PHẢI CHĂNG TƯ TƯỞNG CỦA K. MARX THỰC TIỄN ?

Marx bỏ ra cả một chương trong Tuyên Ngôn thư Đảng Cộng sản từ trang 56 đến trang 59 ( Le Manifeste du Parti communiste – Union générale d’Editions – Paris -1962), để phê b́nh những nhà tư tưởng xă hội trước Marx như Robert Owen, Saint Simon, Charles Fourrier v.v…, cho rằng những người này là không thực tiễn, là không tưởng. Trước khi viết Tuyên Ngôn này, khoảng 2 năm, vào năm 1845, ở Bruxelles, thủ đô nước Bỉ, Marx viết trong một luận đề về nhà triết học duy vật Đức Feuerbach, như sau :

« Đời sống xă hội chính yếu là thực tiễn. Tất cả những bí hiểm dẫn dắt lư thuyết đến huyền bí đều có thể t́m thấy giải pháp hữu lư của nó trong thực tiễn của con người và trong sự hiểu biết thực tiễn này. » (K. Marx dẫn bởi Engels trong quyển Ludwig Feuerbach et la fin de la philosophie allemande – trang 70 – Editions sociales – Paris 1966). Từ ngày đó cho tới nay, đă hơn một thế kỷ rưỡi, nh́n lại toàn bộ lư thuyết của Marx và những áp dụng của nó tại những nước cộng sản, nhiều người cho rằng chính tư tưởng của Marx mới là lư thuyết, không thực tiễn và không tưởng ; ngược lại tư tưởng của những nhà xă hội trước Marx, được áp dụng bởi những Đảng Xă hội tại các nước Âu châu như ở Anh, Đức, Pháp, nhất là ở các nước Bắc Âu như Thụy Điển, Ḥa Lan, Đan Mạch và nhiều nước khác trên thế giới, những tư tưởng này mới thực tiễn, không lư thuyết và không không tưởng.

Có phải thế không ? 

Lư thuyết ( théorie) là cái ǵ liên quan đến sự hiểu biết ư niệm ( connaissance conceptuelle), không liên quan đến hành động ( Theo Larousse).

Thực tiễn là cái ǵ liên quan đến hành động, đến cụ thể.

Không tưởng ( utopie) là những cái ǵ không liên quan đến thực tế, những dự án chính trị không liên quan đến thực tế.

  1. Tư tưởng của những nhà xă hội trước Marx mới thực tế và không không tưởng

a) Robert Owen (1771 – 1858) : Nhà xă hội người Anh. Ông không coi ḿnh như một nhà trí thức, như ông thường nói ; và ông hănh diện là người tự học, không đọc sách nhiều, những điều ông học là qua cuộc sống thực tế, kinh nghiệm và qua sự tự suy nghĩ của ḿnh. Ông là giám đốc một hăng vải sợi ở New Lanark, vùng Ecosse, nước Anh. Từ năm 1800, ông say mê về những vấn đề xă hội. Ông tin tưởng rằng hoàn cảnh xă hội có thể làm thay đổi con người, nếu hoàn cảnh xă hội tốt, th́ con người trở nên tốt. Chính với ư tưởng này mà ông đem áp dụng cho hăng dệt của ông. Ông có tạo ra những hoàn cảnh thuận lợi để cho thợ thuyền trao đổi với nhau, trao đổi giữa chủ và thợ. Ông tạo ra những hội tương trợ giữa thợ thuyền. Sau đó ông muốn nới rộng kinh nghiệm của ḿnh xa hơn, rộng hơn.. Ông sang Hoa kỳ từ năm 1824 đến năm 1829, ở tiểu bang Indiana, ông lập một cái làng lấy tên là làng Ḥa Hợp Mới ( New Harmony). Rồi ông trở lại Anh, đấu tranh trong những phong trào nghiệp đoàn và hợp tác xă Anh.

Trong quyển sách Một Cái Nh́n Mới Cho Xă Hội ( Une Nouvelle Vision de la Soćté) xuất bản vào năn 1812-13, ông chủ trương chống sự lười biếng, ngu dốt, tội trạng, sự nghèo đói và những khuyết tật của xă hội đến phần lớn từ những giai tầng nghèo khổ, hoàn cảnh khó khăn ; v́ vậy, theo ông phải cải thiện hoàn cảnh xă hội ; và ông đă chứng minh qua cái làng New Harmony.

b) Charles Fourrier (1772 – 1837) : Nhà xă hội Pháp, sinh ở Besançon. Một người tự học và cơ đơn. Ông ít nhắc đến sách vở và những nhà tư tưởng, mặc dầu ông bị ảnh hưởng bởi những nhà tư tưởng của thời kỳ Ánh sáng. Fourrier nói lên 144 tệ nạn xă hội như tham lam, lừa dối, lường gạt, không chân thật, tàn ác, ích kỷ v.v.. ; và theo ông một xă hội lư tưởng, ông đặt tên là « phalanstère », là một xă hội mà trong đó không có những tệ nạn này. Con người, theo Fourrier gồm 12 đam mê trong đó có 5 đam mê liên quan đến 5 giác quan, đam mê t́nh bạn, t́nh yêu, đam mê gia đ́nh v.v.. Ông phát minh ra đam mê thứ 13 là Đam mê Hài Ḥa. Chuyện chính là làm thế nào để hướng dẫn những đam mê này đế chỗ tốt và được hài ḥa. Trong một « phalanstère «  như ông quan niệm, th́ mỗi người làm việc theo đam mê của ḿnh : người đam mê về cày cấy, th́ cày cấy ; người đam mê về viết văn th́ viết văn ; người đam mê về âm nhạc th́ làm âm nhạc ; miễn là phải đưọc hướng dẫn tốt, tương trợ nhau để phát triển đam mê, và cần ở mỗi người cái đam mê thứ 13 để hài ḥa. Tư tưởng của ông đă được thực hiện ở nước Lỗ Ma Ni ( Roumanie) , ở những Jura bên Thụy sỹ và ở Californie bên Hoa Kỳ. Quan niệm làm thế nào để con người sống trong xă hội có hạnh phúc, tiêu diệt tất cả những tật xấu, phát triển những đam mê tốt, sống hài ḥa với nhau ; đó là những tư tưởng mà ngày hôm nay vẫn c̣n giá trị.

c) Saint Simon ( 1760 – 1825) : nhà xă hội Pháp, sinh trong một gia đ́nh quí tộc. Từ nhỏ ông đă chú tâm đến triết học, khoa học, và ông nghĩ rằng người ta có thể giải quyết những tệ nạn xă hội nhờ nâng cao tŕnh độ hiểu biết của dân. Theo Saint Simon, khoa học ( sự hiểu biết lư thuyết, theo ông) và kỹ nghệ (bao gồm tất cả những sinh hoạt sản xuất kinh tế) là 2 nguyên động lực chính giúp thúc đẩy tiến tŕnh của một xă hội. Tuy nhiên ông nói thêm là đừng quên niềm tin của con người, niềm tin của xă hội, niềm tin chung để cùng nhau thúc đẩy xă hội đến chỗ tốt đẹp. Trong quyển sách cuối cùng của ông Chủ Nghĩa Thiên Chúa Giáo mới ( Le Nouveau christianisme), xuất bản năm 1825, ông cho rằng cần phải có một đạo mới, tất nhiên nguồn cảm hứng ( l’inspiration) vẫn là thiên chúa giáo, nhưng đạo này sẽ được hướng dẫn bởi những nhà triết học, những nhà tư tưởng, những người tài giỏi trong xă hội, chứ không phải hướng dẫn bởi những nhà thần học ( théologiens). Ông không nghĩ rằng xă hội sẽ đi đến chỗ không c̣n giai cấp, mà ông cho rằng xă hội chia ra nhiều giai tầng khác nhau, tùy theo ngành nghề, sự phân chia công việc ; và chính v́ có nhiều giai tầng, nên mới có sự cạnh tranh để tiến bộ, miễn là cạnh tranh trong hài ḥa và trong tinh thần trung thực, công bằng.

I I ) Tư tưởng của Marx mới thiếu thực tế và không tưởng

Marx và Engels chỉ trích những nhà xă hội trước 2 ông là lư thuyết và sách vở và không tưởng ; nhưng chính 2 ông mới lư thuyết, sách vở và không tưởng ; v́ người ta tự hỏi, nếu 2 người thực tế, thực tiễn, quan sát xă hội và lịch sử, th́ đâu có thấy xă hội chia ra làm 2 giai cấp, mà chia ra làm thành nhiều giai tầng khác nhau, lịch sử không phải lúc nào cũng là lịch sử của bạo động. Nếu chúng ta quan sát con người chung quanh chúng ta và những quốc gia th́ chúng ta thấy lịch sử của họ đâu phải là lịch sử của bạo động. Đó là quan niệm về lịch sử của Marx. Về phương diện kinh tế, một cách thực tế, thực tiễn, không lư thuyết, sách vở viễn vông, chúng ta qua sát đời sống chung quanh chúng ta, chẳng hạn đời sống một đứa bé , chỉ cần mấy tháng sau khi sinh ra, nó đă biết ai là mẹ nó, khi lớn lên, nó đă biết cái ǵ là đồ chơi của nó. Marx và Engels có thể dẫn chứng một số nhà nhân chủng học, như Engels đă dẫn chúng Morgan trong quển Nguyên do về quyền tư hữu, gia đ́nh và quốc gia, để bảo rằng ở những xă hội xa xưa không có quyền tư hữu. Làm việc này không những mắc vào bệnh lư thuyết, sách vở mà c̣n thiếu khoa học ở chỗ một vài dẫn chứng mới chỉ là những điều kiện ắt có, chứ chưa phải là những điều kiện đủ ; tổng quát hóa rằng con người sinh ra là không có đầu óc tư hữu, điều này là thiếu khoa học, nếu không muốn nói là hồ đồ. Hơn thế nữa, ngày hôm nay người ta thấy quyền tư hữu gần như bẩm sinh, mà c̣n là một nguyên động lực giúp con người làm việc. Cảnh «  Cha chung không ai khóc, ruộng chung không ai cày, nhà chung không người chăm sóc » là cảnh thường t́nh ở những nước cộng sản.

Marx, Engels và những người cộng sản là những người nói một đằng mà làm một nẻo. Chẳng hạn như trường hợp Engels : gia đ́nh Engels là một gia đ́nh giàu có, người Đức vào giữa thế kỷ thứ 19 mà có một hăng dệt ở bên Anh, vùng Manchester, chứng tỏ là giàu có thế nào rồi. Lúc đầu Engels có sang Anh giúp bố mẹ ; nhưng sau khi bố mẹ chết, chính Engels là chủ hăng dệt này ; nhưng người ta không thấy Engels áp dụng những điều ḿnh nói là băi bỏ quyền tư hữu, thợ thuyền làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu, vào hăng của ḿnh, như chính Robert Owen đă làm, người mà Marx và Engels chỉ trích là không tưởng. Ngày hôm nay chúng ta quan sát những giới lănh đạo cộng sản, chúng ta cũng thấy vậy. Mồm chúng hô hào cộng sản, xă hội chủ nghĩa, băi bỏ quyền tư hữu, băi bỏ cảnh người bóc lột người ; nhưng chính chúng mới có nhiều quyền tư hữu, chính chúng mới là những kẻ bóc lột hạng nhất. Quả là một sự lường gạt có tính cách thế kỷ, thế kỷ 20 vừa qua là một thế kỷ lường gạt cộng sản. Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan có nói : «  Lịch sử nhân loại có nhiều trang đau thương và đẫm máu ; nhưng không có trang nào đau thương và đẫm máu bằng trang sử cộng sản « , với cả trăm triệu nạn nhân của nó. Và chúng ta có thể thêm : «  Lịch sử nhân loại có nhiều cuộc lừa đảo, dối gạt ; nhưng chưa có cuộc lừa đảo, dối gạt nào to lớn bằng lừa gạt cộng sản. » Chúng ta cứ nghiệm lịch sử cộng sản Việt Nam, chúng ta cũng thấy rơ.

Nếu chúng ta lấy 2 mốc điểm cho 2 tư tưởng xă hội chủ nghĩa khác nhau : 1) Mốc điểm năm 1812 khi Robert Owen cho xuất bản quyển sách Một Cái Nh́n Mới cho Xă Hội ; 2) Mốc điểm năm 1848 khi Marx cho xuất bản cũng ở bên Anh lần đầu tiên quyển Tuyên Ngôn Thư Đảng Cộng sản. Hai mốc diểm này tiêu biểu cho 2 luồng tư tưởng xă hội khác nhau. Từ đó cho tới nay 2 luồng tư tưởng này đă được áp dụng ít nhiều trên thế giới. Luồng tư tưởng đầu được áp dụng phần lớn ở những nước Bắc Âu như Đan mạch, Thụy Điển, Ḥa Lan, Phần lan, Thụy Sỹ, và ở những nước Tây Âu mỗi khi những đảng Xă Hội nắm quyền như hiện nay ở Anh với đảng Lao Động của thủ tướng Tony Blair. Luồng tư tưởng thứ 2 của Marx được áp dụng tại Liên Sô, các nước Đông Âu và 4 nước cộng sản c̣n lại như Bắc Hàn, Việt Nam, Trung Cộng và Cu Ba. Kết quả ra sao ? Chúng ta thấy ǵ ?

Kết quả đó là :

Trên b́nh diện tư tưởng, lư thuyết Marx mới không tưởng, thiếu thực tế ; ngược lại tư tưởng của những nhà xă hội trước Marx như Robert Owen, Charles Fourrier, Saint Simon mới thực tế, thực tiễn, không không tưởng. Marx và những người cộng sản sau này nói một đằng, làm một nẻo. Marx nói rằng phương pháp của ông là thực tiễn, khoa học v́ nó đi từ cái ǵ giản tiện đến cái ǵ phức tạp, từ cái ǵ cụ thể đến cái ǵ trừu tượng. Thực tế Marx đi từ cái ǵ phức tạp đến cái ǵ cụ thể, từ cái ǵ trừu tượng đến cái ǵ cụ thể. Tệ hại hơn nữa, Marx đi từ một lời tiên tri ; từ lời tiên tri là thế giới sẽ đi đến thiên đàng cộng sản, không c̣n tư hữu, làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu ; rồi Marx cố t́m trong sách vở chứ không phải trong thực tế ở ngoài đời để chứng minh (1) ; v́ nếu thực tế, quan sát ở ngoài đời, th́ Marx phải ư thức rơ rằng quyền tư hữu là một động lực khiến con người làm việc. Nay băi bơ quyền tư hữu, con người không muốn làm việc, th́ sao xă hội tiến được. Làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu chỉ khuyến khích con người lười biếng, vô trách nhiệm. Đó là t́nh trạng của những nước cộng sản. Lư thuyết của Marx không những phản kinh tế, phản phát triển mà c̣n phản con người, phản tự nhiên. Tự nhiên con người muốn sống ḥa b́nh, nay Marx chủ trương bạo động lịch sử, đấu tranh giai cấp, đưa đến cảnh con đấu cha, vợ chửi chồng, bạn bè t́m cách sát hại lẫn nhau ; từ đó xă hội trở nên loạn, chém giết và đau thương. Chính v́ vậy mà suốt đời Marx chờ đợi cách mạng cộng sản tất yếu ; nhưng cuộc cách mạng này không xẩy ra. Marx chờ đợi ở bên Anh ; nhưng cách mạng tất yếu không xẩy ra ở Anh. Marx quay sang hy vọng ở Đức, cách mạng tất yếu không xẩy ra ở Đức. Có lẽ v́ lư do đó mà cuối đời Marx nói câu : «  Tôi không c̣n là người theo chủ nghĩa của Marx nữa. » ( Je ne suis plus marxiste). Ngay cả Engels cũng thay đổi : «  Sau này người ta nhận thấy rằng những đồ đệ của Tuyên Ngôn thư Đảng Cộng Sản, và chính Engels, cuối đời ông, vào năm 1895, khi nh́n thấy t́nh trạng trưởng thành đă đạt được bởi phong trào thợ thuyền và xă hội ; những người này đă đi đến kết luận rằng nền cộng ḥa dân chủ và bầu cử phổ thông, tự do là con đường hay nhất để giúp những người công nhân, nam cũng như nữ, giải phóng ḿnh ra khỏi sự nô lệ của tư bản. » ( Claude Mazauric – Lire Le Manifeste – trong phần mở đầu Manifeste du Parti communiste – trang 9 – nhà xuất bản Librio – 1998).

Trên b́nh diện áp dụng thực hành : Lư thuyêt của Marx đă được áp dụng tại Nga, Đông Âu, Việt Nam, Tàu, Cu Ba, Bắc Hàn, Cam Bốt. Kết quả như thế nào ? - Cả trăm triệu nạn nhân, kinh tế tụt hậu, giáo dục xuống cấp, đạo đức suy đồi. Trong khi đó tư tưởng của những người mà Marx chỉ trích là không tưởng như Owen, Fourrier, Saint Simon được áp dụng ở những nước Bắc Âu và những nước Tây Âu mỗi khi những đảng xă hội nắm quyền, th́ những tư tưởng này lại chứng tỏ là thực tế, thực tiễn. Những nước Bắc Âu như Đan Mạch, Thụy Điển, Ḥa Lan, Phần Lan hiện nay đưọc coi là những nước phát triển kinh tế nhất, tŕnh độ y tế, giáo dục, an sinh xă hội được coi là những nước đứng đầu trên thế giới.

Cuối đời, chính Marx nhận ra lư thuyết của ḿnh sai lầm, không tưởng ; nên mới nói tôi không c̣n theo lư thuyết của tôi nữa ; Engels th́ công nhận một nền cộng ḥa, dân chủ với phổ thông đầu phiếu tự do là con đường duy nhất giúp công nhân một cách hữu hiệu đấu tranh để tự giải phóng ḿnh. Chính bởi lẽ đó mà các dân tộc Nga Sô và Đông Âu đă can đảm đứng lên đấu tranh lật đổ chế độ cộng sản theo tư tưởng của Marx. Những dân tộc c̣n lại trong đó có Việt Nam hăy can đảm đứng lên đấu tranh lật đổ chế độ theo tư tưởng của Marx, nó vừa không tưởng, vừa phản dân chủ, phản kinh tế, phản phát triển, nói tóm lại phản con người. Nói theo văn hào Soljennytsine : «  Chế độ cộng sản là một chế độ phản tự nhiên, phản con người. »

Paris ngày 5/8/2006

Chu Chi Nam

(1) Xin xem những bài phê b́nh Marx của tác giả trên báo hải ngoại.