống và Chính Quyền lănh đạo, điều hành Cảnh Sát, Quân Lực theo Hiến Pháp và Luật Pháp cho phép. Những quyết định của Tổng Thống và Chính Quyền về việc quân sẽ do Quốc Hội chuẩn thuận, giám sát, Dư Luận theo dơi, và Ṭa Án phán sử, nếu có sai trái.
Ở điểm này, vấn đề được đặt ra là, những mệnh lệnh ban ra từ thượng cấp, nếu thuộc cấp thấy là vi hiến, phạm luật th́ phải như thế nào? Đối với hai lực lượng vũ trang này, nhất là Cảnh Sát là người trực tiếp thi hành luật pháp, th́ vấn đề luật pháp tất nhiên phải được học hiểu vững vàng. Người ra lệnh, kẻ nhận lệnh đều biết rơ có đúng luật hay sai? Nhưng kỷ luật th́ buộc thuộc cấp phải tuân lệnh thượng cấp. Nên người ra lệnh hoàn toàn chịu trách nhiệm trước luật pháp, c̣n kẻ thừa hành không có tội, nếu đó là việc phạm pháp. Nhưng trong trường hợp nghiêm trọng, thuộc cấp có quyền, yêu cầu thượng cấp phải nhắc lại lệnh đó một lần cho rơ, hoặc là ban cho văn thư lệnh. Trường hợp đặc biệt được quyền không chấp hành lệnh là: “Phản Lại Nguyên Tắc Bảo Quốc, An Dân”. Cụ thể là những lệnh như: Phản Quốc, Hàng Địch, Phản Loạn, hoặc khủng bố Dân Lành, trấn áp Bất Đồng Chính Kiến, đàn áp Đấu Tranh Bất Bạo Động.
TOÀN DIỆN CHIẾN PHÁP
Thế Giới đang tiến tới cuộc sống Toàn Cầu Hóa khắp mặt. Chiến Pháp của Thế Giới cũng đang chuyển từ Tiến Chiếm sang Pḥng Vệ, nhằm vô hiệu hóa kỹ thuật và vũ khí chiến lược giết người hàng loạt. Các Liên Minh Quân Sự Cấp Vùng ra đời, để giữ quân bằng lực lượng Pḥng Vệ. Chận đứng những âm mưu thôn tính của các nước lớn, hoặc các nước c̣n hiếu chiến trong vùng. Nhằm bảo vệ cho sự ổn định phát triển của các Khối Kinh Tế. Dù vậy. mỗi Quốc Gia không thể thiếu được chiến pháp riêng của ḿnh. Có như thế, mới nắm được phần chủ động chiến lược ở trong thế hợp tác, tương tác, đối tác với các nước khác. Chuẩn bị sẵn sàng nội lực và tư thế khi bất đắc dĩ phải đối đầu với các thế lực ngoan cố.
TOÀN DÂN THAM CHIẾN: Việt Nam vừa trải qua một cuộc chiến tranh không chỉ nằm trong phạm vi Quân Lực đối chọi với Quân Lực, mà là một cuộc chiến tranh toàn diện giữa khối người ở chiến tuyến này đánh với chiến tuyến kia; mà chi viện lại là các thế lực đối đầu nhau trên thế giới. Chiến tranh không chỉ về mặt quân sự với lính chính quy, kỹ thuật cao và súng đạn nhiều, mà sử dụng mọi lợi thế về hệ tư tưởng, văn hóa, chính trị, kinh tế, và sức của toàn dân đều bị huy động đổ vào cuộc chiến. Đây đúng là một cuộc chiến toàn diện, toàn dân của hai phía buộc phải tham chiến. Bên nào nắm vững được Chiến Pháp Toàn Diện, huy động được toàn dân đồng ḷng tham chiến, bên đó nắm phần thắng. Thực tế trong cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua, h́nh thức th́ đúng là cuộc chiến tranh toàn diện toàn dân toàn thế đó. Nhưng phía có Chính Nghĩa Dân Tộc đă không làm chủ được ḿnh, để cho Thế lực Quốc Tế nắm phần chủ động từ đầu tới cuối, nên v́ nhu cầu chiến lược, họ đă để cho kẻ xấu chiến thắng, nhằm tiếp tục triển khai chiến lược mới. Nếu bên có chính nghĩa Dân Tộc, nắm vững được chiến pháp Toàn Dân Vi Binh của Đức Trần Hưng Đạo, huy động nổi tiềm năng vô biên của Dân Tộc, vận dụng được niềm tin của toàn dân, khởi thế chủ động, th́ chắc Thế Lực Quốc Tế sẽ phải chọn để cho phía Chính Nghĩa Dân Tộc được thắng, v́ đó cũng là chiến thắng trong vinh quang của họ.
Trong Chiến Pháp Toàn Diện, ngoài lực lượng Quân Chính Quy tinh nhuệ, Toàn Dân phải tự nguyện tích cực tham chiến, dùng ngay những cố gắng trong lănh vực sinh hoạt nghề nghiệp của ḿnh, để đóng góp cho cuộc chiến. Tất cả phải có quan niệm sinh hoạt trong thời chiến. Toàn Dân phải được vơ trang tinh thần và khí giới để sẵn sàng “tiến lên thành Quân lui về thành Dân”. Công việc sáng tạo và sản xuất đều phải được đặt trong t́nh trạng cướp thời gian. Người Lính Chiến ngoài nhiệm vụ chính là chống giặc, c̣n phải luôn luôn giúp dân trong việc sáng tạo và sản xuất. Người Sáng Tạo và Sản Xuất cũng có bổn phận giúp Quân Đội đánh giặc, giữ vững tinh thần cho nhau, giữ an ninh ổn định hậu phương, triệt hạ sự phá hoại ngầm của địch, tiếp tay với Quân Đọâi tảo thanh địch. Như thế là phải tổ chức thành nhiều tập thể chiến đấu như: Chủ Lực Quân. Tự Vệ Quân. Sản Xuất Quân. Hành Chánh Quân. Văn Hóa Quân không phân biệt Nam Nữ, Già Trẻ đều có cơ hội tham chiến.
Ở trường hợp Chiến Tranh Tự Vệ ngay trên đất nhà. Tức là đánh giặc Xâm Lăng trên Quê Hương, th́ Dân cầm chân địch, theo dơi địch, bao vây địch, cô lập địch, phá vỡ tinh thần chiến đấu của địch, giúp Quân tiêu diệt địch. Quân lấy Dân làm vỏ bọc, tan vào trong Dân, “bỏ Đồn giữ Dân”, “bỏ Đất giữ Người”. Trong trường hợp chiến tranh trên đất địch, th́ công tác đầu tiên là phải gây nhân tại địa phương, nắm vững nhược điểâm về chính nghĩa của định, tức là t́m đúng điểm phi nghĩa, bất nhân của địch, để “biến Dân của Địch thành Dân của Ḿnh”. “Tăng quân ḿnh bằng quân của địch”, hay làm cho quân địch bị teo lại. “Biến Đất Địch thành Đất Ḿnh”. Rồi ứng dụng chiến pháp toàn dân tham chiến.
TOÀN THỨC VẬN HUẤN: Muốn vận dụng được toàn dân tham chiến, điều cần là phải có một chế độ thực sự Dân Chủ Tự Do Điều Hợp, một Chính Quyền được dân tin tưởng, đủ sức thúc đẩy và đưa ra những kế sách đáp ứng đúng với nhu cầu tâm lư và thực tế của mỗi người dân, để tự mỗi người nhận chân được việc chiến đấu là bổn phận của mỗi người phải đóng góp, trong công cuộc bảo vệ sự sống, cuộc sống và lẽ sống cả về Tâm Linh lẫn Thực Tế của ḿnh và của Dân Tộc.
Nghĩa là dùng ngay nhận thức thực tại, mà mỗi người tự cảm nhận được từ trong cuộc sống, để vận động Toàn Dân nhận ra trách nhiệm của ḿnh phải góp phần trong cuộc chiến. Khi Con Người đă có chung một lư tưởng, một tin tưởng, một nhận thức, th́ những sáng kiến, tài năng, và sự đóng góp của mỗi người cho cuộc chiến sẽ vô cùng phong phú, khiến cho kẻ địch khó có thể đối phó được với những bất ngờ, từ đó dẫn tới mất tinh thần, rơi vào thế phải thường xuyên lo sợ, rồi bị động, và thảm bại chỉ c̣n là vấn đề thời gian mà thôi.
Như vậy - Điều Thứ Nhất là phải công bố được Danh Nghĩa Cuộc Chiến, đó là v́ nhu cầu và quyền lợi thiết thân mất c̣n của Quốc Dân, chứ nhất định không phải do tham vọng cá nhân, hay thỏa măn ham nuốn Đế Quốc thống trị nước khác - Điều Thứ Hai là phải khơi dậy được Ư Chí và Ư Thức trách nhiệm nơi mỗi người dân, chiến đấu chống lại với các thế lực hung bạo hiếu chiến - Điều Thứ Ba là huấn luyện kỹ thuật pḥng vệ và chiến đấu cho Toàn Dân, để tất cả cùng sẵn sàng tham chiến. - Điều Thứ Tư là dùng Văn Hóa, Văn Nghệ để khơi dậy Khí Thế Chiến Đấu và khả năng sản xuất của Quân Dân, nhằm cung ứng những nhu cầu cần thiết của cuộc sống, cũng như đ̣i hỏi của chiến trường. Điều Thứ Năm là đem chương tŕnh Quân Sự vào Học Đường, để cho thanh thiếu niên học tập xử dụng vơ khí, cách pḥng thủ thụ động và làm quen với cuộc sống quân ngũ, trước khi trưởng thành bước vào đời, có như vậy khi gặp “giặc đến nhà th́ nam, nữ, trẻ già đều có thể cầm súng chiến đấu”.
Lẽ đương nhiên là Quân Lực cần phải được rèn luyện về cả ba mặt: Tư Tưởng phải hết sức sáng suốt tự tin vào chính nghĩa mà ḿnh đang thực hiện. Chiến Đấu phải hết sức tinh nhuệ và cố gắng trang bị với kỹ thuật cao, để tạo được sự tự tin cần thiết, khi đối diện với kẻ địch. Dân Vụ, Quân phải coi Dân như sinh mạng của chính ḿnh. Nhiệm vụ bảo vệ Dân là bảo vệ chính mạng sống của ḿnh. Làm như thế th́ nhất định sẽ được Dân xả thân giúp lại, và cùng với Quân hăng say tham chiến. Đây là yếu tố căn bản cho việc Toàn Thức Vận Huấn của Toàn Diện Chiến Pháp vậy.
TOÀN TÀI ỨNG DỤNG: Trong việc Toàn Dân Tham Chiến, tất nhiên mọi Tài Nguyên Quốc Gia đều phải được ứng dụng vào Chiến Tranh, thế nên về lănh vực Kinh Tế phải được đặt trên nguyên tắc điều hợp hết sức quy mô, và áp dụng linh động mà hiệu nghiệm. Luật pháp tuy phải hết sức nghiêm minh trong sáng, nhưng cũng cần dự trù những điều có thể linh động được trong thời chiến. Cần nhấn mạnh ở đây là người có quyền ứng dụng luật pháp, phải hết sức chí công vô tư, không tùy tiện dùng quy chế thời chiến để trục lợi riêng tư. Luật pháp sẽ áp dụng luật thời chiến để phán xử với những hành vi đó một cách thích đáng.
Trong cuộc chiến tranh Tự Vệ, đón đánh kẻ địch xâm lăng ngay trên lănh thổ ḿnh, th́ hiệu nghiệm nhất vẫn là một cuộc chiến tranh toàn diện, toàn dân, và toàn cơi. Như vậy chỗ nào có địch đóng quân là tiền tuyến, nơi nào xa địch là hậu phương. Hậu phương và tiền tuyến thay đổi tùy theo t́nh h́nh chiến sự. Bởi thế trong chiến pháp toàn diện, quan niệm về tiền tuyến và hậu phương phải được linh động hóa. Tuy không cố định, nhưng phải cố gắng tạo lập các vùng an ninh cho các cơ sở sản xuất, hoặc là mau chóng bắt tay ngay vào việc sản xuất ngắn hạn, nhằm cung ứng cho nhu cầu chiến tranh.
Nhưng đấy vẫn chỉ là giải pháp tạm thời, c̣n đặc tính của nền kinh tế trong Toàn Diện Chiến Pháp là phải vận động được Tinh Thần Tự Túc, Tự Cứu của mỗi người dân và mỗi binh sĩ. Mỗi chiến binh, mỗi người dân phải có sẳn tinh thần Toàn Tài Ứng Dụng. Có nghĩa là tài sản của mỗi người là tài sản của nhà nước, cần phải tích cực bảo vệ, và đem ra xử dụng khi chiến cuộc cần tới. Khi đă có quan niệm như vậy, th́ những đóng góp của toàn dân vào chiến tranh mới thực sự hiệu nghiệm và kết quả lớn lao. Người người mới không cảm thấy mất mát, khi Chính Quyền buộc phải trưng dụng tài sản của dân chúng vùng này, cung ứng cho nhu cầu vùng kia.
Về phần Chính Quyền, cơ quan thi hành luật pháp điều hợp tài sản của Quốc Dân, lúc này sứ mạng hết sức trọng yếu, nặng nề và tế nhị, nếu không công tâm, không chứng tỏ cho dân, quân thấy rằng: “Ḿnh chỉ nhằm mục đích phục vụ đất nước, không lợi dụng chiến tranh để chiếm đoạt tài sản của dân, th́ mới mong vận động nổi sự hy sinh công sức, xương máu, tài sản của toàn dân để đổ vào cuộc chiến”. Lẽ cố nhiên, vấn đề Thủ Tục Hành Chánh của thời chiến, không thể áp dụng như kiểu thời b́nh được, mà phải có quan niệm vấn đề tiếp liệu trong thời chiến là vấn đề cấp cứu. Thế nên những giấy tờ cồng kềnh của thời b́nh phải gác bỏ, để thay vào đó bằng những thủ tục mau lẹ của thời chiến. Phải có những kế hoạch dự trù. Phải tiên liệu trước những biến chuyền của từng vùng. Phải có những tài khoản dự trữ, để tung ra ứng phó kịp thời cho đ̣i hỏi của những vùng bị tê liệt sản xuất.
Hiện nay Nhân Loại đang bước vào giai đoạn Toàn Cầu Hóa, hầu như mọi cuộc chiến dù ở bất cứ nơi đâu trên địa cầu, cũng đều không thể tách rời khỏi ảnh hưởng của cục diện thế giới. Do đó cần phải có kế hoạch Vận Dụng Toàn Tài Thế Giới, để cung ứng cho cuộc chiến. Chính nguồn tiếp liệu an toàn và đầy đủ nhất, không phải ở trong nội địa Quốc Gia, mà nằm từ bên ngoài Quốc Tế. Nên thường thường Quốc Gia dễ bị rơi vào thế lệ thuộc bên ngoài, nếu Quốc Gia không chủ động dự liệu về việc ấy, ngay trước khi dấn thân vào chiến tranh. Đấy là chưa kể tới trường hợp các Thế Lực Quốc Tế v́ quyền lợi và nhu cầu chiến lược của họ, họ không ngần ngại hy sinh luôn ḿnh, như trường hợp của Cuộc Chiến Việt Nam vừa qua.
Để đối phó với trường hợp gặp Du Kích Chiến, như ở Miền Nam Việt Nam trước kia, th́ toàn diện chiến pháp vẫn linh động ứng dụng một cách hiệu nghiệm được. Tức là phải nắm vững hai yếu tố căn bản là Ḷng Dân và Thế Nước. Ḷng Dân th́ phải Dân Chủ Hóa chế độ. Thế Nước th́ phải kư hiệp ước an ninh với Hoa Kỳ là thế lực đang hậu thuẫn cho Quốc Gia ḿnh. Chủ động đặt ḿnh trong Chiến Lược Toàn Cầu Diệt Cộng của Mỹ, để nắm phần chủ động tại chiến trường Việt Nam. Như vậy là duy tŕ được thế cách ứng phó trường kỳ với Chiến Pháp Vô Hạn của Việt Cộng. Khi ḿnh đă có nguồn tiếp tế vô hạn từ bên ngoài, th́ kẻ địch không c̣n đủ sức theo đuổi nổi cuọâc chiến tranh vô hạn nữa. Địch phải Bại, Ta tất Thắng. Nhưng Miền Nam Việt Nam đă không làm Dân Chủ thực sự, không có Hiệp Ước An Ninh với Mỹ, nên đă tạo điều kiện cho Mỹ phải lựa chọn sự thất bại đau nhục như đă thấy.
Với kinh nghiệm đắt giá vừa nêu trên, th́ thế ngoại giao và kế hoạch vận dụng Tài Lực Quốc Tế cung ứng cho chiến tranh, phải hết sức sắc bén và chủ động, mới mong tránh khỏi làm quân cờ thí cho những mưu mô Quốc Tế. Việc phải làm là cần Lập Khối Liên Minh Quân Sự với các nước Tự Do trong cùng một khu vực, đồng thời phải chọn đúng Thế Quốc Tế có cùng một lư tưởng Tự Do trên toàn Thế Giới, để liên kết, tạo thành Thế Pḥng Thủ Chung, nhằm làm nản ḷng xâm lăng của các nước, các Thế Lực Quốc Tế Đen Tối. Có như vậy Thế Giới mới hy vọng bước vào nổi một thời đại Thái B́nh cùng phát triển. Nên, Kinh Tế trong Toàn Diện Chiến Pháp phải được quan niệm là một Nền Kinh Tế Tự Do Điều Hợp Quốc Gia Chủ Động Toàn Cầu Hóa.
TOÀN ĐỊA BỐ PH̉NG: Trong Toàn Diện Chiến Pháp, th́ toàn lănh thổ Quốc Gia đều phải được đặt trong t́nh trạng bố pḥng thường trực. Trường hợp Chiến Pháp Tự Vệ th́ việc bố pḥng cần phải được đặt trong Thế Phân Khu. Một là, tạo ra những khu vực an toàn để duy tŕ mức sản xuất và tiếp liệu cho các khu vực đánh nhau, đồng thời nơi đó cũng là cứ địa chiến lược để bao quát t́nh h́nh và tăng viện cho các mặt trận. Hai là, lập những khu vực Ṿng Đai Chiến Sự, đó là pḥng tuyến của Dân Chúng. Ở nơi đây Quân Dân cùng liên tay sản xuất và pḥng vệ, để Quân Lực dùng kỹ thuật chiến một cách an tâm, tấn công thẳng tay vào đối phương, mà không sợ phạm tới sinh mạng tài sản của Toàn Dân.
Trong trường hợp phải đối phó với Chiến Pháp Vô Hạn, du kích lấy dân làm vỏ bọc. Muốn tiêu diệt du kích th́ khó tránh khỏi sát hại Dân Chúng vô tội. Khi máu dân lành đă đổ ra, th́ kẻ địch sẽ lấy đó làm đề tài tuyên truyền, để kéo chính nghĩa về phía họ. Bởi vậy, cần phải buộc địch quân vào thế tách biệt với quần chúng. Phải vận động dân chúng tự cô lập địch quân. Phải vạch cho địch những ranh giới cụ thể. Không để những ranh giới trừu tượng không mặt trận.
Ngược lại nếu phải đương đầu với những Đoàn Quân Xâm Lăng, không lấy Chiến Pháp Nhân Dân làm gốc, th́ ta phải dùng phương pháp “tàng h́nh” ẩn quân. Nghĩa là Quân Chủ Lực, ḥa tan trong Dân Chúng, để chỉ huy dân chúng trong kế hoạch “tiến lên thành Quân, lui về thành Dân”, rồi tiếp tục thực hiện Toàn Diện Chiến Pháp th́ chắc chắn đối phương phải thảm bại.
Trường hợp thực hiện một cuộc Chiến Tranh Giải Phóng th́ trước hết phải gây căn cứ trong ḷng người, rồi vận động Toàn Dân của địch đứng về phía ḿnh, để thực hiện Toàn Diện Chiến Pháp tiến lên tiêu diệt địch. Ở đây phải dùng tới thế “hai mặt giáp công”: Một mặt thâu phục quần chúng ở Nông Thôn, để thành lập những doanh trại hậu cần. Mặt khác phải t́m đúng đầu năo của địch quân để tiêu diệt. Tức là phá vở hệ thống chỉ đạo chiến tranh của địch. Khi đă biến dân địch, đất địch thành các vùng ta kiểm soát, th́ sẽ ứng dụng việc phân khu ngay trên đất địch, đúng với nguyên tắc Toàn Địa Bố Pḥng.
Tóm lại, nếu địch dùng chiến pháp không trận tuyến, th́ ta áp dụng chiến pháp phân khu, chỉ định trận tuyến cho địch. Nếu địch dàn quân có trận tuyến th́ ta ứng dụng thế cách Toàn Địa Bố Pḥng. Toàn Dân Tham Chiến trong Chiến Pháp Toàn Diện để triệt hạ địch.
TOÀN THẾ CHUYỂN XỬ: Khi đă nhận ra và nắm vững được thực tại của mọi cuộc chiến tranh hiện đại, không nhiều th́ ít đều có sự liên hệ với t́nh thế Quốc Tế, th́ trong Toàn Diện Chiến Pháp vấn đề Chính Trị Quốc Tế phải xem là một lợi khí tối cần thiết để đánh bại địch thủ. Phải có đối sách ngoại giao với tất cả các nước trên thế giới. Tức là phải biết chọn Bạn Lâu Dài, chọn Đồng Minh Giai Đoạn, chọn đúng Đối Thủ Nhất Thời, và Kẻ Địch Tương Lai nguy hiểm. Một khi đă chủ động chọn được thế đứng vững vàng đang lên, là đă quyết trước được việc thành bại.
Tất cả các Đế Quốc từ cổ chí kim, bị sụp đổ đều bởi chính sự khủng hoảng nội bộ, để cho kẻ địch bên ngoài thừa cơ tiến chiếm. Tất cả các thế lực chính trị, dù cho mạnh tới mấy, cũng có những nhược điểm chí tử ngay trong nội tại. Khai thác đúng những nhược điểm ấy là đă t́m được thế tất thắng rồi vậy. Cần có một chính sách và phương pháp vận dụng thường xuyên dư luận thế giới hướng thiện cảm về phía ḿnh.
Phải biết đúng thế mâu thuẫn giữa các đối lực Quốc Tế, để t́m sự chủ động Đồng Minh với thế lực có ưu thế tất thắng, nhất là họ không nuôi mộng đế quốc. Phải biết khai thác và vận dụng những mâu thuẫn giữa các thế lực lớn, dù họ là Đồâng Minh với nhau, nhưng có những quyền lợi khác nhau, để t́m thế chủ động. Phải biết nắm bắt cơ hội Liên Minh giữa các Quốc Gia cùng mục đích, để gây thế lực hậu thuẫn tinh thần và tiếp liệu cho cuộc chiến. Phải vận dụng Dư Luận Quốc Tế, để gây thanh thế cho Chính Nghĩa của ḿnh. Phải vận dụng Dân Tâm của Địch, để đánh bại Địch, khi Địch chưa kịp xuất trận, hoặc đang tham chiến.
TOÀN DIỆN TẤN CÔNG: Trong Chiến Pháp Toàn Diện, việc tấn công địch không chỉ là việc dùng vũ lực ào ạt tiến chiếm, mà tấn công địch ở đây phải hiểu như là một sự thể hiện chính đời sống xă hội khắp mặt ở phía ḿnh, nhằm thu hút ư chí quyết thắng của dân ḿnh, đồng thời biến ngay đời sống thực tế đó, thành một sức hút vạn năng, lôi cuốn sự quy ngưỡng của Dân, Quân, Cán của Địch. Khi sự quy ngưỡng của Dân Chúng, Quân Đội, Cán Bộ của Địch đă thành khát vọng không thể thiếu, tức là Kẻ Địch đă bắt đầu bại trận ngay khi họ đang có quyền hành.
Một khi cuộc sống đă vào nếp ổn định thăng hóa, th́ từ đó quần chúng sẽ muôn người như một. Về Mặt Thủ, toàn dân đă có những giá trị tinh thần và tài sản cần bảo vệ, dù nhất thời có bị cường lực cưỡng chiếm, th́ ư chí đấu tranh vẫn c̣n. Chắc chắn toàn dân sẽ một ḷng phấn đấu và đoạt thắng lợi cuối cùng. Về Mặt Công, toàn dân đă có chung một lư tưởng, quyết đ̣i lấy những thứ thuộc về ḿnh, th́ sứ mệnh giải phóng Con Người và những vùng bị các thế lực ngu tối thống trị, sẽ được toàn dân theo đuổi đến cùng, như một lư tưởng thiêng liêng cao đẹp của đời ḿnh. Khi Con Người đă có những mục tiêu tốt đẹp để tin tưởng, để bảo vệ, để tranh đ̣i, để giải thoát th́ đó là lẽ sống, lẽ chiến thắng không sức ǵ cản nổi nữa.
Như vậy, Toàn Diện Tấn Công, có nghĩa là phải xây dựng và kiện toàn một Quốc Gia hoàn thiện tốt đẹp phát triển khắp mặt Văn Hóa, Xă Hội, Kinh Tế, Chính Trị, Quân Sự, thiết lập một cuộc sống văn minh tiến bộ, đúng với tầm Nhận Thức cao nhất của Con Người thời đại, đáp ứng nhu cầu thăng hóa của lịch sử. Một khi đă đạt được mức độ đó, th́ hành động quân sự nếu cần cũng ít tốn hao sinh mạng, hoặc chỉ c̣n là sự biểu dương lực lượng, để buộc đối phương phải xuống thang chiến tranh, hay vào bàn thương nghị.
TOÀN LƯỢNG CHIÊU DỤNG: Đối tượng của cuộc chiến tranh trong thời đại Toàn Cầu Hóa, sẽ không nhằm vào việc tiêu diệt Con Người, mà nhằm vào việc khắc chế sự ngu tối, lạc hậu của chính bản thân ḿnh và đồng loại, nhằm tiêu hủy những thế lực độc tài đang nô lệ hóa Con Người, hay giải thoát những vùng đầy bất công tăm tối của Thế Giới. Nên mục đích của Toàn Diện Chiến Pháp là cuốn hút nhận thức và ư chí Con người về phía ḿnh, để cùng nhau vận động và xây dựng một cuộc sống Nhân Chủ thăng hóa khắp mặt.
Bởi đấy, vấn đề Chiêu Dụng trong Toàn Diện Chiến Pháp là vấn đề thuộc về bản chất của Chiến Tranh ở thời đại văn minh, làm nổi bật giá trị nhân chủ lên hàng tối thắng. Nếu vấn đề chiêu dụng không được đặt ra cho cuộc chiến, th́ đó là một cuộc chiến tranh tàn bạo, ngu muội, không c̣n phục vụ cho Nhân Loại nữa, mà nó là thứ chiến tranh tiêu diệt Nhân Tính, tiêu diệt Loài Người. Một khi cuộc chiến tranh đó đă là tàn bạo ngu muội, th́ nó sẽ bị nhân loại muôn đời ghê tởm và lên án. Dù nó có được ngụy trang bằng bất cứ thứ danh nghĩa hào nhoáng như thế nào cũng vậy.
Phải nhận rằng: Khi thế giới c̣n phải dùng tới bạo động, bạo lực và bom đạn để chống lại với những thế lực bạo động tàn nhẫn nuôi tham vọng thống trị, áp chế Con Người và các nước yếu, th́ không thể tránh được chiến tranh. Nhưng đấy là một cuộc chiến tự vệ bất đắc dĩ, hoặc là cuộc chiến tranh giải thoát cho đồng loại khỏi bàn tay ác độc của kẻ dữ, chứ nhất định không phải là cuộc chiến tiêu diệt Con Người, ngay cho với những kẻ ác cũng vậy. Đánh để giải thoát Con Người khỏi sự Ác Độc Ngu Tối, không phải đánh, để đoạt mạng sống của đối phương. Chính v́ vậy mà sự Chiêu Dụng luôn luôn phải đi trước việc Tiến Phạt.
Chiêu dụng , do đó phải trở thành bản chất của chiến pháp. Phải có một kế sách trọn vẹn nhất quán và hiệu nghiệm, đi từ quan niệm Nhân Chủ và Giải Thoát của chính ḿnh, những người đang tham dự cuộc chiến, tới luật pháp và việc tổ chức cuộc sống xă hội tốt đẹp tiến bộ, để vừa cuốn hút, vừa dung nạp nổi kẻ địch. Khi Dân địch, Quân địch đă về sống với ḿnh, th́ bằng mọi cách phải xóa ngay mặc cảm nơi ḿnh, nơi họ là kẻ thù địch của nhau trước kia. Phải sống làm sao cho họ tự cảm thấy họ thực sự gia nhập, và có bổn phận góp phần xây dựng cuộc sống lư tưởng mới của họ. Như vậy không những Chiêu là vẫy gọi, mà c̣n phải biết Dụng khả năng đóng góp của họ nữa, th́ mới thực sự “hóa địch thành ta”, mới hoàn thành được mục tiêu tối thắng của Toàn Diện Chiến Pháp.
TOÀN KỸ TIẾN PHẠT: Nói tới chiến tranh, dù chiến tranh mang nội dung và h́nh thái nào, th́ vấn đề kỹ thuật cơ giới chiến tranh cũng phải đặt ra. Chính kỹ thuật cơ giới là yếu tố tối quan trọng của chiến thắng. Tinh thần Quân, Dân có cao, chiến pháp dù hiệu nghiệm, chiến đấu có hăng say, nhưng vơ khí thô thiển, cũng rất dễ nhất thời thảm bại trước kẻ địch nắm được kỹ thuật chiến tranh cao hơn ḿnh. Nhất là thứ kẻ địch tàn bạo lấy mục đích chém giết làm định mức chiến thắng, th́ sự nguy hiểm không thể lường nổi.
Bởi đó trong Toàn Diện Chiến Pháp, vấn đề tinh thần chiến đấu và kỹ thuật chiến tranh, luôn luôn phải bổ xung hỗ trợ lẫn nhau. Chiến Pháp Toàn Diện không chấp nhận cuộc chiến tranh hủy diệt, nhưng không v́ vậy, mà vơ khí tinh xảo không được tích cực sáng chế. Trái lại, phải tận dụng sáng chế vũ khí ở tầm khoa học kỹ thuật tuyệt cao, để dùng cho chiến việc tiến phạt. Chỉ khác là không dùng những thứ vũ khí đó để tiêu diệt sinh mạng Con Người, mà nhằm vô hiệu hóa khả năng chiến tranh của đối phương, buộc đối phương không c̣n dám nghĩ tới việc dùng chiến tranh, để mong đạt tham vọng đen tối của họ. Làm cho hai bên cùng nỗ lực thi đua, tạo điều kiện cho dân chúng của ḿnh, có được một cuộc sống tốt đẹp ḥa b́nh phát triển. Khi nhận thức và mức sống của dân chúng ở hai bên trận tuyến thù địch đă đạt tới mức cao, th́ sự quan hệ sẽ dễ dàng chuyển từ sự thù hận đối đầu sang cảm thông đối tác, tương tác, hợp tác trong ḥa b́nh cùng phát triển êm đẹp.
Trên đây là lối nh́n tốt đẹp về một chiều diễn tiến của khoa học kỹ thuật cơ giới, khi cơ giới đă tiến tới cao độ, để làm cho không một phe đối nghịch nào c̣n dám nghĩ tới việc phát động cuộc chiến tranh kỹ thuật, có tính cách cùng bị hủy diệt nữa. Thực tế th́ các loại vũ khí kỹ thuật hạt nhân và hỏa tiễn, tuy đă giữ được địa vị “thủ thế”, không cho phép một cuộc chiến tranh quy mô toàn cầu nổ ra. Nhưng các cuộc chiến tranh bằng vơ khí quy ước cấp vùng, vẫn là mối nguy cho các nơi chậm tiến. Do đấy Toàn Diện Chiến Pháp buộc phải đề cập tới chủ trương Toàn Kỹ Tiến Phạt. Sau khi đă hoàn thiện các vấn đề văn hóa, xă hội, kinh tế, chính trị, quân sự, tức là kiện toàn nội bộ, nhằm Toàn Lượng Chiêu Dụng kẻ địch rồi, mà kẻ địch vẫn cố phát động chiến tranh, th́ lúc đó buộc phải dùng tới Toàn Kỹ Tiến Phạt.
Kỹ thuật cơ giới thời đại, đă đặt tới mức tạo ra những loại vũ khí có khả năng viễn kích, chính xác, nhắm đúng những mục tiêu, bất kỳ đối tượng ẩn núp nơi đâu, dù nằm sâu dưới ḷng đất, hay trong hang động thiên hiểm. Như vậy, việc tiến phạt được thực hiện theo Năm Kế Sách: Kế Sách Một: Thuần dùng kỹ thuật viễn kích để tiêu diệt cơ sở hậu cần và nguồn tiếp liệu, vơ khí, lương thực của địch. Kế Sách Hai: Vận động tâm lư, t́nh cảm của dân địch để họ chống đối lại với những chủ trương của địch. Kế Sách Ba: Tung cán bộ vơ trang, tuyên vận vào trong dân địch, nhằm biến dân địch thành dân ta. Ba kế sách trên nhằm mục đích “gây rối địch hậu”. Kế Sách Bốn: Chớp nhoáng tiêu diệt đầu năo của địch, bằng kỹ thuật tối tân chính xác, hay là thực hiện một cuộc đảo chính gọn nhẹ. Kế Sách Năm: Thiết lập một chế độ Tự Do Dân Chủ thật sự để toàn dân cảm nhận được, họ có quyền chủ động quyết định vận mạng của ḿnh và của đất nước, đáp ứng đúng với nhu cầu của người dân trong xứ, nhằm tiêu diệt tận gốc tinh thần thù địch c̣n sót lại trong ḷng mọi người.
TOÀN NHÂN ĐỊNH THẮNG: Mục đích tối hậu của Toàn Diện Chiến Pháp, không nhằm tiêu diệt sinh mạng Con Người, chỉ nhằm tiêu diệt sự ngu tối, cảnh bất công, mối khổ đau của Con Người. Nhất là tiêu diệt các chế độ độc tài, khủng bố người dân, và tiêu diệt tận gốc rễ tham vọng Đế Quốc thống trị Thế Giới. Để nhân loại cùng nhau Tự Do Tự Chủ kiến tạo một cuộc sống Nhân Chủ Nhân Văn thăng hóa toàn diện trên trái đất.
Bởi đấy Toàn Diện Chiến Pháp chỉ định giá trị thắng lợi, khi sự chết chóc tàn phá giảm tối đa, sự tự do và cuộc sống tốt đẹp đạt tới mức mong muốn. Như vậy có nghĩa là khi phát động chiến tranh, hoặc bị buộc phải chấp nhận một cuộc chiến, th́ Nhà Lănh Đạo Chiến Pháp, phải dự liệu bằng mọi cách, để tiết kiệm xương máu của ḿnh lẫn của địch. Cần giữ vững mục đích tối cao là phải “biến địch thành ḿnh”. Do vậy, “giết địch cũng là giết ḿnh”. Nên việc kiểm chứng thắng lợi của Toàn Diện Chiến Pháp mới lấy sự Toàn Nhân làm gốc. Nếu thắng trận bằng số xương máu khổng lồ của Con Người, th́ đó không gọi là thắng lợi của Toàn Diện Chiến Pháp nữa, mà đó chỉ là sự thắng lợi của sụ ngu muội tàn bạo phi nhân.
BẢN TÓM TẮT
CHIẾN PHÁP, CHIẾN LƯỢC, CHIẾN THUẬT
Căn Bản Chiến Pháp
Toàn Dân Tham Chiến
Toàn Thức Vận Huấn
Toàn Tài Ứng Dụng
Toàn Địa Bố Pḥng
Toàn Thế Chuyển Xử
Toàn Diện Tấn Công
Toàn Lượng Chiêu Dụng
Toàn Kỹ Tiến Phạt
Toàn Nhân Định Thắng
Căn Bản Chiến Lược
Trường Kỳ Kế Hoạch
Phân Đoạn Chiến Tranh
Bỏ Đất Giữ Dân
Tăng Trưởng Quân Lực
Cải Tiến Quân Khí
Quốc Tế Tiếp Vận
Dân Địch của Ḿnh
Biến Địch thành Ḿnh
Căn Bản Chiến Thuật
Thấu Triệt Quân T́nh
Nắm Vững Địa Thế
Vơ Trang Hiệu Nghiệm
Chuẩn Bị Thường Xuyên
Lựa Chọn Chiến Trường
Chủ Động Chiến Đấu
Hành Quân Thần Tốc
Dọn Trước Đường Lui
Phục Binh Lừa Địch
Tiến Đánh Bất Ngờ
Toàn Diện Nhất Điểm
Lấy Đông Đánh Ít
Chuyển Bại Thành Thắng
Lui Binh Kín Đáo
Hủy Bỏ Quân Tích
Cắt Đường Tiếp Tế
Triệt Đường Liên Lạc
Chận Đường Tiếp Viện
Phá Rối Địch Hậu
Cô Lập Địch Quân
Ly Tán Địch Nội
Tiêu Hao Địch Nhuệ
Tiêu Hủy Địch Lực
Tiêu Diệt Địch Năo
Căn Bản Chiến Đấu
Quân Dân Nhất Tín
Bảo Tồn Quân Mạng
Hứng Khởi Quân Tâm
Huấn Quân Từng Giây
Dẻo Dai Lanh Lợi
Dưỡng Quân Từng Phút
Kỷ Luật Nghiêm Minh
Giữ Ǵn Quân Dụng
Kỹ Thuật Tinh Thông
Chiến Đấu Quả Cảm
Tận Dụng Địa Thế
Tin Tức Chính Xác
Tản Quân Khi Yếu
Hợp Quân Lúc Mạnh
Tóm lại đối với Ḿnh phải: Kiện Toàn Quân Lực về khắp mặt, tinh thần, chiến pháp và kỹ thuật, để luôn luôn giữ thế chủ động chiến đấu lâu bền, quyết liệt mà nhân ái. Đối với Địch phải: Nhổ rễ, cắt thân, chặt cành, rồi mới bẻ lá của chiến tranh.
Lănh Đạo Chiến Pháp
Lấy Dân Làm Thân
Xem Quân Như Mạng
Uy Đức Trùm Khắp
Mến Dụng Nhân Tài
Toàn Diện Viên Dung
Tổ Chức Hiệu Nghiệm
Nắm Vững Thế Đứng
Cương Nhu Uyển Hóa
Xử Việc Sáng Lẹ
Quyết Trước Thành Bại
Lănh Đạo Chiến Lược
Biết Dân Biết Thế
Biết Thời Biết Cơ
Biết Ḿnh Biết Địch
Biết Tài Biết Dụng
Biết Cương Biết Nhu
Biết Ngưng Biết Chuyển
Biết Phân Biết Hợp
Biết Bỏ Biết Giữ
Chỉ Huy Chiến Thuật
Lấy Dân Làm Gốc
Lấy Quân Làm Mạng
Nghiêm Minh Quân Kỷ
Trung Thành Chiến Pháp
Nắm Vững Chiến Lược
Linh Động Chiến Thuật
Thắng Bại Trầm Tĩnh
Thấu Triệt Địch T́nh
Giữ Kín Nội Tạng
Làm Chủ Địa Thế
Liệu Trước Thời Tiết
Dàn Xử Trận Thế
Tai Mắt Cùng Khắp
Chỉ Huy Chiến Đấu
Lấy Dân Làm Quân
Lấy Quân Làm Mạng
Nắm Vững Chiến Thuật
Quân Pháp Nghiêm Minh
Thuần Phục Thượng Lệnh
Chăm Sóc Quân Dụng
Bí Mật Quân Vụ
Xa Ĺa Quyến Rũ
Từng Trải Chiến Trận
Am Tường Địa Thế
Thường Trực Pḥng Ngự
Thuộc Cách Địch Xử
Phản Ứng Mau Lẹ
Quân Nhân Chiến Đấu
Lư Tưởng Chiến Đấu
Kiến Thức Công Dân
Tương Lai Bảo Đảm
Sức Khỏe Đầy Đủ
Ư Chí Kiên Cường
Kinh Nghiệm Chiến Trường
Tôn Trọng Quân Kỷ
Kỹ Thuật Tinh Thông
Chiến Đấu Gan Dạ
Giữ Ǵn Quân Dụng
Tận Lực Giúp Dân
Yêu Thương Đồng Đội
Tin Mến Chỉ Huy
Bất Khuất Địch Thủ
Trên đây là những điều căn bản của Chiến Pháp, Chiến Lược, Chiến Thuật và Chiến Đấu trong khái niệm Chiến Tranh Toàn Diện, rút ra từ Cuộc Chiến Việt Nam vừa qua, và những sự can dự của Thế Giới đương đại. Lẽ cố nhiên có nhiều điều cần phải bổ xung và khai triển thêm về mặt Quân Sự. C̣n nếu đă coi Chính Trị là Chính Trường, Kinh Tế là Kinh Trường, th́ Toàn Diện Chiến Pháp vẫn có thể ứng dụng được, trong bất cứ môi trường nào có tính cách cạnh tranh được. V́ đó là thế cách sinh hoạt trong môi trường Đối Tác, Tương Tác, Hợp Tác, hoặc trong điều kiện Đối Nghịch, Đối Đầu, Đối Chiến. Nhưng dù phải ứng dụng vào bất cứ hoàn cảnh nào, th́ Tinh Thần Chủ Đạo của Toàn Diện Chiến Pháp cũng vẫn phải Lấy Con Người Làm Cứu Cánh, mới đáp ứng đúng với nhu cầu sống Tự Do, Tự Chủ và Sáng Tạo của Con Người, mới đi đúng với trào lưu thăng hóa của lịch sử Nhân Lọai, mới hợp với Nhân Chủ Đạo.
KẾT ĐỀ
Năm 1856, tiếng súng đại bác của Quân Pháp bắn vào cảng Đà Nẵng, nhắm buộc triều đ́nh vua Tự Đức không được cấm truyền đạo Thiên Chúa. Năm 1859, Nước Pháp của Napoléon III, chính thức chiếm đóng Gia Định, mở đầu chế độ Thực Dân thống trị Việt Nam. Từ đó Quốc Dân Việt Nam với t́nh tự dân tộc chống xâm lăng, đă lao vào cuộc đấu tranh giành Độc Lập không ngừng nghỉ. Đúng là một cuộc “Đấu Tranh Cách Mạng Trong Đêm Dài Thế Kỷ”, chỉ toàn những đau thương thất bại. Thực ra, nếu truyền thống Văn Hóa Dân Tộc, tinh thần và nhận thức viên dung đa tôn giáo không bị cắt ngang, th́ Việt Nam đâu có phạm vào lỗi lầm “bế quan tỏa cảng”. Chỉ biết có Đạo Nho của Trung Hoa là “khuôn vàng thước ngọc”, C̣n Tôn Giáo của người Tây Phương là “tà đạo” phải cấm đoán. Tạo ra lư cớ để cho Nước Pháp xâm chiếm, đặt ách Thực Dân lên Việt Nam.
Đúng là Việt Nam lâm vào cảnh mất hướng phát triển, mất khả năng thích ứng với chuyển biến mới của thời đại, để rồi rơi vào t́nh cảnh chỉ biết thù hận, chống trả. Chống không nổi th́ đành thua. Thua đây như vậy là các thế lực cầm quyền, đại diện của khuynh hướng cực đoan này, thua đi cho các khuynh hướng cực đoan kia tàn bạo hơn, c̣n Người Dân Việt Nam ở phía nào, cũng chỉ là nạn nhân khốn khổ mà thôi.
Khi Dân Tộc chưa phục hồi nổi nội lực tinh thần, chưa lấy lại được sự tự tin, chưa tạo nổi ư thức cho Toàn Dân nắm lại quyền chủ động, vẫn bị chi phối bởi các thế lực Quốc Tế, th́ không thể thoát khỏi thân phận Nhược Tiểu Quốc. Nên Việt Nam đă bị làm vật hy sinh cho khuynh hướng Đế Quốc này, loại trừ Đế Quốc kia. Cuối cùng đă thành “Thế Nước Việt Nam, Một Động Điểm Toàn Cầu”. Tạo điều kiện cho Thế Giới Tự Do chiến thắng Quốc Tế Cộng Sản. Nhưng riêng Việt Nam vẫn c̣n bị đặt dưới sự cai trị độc tài, tham ô, khủng bố của chế độ Cộng Sản Quái Hóa.
Cần phải phục hồi nội lực Quốc Dân bằng việc khai triển Văn Hóa của Dân Tộc, vốn đă hơn một lần đủ sức tránh khỏi bị đồng hóa khắc nghiệt về mọi mạêt của Đế Quốc Trung Hoa, kéo dài trên Ngàn Năm. Để vừa chiến đấu chống xâm lăng, vừa kiên tŕ thực hiện công cuộc viên dung tư tưởng, mở mùa Tự Chủ Quốc Gia, hội đủ yếu tố và khả năng kiến thiết một nền Văn Hiến Dung Hóa: Đa Nguyên, Phân Nhiệm, Điều Hợp, tiêu biểu cho những giá trị Văn Minh rực rỡ Đông Phương ở thời Lư Trần.
Vậy, phải phục hồi truyền thống Văn Hóa Dân Tộc, huy động nội lực Tự Do Quốc Dân, khởi thế Quốc Gia Chủ Động để cùng với Nhân Loại thực hiện công cuộc “Toàn Cầu Hóa” khắp mặt, th́ Việt Nam mới mong thoát khỏi thân phận làm “vật thí thân” cho các âm mưu Quốc Tế ! Đấy là đ̣i hỏi của t́nh thế Việt Nam hiện nay. Đấy là nhu cầu sống c̣n và phát triển của Quốc Dân. Đấy là trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Đấy cũng là mục đích được tŕnh bày trong Đề Cương Xây Dựng Việt Nam.
Thế Giới đă thực sự bước vào Thời Đại Nhân Chủ Nhân Văn, qua khuynh hướng Kinh Tế Thị Trường Tự Do Toàn Cầu Hóa, và toàn thể Nhân Loại đang tha thiết đ̣i hỏi phải Dân Chủ Hóa Toàn Cầu, để tất cả các Quốc Gia Tự Do Dân Chủ đủ khả năng chủ động đối tác, tương tác, hợp tác trong ḥa b́nh phát triển. Các h́nh thái Đế Quốc, các chế độ Độc Tài đều bị loại bỏ. Các Quốc Gia nhỏ trong một khu vực, cùng có nhu cầu thiết lập Khối An Ninh Chung để cùng Phát Triển Kinh Tế, nhằm làm quân bằng thế Cường, Nhược. Bảo vệ đặc tính Đa Dân Tộc, Đa Văn Hóa trong mỗi Xă Hội Tự Do Điều Hợp.
Dân Tộc Việt Nam đă gặp không biết bao ngang trái, bất hạnh, khổ đau, do đủ loại Đế Quốc gây ra. Nhưng đều có thể vượt lên, để sống hùng, sống mạnh, sống đúng, đó là nhờ nơi sức mạnh tinh thần, mà cỗi gốc tư tưởng đă có ngay từ Khởi Nguồn Dân Tộc, cũng như qua các thời Dựng Nước, Giữ Nước, đều nhất quán đặt trên nền tảng “Lấy Con Người Làm Cứu Cánh” cho suy nghĩ, hành xử và tổ chức cuộc sống Xă Hội, Kinh Tế, Chính Trị, Quân Sự.
Về mặt Tư Tưởng, trong khi các Dân Tộc cùng thời, đều tôn thờ các vị Thần Linh Vô H́nh làm Thần Tổ, th́ Việt Tộc tôn chính Con Người là Cha Mẹ của ḿnh, Lạc Long Quân và Âu Cơ làm Thần Tổ Dân Tộc. Trong khi các Quốc Gia Phong Kiến đều coi Dân như kẻ “Tôi Tớ”, th́ Thần Vương Lạc Long Quân dậy Dân biết tôn trọng giá trị Con Người, biết sống lễ nghĩa, biết bảo toàn Gia Đ́nh, biết cách trồng cấy. Rồi trao quyền cho các Tộc Trưởng “trực trị”, hướng dẫn lấy con em ḿnh, sống trong Xă Hội T́nh Nghĩa Đồng Bào Gia Tộc. Trước sức xâm lăng của Đế Quốc Hạ Vũ Phương Bắc cực vi, hung bạo, lấn chiếm bờ cơi, khi phải lựa chọn, th́ Việt Tộc đă quyết định hết sức Người là “Bỏ Đất Giữ Dân”. Cả Dân Tộc thực hiện cuộc sống Di Cư Vĩ Đại trên Bảy Trăm Năm tiến về Phương Nam nắng ấm. Tất cả những sự kiện đó cho thấy “Bản Chất Tư Tưởng của Việt Tộc là Nhân Chủ”.
Nhân Loại đang tiến lên thực hiện cuộc sống Nhân Chủ Nhân Văn toàn diện, đây đúng là thời cơ rất thích hợp cho truyền thống Nhân Chủ Đạo của Việt Tộc bừng sáng lại, để tận lượng phát huy, đóng góp kinh nghiệm sống thực của Dân Tộc ḿnh, đă trải qua gần Năm Ngàn Năm vào với tiến tŕnh thăng hóa của lịch sử Nhân Loại. Từ Bản Chất Nhân Chủ Việt, được bổ sung bởi Biện Chứng Nhân Chủ Phật, suốt cả Ngàn Năm Bắc Thuộc, đă hướng dẫn Việt Nam vừa chiến đấu vừa viên dung được các luồng tư tưởng trái ngược của Trung Hoa và Ấn Độ, tạo thành những nét cá biệt trong t́nh cảm, suy tư và lối sống, khiến cho dù bị thống trị tàn ác lâu ngày bởi khuynh hướng trường kỳ đồng hóa khắc nghiệt của văn minh Trung Hoa, Người Việt vẫn giữ được bản sắc và Cá Tính Việt, hoàn toàn khác biệt với Cá Tính Tầu. Cuối cùng lấy lại được Chủ Quyền Dân Tộc, Thiết lập nổi một nền Văn Hiến Dung Hóa: Đa Nguyên, Phân Nhiệm, Điều Hợp dài lâu, từ đầu Thế Kỷ thứ 10 đến Thế Kỷ 14.
Hiện nay Nhận Thức Viên Dung Đa Tôn Giáo, Đa Tư Tưởng, Đa Văn Hóa, Đa Dân Tộc, Đa Chủng Tộc, rất cần với Nhân Loại đang buộc phải sống thuận ḥa tương tác với nhau, trong tiến tŕnh Toàn Cầu Hóa Khắp Mặt. Nếu không có lối Nhận Thức Viên Dung Toàn Diện đó, th́ việc Ṭan Cầu Hóa cũng lại chỉ là một ước mơ. Rồi cũng sẽ rơi vào sự tha hóa, như quan niệm Đại Đồng Không Tưởng trước đây.
Việc kiến tạo “Mái Nhà Chung” của Nhân Loại, đương nhiên cũng không thể làm khác hơn là phải xây dựng trên một nền Văn Hiến Dung Hóa: Đa Nguyên, Phân Nhiệm, Điều Hợp, nhằm tổ chức một Xă Hội Nhân Chủ Tự Do Điều Hợp, một nền Kinh Tế Hữu Sản Tự Do Điều Hợp, một nền Chính Trị Dân Chủ Tự Do Điều Hợp, để mỗi một Quốc Gia Dân Chủ Tự Do đủ tự tin, đủ điều kiện phát triển, để Chủ Động gia nhập tiến tŕnh Điều Hợp Toàn Cầu Hóa.
Để kiến tạo lại Ngôi Nhà Dân Chủ Việt Nam, th́ ba việc cần phải tiến hành song song là xây nền, dựng cột, lợp nóc. Đương nhiên là phải giữ những nguyên tắc xây dựng của Nền Văn Hiến Dung Hóa: Đa Nguyên, Phân Nhiệm, Điều Hợp được chủ đạo bởi Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn.
Ngôi Nhà Dân Chủ phải có “nền móng vững chắc” từ Quốc Dân, muốn vậy cần thực hiện ngay chế độ Dân Chủ Trực Tiếp tại Xă, Phường là đơn vị Hành Chánh gốc của Nước. Dân chúng tự bầu ra những người quản trị, và được quyền truất nhiệm họ theo luật. Tạo ư thức Dân Chủ cụ thể ngay trong sinh hoạt Chính Trị, Kinh Tế, Xă Hội, để mỗi người dân nắm bắt được chính ḿnh thực sự đang làm chủ vận mệnh của ḿnh và đất nước.
Tổ chức và phát triển các Đoàn Thể Xă Hội Công Dân là Tự Do Tôn Giáo, Tự Do Truyền Thông, Tự Do Đảng Phái, Tự Do Nghiệp Đoàn rộng khăùp nước. Đây là “bốn trụ cột chính” của Ngôi Nhà Dân Chủ. Các tập thể này, vừa là sức mạnh, vừa là môi trường, vừa là sự bảo đảm hữu hiệu cho quyền tối thượng của người dân là tự do phát biểu, bày tỏ ư kiến, thái độ của công dân qua: Báo, Đài, Hội Thảo, Biểu T́nh, Lá Phiếu.
Tổ chức Chính Quyền Trung Ương “Tam Quyền Phân Lập” : Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp, và “Tam Quyền Tư Vấn” : Văn Hóa, Kinh Tế, Nghiệp Vụ, được phân nhiệm bởi Hiến Pháp và Luật Pháp Dân Chủ Tự Do Điều Hợp, để lănh đạo và điều hành mọi sinh hoạt Quốc Gia, đối nội cũng như đối ngoại. Đây là “thượng tầng kiến trúc” của Ngôi Nhà Dân Chủ Quốc Gia.
Ngôi Nhà Dân Chủ Quốc Gia, phải được kết gắn với nhau bằng “chất keo bền dẻo” vững chắc mà có tính đàn hồi, đó là Luật Pháp Dân Chủ Điều Hợp, từ đó Ngôi Nhà Dân Chủ Việt Nam, hẳn sẽ toát lên sức mạnh bền vững, vẻ đẹp trang trọng, hài ḥa của tinh thần viên dung thăng hóa. Nên, việc Điều Hợp phải hoàn toàn do Luật Pháp Dân Chủ Chủ Đạo, chứ không c̣n do ư chí, chủ kiến, tham vọng cá nhân, đảng phái, tôn giáo quyết định như thời Phong Kiến, thời Cộng Sản và thời “Gia Trưởng khoác áo Dân Chủ” nữa. Chữ Điều Hợp được dùng ở đây, cần hiểu đó là Luật Pháp, Trọng Pháp và Pháp Trị.
Trên đây là những nét chính trong việc h́nh thành một Nước Việt Nam Mới, về chi tiết, nhằm hoàn chỉnh nội dung, và việc vận động ứng phó, thuộc về trách nhiệm của mỗi chúng ta, cần cùng nhau bắt tay vào việc, th́ mới thấy ra được những việc nên làm, những điều phải sửa đổi. Nhưng có lẽ, với những nét chính về lối Nhận Thức Viên Dung Toàn Diện của thời đại Nhân Chủ Nhân Văn và Nền Văn Hiến Dung Hóa: Đa Nguyên, Phân Nhiệm, Điều Hợp, cũng đă gợi ra trong mỗi người chúng ta có số khái niệm chung, để Xây Dựng Việt Nam rồi vậy.
Chấm dứt bản thảo
Little Saigon, California, Hoa Kỳ
20 giờ 30, ngày 23-08-2002
LƯ ĐẠI NGUYÊN
======================================================================
PHỤ ĐÍNH
NÓI CHUYỆN VỚI NHÀ VĂN
LƯ ĐẠI NGUYÊN
TÁC GIẢ CỦA TÁC PHẨM ĐẠO HỌC
TỔNG THỨC VẬN
NGUYỄN MẠNH TRINH
H: Xin anh cho một vài ḍng về tiểu sử của ḿnh ?
Đ: Tôi sinh năm 1930, trong gia đ́nh Nho học Lương y. Lớn lên trong đầu mùa Độc Lập Dân Tộc, sớm lao ḿnh vào cuộc Kháng Chiến, nhưng cũng sớm nhận ra tư tưởng Duy Vật, chủ nghĩa Cộng Sản là một sản phẩm lư luận tuy gang thép, mà hoang tưởng, mê sảng, nguy hiểm cho Con Người và Dân Tộc. Nên 1952 bỏ khu chiến về thành, để có thời gian trao dồi kiến thức. Tuy nhiên máu đấu tranh c̣n nóng. Tôi đă gia nhập Mặt Trận DÂN CHỦ là sự tập họp của các đảng cách mạng Việt Nam, gồm Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đại Việt Quốc Gia Xă Hội Đảng. Đại Việt Quốc Dân Đảng. Đại Việt Duy Dân Đảng. Trực thuộc chi bộ Chủ tịch Mặt trận của lănh tụ Nguyễn Xuân Tiếu.
Tuy đă viết lách trong thời Kháng Chiến, nhưng đến năm 1957 mới chính thức gia nhập mặt trận truyền thông báo chí và văn học tại Miền Nam Việt Nam: 1957- Viết B́nh Luận cho báo Tân Dân. 1963- Chủ Nhiệm nhật báo Tin Sáng. 1968- Chủ bút báo Dân Chủ. 1972- Chủ bút nhật báo Sóng Thần. Năm 1975- Cộng Sản bắt bỏ tù trên 10 năm. Sống tiếp tục với chế độ Cộng Sản toàn trị thêm 10 năm nữa. Năm 1995, tới định cư tại Little Saigon, Hoa Kỳ. Tiếp tục xử dụng ng̣i bút để cùng với người Việt trong và ngoài nước đánh tan tư tưởng và chế độ Cộng Sản Mê Sảng, Độc Tài, Ô Lậu. Sách xuất bản trước 1975 gồm: Ḍng Vận Động Cách Mạng Việt Nam. Ḍng Sinh Mệnh Văn Hóa Việt Nam. Nền Nhận Thức Nhân Chủ Toàn Triển. Sách xuất bản tại Hoa Kỳ: VIỆT NAM DÂN TỘC BỊ ĐỌA ĐẦY 1998. TỔNG THỨC VẬN 2000. Chuẩn bị xuất bản Đề Cương Xây Dựng Việt Nam 2002.
H: Anh làm việc ở nhiều điạ hạt, nên là một khuôân mặt đa diện. Vậy những công việc nào tiêu biểu nhất cho chân dung Lư Đại Nguyên ?
Đ: Có lẽ nhiều người đọc biết tới Lư Đại Nguyên qua những bài viết B́nh Luận Chính Trị. C̣n chân dung ḿnh muốn đạt thành th́ có mấy ai đă được như ư.
H: Với tác phẩm mới in TỔNG THỨC VẬN, anh có vẻ là một nhà Tư Tưởng hơn là một Nhà Văn. Và là một nhà tranh đấu cho Nhân Quyền hơn là một Chính Trị Gia?
Đ: TỔNG THỨC VẬN là một tác phẩm Đạo Học đúc kết, dung hóa tiến tŕnh trên 5000 năm của tư tưởng Nhân loại, gần 5000 năm tư tưởng Việt Nam và có phần đóng góp viễn kiến của tác giả. Vậy Lư Đại Nguyên không thể không nhận là người viết về tư tưởng, c̣n dư luận có nh́n nhận như thế hay không th́ không dám can thiệp. Về phần Nhà Văn th́ LƯ ĐẠI NGUYÊN vẫn phải dùng văn chương để nói lên những ǵ ḿnh muốn nói, sự đánh giá hoàn toàn do nơi người đọc.
Tôi đă có một quyết nhận VĂN HÓA CHỦ ĐẠO cho mọi lănh vực Xă Hội, Kinh Tế, Chính Trị và mọi sinh hoạt khác của Con Người. Vậy th́ tùy duyên mà ứng xử, khi th́ là nhà Cách Mạng, khi th́ nhà Chính Trị, khi là Người Cầm Bút, khi th́ tranh đấu cho Nhân Quyền, miễn sao đi đúng hướûng chủ đạo của Văn Hóa là được rồi.
H: Anh giới thiệu với độc giả “NHÂN CHỦ ĐẠO” trong tác phẩm này ?
Đ: Tư tưởng quán suốt của tác phẩm Tổng Thức Vận là Nhân Chủ Đạo. Lấy Con Người làm đối tượng suy nghiệm, lấy Con Người làm thước đo trong tiến tŕnh lịch sử. Con Người đạt mức cao diệu nhất hiện nay trong tiến tŕnh hằng hóa, thăng hóa của Vũ Trụ. Theo Tổng Thức Vận chính Con Người mới là Nguyên Nhân Lịch Sử Nhân Loại, chứ không thể đứng ngoài đ̣i làm chứng nhân lịch sử của chính ḿnh của dân tộc ḿnh và của nhân loại, cũng đừng nên than là nạn nhân của lịch sử. Con Người là Nguyên Nhân Lịch Sử, và là Cứu Cánh của mọi sinh hoạt xă hội, chính trị, kinh tế, khoa học, nói tóm là Cứu Cánh của Văn Hóa. Chỉ có Xă Hội Loài Người mới tạo nổi cuộc sống Văn Hóa, tức là Nhân Văn Sáng Tạo, chưa có một sinh loại nào trên trái đất này làm nổi điều đó
H: Anh có ảnh hưởng nào từ những tư tưởng Việt Nam của Lư Đông A, Trương Tử Anh, Huỳnh Phú Sổù…trong việc đúc kết thành Nhân Chủ Đạo ?
Đ: Các vị đó đều là anh hoa của Việt Nam triển nở ở thập kỷ 40, 50. Nhưng không may mắn cho tôi là chưa được gặp, và khi tôi viết Tổng Thức Vận, tôi cũng không được đọc những tác phẩm của quư ngài.
H: Có người cho rằng: Anh có khuynh hướng Đại Việt Duy Dân. Điều ấy chính xác thế nào?
Đ: May mắn là tôi cùng họ với lănh tụ Lư Đông A. Những bài luận thuyết của tôi đều nêu cao tinh thần Dân Tộc Việt như cụ. Ngay như chữ “Dân Tộc Việt” mà tôi vừa dùng, cụ Lư cũng ưa dùng theo cách đó. Tuy cách nhau 10 tuổi, hai chúng tôi chưa gặp nhau, mà suy nghĩ nhiều điều trùng hợp, nên nhiều người cho tôi thuộc khuynh hướng Đại Việt Duy Dân cũng không là lạ, v́ ai đă hội nhập vào truyền thống Văn Hóa Dân Tộc, đều có những suy tư tương ứng, tương đồng như nhaụ. Thậm chí tôi lại đă từng sinh hoạt thân thiết với thế hệ thứ nhất của anh em Duy Dân trong Mặt trận Dân Chủ nữa.
H: Sự thúc đẩy nào đă làm cho anh viết TỔNG THỨC VẬN ? H́nh như anh viết từ năm 1962 ?
Đ: Trong không khí đầu mùa Kháng Chiến 46 - 51, đi tới đâu cũng nghe giới Thanh Niên bàn thảo về các đề tài Duy Tâm, DuyVật. Nào là Duy Vật Biện Chứng, Duy Vật Sử Quan. Hẳn nhiên là ít người biết chính xác được những chữ nghĩa đó nó nói lên cái ǵ? Ảnh hưởng của nó thực sự ra sao? Bàn để mà bàn. Căi nhau rất dữ tợn, nhưng cũng không đi tới đâu.
Riêng tôi lúc đó c̣n hơi nhỏ, nên không đủ chữ nghĩa để chính thức tham gia các cuộc tranh căi. Nhưng đặc biệt mỗi khi nhắc tới, nghĩ tới hai chữ “Duy Vật”, là tôi có một cảm tưởng và cảm giác, như bị nhúng đầu vào thùng hắc ín. Nó bực bội, ngộp thở, bứt rứt sao sao ấy? Từ đó tôi quan tâm tới việc t́m ra một luận cứ nào đó để đánh đổ nó. Với những lập luận của Duy Tâm th́ mơ mơ màng màng, chỉ đủ làm cho Duy Vật đưa ra đả phá. Không thể bẻ gẫy được Duy Vật Sử Quan, mà Cộng sản gọi là “Lẽ tất yếu khách quan của Lịch sử”, Chính lối ngụy biện đẽo gọt lịch sử của Duy Vật Sử Quan cho hợp với chủ quan của Duy Vật Biện Chứng, đă làm cho người nghe thấy nó khoa học và hợp lư. Khó ḷng bẻ gẫy. Tôi thực sự quan tâm tới sử học, để t́m ra những sơ hở nhất định phải có của luận cứ Duy Vật Sử Quan. Chính v́ vậy ngay trong phần đầu của Tổng Thức Vận vấn đề đó đă được nêu ra và giải quyết dứt điểm. Đánh đổ hoàn toàn Biện Chứng Duy Vật Sử Quan của Cộng Sản.
Nếu nói là Giác Ngộ Nhân Chủ Đạo th́ đây là vấn đề tôi đă đạt tới đầu tiên. Câu chuyện xẩy ra giữa tôi với vị sư đứng tuổi trong vùng Kháng Chiến. Khi vị sư đó đưa cho tôi đọc bản dịch KINH KIM CƯƠNG của nhà Phật. Tôi đọc một mạch ngay trước mặt vị sư . Có lẽ trạng thái đọc của tôi sao đó, làm vị sư đó chú ư. Nên khi vừa đọc hết. Vị sư lên tiếng hỏi:
- Cậu có hiểu kinh nói ǵ không?
- Thưa tôi hiểu. Nhưng có một điều tôi không hiểu.
- Cậu không hiểu điểm nào?
- Kinh này triệt để phá chấp. Phá tất cả mọi thứ chấp. Triệt để phá “Kiến chấp”. Quyết liệt nhất là phá “Ngă chấp”. Nhưng sao lại dùng loại Kim Cương cực rắn không thể phá để đặt tên cho Kinh?
- Cậu hỏi tôi, tôi biết hỏi ai đây?
Câu hỏi ngược, kèm theo một nụ cười rất Phật trên ṭa sen của vị sư, làm tôi chợt hiểu. “Phải tự hỏi chính ḿnh thôi!” Đúng là Phật tại Tâm. Phật tức Tâm. Tâm tức Phạât. NHÂN CHỦ ĐẠO hiển hiện trong tôi. Đó là nền móng, là tư tưởng quán suốt, là biện chứng của TỔNG THỨC VẬN và cũng là sự kiểm chứng giữa lư luận với thực tại, dù là của tôi hay của bất cứ một lư thuyết nào khác, mà tôi có duyên t́m hiểu.
Đúng là TỔNG THỨC VẬN ngưng viết vào ngày 8 tháng 7 năm 1962 tại Đại Lăo Sơn Bảo Lộc Việt Nam.
H: Mục đích của anh lúc ấy ? Và bây giờ, năm 2000, có thay đổi không khi xuất bản ?
Đ: Mục đích của TỔNG THỨC VẬN măi không thay đổi. V́ chỉ nhắm mục đích triển khai Nhận Thức toàn diện cùng khắp, mà trong mỗi người chúng ta đều có. Từ đó giúp Con Người có lối nh́n chính xác hơn trong khắp mặt thực tại.
H: Thông thường, suy tư và cảm nhận sẽ thay đổi tùy theo không gian và thời gian, nhất là sẽ khác biệt tùy theo tuổi tác, môi trường sinh sống. Thế mà tới bây giờ, anh vẫn thừa nhận những điều đă viết từ gần bốn chục năm nay. Có phải anh đă t́m ra được những điều gần nhất với chân lư vào lúc đó?
Đ: Tôi chỉ là người đến sau của những suy tư, những lư thuyết, những đạo lư do những người đi trước đă đề ra, khai phá, tin nhận, chống đối, và t́m các phương án giải quyết, có thành, có bại. Cũng như các cuộc Tổng Hợp Dung HóaTư Tưởng đă xuất hiện trong quá khứ, để đem vào triển khai tâm linh và tổ chức cuộc sống, đă tạo ra các nền Văn Hóa của các Dân Tộc và các nền Văn Minh khu vực. Nay Nhân loại gặp nhau trên toàn thế giới, nếu muốn có một cuộc sống an lành, ḥa b́nh, phát triển th́ cũng không làm khác hơn là phải có một cuộc Tổng Hợp Dung Hóa Tư Tưởng rộng khắp. Mà phải lấy Con Người làm mẫu số chung, th́ mới đáp ứng nổi nhu cầu thăng hóa của lịch sử, đi từ trạng thái Mặc Thức Nhân Nhiên sống theo bản năng sinh tồn. Qua Ư Thức Nhân Loại sống với ư thức chủ quan chia cắt , xuất hiện đủ loại Quan Niệm Duy. Sang Nhận Thức Nhân Văn với một nền đạo lư Nhân Chủ Tổng Hợp Dung HóaThăng Hóa khắp mặt.
Chính v́ dơi bước theo lịch sử và kiểm nghiệm của các bậc đạo sư, triết nhân đi trước, với những ảnh hưởng tốt có, xấu có, thành có, bại có, và những chuyển biến trong thực tế cuộc sống đổi thay của thế giới thời đại, dù những điều viết ra trong Tổng Thức Vận không bao giờ được quyền tự nhận là chân lư tuyệt đối bất biến, không thể thay đổi. Nhưng ở đó t́m thấùy nguyên tắc viên dung tư tưởng, để dung hóa thành đạo học, hướng dẫn cho nhu cầu sinh họat Tự Do Điều Hợp của mỗi người trong mọi tổ hợp trên toàn thế giới. Thế nên trong giai đoạn nhân loại tiến vào thời đại Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn trên toàn cầu này, th́ những suy nghiệm trong Tổng Thức Vận, vẫn chưa bị mất thời gian tính.
H: Thời thế, hoàn cảnh chính trị, không ảnh hưởng đến suy nghĩ của anh ? Hoặc tiến tŕnh quy luật đều bất biến, theo anh?
Đ: Thời thế, hoàn cảnh chính trị luôn luôn ảnh hưởng tới suy nghĩ của tôi chứ. Nhưng đó chỉ là nhất thời. Một khi đă quán đạt được nguyên lư Hằng Hóa của Vũ Trụ, nguyên tắc Thăng Hóa của lịch sử Vạn Hữu và Nhân Loại, khả năng Dung Hóa của tư tưởng Con Người, th́ thấy được lộ tŕnh trường cửu của tất cả. Thế th́ đâu có ǵ phải khẳng định, gọi là bất biến hay biến hóa trong tiến tŕnh thăng hóa tự nhiên. Chính v́ biết được sự biến dịch vĩnh hằng đó, mà thấy được những giai đoạn phải đi qua của chính ḿnh và lịch sử theo “lư nhân duyên quả” của từng hiện tượng, từng vấn đề, để từ đấy đưa ra viễn kiến, th́ sẽ vượt khỏi những ảnh hưởng nhất thời. Nối nổi nhất thời vào với trường cửu.
H: Có phải “Nhân Chủ Đạo” nẩy sinh từ những đấu tranh quyết liệt giữa hệ thống Duy Thần và Duy Vật?
Đ: Như trên tôi đă thưa, v́ dị ứng với Duy Vật, mà tôi đă t́m tới Nhân Chủ Đạo. Nhưng c̣n người khác th́ có thể nẩy sinh ra bởi sự tranh chấp đó.
H: Theo anh, phong trào Hiện Sinh là một cách thế đối kháng tiêu cực với sự hệ thống hóa tư tưởng Duy Thần hoặc Duy Vật? Anh có thể giải thích rơ hơn, vàø “Nhân Chủ Đạo” là cách đề kháng tích cực? Có sự khác biệt nào giữa tiêu cực và tích cực của “Nhân Chủ Đạo và phong trào Hiện Sinh?
Đ: Đúng, phong trào hiện sinh là sự đề kháng quyết liệt với các Tư Tưởng có Hệ Thống, và cho cuộc đời là một chuỗi hợp lư, tạo thành các tập thể dữ tợn, tước đoạt mất sự tự do tuyệt đối của Con Người, nhưng không đưa ra một giải pháp nào cho Con Người thực hiện sự tự do tuyệt đối đó. Nhân Chủ Đạo là đường sống của Con Người, đường phát triển của Xă Hội, đường thăng hóa của Lịch Sử. Bởi vậy tập trung vào việc t́m thế cách giải quyết hơn là đề kháng. Tiêu Cực là Phá Hoại, Buông Xuôi và Tích Cực là Phấn Đấu, Xây Dựng. Nếu hiểu theo nghĩa đó th́ Nhân Chủ Đạo là tích cực.
H: Với chủ điểm là suy tư về con người, từ lịch sử sơ khai cho đến giờ, rồi đến sự nhận thức, qua vũ trụ quan nghĩ về trời đất, liên tưởng tới bản thể, rồi t́m hiểu đời sống con người và xă hội, để có ư tưởng về văn hóa của nhân loại, để nẩy sinh ra ư tưởng về tự do dân chủ là con đường anh đă đi qua để viết Tổng Thức Vận?
Đ: Đúng vậy.
H: Những suy tư về chiều sâu ấy cũng rất dễ làm độc giả bị lạc trong rừng, chỉ nh́n thấy toàn cây mà không thấy bầu trời, Vậy làm thế nào để hiểu tư tưởng này ở sự đơn giản nhưng chính xác nhất?
Đ: Nhân Chủ Đạo đặt Con Người Tự Do, Tự Chủ, Sáng Tạo làm gốc. Xin người đọc hăy quay vào hỏi chính ḿnh. Đặt ḿnh vào thực tại. Đặt ḿnh vào hoàn cảnh của đối tượng hoặc đối phương. Đặt ḿnh vào công việc, sự việc của thực tế, để thấy nhu cầu và t́m ra cách giải quyết hữu hiệu nhất, khiến cho không hại ḿnh, hại người và hại vật, cùng giúp nhau thăng hóa. Coi việc đọc Tổng Thức Vận chỉ là sự gợi ư cho ḿnh, th́ sẽ thấy rơ mặt tất cả, dù cho đó là sự bí hiểm tới mấy cũng thấu suốt.
H: Làm thế nào để lư thuyết vượt qua đựơc thành thực hành. Anh có suy nghĩ phương thế để thực hiện điều ấy. Và trong cuộc đời tranh đấu của anh đă áp dụng như thế nào?
Đ: Tổng Thức Vận vốn không phải là mớ lư thuyết suông, hay là một thức thuyết cao siêu đầy bí ẩn mầu nhiệm, mà là tiến tŕnh Tâm Thức của Nhân Loại đă đi qua, phải đi tới. Từ Mặc Thức Nhân Nhiên qua Ư Thức Nhân Loại tới Nhận Thức Nhân Văn, mở ra một Xă Hội Toàn Cầu Hóa khắp mặt. Chính các nước đi trong tiến tŕnh tự nhiên với sự vấp váp cũng đương nhiên. Là các nước Dân Chủ Tự Do, lại là những nước đang tiến vào cuộc sống Dân Chủ Tự Do Điều Hợp Toàn Cầu Hóa vững vàng nhất. Ngược lại những nước dùng ư chí chủ quan, với ư thức chủ quan, như chủ nghĩa Cộng Sản mê sảng, th́ đă bị sụp đổ trong mưu đồ Thống trị Toàn Cầu Đại Đồng Hóa.
Nói như vậy không có nghĩa là phó mặc tự nhiên. Khi đă biết Con Người là Nguyên Nhân Lịch Sử th́ sự nhận thức đúng, vận động chính xác, sẽ góp phần đẩy mạnh tiến tŕnh Nhân Chủ Nhân Văn sớm thành đạt. Khi đă là Xă Hội Toàn Diện th́ cuộc vận động cũng phải toàn diện, nhưng chủ yếu là Thế Giới Nhân Văn th́ Văn Hóa phải là chủ đạo. Chính trị phải là Chính trị biểu hiện của yếu tính Nhân Văn. Kinh tế cũng phải là nền Kinh Tế Tri Thức Nhân Văn tiến bộ khắp mặt, nhằm phụng sự Con Người chứ không phải đẩy Con Người vào cảnh Nô Lệ Vật Chất. Phương tiện của Văn Hóa là khả năng khoa học, truyền thông và tin học mau lẹ rộng khắp bao trùm địa cầu sẽ dễ dàng tiếp giúp cho Nhận Thức đúng của Con Người Thời Đại trao gởi cho nhau. Những nước đi trước kéo các nước đi sau, Dân Chủ Hóa chế độ, Tự Do Hóa Xă Hội, Tư Hữu Hóa Kinh tế. Giúp mọi người tự do ư thức được trách nhiệm điều hợp cuộc sống để cùng nhau ḥa b́nh phát triển. Tùy hoàn cảnh của từng nước, để tiến hành các cuộc vận động khác nhau cho hợp với nhu cầu thực tế.
H: Anh có tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của Dân Tộc chúng ta? Và con đường nào anh theo để đạt mục đích đó.
Đ: Tôi có niềm tin mănh liệt vào tương lai tốt đẹp của Dân Tộc Việt ta. V́ trong quá khứ Dân Tộc ta đă thành công rực rỡ trong một cuộc Tổng Hợp Dung Hóa ba luồng tư tưởng lớn trái nghịch nhau là Phật, Lăo, Khổng để mở mùa tự chủ, dựng thành nền Văn Hiến Việt Nam, đại diện trọn vẹn cho nền Văn Minh Thảo Mộc Đông Phương. Rồi 4 thế kỷ nay phải nhận thêm các trào lưu tư tưởng Tây Phương với tất cả những điểm tốt, xấu và quái hóa của chúng. Tạo ra thảm cảnh mà chúng ta đang gánh chịu hiện nay. Nhưng một khi Dân Tộc có Tự Do, Dân Chúng có Tự Chủ th́ sẽ triển khai được truyền thống Dung Hóa của Dân Tộc làm thay đổi Thân Phận Dân Tộc và cuộc sống của toàn dân rất mau lẹ. Vậy mục tiêu chính hiện nay của Quốc Dân là phải tích cực đấu tranh và vận độâng sức mạnh toàn thế giới để Dân Chủ Hóa chế độ. Đó là nhu cầu và điều kiện để cho Toàn Dân xây dựng Xă Hội Nhân Chủ Nhân Văn theo kịp Thế Giới thời đại
H: Tới đây, mọi người đều cho rằng: Dân tộc Việt Nam cần phải ḥa hợp để ḥa giài dân tộc. Như vậy, có gần với lư thuyết của anh với sự dung hóa? ( Chịu đựng bao dung để chuyển hóa người, nếu khác tŕnh độ nhận thức).
Đ: Ư nghĩa của Dung Hóa không phải là sự ḥa giải, ḥa hợp giửa các phe phái chính trị đối nghịch là tạm giải ḥa để ngồi chung với nhau một chiếu. Dung Hóa là bao dung lẫn nhau, đăi lọc tinh túy, để thành một hiện tượng mới. Như khinh khí, dưỡng khí dung hóa cùng nhau để thành nước. Nước, lúc này là thể lỏng chứ không c̣n ở thể khí nữa, nhưng khi phân chất ra, chúng vẫn có thể trở về bản chất khinh khí và dưỡng khí, thuộc thể khí như cũ.
Cũng vậy, khi cuộc Dung Hóa giữa Tam Giáo: Phật, Lăo, Khổng thành Văn Hiến Việt Nam. Thành nếp sống, bản tính người Việt. Ví dụ như đạo Phật lúc đó, đă là đạo Phật Việt Nam, có bản chất dung hóa của Việt Nam và những đặc tính tốt đẹp của Lăo, Khổng làm cho người theo đạo Phật Việt Nam, khác với những người theo đạo Phật ở các nước khác. Thế nên mới có hiện tượng Thiền sư Vạn Hạnh thời Lư, cũng như Tuệ Trung Thượng Sỉ đời Trần viên dung tam giáo chỉ đạo Quốc Dân. Làm nên những thành công phạt Tống b́nh Chiêm thời Lư. Ba lần chiến thắng Mông Cổ đời Trần của Dân Tộc Việt Nam.
Khi công cuộc dung hóa chưa trọn vẹn th́ việc ḥa giải ḥa hợp Dân Tộc cũng là một điều cần thực hiện. Nhưng phải hiểu, đây là sự Ḥa Giải Ḥa Hợp Dân Tộc, chứ không phải là sự ḥa giải giữa hai thế lực Quốc, Cộng. V́ hai thế chất đó hoàn toàn khắc chế lẫn nhau, như nước với lửa. Chỉ một bên được tồn tại mà thôi. Chính v́ vậy, mà sau khi Cộng Sản chiếm trọn đất nước. Chỉ một năm sau chúng đă phải tự bỏ lốt Dân Tộc, để hiện nguyên h́nh Cộng Sản, khống chế, toàn trị, đàn áp, bóc lội dân chúng cả hai Miền Nam Bắc. Lúc đó công cuộc Ḥa Giải Ḥa Hợp Dân Tộc giữa Dân Chúng hai miền mới thực sự bắt đầu. Toàn Dân nhận chân được ḿnh là kẻ bị Cộng Sản thống trị đàn áp bóc lột. Tất cả đều có một đối thủ chung là Cộng Sản, cần phải tiêu diệt. Sự cảm thông giữa người trong nước với nhau, nhận nhau là cùng một Dân Tộc bị trị, T́nh nghĩa Dân Tộc thêm đậm đà. Thậm chí giữa người trong nước và lưu vong cũng thấy cần phải hỗ trợ nhau để loại kẻ địch chung là Cộng Sản. Thiết tưởng bàn đến vần đề Ḥa Giải Ḥa Hợp Dân Tộc bây giờ là lỗi thời. C̣n Ḥa Giải Ḥa Hợp giữa Cộng Sản với Quốc Gia th́ đó là một điều không tưởng mê muội.
H: Những thời gian qua, từ những ngày tù tội, chạy trốn trước 1975 v́ đối lập với Chính Quyền, rồi tù nhân chính trị trong chế độ Cộng Sản, đă cho anh những kinh nghiệm nào trong sự suy tư để h́nh thành một lư thuyết tranh đấu cho Nhân quyền, cho Tự Do của con người?
Đ: Nếu nói về lư thuyết cho công cuộc đấu tranh cho nhân quyềân và xây dựng cuộc sống tự do cho Con Người, th́ những nét chính đều đă phác thảo ra trong Tổng Thức Vận. Nếu có phải suy tư th́ tôi chỉ suy tư về công việc sẽ phải bắt đầu từ đâu ? Lần đầu tiên bị tù dưới chế độ đệ nhất Cộng Ḥa 1956 v́ tội công khai đ̣i Tự Do Báo Chí. Theo tôi, trước khi bầu Quốc Hội Lập Hiến, th́ phải ban hành Tự Do Báo Chí, mới bảo đảm cho cuộc bầu cử đó có Tự Do, và chế độ ấy mới là Dân Chủ thực sự. Lần đi tù Cộng Sản sau 1975 th́ cũng bị nghe đọc lệnh bắt giam v́ tội gây hoang mang dư luận quần chúng. Tóm lại cho tới bây giờ tôi vẫn khẳng định là phải bắt đầu bằng việc tranh đấu và thiết lập cho bằng được sự Tự Do Truyền Thông Báo Chí. Muốn giới thiệu “Nhân Chủ Đạo” với tuổi trẻ trong nước cũng không thể thiếu được sự Tự Do Truyền Thông Báo Chí. C̣n với tuổi trẻ ở xứ người, th́ tôi đành trông vào những người có khả năng ngoại ngữ. C̣n tôi th́ quá muộn rồi, không đủ sức và thời gian viết bằng ngoại ngữ nữa.
H: Trong tác phẩm của anh có phần “ư niệm từ ngữ của Tổng Thức Vận” rất công phu và chính xác. Nhưng, anh có nghĩ rằng nếu xử dụng ngôn ngư ơ ít từ Hán Việt hơn và ít phức tạp hơn, chắc sẽ nhiều độc giả hơn?
D: Từ ngữ là kư hiệu của tư tưởng, của ư niệm, việc dùng từ Hán Việt là làm phong phú cho ngôn ngữ Việt Nam, mới nghe th́ khó nhớ, khó hiểu, nhưng hiểu rơ được ư niệm của từ ngữ rồi cũng quen đi. Nhất là những danh từ đạo học, triết học của tiếâng Việt Nam chưa hề có. Chúng ta đă phải mượn từ ngữ của đạo Phật, đạo Lăo hay đạo Khổng, hoặc là dùng từ Hán Việt để dịch những từ Triết Học Tây Phương tương ứng với từ Hán của Trung Hoa đă dịch. Trong Tổng Thức Vận là sự Tổng Hợp các luồng tư tưởng, các nền đạo học, các phái triết học cổ kim đông tây. Bởi vậy, những từ ngữ đó đă là từ Hán Việt, và c̣n phải sáng tạo thêm từ ngữ mới để nói lên những ư niệm mới của nền Đạo Học Nhân Chủ mới, th́ cũng lại phải dùng từ Việt Hán để dễ gợi ra ư niệm đúng với nghĩa muốn dùng. Xin hảy chịu khó làm quen vớùi những từ ngữ mà Tổng Thức Vận tạo ra, cho ngôn ngữ Việt Nam mỗi ngày một phong phú hơn.
H: Anh có nghĩ, sẽ viết thêm một tác phẩm khác về “Nhân Chủ Đạo”, nhưng đơn giản hơn, để có thêm nhiều người đọc hơn? Hoặc một cuốn sách tóm gọn lại để dễ dàng đọc hơn?
Đ: Trước 1975 tại Saigon, tôi đă xuất bản tác phẩm NỀN NHẬN THỨC NHÂN CHỦ TOÀN TRIỂN tóm lược cuốn Tổng Thức Vận. Hiện nay tôi sắp viết xong cuốn ĐỀ CƯƠNG XÂY DỰNG VIỆT NAM, nhằm áp dụng TỔNG THỨC VẬN vào thực tại Việt Nam.
Thay mặt độc giả, xin cảm ơn Nhà văn Lư Đại Nguyên về cuộc nói chuyện quư báu này.
NGUYỄN MẠNH TRINH thực hiện.
Litlle Sagon October 28, 2000.
===================================================================
MỤC LỤC
-o-
KHỞI ĐỀ
-o-
CHÍNH ĐỀ
-o-
ĐẤU TRANH
ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG
TRONG ĐÊM DÀI THẾ KỶ
Cách mạng chống xâm lăng
Phong trào Văn Thân Cần Vương
Cách mạng Dân Tộc Dân Chủ
Cách mạng Xă Hội Chủ Nghĩa
Cách mạng Quốc Gia Trung Phái
Ảnh hưởng Thế Lực Quốc Tế
Việt Minh cướp chính quyền
Quốc Gia Việt Nam xuất hiện
Đệ Nhất Việt Nam Cộng Ḥa
Những sai lầm của Nhà Ngô
Đấu tranh B́nh Đẳng Tôn Giáo
Cách mạng 01-11-1963
Đệ Nhị Việt Nam Cộng Ḥa
Việt Cộng nuốt voi thống nhất
Việt Cộng theo Liên Xô chống Trung Cộng
Thế Nước Ḷng Dân Việt Nam
THẾ NƯỚC
THẾ NƯỚC VIỆT NAM ĐỘNG ĐIỂM TOÀN CẦU
Thế Nước thời Phong Kiến Đế Quốc
Thế Nước thời Thực Dân thống trị
Thế Nước thời Phát Xít Quân Phiệt
Thế Nước thời Độc Lập Kháng Chiến
Thế Nước thời Nam Quốc Bắc Cộng
Thế Nước thời Chiến Tranh Việt Nam
Thế Nước thời Thống Nhất Đất Nước
VĂN HÓA
D̉NG VẬN ĐỘNG DUNG HÓA TƯ TƯỞNG VIỆT NAM
Về nguồn Dân Tộc t́m Nhân Chủ Đạo
Công cuộc trường kỳ dung hóa tư tưởng
Thể hiện nền Văn Hiến Dung Hóa
Nền Văn Hiến Dung Hóa tan vỡ
TƯ TƯỞNG CHỦ ĐẠO XÂY DƯNG VIỆT NAM
Hồi Nội
Phóng Ngoại
Nhận Thức
Nhân Chủ
XĂ HỘI
XÂY DỰNG XĂ HỘI VIỆT NAM
NHÂN CHỦ TỰ DO ĐIỀU HỢP
Khác biệt giữa Cộng Sản Tư Bản và Điều Hợp
Ứng dụng vào thực tại Việt Nam
Những vấn đề được đặt ra cho xă hội mới
KINH TẾ
NỀN KINH TẾ TỰ DO ĐIỀU HỢP
QUỐC GIA CHỦ ĐỘNG TOÀN CẦU HÓA
Từ Cộng Sản chuyển sang Kinh Tế Tự Do
Di lụy của Kinh Tế Cộng Sản quá tệ hại
Khởi dựng nền Kinh Tế Việt Nam mới
CHÍNH TRỊ
NỀN DÂN CHỦ TỰ DO ĐIỀU HỢP
QUỐC GIA CHỦ ĐỘNG TOÀN CẦU HÓA
Tiến tŕnh Dân Chủ Nhân Loại
Sự quái hóa của tiến trinh Dân Chủ
Tiến tŕnh Dân Chủ Việt Nam
Dân Chủ Đa Nguyên Phân Nhiệm Điều Hợp
QUÂN SỰ
QUYỀN LỰC QUỐC GIA
TOÀN DIỆN CHIẾN PHÁP
BẢN TÓM TẮT
KẾT ĐỀ
-o-
PHỤ LỤC
Nhà văn Nguyễn Mạnh Trinh phỏng vấn Lư Đại Nguyên tác giả Tổng Thức Vận.