BÙI TÍN
TÂM T́NH VỚI
TUỔI TRẺ VIỆT NAM
Tủ Sách Thời Sự & Thế Giới
2006
(ảnh b́a: nhà báo Bùi Tín với bông hoa cẩm chướng)
[ -ấn phí :10 Mỹ kim ; ở Âu châu :10 Euros ; ở xa xin
cộngcướcphí.
- Tủ sách Thời sự VN và Thế giớị (Ban biên tập)
6433 Northanna Drive Springfield
Virginia 22150 USA
- đă phát hành từ đầu tháng 3/2006.]
Thân mến tặng :
- các bạn trẻ trong và ngoài nước,
- các con của bố,
- các cháu nội và ngoại của ông,
- các tấm ḷng dấn thân cho cuộc vận động dân chủ
- mong nội dung cuốn sách nhỏ này mang đến bạn đọc chút ít bổ ích và thích thú, giúp bạn thêm yêu thương quê hương và đồng bào,
- đó là niềm hạnh phúc lớn nhất của người viết sắp bước vào tuổi 80, chỉ mong muốn gửi lại cuộc đời đôi điều tâm sự thiết tha nhất để rồi sẽ nhẹ nhàng bước vào cơi hư vô...
Paris – tháng 1/2006
Bùi Tín
Lời Nhà xuất bản
Từ ngày rời Việt nam để chọn con đường lưu vong ở Pháp, ông Bùi Tín đă không ngừng viết. Bắt đầu lên tiếng trên BBC với ‘’ Kiến nghị của một công dân Việt nam‘’ (tháng 11/1990 – 2/1991), ông đă ngày một quyết liệt hơn trong những sách viết cũng như các bài báo của ông (đăng trên những báo như Time, Far Eastern Economic Review, Washington Post, Le Monde,v.v.) nhằm đi t́m một ngơ ra cho đất nước khỏi độc tài chuyên chế của một đảng cộng sản lỗi thời ḱm giữ 85 triệu dân chăm chỉ thông minh và yêu nước trong lạc hậu, đói nghèo, cửa quyền, tham nhũng triền miên.
Một nghịch lư như vậy là điều không thể chấp nhận được nên ông miệt mài lên tiếng trên hầu hết các đài phát thanh quốc tế, từ BBC, RFI đến RFA, VOA …, miệt mài viết, xem đó như bổn phận của một công dân yêu nước. Từ Hoa Xuyên Tuyết (Nxb Nhân Quyền,1992), đến Mặt Thật (Saigon Press,1994), Về 3 ông Thánh (1996), Mây Mù Thế Kỷ (Nxb Đa Nguyên, 1998), ông sản xuất đều đặn cứ độ 2 năm một cuốn sách khá dầy, chứng tỏ không những kỷ luật làm việc của một nhà báo lăo luyện mà c̣n cho ta thấy niềm tin sắt đá ở con đường dân chủ hóa đất nước mà ông, hiện ở tuổi gần 80, vẫn nhất quyết dấn thân vào.
Không phải ông không có người chê trách. Đảng CS lọai trừ ông đă đành. Ông xa nhà, xa vợ đă 15 năm, và trong lúc tâm t́nh ông đặc biệt thấy thiếu vắng sự có mặt của những cháu ngoại thân yêu – lúc ông ra đi c̣n là những bé gái tíu tít bên ông bà ngọai nhưng bây giờ chắc hẳn đă thành những thiếu nữ xinh đẹp học đại học hay đi làm rồi. Rồi ngay những đồng chí ngày trước của ông (sau 37 năm phục vụ trong Quân đội nhân dân và 44 năm trong Đảng CS cũng đă phải quay lưng vào ông để giữ miếng ăn, địa vị của họ ở quê nhà. Đau hơn nữa là c̣n có những anh em cốt thân xem ông làm một việc làm vô ích.
Chưa hết, người hải ngoại không phải là ai cũng đă tin ông. Có những người cho tới giờ này vẫn c̣n tin ông là một ‘’con bài ‘’ của Hànội được đưa ra hải ngoại để đánh lừa, ru ngủ những đồng bào cả tin. Lẫn lộn vào một thế giới đầy ngờ vực, do kinh cung chi điểu đó, c̣n là những con người của chính quyền ở trong nước được giao cho nhiệm vụ phải khuấy động nồi dư luận ở hải ngoại, để không ai có thể tin được ở ai nữa, và như vậy – chia để trị - Hà nội sẽ đạt được mục tiêu của họ.
Song nếu có người chưa tin ông th́ lại cũng có không thiếu người, ngay cả từ trong nước, nh́n thấy ở nơi ông một chỉ dấu dân chủ hóa đất nước. Nếu càng ngày càng có nhiều người như ông th́ đất nước quê hương tất có ngày phải xoay chuyển sang một chiều hướng khá hơn.
Thật vậy, ai b́nh tâm mà suy nghĩ, bỏ chút th́ giờ ra so đo, suy xét công việc làm và những sách hay bài báo của ông th́ người đó sẽ hiểu ngay một sự tiến triển khá rơ rệt trong tư duy của ông Bùi Tín, từ cuốn đầu tiên ông viết ở hải ngoại đến ngày hôm nay, như trong cuốn Tâm t́nh với tuổi trẻ Việt nam này. Tư duy đó là một tư duy dựa lên trên sự thức tỉnh. Theo ông kể lại, ngày ông vào Sàig̣n, ‘’say sưa chiến thắng ‘’, th́ cũng là ngày ông khám phá ra ông, cũng như biết bao nhiêu đồng bào miền Bắc và chiến hữu của ông, đă bị đánh lừa.
Dù như ông và các bạn ông bị nhồi sọ bao nhiêu năm, họ cũng không thể không nh́n ra là ; với tất cả những cái bất toàn của miền Nam trong chiến tranh, xă hội miền Nam đă thực sự có tự do - tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do biểu t́nh, tự do đi lại, tự do buôn bán, tự do lập hội, tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng, đủ mọi thứ tự do, kể cả quyền tư hữu, mà ở miền Bắc (và ở trên toàn quốc sau năm 1975) chỉ là ước mơ. Một Dương Thu Hương ngồi xuống vỉa hè khóc khi thấy sự phong phú của sách báo miền Nam. Một Chế Lan Viên trước khi chết phải thú nhận rằng tất cả mọi sự tuyên truyền ở miền Bắc chỉ là ‘’bánh vẽ ‘’, một thứ bánh vẽ mà ai cũng biết song vẫn phải tham gia ăn. Một Phương Nam Đỗ Nam Hải khám phá ra t́nh thân và sự rộng lượng, chia xẻ của phe ‘’chiến bại ‘’ ở miền Nam.
Viết những sách của ông (kể cả hai cuốn trong tiếng Anh, Following Ho Chi Minh do Đại học Hawaii in ra năm 1995 và From Enemy to Friend do nhà xuất bản của Viện Hải Quân Hoa kỳ in ra năm 2002, và cuốn trong tiếng Pháp, La face cachée du régime do nhà Kergour ở Paris xuất bản năm 1999), tác giả Bùi Tín - hiển nhiên rồi – không t́m cách góp phần dựng lại miền Nam trước 75. Một giai đoạn lịch sử đă qua đi, chúng ta không thể nào níu kéo được quá khứ trở lại nên, theo ông, chúng ta cần và phải dựng lại một nước Việt Nam mới, trong tự do, dân chủ, đa nguyên đa đảng th́ mới mong cởi bỏ được ṿng kim cô của đảng CS đặt lên đầu, lên cổ dân tộc ta, một dân tộc hiền ḥa hiếu khách, sẵn sàng bắt tay với thế giới để đi vào một tương lai mới đang đợi chúng ta, đầy hứa hẹn.
Cuốn sách mà Tủ Sách Thời Sự Việt nam và Thế giới mang đến Quư Bạn lần này là những chắt lọc suy tư của cả một đời người. Những lập luận của tác giả bắt nguồn từ những kinh nghiệm xương máu, ngay ở cả chiến trường, mà ông sẵn sàng để lại ở đàng sau (cũng như ông đă vứt bỏ hết huân chương của một đời binh nghiệp) để cùng chúng ta, nhất là cùng thế hệ trẻ đương đại nh́n tới. Muốn vậy chúng ta phải bỏ được gánh nặng mang theo từ quá khứ - bỏ xuống chứ không phải là quên, - để cùng chung sức xây dựng tương lai.
I - V́ sao có cuốn sách nhỏ này?
- Cộng đồng người Việt ta ở nước ngoài là một cộng đồng đông đảo, gần 3 triệu người, h́nh thành chủ yếu từ hơn 30 năm nay, rải ra hơn 40 nước, ở khắp các lục địa : châu Mỹ, châu Âu, Châu Á, châu Úc, châu Phi... Cộng đồng có những thành tựu nổi bật trong làm ăn, sinh sống, hoà nhập với nước định cư, những kết quả xuất sắc trên lĩnh vực giáo dục, nghiên cứu khoa học, kinh doanh... trải qua nhiều thế hệ nối tiếp, làm vẻ vang cho dân tộc Việt nam ta. Cộng đồng người Việt c̣n bắt đầu hoà nhập và đóng góp tích cực về mặt chính trị ở các nước sở tại, trong các cuộc bàu cử địa phương và toàn quốc, tham gia các cơ quan dân cử và hành chánh các cấp.
- Dù c̣n mang quốc tịch VN hay mang quốc tịch khác, bà con ta luôn hướng về đất Mẹ Việt Nam, cùng nhau yêu thương đùm bọc, hợp lực giúp đỡ lẫn nhau nơi quê mới, c̣n luôn san sẻ t́nh cảm và cuộc sống vật chất với họ hàng thân thuộc bạn bè và đồng bào ở quê nhà.
- Được may mắn sống trong không khí tự do ở các nước dân chủ, bà con cộng đồng ta ở nước ngoài rất thông cảm với cuộc sống chưa có dân chủ, quyền tự do bị chà đạp của đồng bào trong nước, và luôn mong muốn đồng bào trong nước sớm thoát khỏi cảnh ‘’chim lồng, cá chậu’’ khốn khổ và lạc hậu. Vậy ta có thể làm ǵ để góp phần tích cực nhất trong sự nghiệp dân chủ hoá quê hương xiết bao yêu thương?
- Thưa rằng : theo thiển ư của tôi, có nhiều cách để đóng góp tích cực vào sự nghiệp cao quư và cấp bách ấy. Vấn đề có ư nghĩa quyết định là nâng cao nhận thức, nâng cao dân trí về quyền tự do và dân chủ của mọi người công dân sống ở trong nước. Khi người dân đă hiểu rơ ràng những nghĩa vụ và quyền lợi của ḿnh trong một chế độ dân chủ thật sự, coi như là dưỡng khí để thở, để sống cho ra sống, th́ kẻ nắm chính quyền sẽ không c̣n có thể cai trị họ như một bày cừu được nữa. Đó chính là lời tâm huyết của nhà yêu nước Phan Chu Trinh khi đưa ra yêu cầu nâng cao dân trí, chấn dân khí - chấn hưng chí khí của người dân, và quảng bá dân quyền. Chủ nghĩa Mác được vận dụng ở VN ta theo cách diễn giải của Lênin, Stalin và Mao Trạch Đông đă tô đậm đấu tranh giai cấp và nền chuyên chính của đảng cộng sản, dẫn đến sự phủ nhận quyền tự do của người công dân, trên thực tế là coi dân như bày cừu. Mọi sự đă có đảng ban ơn, nghĩ thay, làm thay cho hết! Bi kịch dân tộc ta hiện nay là ở chỗ ấy. Quyền công dân là cái lỗ hổng to tướng trong xă hội mà chúng ta có nhiệm vụ lấp cho đầy.
Lại xin thưa : bà con trong cộng đồng ta đang có điều kiện rất là thuận lợi để làm nhiệm vụ cao quư ấy. Thư từ, điện thoại, tiếp đón, gặp gỡ người thân, quen trong nước đi ra nước ngoài làm việc, kinh doanh, học tập, tham quan du lịch...là những dịp giao lưu thuận lợi để quảng bá những nội dung dân chủ hoá. Và đặc biệt là bà con ta có dịp về nước thăm viếng, tham quan du lịch khắp nơi đă và sẽ có cơ man nào là dịp để tṛ chuyện, tiếp xúc, đối thoại, hàn huyên, tranh luận với người trong nước, để có thể qua đó trau dồi những nội dung về sự cần thiết xây dựng một nền dân chủ tiến bộ ở nước ta và về mô h́nh một chế độ dân chủ ấy.
Đây là một việc làm cần thiết, cấp bách, có ư nghĩa cao quư, là một sự hỗ trợ vô giá cho các chiến sỹ dân chủ kiên cường ở trong nước, như các nhà trí thức tiền phong đầy khí phách Hoàng Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, Phạm Quế Dương, Hà sỹ Phu, Bùi Minh Quốc..., các trí thức trẻ gan góc Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Khắc Toàn, Nguyễn Vũ B́nh, Phương Nam - Đỗ Nam Hải... Đây cũng là nghĩa vụ lịch sử đối với Tổ quốc, Quê hương, Đất nước và đồng bào yêu quư, đối với tuổi trẻ quư mến trong nước, đặt những viên gạch nhằm xây dựng một nước Việt Nam tự do, dân chủ, hiện đại và phát triển, sánh vai cùng bè bạn dân chủ toàn thế giới.
Tôi thiển nghĩ việc làm này nếu làm tốt, sẽ có ư nghĩa và tác dụng cao quư và thiết thực hơn cả việc hàng năm cộng đồng ta gửi về giúp người trong nước hơn 3 tỷ đôla Mỹ.
Mới đây, qua một số diễn đàn Paltalk trên mạng internet, một số bạn trẻ gốc Việt ở Pháp, Hoa kỳ, Úc cũng như ở Đức, Tiệp khắc, Ba lan... có hỏi tôi rằng khi có dịp trở lại Việt nam thăm người thân và tham quan quê hương th́ nên nói chuyện ǵ, và như thế nào với người trong nước? nên đối thoại ra sao? với các đề tài ǵ? với những nội dung ra sao? làm thế nào cho có kết quả tốt nhất? đă có những bài học, kinh nghiệm ǵ?
Cuốn sách nhỏ này chính là để đáp ứng yêu cầu ấy của các bạn trẻ, là nhằm thử trả lời cho những câu hỏi đáng quư ấy.
Tất cả trong cuốn sách bé nhỏ này chỉ là những gợi ư, những đề xuất chủ quan để các bạn tuỳ nghi xem xét, tham khảo và vận dụng thật linh hoạt và sáng tạo.
II - Thái độ của người trở về :
Trước hết khi trở về quê hương mỗi người có động cơ rất khác nhau.
Để thoả măn t́nh cảm gia đ́nh, thăm viếng người thân trong gia đ́nh lớn nhỏ, trong ḍng họ, để thăm bè bạn cũ hay là chỉ để thăm, tham quan các di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh, làng xưa, phố cũ?
Để tham gia làm ăn, kinh doanh, đầu tư, buôn bán?
Để làm công tác từ thiện, cứu giúp đồng bào tàn tật, bị chất độc da cam, bị cùi hủi, ho lao, Siđa, trẻ mồ côi, già yếu, không nơi nương tựa?
Để thực hiện những đề tài nghiên cứu chung hay riêng về lịch sử, xă hội, văn hoá, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường?
Hoặc chỉ là để hưởng thụ ở một nơi mát mẻ, sản vật phong phú, giá cả mọi thứ đều rẻ tiền, hoặc chỉ là việc đơn giản nhưng hệ trọng : kiếm vợ......
Xin các bạn hăy giữ nguyên những mục đích riêng tư ấy để có kế hoạch cụ thể về thời gian, chương tŕnh hoạt động, di chuyển, cư trú, tặng phẩm, quà cáp, chi tiêu, các mối quan hệ, giấy tờ, thủ tục, thuốc men, đồ dùng mang theo...
Và các bạn hăy vui ḷng thêm một động lực cho mỗi chuyến đi, là tận dụng mọi dịp tốt để tải về cho người trong nước những nhận thức mới, hiểu biết mới (đối với họ) về đất nước, về xă hội, về các mối quan hệ, nhằm nâng cao dân trí về nền dân chủ, về quyền tự do của người công dân trong xă hội.
- Có bạn sẽ hỏi rằng : tôi có làm vậy th́ hiệu quả cũng chẳng có mấy! chỉ như muối bỏ biển! thoáng qua như gió thoảng, mây bay!
Xin thưa : nếu bạn có ư thức thực hiện, nhiều bạn chung ư thức, hàng chục vạn bạn cùng làm như thế th́ kiến tha lâu đầy tổ, mưa dầm đất thấm lâu, góp gió thành băo, lâu đài nào cũng làm từ từng viên gạch, chung sức kiên tŕ th́ có thể dời non lấp biển. Hăy tự tin và dấn thân, rủ nhau cùng dấn thân, v́ đây là cả một sự nghiệp chính nghĩa, cứu người, cứu đời, cứu xă hội, cứu nước khỏi lầm than và lạc hậu.
- Có bạn hỏi : to tát như thế kia ư?
- Xin thưa : vâng, to tát lắm. V́ đảng CS đă khôn khéo thực hiện có hệ thống công tác giáo dục tuyên truyền của họ mà chính Giáo sư Trần Văn Hà, hiện là Ủy viên Đoàn chủ tịch Mặt Trận Tổ quốc VN gọi là ‘’chủ nghĩa toàn trị ‘’. Chủ nghĩa toàn trị có nghĩa là ép buộc người dân từ khi sinh ra đă phải nghĩ theo một khuôn phép chặt chẽ nhất, rồi khi bập bẹ biết nói, biết nghĩ, đến khi trưởng thành đi học, đi làm việc, cho đến khi nghỉ hưu và chết. Không một ai được nghĩ, được nói, được viết điều ǵ ngoài cái khuôn khổ ấy. Đảng CS thực hiện độc quyền (không chia sẻ cho ai) về nắm chính quyền, về chân lư, về yêu nước, về lẽ phải, về thi hành luật pháp… Dưới chế độ toàn trị, nhận thức của người dân bị nhào nặn, bị điều kiện hoá, bị nhồi nhét theo lợi ích riêng của đảng nên chứa đựng không biết bao nhiêu là sự thật bị cắt xén, méo mó, biến dạng, và không ít điều bịa đặt, dối trá, vu khống, xuyên tạc mà người dân vẫn cứ tưởng là đúng, là sự thật, là chân lư. Việc khôi phục chân lư, khôi phục lương tri, khôi phục suy luận lành mạnh cho toàn xă hội là sự nghiệp to tát, cấp bách vô cùng, thưa bạn! Bạn dấn thân vào một công cuộc đại nghĩa đó.
- Bạn sẽ hỏi: thế là rủ tôi, hay xúi tôi làm chính trị à? Tôi rất ngại, có thể nói là rất sợ làm chính trị, có khi mang hoạ vào thân!
- Xin thưa: Bạn chớ quá lo! Tôi không xui bạn làm chính trị đâu, theo cái nghĩa làm chính trị là tham gia một chính đảng chính trị, một tổ chức chính trị chủ trương dùng bạo lực hay không dùng bạo lực, nhằm mục đích lật đổ chính quyền hiện tại, nhằm ‘’ quang phục quê hương ‘’… như nhiều người kêu gọi; không! Làm những việc ấy là làm chính trị, là điều mà chế độ cầm quyền coi là nguy hiểm cho họ, là phạm luật pháp của họ, sẽ bị họ kết tội là hoạt động lật đổ, gây rối, làm mất trật tự an ninh, bị họ ngăn cản và trừng phạt, theo nền chuyên chính độc đoán của họ. Không ai có thể ép bạn làm việc ấy.
Tôi chỉ xin bạn hăy có thái độ chính trị rơ ràng đối với mọi vấn đề của đất nước. Có thái độ chính trị chưa phải là hoạt động chính trị. Không có luật pháp nào, của bất cứ nước nào, lại kết tội một công dân v́ thái độ chính trị của họ, khi họ chưa có một việc làm nào, một hành động nào làm chứng cứ cụ thể, rơ ràng về mặt pháp lư.
Giữa năm 2005, nhân chuyến về nước của thiền sư Thích Nhất Hạnh cùng tăng đoàn Làng Mai, bộ máy tuyên truyền Hànội lên án hai cụ Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ là ‘’đă đi tu rồi c̣n làm chính trị ‘’, cụ Quảng Độ lập tức bác bỏ ư kiến vu cáo, chụp mũ ấy rằng: chúng tôi không làm chính trị, nhưng chúng tôi luôn có thái độ chính trị đối với mọi vấn đề của đất nước. Lên án chính sách đàn áp tôn giáo, chính sách độc đoán phản dân chủ của đảng cộng sản, yêu hoà b́nh, mong nhân dân có tự do … là thái độ chính trị rơ ràng của người công dân yêu nước, không ai có thể cấm người tu hành chúng tôi có thái độ như thế.
- Bạn vẫn hỏi: tôi vẫn chưa yên tâm! V́ nếu tôi tỏ ra có thái độ chính trị không ưa ǵ chế độ CS, không thích cái chế độ xă hội chủ nghĩa hiện thực đầy nghịch lư mà họ xây dựng, không thể chịu nổi cái chế độ độc quyền chuyên chính đầy quan liêu và tham nhũng … th́ họ rất có thể t́m cách gây sự vu cáo, bịa đặt, cho đến lẻn đặt đồ quốc cấm để gây tai hoạ cho tôi.
- Xin thưa với bạn: e ngại của bạn là có lư. Chế độ trong nước là chế độ độc đoán, mang tính chất công an trị, nghĩa là ngành công an, cảnh sát, ‘’an ninh ‘’ luôn cậy quyền thế rộng lớn để lộng hành, kiếm chác, gây bất an cho người lương thiện. Có khi họ rất tàn nhẫn, nham hiểm. Do đó bạn rất cần cảnh giác, giữ mồm giữ miệng, không khiêu khích gây tranh căi với họ làm ǵ khi không cần thiết. Cảnh giác nhưng không thể thủ tiêu đấu tranh, cam chịu thân phận mất tự do. Hơn nữa, bạn hăy biết ‘’ lấy độc trị độc ‘’, lấy ngay những luận điệu mỵ dân của họ để chất vấn họ. Chính quyền này đă tự nhận là của dân, do dân, v́ dân có đúng không? công an mang tên là công an nhân dân, luôn phục vụ nhân dân, có đúng không? Cán bộ nhân viên nhà nước luôn tự nhận là ‘’đầy tớ của nhân dân ‘’, có đúng không? chế độ này có thật coi bà con Việt kiều là anh chị em ruột thịt, là ‘’khúc ruột dài ngàn dặm của Tổ quốc Việt nam ‘’ không?; và đảng từng nói là sẽ mở rộng dân chủ, từng hứa hẹn lắng nghe nhân dân phê b́nh góp ư, có thật thế không? Ai từng nói: không có ǵ quư hơn độc lập tự do, có biết không?
Đảng CS có thật t́nh mời bà con Việt kiều mạnh dạn góp tiền của, chất xám và ư kiến để xây dựng đất nước hay không, như trong Nghị quyết 36 đă ghi rơ? Chúng tôi đă góp công sức, nay góp ư kiến, sao lại không được?
Đất nước này là của toàn dân Việt nam, không phải của riêng một nhóm người nào, một đảng phái nào.
- Bạn hỏi: Được rồi, vậy chúng tôi nên chọn đối tượng nào để tuyên truyền, đối thoại?
- Xin thưa: - ai bạn gặp cũng có thể là đối tượng để tuyên truyền cả. Bạn đă không ngần ngại dùng chữ tuyên truyền. Xin hoan ngênh bạn. Tuyên truyền có 2 loại trái ngược nhau. Loại thứ nhất là mang sự thật, lẽ phải cho mọi người nhằm nâng cao nhận thức của họ cho gần với sự thật và chân lư, xoá bỏ những lầm lẫn, ngộ nhận, ảo tưởng của họ; loại thứ hai là truyền bá những tin tức và lập luận lừa dối, bịa đặt, những sự thật bị xuyên tạc, bóp méo, cắt xén…Loại trên là việc làm tốt đẹp, có ích cho xă hội, cho tiến bộ của tập thể và cá nhân, là việc thiện, việc làm nhân đức, cứu nhân độ thế, là chính nghĩa. Loại thứ hai là việc làm tệ hại, xấu xa, không lương thiện, làm nhiễu loạn và tŕ trệ đời sống xă hội, là phi nghĩa.
V́ thế việc bạn dấn thân cho sự nghiệp dân chủ hóa, tuyên truyền sự thật là việc làm chính nghĩa, không vụ lợi, có ư nghĩa cao quư, sẽ đưa lại niềm vui nội tâm cho bạn và cho người thân của bạn.
Bạn hăy làm thế nào để giúp cho thật nhiều người hưởng được sự quan tâm ưu ái của bạn, để ai có dịp nói chuyện, trao đổi ư kiến, đối thoại, tranh luận với bạn cũng đều lớn lên chút ít về nhận thức và chính kiến, xoá bỏ đôi chút những ngộ nhận, bớt đi hay từ bỏ những giáo điều cổ hủ …
Do đó, đối tượng tuyên truyền của bạn chính là những người thân: ông, bà, chú, bác, anh chị em, các cháu thanh niên, thiếu niên, bạn bè cũ gặp lại, láng giềng…,cho đến anh lái xe ôm, bác lái taxi, người bán hàng, người phục vụ trong nhà khách, khách sạn…, thậm chí đến cả anh công an, chị hải quan, người đảng viên, cán bộ, viên chức ngành hành chính, du lịch, thương mại, ngoại giao, đầu tư, kinh doanh …mà bạn có dịp gặp, làm việc với họ, hay là chỉ gặp ngẫu nhiên trên máy bay, xe bus, tầu hoả, hay trên sân ga, nhà hàng, hoặc trên băi biển, trong vườn hoa …
- Bạn hỏi: thái độ đối thoại nên như thế nào?
- Xin thưa: trước hết là thái độ lịch sự, nhă nhặn, tự nhiên. Với ai, đó cũng là thái độ cần thiết, gây nên thiện cảm khi bắt đầu làm quen.
Quá tŕnh đối thoại, tranh luận sẽ có thể có chính kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau th́ cũng phải giữ b́nh tĩnh, không sốt ruột, nôn nóng, không nên đột nhiên nâng cao giọng, ‘’hồng hào đôi má ‘’, rồi không c̣n tự chủ, dùng những từ ngữ quá đáng, không lịch sự về người ta đang đối thoại (như bảo nhau là ngu, dốt, chẳng hiểu ǵ, vô lư, không nghe lọt tai được, sai lầm, lẩm cẩm …).
Xin bạn chú ư: khi đụng đến những vấn đề chính trị, chiến tranh, đảng phái, ta địch, bạn thù, bên này bên kia, ‘’cộng sản ‘’, ‘’quốc gia ‘’, ‘’nguỵ quân, nguỵ quyền ‘’, ‘’chống cộng ‘’, đụng đến những nhân vật Hồ Chí Minh, Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Dương văn Minh, Lê Duẩn …chẳng hạn th́ càng nên b́nh tĩnh, tỉnh táo, giữ thái độ ‘’tương kính ‘’, thông hiểu nhau, bao dung, để giữ hoà khí dù cho tranh luận có găng đến đâu …
Bạn lại nên có thái độ lắng nghe, ôn tồn lắng nghe một cách kiên nhẫn, chớ sốt ruột, hiếu thắng, muốn dành hết thời gian đối thoại cho ḿnh, quyết dành phần thắng cho ḿnh.
Khi lắng nghe người khác, bạn cần có thái độ công bằng, nghĩa là chú ư công nhận, thừa nhận những ǵ họ nói là đúng, và chỉ ra điểm nào sai, điểm nào đúng.
Có những sự việc phức tạp, mang tính biện chứng, trong cái đúng có cái sai, trong cái sai lại có cái đúng, hoặc chủ trương th́ đúng mà phương pháp hay biện pháp th́ sai, cần phân biệt rơ, không vơ đũa cả nắm …
Cũng lại cần phân biệt hiện tượng với bản chất, một bản chất có thể mang nhiều hiện tượng khác hẳn nhau, hoặc nhiều bản chất lại sinh ra những hiện tượng giống nhau; các nhà khoa học, tâm lư học, triết học gọi là hiện tượng bản chất và hiện tượng phi bản chất (khi đi vào nội dung sẽ có những dẫn chứng cụ thể).
Xin nói thêm với bạn: chân lư, sự thật chỉ có một, đúng sai cần phân biệt rơ rệt như đen với trắng. Thế nhưng khi sự việc mới khởi đầu hay đang c̣n diễn ra, khi chưa có kết quả, th́ có thể nhiều ước đoán khác nhau, nhiều khả năng diễn biến và hậu quả khác nhau. Lúc ấy xin bạn luôn tự tin, đồng thời có thái độ ‘’đa nguyên ‘’, nghĩa là tôn trọng những ư kiến khác với ư ḿnh. Thái độ ‘’đa nguyên ‘’ là thái độ cần thiết, khoa học v́ nó là h́nh thức phổ biến của muôn loài. Hai con người A và B rất giống nhau ở bản chất và cấu trúc cơ thể, đều có đầu, thân ḿnh, chân tay, đều biết nói, biết suy nghĩ, đều ăn, thở… như nhau, nhưng không ai giống hệt nhau ở ngay những bộ phận giống nhau; về suy nghĩ, t́nh cảm, sở thích th́ sự đa nguyên, đa dạng, đa sắc thái… càng rơ. Nó làm cho tạo vật và xă hội cực kỳ phong phú, hấp dẫn, thú vị. Ở những lĩnh vực thưởng thức văn học nghệ thuật, sáng tạo văn hoá tinh thần, tín ngưỡng, tôn giáo và triết học th́ không thể có một khuôn phép duy nhất, bắt buộc nào. Nếu ai cũng giống y hệt như ai, y hệt như bạn cả th́ cuộc đời này sẽ nhạt nhẽo chán ngán đến đâu!
Đấy thưa bạn, tuyên truyền qua đối thọai, thảo luận, tranh luận để truyền bá tư tưởng dân chủ là cả một khoa học và nghệ thuật. Bạn cứ dấn thân đi, bạn sẽ t́m thấy niềm vui trong việc làm có ích này và rồi bạn sẽ ngày càng có nhiều kinh nghiệm. Hăy tự nâng cao hiểu biết về chính trị, về dân chủ, hăy t́m đọc nhiều bài viết của các chiến sỹ dân chủ trong và ngoài nước, trên các mạng internet: ‘’ saigonbao.com ‘’, ‘’ykien.net ‘’, ‘’caulacbodanchuvietnam ‘’, ‘’doi-thoai.com ‘’, ‘’ talawas.net ‘’, ‘’phusa.net ‘’, ‘’nguoivietonline ‘’, ‘’vietbao.com ‘’, ‘thôngluận.com’’, TNDCVN.com và nhiều địa chỉ khác…
Một kinh nghiệm nhỏ nữa của tôi là: khi cuộc tranh luận trở nên có vẻ căng thẳng, những chính kiến đối lập đôi co nhau làm giảm hoà khí, th́ bạn nên khéo léo tạm ngừng tranh luận, chuyển sang uống nước chè, giải khát, hay thay đổi đề tài vô thưởng vô phạt, nói chuyện về thể thao, thời tiết, văn thơ … Bạn có thể chuẩn bị một số chuyện tiếu lâm đặc sắc nhất, tiếu lâm Việt nam, Trung quốc hoặc Âu Mỹ, hoặc tiếu lâm chính trị Liên Xô và Đông Âu… Sau khi ‘’hạ hỏa’’, cuộc đối thoại lại có thể tiếp nối trong không khí tương thân tương kính, tự nhiên thoải mái…
- Thay cho kết luận phần này, tôi xin mượn mấy câu thơ của nhà thơ Việt Phương; ông từng là thư kư riêng của thủ tướng Phạm văn Đồng, cho đến khi ông viết bài thơ ‘’ Địa ngục không cửa sổ ‘’ và bị đi tù v́ bài thơ này đăng trong tập thơ ‘’ Cửa Mở ‘’. Khi ấy ít ai được đi ra nước ngoài, nhất là có dịp đến các nước phương Tây lại càng cực hiếm. Phần lớn ra nước ngoài chỉ quanh quẩn trong các nước ’’ xă hội chủ nghĩa anh em’’ như: Liên Xô, Trung Quốc, Mông Cổ, Bắc Triều Tiên, Ba lan, Tiệp, Đông Đức…Miền Bắc chia cắt hoàn toàn với miền Nam, không thư từ, không điện thoại, không đi lại. Năm 1972, ông được tháp tùng phó thủ tướng Lê Thanh Nghị sang Pháp và Ư. Ông bị ‘’sốc ‘’. Thế giới phương Tây mà ông nh́n tận mắt không có ǵ giống như bộ máy tuyên truyền của đảng cộng sản truyền bá, nghĩa là nó đang rẫy chết, chỉ có thất nghiệp và đ́nh công, lầm than đói khổ, đầy máu và nước mắt, cực kỳ lạc hậu so với Liên Xô. Ông viết:
…Tôi đă đến Paris phồn hoa tráng lệ
Đi dưới trời tuyết lạnh
Tôi ngẩn ngơ từng góc phố con đường
Sao tôi thấy cảnh thanh b́nh xa lạ
Từng đàn chim quanh quẩn dưới chân người
Cuộc sống nơi đây tôi nào có biết
Nhưng nhận ra ngay qua những nụ cười
Ở nơi đó tôi thấy rất nhiều khác lạ
So với điều người ta dạy cho tôi
Và từ đó hồn tôi bỗng ‘’ Cửa Mở ‘’
Tôi khóc thầm cho dân tộc của tôi
Hỡi Nhân Loại! Hăy giùm tôi mở cửa
Bao nhiêu người đang ngu muội lầm than
Trong địa ngục khổng lồ không cửa sổ.
Ông tự đánh máy rồi tự in tập thơ ‘’ Cửa mở ‘’ gồm 32 bài, chỉ biếu bạn bè thân thiết, thế mà lập tức ông mang hoạ! Ông trùm văn hóa Tố Hữu nổi cáu, phùng mang trợn mắt kết tội đây là ‘’một tên chống đảng ‘’, và khuyên ṿng tṛn đỏ các chữ: phồn hoa tráng lệ, ngẩn ngơ, thanh b́nh, nụ cười, người ta dạy, khóc thầm cho dân tộc của tôi, mở cửa, ngu muội lầm than , địa ngục khổng lồ …
Theo tôi cho đến nay, dù cho đảng và nhà nước ‘’người ta ‘’ đă tuyên bố ‘’ đổi mới ‘’ (từ 1986) được 20 năm, cả nước ta về cơ bản vẫn c̣n là một kiểu nhà tù, một kiểu trại giam khổng lồ, tuy quả thật cửa sổ có được he hé mở ra tư chút.
Và lời kêu gọi tâm huyết của ’’ nhà thơ nhân dân Việt Phương ‘’ - như bạn bè gọi anh, vẫn c̣n có ư nghĩa thời sự khẩn cấp, vẫn vang lên thống thiết:
’’ Hỡi nhân loại! hăy giùm tôi mở cửa! ‘’
Vâng, giam hăm nhận thức, trí tuệ của con người Việt nam là khởi đầu của việc giam hăm toàn bộ tinh thần và thể chất của dân tộc ta vậy.
Cho nên việc bạn hạ quyết tâm làm hôm nay là cao quư, cấp bách, là góp phần ‘’ mở cửa ‘’ giải thoát dân tộc ta thoát hẳn ra khỏi một trại giam khổng lồ vậy. Suy nghĩ cho kỹ, nhà thơ Việt Phương nói không ngoa khi dùng chữ ‘’ địa ngục khổng lồ ‘’, phải không bạn?
Tôi xin nói thêm: nhà thơ Việt Phương cũng có nhưng câu thơ đặc sắc gây ấn tượng, như:
Người ta dạy tôi
Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thuỵ sỹ
Trăng Trung Quốc tṛn hơn trăng nước Mỹ
Tôi đă sống một phần hai thế kỷ
Để hôm nay làm đĩ với tâm hồn!
Lại những vần thơ tố cáo, chua cay; ‘’người ta’’ đây là ‘’đảng cộng sản”, chứ c̣n ai vào đây nữa! đảng anh minh, đảng cứu tinh, đảng thần kỳ! để đến nỗi 50 tuổi rồi mà vẫn không làm nổi con người ngay thẳng lương thiện, để c̣n nhẹ dạ, lừa dối, đối sử gian manh với chính tâm hồn, lương tâm ḿnh; để tin vào giọng lưỡi dối trá, lừa mị, gian manh, đổi trắng thay đen của đảng!
Để tăng thêm nghị lực dấn thân cho sư nghiệp dân chủ hóa đất nước của bạn, tôi xin kể về một anh bạn trẻ trong nước đi du học, nay đă trở về nước, rất hăng hái và bền chí lao vào sự nghiệp chung ấy của chúng ta. Anh từng là thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, từng là ‘’cháu ngoan Bác Hồ ‘’, c̣n có lúc mong muốn vào đảng cộng sản. Bố anh là cán bộ đảng viên cộng sản, mẹ anh ‘’khóc hơn cha chết’’ khi được tin ‘’Bác Hồ đi theo cụ Mác, cụ Lênin ‘’. Ra nước ngoài anh có môi trường mới, tự do nghiên cứu, mở rộng hiểu biết, tập suy nghĩ bằng cái đầu tỉnh táo của chính ḿnh, và trong không khí dân chủ, tự do, đọc đủ loại thông tin, nhiều nguồn, nhiều luồng, anh tỉnh táo nhận ra là ḿnh đă có không biết bao nhiêu là lầm lẫn, ngộ nhận, bất công, bất cập trong nhận thức chính trị của ḿnh. Và anh tự tập luyện làm chủ cái đầu của ḿnh, không lệ thuộc vào bất cứ cái ǵ khác. Rèn luyện tư duy độc lập, hoài nghi một cách khoa học, xoá bỏ mọi thần tượng, để rồi anh đưa lên mạng internet một bài tâm sự với các bạn trẻ trong ngoài nước, kư tên: ‘’người du học ‘’, với lời kết luận chắc nịch như một tuyên ngôn:
…"Không! đă quá đủ rồi! Hăy để cho chúng tôi được nghe cái chúng tôi muốn nghe; thấy cái chúng tôi muốn thấy; làm cái chúng tôi muốn làm. Đừng tiếp tục bắt lũ trẻ tội nghiệp chúng tôi ngồi im lặng mà nghe người ta chỉ bảo: phải như thế này này, không được như thế kia!
Không! Tôi sẽ không bao giờ giống mẹ tôi - bật khóc chỉ v́ thấy mọi người xung quanh đều khóc. Không! Tôi sẽ không bao giờ gật chỉ v́ tất cả mọi người đều gật. Không! tôi sẽ không bao giờ giống bố tôi - giả bộ ngoan ngoăn để được yên thân. Tôi chỉ là tôi thôi!
Không! Tôi sẽ không c̣n là tôi của hôm qua nữa! Tôi sẽ là tôi của ngày mai, bước ra khỏi đám đông, đạp đổ mọi thần tượng giả h́nh, xây tượng đài của chính ḿnh: tự do và tri thức ‘’.
Nhà hùng biện Marat nhân vật lănh đạo của cuộc cách mạng dân chủ dân quyền Pháp cuối thế kỷ 18 đă nói:
Người ta lớn bởi v́ người cúi xuống
Hỡi nhân dân! hăy đứng cả lên!
Nhà thơ dân chủ Bùi Minh Quốc cũng nói lên ư ấy trong mấy câu thơ:
V́ ta cúi nên ta nh́n chúng lớn
Ta thẳng lưng thấy chúng cũng thường thôi
Và chính lúc chúng mang phồng mép trợn
Lại là khi chúng sợ sắp tiêu đời.
Ta hăy kiêu hănh đứng thẳng lưng, ngẩng cao đầu, khẳng định ta là ta, làm chủ đời ta, không quỳ gối cúi đầu trước bất cứ thần tượng hăo huyền nào, không theo đuôi, sùng bái bất cứ ai, để ta kết thân với bất cứ ai có cùng một thái độ sống ngay thẳng, đàng hoàng như thế, để cả dân tộc này đều đứng thẳng, không cúi đầu sùng bái mù quáng bất cứ một học thuyết xa lạ nào, một lănh tụ xa gần nào…
- Lời cuối cùng trong phần kết luận này là để thưa chuyện với các bạn tại sao cuốn sách nhỏ này lại mang tên Chia sẻ t́nh yêu thương.
V́ có thể có người cho rằng đây là cuốn sách nhỏ chuyên bàn về lư sự. Làm thế nào để nâng cao dân trí về dân chủ hoá? Làm thế nào để thuyết phục mọi người ta đối thoại về nhu cầu cấp bách của dân chủ hóa nước ta? con đường dân chủ hoá, những bước đi của nó nên như thế nào? và nh́n lại những sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử quan trọng nhất, ta nên đánh giá và đánh giá lại ra sao? đâu là trở ngại cần khắc phục và vượt qua? những bộ mặt chiến sỹ dân chủ nổi bật ; những kinh nghiệm bước đầu về tuyên truyền dân chủ hoá ở trong nước ... Vâng, đúng vậy, những vấn đề trên phần lớn là thuộc về nhận thức, tŕnh độ nhận thức và phương pháp nhận thức, liên quan đến sự vận động, ghi nhớ, thao tác của bộ óc, của trí tuệ. Nói nôm na, đây là vấn đề của lư sự, của căi lư.
Tôi mong rằng vấn đề lư sự, nhận thức về dân chủ nên đặt trên vấn đề của t́nh cảm, của thương yêu , của chia sẻ; lấy yêu thương quê hương ḿnh, đồng bào ḿnh, yêu thương con người, yêu thương mọi con người làm gốc. Và xin bạn hăy yêu thương cả những người bất đồng chính kiến với bạn, đừng bao giờ giận dữ, ghét bỏ, chửi mắng hay trong ḷng khinh bỉ và xỉ vả họ. Họ chỉ là nạn nhân của cả một học thuyết có mục đích rất nhân văn (người không bóc lột người) nhưng với những biện pháp rất phi nhân tính (đấu tranh giai cấp không khoan nhượng, kích động căm thù ngút trời, chiến tranh là phương pháp cơ bản, độc quyền chân lư) ; họ là nạn nhân của thời cuộc, của một ảo tưởng khổng lồ, dai dẳng , của những điều kiện lịch sử khách quan, ngoài ư muốn của họ ; rồi mới đến họ là nạn nhân của thái độ bị động, theo đuôi, nhu nhược, mù quáng dai dẳng của chính họ.
Riêng trong lĩnh vực dân chủ hoá, họ là nạn nhân của cả một hệ thống tuyên truyền cổ động, gíáo dục, thông tin văn hóa, một hệ thống xuất bản báo chí, truyền thanh, vô tuyến truyền h́nh, những hệ thống báo cáo viên, câu lạc bộ, loa phát thanh … ầm ỹ, rực rỡ, lắp đi lắp lại, hỗn xược, nhàm chán, vô duyên, trâng tráo bủa vây bạn khắp nơi, cưỡng bức bạn dưới cái danh từ dễ nghe : phục vụ! Hàng triệu người làm cái việc tệ hại đầu độc cả một xă hội ấy : nhà báo, nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, nhà xuất bản, phóng viên, phát thanh viên, tuyên truyền viên, báo cáo viên, cổ động viên …, rất ít người biết rằng ḿnh đang bị ép buộc một cách tinh vi tham gia một cuộc đầu độc toàn xă hội cực kỳ nguy hại cho dân, cho nước ; họ là kẻ phá hoại luân thường đạo lư, tàn phá truyền thống của dân tộc, reo rắc tà đạo tệ hại, củng cố chế độ đầy phi lư, bất công, tham nhũng, nhưng lại núp sau những mỹ từ : ơn đảng, ơn Bác, công lao giải phóng và thống nhất, chủ nghĩa xă hội ưu việt, v́ dân và do dân, tầm cao thời đại! xét cho cùng họ cũng chỉ là nạn nhân bị cưỡng bức phục vụ cho một đảng đang bị lột mặt nạ trước bàn dân thiên hạ và trước toàn thế giới. Thật là may khi giữa xă hội nhiễu nhương hiện tại nổi lên những gương mặt kiên nghị đáng yêu của các chiến sỹ dân chủ, tiêu biểu cho tinh hoa dân tộc, hiện thân của hồn thiêng sông núi, báo trước tương lai tươi sáng của dân tộc.
- Tôi muốn lưu ư các bạn 2 cơ quan mũi nhọn của đảng cộng sản chuyên chỉ đạo việc đầu độc xă hội ; đó là 2 xưởng máy chuyên sản xuất ra những sản phẩm tinh thần và trí tuệ cao cấp của đảng, những lập luận và thủ thuật nhằm làm khuôn mẫu để rèn đúc trí tuệ của cán bộ đảng viên, nhào nặn nên h́nh mẫu của nhận thức xă hội. Đó là Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, hậu thân của Học viện chính trị Nguyễn Ái Quốc, từ lâu có mạng lưới rải khắp nước : Trường đảng Cao cấp trung ương, Trường đảng trung cấp các tỉnh và thành phố, Trưởng đảng sơ cấp các quận huyện... Tất cả cán bộ trong guồng máy của nhà nước và của đảng, từ uỷ viên trung ương, bộ trưởng, thứ trưởng, vụ trưởng, cục trưởng, giám đốc các doanh nghiệp quốc doanh... đều nhất thiết phải qua một lớp học và có bằng tốt nghiệp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Cơ quan thứ hai là Ban tư tưởng và văn hóa cũng của Ban chấp hành trung ương đảng , cơ quan quản lư tư tưởng và nhận thức của toàn xă hội, cơ quan kềm kẹp tinh thần của toàn xă hội, cơ quan chỉ đạo thống nhất tất cả mọi báo chí, nhà xuất bản, đài phát thanh, vô tuyến truyền h́nh, toàn ngành giáo dục, thông tin tuyên truyền, đối ngoại cũng như mọi tổ chức của đảng : Mặt trận Tổ quốc VN, Tổng công đoàn VN, đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, hội Phụ nữ cứu quốc, đoàn Thiếu niên tiền phong, đội Nhi đồng tháng tám. Họ thực hiện đúng theo phương châm của tên trùm sỏ chiến tranh tâm lư, bộ trưởng tuyên truyền của phát xít Đức hồi trước Gơben là : ‘’ một điều lừa dối, bịa đặt khó tin nhất, nếu được nhắc đi nhắc lại trăm ngàn lần sẽ được mọi người tin là thật‘’.
Hai cơ quan này là 2 cơ quan tốn kém nhất và được trọng vọng và nể sợ nhất, cũng là 2 cơ quan quyền thế lộng hành nhất, quan liêu trịch thượng nhất trong xă hội, chi tiêu phung phí không hạn độ, có nhiều quan chức cấp cao, tiến sỹ giáo sư nhất, trong đó không ít vị là giáo sư tiến sỹ ‘’dỏm’‘... Đó cũng là 2 cơ quan có tội lớn nhất trong việc xuyên tạc, bóp méo sự thật, một công cụ ngu dân và kềm kẹp, đàn áp tinh thần nhân dân lợi hại nhất của chế độ độc đoán kiểu toàn trị. Nó c̣n nguy hiểm và tệ hại hơn cả đội quân cảnh sát an ninh tàn ác, nhũng lạm, vừa đàn áp những nông dân oan ức bị đuổi nhà cướp đất đi khiếu kiện, vừa móc túi những chị em buôn thúng bán bưng trên vỉa hè không chút liêm sỷ.
Các bạn về nước dấn thân cho sự nghiệp dân chủ hoá cao quư hăy nhận cho rơ bộ mặt tệ hại của hai cơ quan này mà chúng ta luôn gián tiếp hay trực tiếp đối đầu, t́m hiểu cho sâu những mánh khoé, thủ thuật tinh vi của chúng, nhằm giải độc có hiệu quả những chất độc mà họ không ngừng tiêm vào cơ thể xă hội, và thay vào đó chúng ta sẽ tải vào xă hội những nhận thức đúng đắn, lành mạnh, những quan điểm chính trị tiền tiến của thời đại, những chất bổ quư, những sinh tố hiếm tạo nên cuộc sống trí tuệ và tinh thần đầy sinh lực trẻ khoẻ cho đất nước.
Bạn hăy tự nguyện dấn thân vào công việc dân chủ hoá quê hương bằng trái tim nóng hổi của ḿnh, v́ t́nh thương yêu nồng nàn đồng bào ruột thịt của ḿnh đang lâm nạn, do bị đầu độc có hệ thống những năm dài. Hăy nuôi dưỡng t́nh yêu thương ấy suốt thời gian bạn ở thăm quê hương. Bằng t́nh thương yêu không ngừng chia sẻ cho bà con ruột thịt, bạn sẽ thấy ḿnh trưởng thành và có ích hơn cho nhân quần xă hội, và cuộc đời đáng sống hơn. Bạn cũng sẽ nhận lại được nhiều yêu thương quư mến được san sẻ trở lại. Bạn sẽ hiểu ra rằng t́nh yêu thương là quư đến mức nào trong cuộc đời này, có nhiều tiền cũng không mua được.
Ngay với những người khi đối thoại tranh luận với bạn tỏ ra khó tiếp thu lẽ phải, chống lại hay không tán thành công cuộc dân chủ hoá của chúng ta, trung thành đến cùng với đảng và nhà nước, suy nghĩ và ‘’ăn nói như báo đảng ‘’, th́ bạn chớ tức giận, ghét bỏ; hăy thương hại họ hơn v́ xét cho cùng họ chỉ là nạn nhân của một học thuyết và chế độ cổ hủ, và bạn nên thấy công việc chúng ta càng thêm cần thiết và cấp bách ; xin bạn vui ḷng san sẻ t́nh yêu thương cho những người chậm hiểu biết, chậm tiến ấy nhiều hơn một chút!
Ngay đối với những cán bộ, nhân viên tệ hại trong 2 cơ quan chuyên đầu độc có hệ thống xă hội ta nói trên (hệ thống trường đảng cộng sản mang tên Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Ban tư tưởng và văn hoá của đảng cộng sản), tuy họ phải chịu trách nhiệm cá nhân về những việc họ làm, lũng đoạn tâm lư xă hội, reo rắc hỗn loạn trong nhận thức của nhân dân về phải trái, đúng sai, chuyên sản xuất ra những luận điệu độc hại, th́ xét cho cùng họ cùng chỉ là nạn nhân của một học thuyết sai lầm, một chế độ độc đoán cổ hủ. Xin bạn cũng nên rộng lượng san sẻ cho họ chút ít t́nh thương, ḷng thương hại.
Tôi đă gặp ở Berlin (Đức) và Varsawa (Balan), một số cán bộ cộng sản cũ ở Nga, Đông Đức và Balan thời trước ; có 3 anh bạn rất thân, một anh từng có trách nhiệm cao trong Ban tuyên huấn của đảng cộng sản Liên xô, anh nữa là phóng viên quân sự của báo Pravda (Sự Thật) của đảng cộng sản Liên xô, và anh thứ ba là phóng viên quân sự của báo Nơ-đớt-len (nước Đức mới) của đảng cộng sản Đức. Cả 3 anh bạn đều trong tâm trạng buồn v́ không ngờ cuộc đời họ đă có những bước ‘’ lên mây xuống đất’’, nhưng họ cũng thú nhận với tôi rằng cuộc đời mới làm họ thanh thản, lương tâm yên ổn hơn trước, và thú nhận rằng quê hương họ may mắn đă chuyển từ một chế độ thấp lên một nền chính trị cao hơn, trong sạch hơn, một xă hội công bằng hơn, có triển vọng phồn vinh rơ rệt. Anh bạn Nga tâm sự : ‘’ Tao đỏ mặt khi đọc lại những bài phóng sự dài ḷng tḥng tao đă viết! Thôi! chớ nhắc lại những việc làm dại dột lăng nhăng ấy ‘’. Những con người như vậy ở nước ta, từng nhân danh đảng, hùng hồn, ba hoa, hét ra lửa, dạy đời vung vít... rồi cũng sẽ được đổi đời như 3 anh bạn cũ của tôi thôi. Rồi họ sẽ biết xấu hổ. Hăy thương hại họ một chút, ngay từ bây giờ, bạn nhé!.
Hăy san sẻ thương yêu cho mọi người, anh bạn của tôi ơi!
III- Những nội dung thường được nêu lên trong đối thoại
Các vấn đề thường gặp, thường được nêu lên trong đối thoại với bè bạn, người thân quen ở trong nước rất là rộng lớn. Dưới đây chúng tôi chỉ nói đến một số vấn đề chung nhất, có liên quan đến việc xây dựng dân chủ ở nước ta.. Trong mỗi vấn đề chúng tôi chỉ nêu lên vài chính kiến khác nhau để gợi ư cho bạn, bạn hoàn toàn tự do có chính kiến riêng của ḿnh.
Khi bạn t́m hiểu sự thật để xác định chính kiến riêng của ḿnh, xin bạn dùng cái đầu tỉnh táo của riêng ḿnh, không nên phụ thuộc vào ư người khác, vào số đông, cũng không nên dựa hẳn vào sách báo, sách lịch sử, giáo khoa, lời ‘’lănh tụ‘’... ; tất cả chỉ là để tham khảo, để bạn có ư kiến riêng của bạn, một con người tự do.
Theo nguyên tắc dân chủ, nói chung không có vấn đề nào là cấm kỵ, không có điều ǵ là không được bàn đến, trừ những vấn đề mà luật pháp Việt nam ngăn cấm: phá hoại trật tự an ninh xă hội, lật đổ chính quyền, tuyên truyền chiến tranh, kỳ thị dân tộc.
1-/ Một số vấn đề quốc tế.
a)- Phe xă hội chủ nghĩa. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2, h́nh thành 2 phe chống đối nhau quyết liệt. Phe xă hội chủ nghĩa do Liên Xô lănh đạo và phe đế quốc (theo cách gọi của phe xhcn) do Mỹ cầm đầu. Phe Mỹ tự nhận là phe dân chủ và gọi phe kia là phe cộng sản.
-Phe xă hội chủ nghĩa gồm có Liên xô, Trung quốc, các nước Đông Âu: Balan, Đông Đức, Tiệp khắc, Bungari, Hungari, Rumani, Anbani, Nam tư, Cu ba, Bắc Triều tiên, Mông cổ, Việt nam... Có lúc Nam tư, rồi Anbani rút ra khỏi phe này. Về sau một số nước trên thực tế được coi như nằm trong phe xhcn, hay gắn bó với phe này, như : Lào, Vênêzuêla, Êthiôpi, Angola, Mozambic, Madagasca, Angêri, Li bi, Apganixtan...
-Giữa 2 phe là những nước không thuộc hẳn phe nào, được gọi là thế giới thứ 3, hay c̣n có những nước không liên kết.
-Đảng CS VN cho rằng phe xhcn là phe ta, là tiến bộ và ưu việt, là tương lai của toàn thế giới, với luận điểm của phong trào CS quốc tế :’’đặc điểm lớn nhất của thế giới là đang trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản trên qui mô toàn thế giới ‘’.
-ĐCS thường nhấn mạnh: Liên xô là nước rộng nhất, Trung quốc là nước đông dân nhất, phe xhcn phát triển từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, từ ít đến nhiều, từ yếu đến mạnh về mọi mặt... và sẽ bao trùm toàn thế giới trong tương lai không xa.
-ĐCS cho rằng phe xhcn đang xây dựng chủ nghĩa xă hội là giai đoạn chuẩn bị để chuyển lên chủ nghĩa cộng sản, khi ấy sản xuất phát triển rất cao, sản phẩm dồi dào, con người ung dung làm theo sức ḿnh, hưởng tha hồ theo nhu cầu, không có bóc lột...
-ĐCS cho rằng chủ nghĩa tư bản đă phát triển qua thời cực thịnh của nó, đang xuống dốc và rẫy chết không tránh khỏi. Phong trào CS quốc tế đang đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản quốc tế.
-ĐCS cho rằng phong trào CS quốc tế là ṇng cốt của 3 ḍng thác cách mạng ngày nay, là : phong trào đấu tranh đ̣i quyền dân chủ và dân sinh trong các nước tư bản, phong trào giải phóng dân tộc trong các nước thuộc địa và phong trào bảo vệ hoà b́nh toàn thế giới.
-Những người đối lập với những chính kiến trên đây cho rằng : những ư kiến trên là ảo tưởng, lầm lẫn, mỵ dân, thậm chí cố t́nh xảo trá, bịp bợm.
-Họ cho rằng thực chất phe xă hội chủ nghĩa chỉ là gồm những nước phụ thuộc của Liên xô, có người gọi là những nước chư hầu, hay là thuộc địa kiểu mới chỉ để phục vụ nhu cầu bành trướng vô hạn của đảng Cộng sản Liên xô.
-Họ chỉ ra bản chất Liên xô và các nước xhcn là tính chất độc tài, đảng trị, phản dân chủ, trên thực tế là xa nhân dân, cai trị nhân dân, từ chối quyền được suy nghĩ, phát biểu tự do của nhân dân, ngăn cấm tụ do báo chí, bàu cử tự do và tự do tôn giáo của người dân; kinh tế tập trung quan liêu dẫn đến lạc hậu, nghèo đói.
- Họ cho rằng phe xhcn tất bị sụp đổ v́ bản chất độc đoán độc quyền, bạo lực của nó, v́ những mâu thuẫn nội tại của nó (xung đột, chia rẽ, can thiệp thô bạo, chiến tranh với nhau, như Liên xô mang quân vào Ba lan, Tiệp khắc, như chiên tranh Xô – Trung, Việt – Trung), đồng thời v́ nội trị tàn bạo và lạc hậu (đàn áp,thanh trừng, trại cải tạo, kinh tế tập trung quan liêu, văn hoá cưỡng bức, khinh thị trí thức, cản sáng tạo).
- Sự kiện Liên xô tan vỡ, đảng CS Liên xô giải thể cuối năm 1991 được coi là 1 sự kiện nổi bật nhất của thế kỷ 20, làm phe xhcn tan biến, kết thúc cuộc chiến tranh lạnh kéo dài gần nửa thế kỷ.
- Có 2 đánh giá trái ngược nhau về nguyên nhân của sự kiện lịch sử trên; do bản chất độc đoán, phi nhân phản dân chủ của chế độ xă hội chủ nghĩa? do chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh của nhóm Gorbachốp câu kết với đế quốc, đặc biệt là đế quốc Mỹ (ư kiến này là lập trường chính thức của đảng Cộng sản Việt nam).
- Về tác động của sự kiện trên đây cũng có 2 ư kiến trái ngược : đó chỉ là khủng hoảng tạm thời, thoái trào tạm thời của chủ nghĩa xă hội và phong trào cộng sản quốc tế, rồi chủ nghĩa xă hội và phong trào cộng sản sẽ khôi phục mạnh mẽ (ư kiến của đảng Cộng sản Việt nam); ư kiến khác là: chủ nghĩa xă hội hiện thực đă phá sản triệt để không có cách ǵ hồi phục và phong trào cộng sản dựa trên học thuyết Marx – Lénine cũng đă thất bại không thể cứu văn do bản chất độc đoán, chuyên quyền, do quan điểm đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản chỉ dẫn đến xung đột, hận thù, tàn phá và chiến tranh...
b)-Chiến tranh lạnh :
- Là cuộc đọ sức, dành dật nhau ảnh hưởng, đấu tranh với nhau quyết liệt, đối đầu nhau toàn diện giữa 2 phe, 2 hệ thống thế giới đối địch, từ 1945 đến cuối 1991.
- - Gọi là chiến tranh lạnh để nói rằng cuộc đối đầu quyết liệt nhưng không dùng bom đạn, vũ khí, chất nổ giữa những siêu cường mạnh nhất là Liên xô và Mỹ, giữa khối quân sự Bắc Đại tây dương (OTAN) và khối quân sự Varsovie.
- - Tuy nhiên trong thời chiến tranh lạnh vẫn có những cuộc chiến tranh nóng có tính chất cục bộ, địa phương, như chiến tranh Triều tiên (1950 – 1953), chiến tranh Việt nam (1945 – 1975) ; có người gọi đó là những cuộc chiến tranh uỷ nhiệm, do các siêu cường tiến hành, điều khiển, chi tiền, trang bị và bằng sinh mạng của người khác.
- - Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, có 2 cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất, khi loài người đứng trên bờ của vực thẳm hạt nhân : cuộc khủng hoảng Berlin năm 1948 và cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962.
- Cuộc khủng hoảng Berlin diễn ra từ ngày 1/4/1948 khi Staline quyết định phong toả Tây Berlin do Mỹ, Anh, Pháp quản lư, không cho chuyên chở lương thực, thực phẩm, nguyên liệu hàng hoá vào Tây Berlin (nằm trong ḷng Đông Đức, tức là nước Cộng hoà Dân chủ Đức) bằng đường bộ ḥng bắt bí, đ̣i các nước này thay đổi qui chế quản lư thủ đô Berlin. Đối phó lại, các nước trên đă lập cầu hàng không tiếp tế cho Tây Berlin từ 26/6/1948 đến 12/5/1949. Ngày vận chuyển cao nhất là 18/9/1948 – ngày Không Quân Hoa kỳ, vận chuyển 5.583 tấn với 652 chuyến bay.
- Cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba nổ ra ngày 16/10/1962 khi tổng thống Mỹ Kennedy được biết Liên xô đang xây dựng những bệ tên lửa tầm trung b́nh và tầm xa (có thể mang đầu đạn hạt nhân đi xa 2 ngàn đến 4 ngàn kilômét) trên đất Cuba.
Ngày 22/10 Kennedy tuyên bố hải quân Mỹ đă phong toả Cuba ngăn chặn mọi tàu đi vào hải phận Cuba, trong khi nhiều tàu Liên xô vẫn trên đường sang Cuba. Các cuộc thương lượng gay go diễn ra. Ngày 28/10 Chủ tịch Khrútsốp chấp nhận rút tên lửa khỏi Cuba, đổi lại Mỹ rút tên lửa khỏi Thổ-nhĩ-kỳ. Cả thế giới nhẹ nhơm. Khi Liên xô rút tên lửa về có kiểm soát quốc tế, mọi người mới biết Liên xô đă đưa hơn 4 vạn quân vào Cuba (trước đó CIA ước đoán chỉ vài ngh́n).
- - Tiêu biểu cho chiến tranh lạnh giữa 2 phe là bức tường Berlin, do Cộng hoà dân chủ Đức dựng lên từ đêm 13-8-1961, nhằm ngăn không cho công dân Đông Đức chạy sang Tây Đức. Bức tường dài 166 kilômét, cao 4 mét, cắm mảnh chai ở trên, kèm giây thép gai và ḿn, cùng quân đội và xe tăng bao chặt Tây Berlin; đoạn giáp với Đông Berlin dài 45 km. Đă có 80 công dân Đông Đức bị bắn chết khi cố vượt tường sang Tây Đức.
- Ngày 9-11-1989, nhân dân 2 bên bức tường cùng nổi dậy ra tay phá bức tường Berlin, quân đội 2 bên đứng nh́n, c̣n hoà chung niềm vui. Cộng hoà liên bang Đức thống nhất sau đó. Đảng xă hội thống nhất (tên của đảng Cộng sản Đông Đức) bị giải thể v́ tội ác. Tổng bí thư Hôneckơ bị đưa ra toà, kết tội, được ra nước ngoài v́ bệnh ung thư, chết ở Chilê.
2 -) Một số vấn đề về chiến tranh ở nước ta
a)- Tính chất của chiến tranh
- Chiến tranh ở nước ta kéo dài từ cuối năm 1945 khi quân Pháp và Anh nổ súng vào dân ta ở Sàig̣n đến 30/4/1975 (thực tế là đến trưa 2/5/1975 ở Long Xuyên) nên có người gọi là cuộc chiến hơn 30 năm.
- Khởi đầu là cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp ; cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu từ đêm 19/12/1946 với lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kết thúc với chiến thắng Điện Biên Phủ (ngày7/5/1954) và việc kư Hiệp định Giơnevơ 20/7/1954, do đó có người gọi là cuộc chiến tranh 9 năm ;
- Cuộc chiến tranh ở miền Nam, một bên gọi là chiến tranh giải phóng, một bên gọi là chiến tranh xâm lược của miền Bắc vào miền Nam, khởi đầu là cuộc đồng khởi cuối năm 1959, phát triển qua các trận Ấp Bắc (tháng1-1963), B́nh Giă (tháng 12-1964), Tết Mậu Thân 1968...
- Từ sự kiện Vịnh Bắc bộ (2 - 5/8/1964) và từ khi quân chiến đấu Mỹ đổ bộ vào Đà nẵng (tháng 3-1965), cuộc can thiệp trực tiếp của Mỹ bắt đầu. Từ đó cuộc chiến có tên là cuộc chiến tranh chống Mỹ, hay chiến tranh chống Mỹ cứu nước, cuộc chiến tranh chống không quân Mỹ trên miền Bắc và chiến tranh chống xâm lược Mỹ ở miền Nam.
- Giới cầm quyền Mỹ th́ coi việc đưa quân vào miền Nam Việt nam là thực hiện nghĩa vụ chống cộng, theo chiến lược ngăn chặn phong trào CS thế giới (containment), bảo vệ thế giới tự do, Mỹ không có tham vọng nào khác.
- Lại có ư kiến cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, v́ độc lập dân tộc ; nhưng sau đó, từ khi chia cắt Bắc – Nam, 2 miền có 2 chế độ chính trị khác nhau th́ cuộc chiến tranh trở thành cuộc nội chiến, huynh đệ tương tàn; mỗi bên dựa hẳn vào 1 phe đối lập trong cuộc chiến tranh lạnh, do đó nó đồng thời là cuộc chiến tranh uỷ nhiệm. Mỗi bên cũng công khai tự nhận là tiền đồn, là tiền tuyến của phe ḿnh.
- Cũng có ư kiến cho rằng về h́nh thức, về hiện tượng, đó là cuộc nội chiến, giữa 2 miền, 2 chế độ, c̣n về bản chất th́ là cuộc chiến tranh ư thức hệ, chiến tranh uỷ nhiệm giữa 2 phe.
- Do đó, phe này gọi phe kia là phe đế quốc xâm lược, phi nghĩa, c̣n phe kia gọi phe này là phe cộng sản độc tài phản dân chủ phi nhân ; giới cầm quyền miền Bắc gọi nhà cầm quyền miền Nam là tay sai của đế quốc Mỹ, c̣n gọi họ là việt gian bán nước, là nguỵ quân nguỵ quyền; c̣n giới này gọi phía bên kia là tay sai của đế quốc CS Nga Xô, con tốt đen, con cờ của Đệ tam quốc tế.
b-) Về đúng sai, thắng thua và hoà giải hoà hợp dân tộc
- Giới chính trị mỗi bên đều tự nhận bên ḿnh mới là đại diện chân chính cho quyền lợi dân tộc, là phía những người yêu nước chân chính, hợp với lẽ tiến hoá của xă hội và thế giới. Bên nào cũng tự nhận ḿnh mới là người quốc gia chân chính.
- Gần đây có ư kiến nêu lên rằng: hoà b́nh đă hơn 30 năm rồi. Hăy b́nh tĩnh khách quan, công bằng nh́n lại cuộc chiến. Hăy nêu cao tinh thần hoà giải và hoà hợp. Bên thắng trận không nên kiêu căng. Bên thua trận chẳng nên cay cú. Hăy nh́n nhận rằng mỗi bên đều là những người yêu nước, nhưng có những cách yêu nước khác nhau, với những lập luận, hoàn cảnh khác nhau, theo những học thuyết, quan điểm chính trị khác nhau.
- Xin chớ dùng những danh từ hay tính từ quá đáng về nhau như xưa. Nguỵ quân, nguỵ quyền, đầy tớ, tay sai, bán ḿnh, buôn dân, bán nước, phản nước, hại dân, Việt gian, tốt đen, tội ác, tội đồ, khát máu...đều không nên dùng nữa. Với kẻ thù Pháp, Mỹ c̣n ḥa giải, kết bạn th́ người Việt ruột thịt với nhau lại càng nên tương thân, tương kính.
- Cũng có ư kiến cho rằng những người CS càng không nên kiêu ngạo v́ chiến thắng của họ thật ra là do tinh thần chiến đấu và công sức của nhân dân và quân đội nhân dân, chứ không phải do học thuyết công sản của họ. Nếu họ không khôn ngoan giải tán đảng CS từ tháng 11/1945 (thực tế là vào bí mật) để nấp sau cái tên đảng Lao động, nếu họ không nấp sau nhăn hiệu Mặt trận giải phóng ở miền Nam, nếu họ dám công khai minh bạch báo trước rằng sau chiến thắng và thống nhất họ sẽ cưỡng bức nông thôn vào hợp tác hoá, xoá bỏ tư sản, tư thương và tư nhân, bắt đi kinh tế mới, thực hiện kiểu CNXH khắt khe không có tự do báo chí, tự do tôn giáo, tự do bầu cử như hiện nay, đảng CS sẽ vẫn độc quyền chính trị một ḿnh một chiếu..., th́ liệu họ có được nhân dân và quân đội nhân dân ủng hộ để dành chiến thắng hay không?
- Những người lănh đạo CS càng nên khiêm tốn v́ cái học thuyết Mác và chủ nghĩa CS hiện thực mà họ sùng bái đă phá sản tận gốc, cả về lư luận và thực tiễn, từ Đông Âu đến Liên xô, và buộc họ từ 20 năm nay phải miễn cưỡng đổi mới, trở về với nền kinh tế thị trường mà họ từng bác bỏ và chê bai.
- Những người thuộc phía thua trận, chiếm phần lớn trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài cũng không nên cay cú, càng không nên thất vọng, nản chí. Bởi lẽ họ đă biến tai hoạ bị phá sản phải vượt biên thành cơ may, lập nên cơ nghiệp nhanh chóng, vững chắc, số không ít c̣n xuất sắc ở quê hương mới, với thế hệ trẻ nối tiếp nhiều triển vọng. Trong khi công nhận những yếu kém của chế độ ở miền Nam như tệ gia đ́nh trị, nạn tham nhũng, bệnh quân phiệt quan liêu ... dẫn đến thua trận, họ tự hào nhận ra sự thật là dù có những nhược điểm không nhỏ th́ về bản chất dân chủ và pháp trị, chế độ ấy c̣n cao hơn CNXH hiện thực sau chiến tranh cả một tầng văn hoá – chính trị.
- Có người cho rằng trong cuộc chiến vừa qua, xét cho cùng không có bên nào thắng trọn vẹn, cũng không có bên nào thua trọn vẹn ; người Việt của cả 2 phía hăy khoác vai, chung sức đấu tranh cho sự nghiệp dân chủ hoá đất nước, đó mới sẽ là thắng lợi lịch sử trọn vẹn cho toàn dân, mở đường cho kỷ nguyên độc lập tự do, dân chủ, phát triển hài hoà với tốc độ cao của đất nước.
- Cũng có người cho rằng theo quan điểm hưởng lợi và bị thua thiệt th́ trong cả cuộc chiến vừa qua, chỉ có lớp quan chức cộng sản đương quyền đương chức là thắng đậm, thu lợi nhiều nhất về của cải nhà cửa bổng lộc, chỉ có dân đen cả 2 miền là thua thiệt đủ đường, trong chiến tranh th́ chịu chết, nhọc nhằn cay cực, hết chiến tranh càng cay đắng khổ nhục đến cùng tận. Nhà văn Dương Thu Hương nói: trong chiến tranh, nhân dân bên nào cũng là kẻ thua.
- Nhà báo Mỹ Stanley Karnow từng viết cuốn ‘’ Việt nam : thiên lịch sử ‘’ (Vietnam : a History) cũng cho rằng cuộc chiến tranh Việt nam không có người thắng, theo nghĩa là người thắng đă không phát huy được thắng lợi.
- Nhà nghiên cứu Phạm Trọng Luật ở Pháp có bài trên mạng internet Talawas căn cứ vào hiện tại và tương lai gần không mấy sáng sủa của đất nước, cũng cho rằng đảng cộng sản cũng như nhân dân Việt nam đều không phải là người thắng trận.
c -) Chiến tranh có thể tránh khỏi?
- Có người nêu lên câu hỏi ai đă gây ra cuộc chiến tranh Việt – Pháp, hay là cuộc chiến 9 năm (1945 – 1954) ở Việt nam, trách nhiệm thuộc về ai? Đến nay các học giả, nhà sử học Pháp cũng cho rằng nguyên nhân là do chính sách thực dân lỗi thời của chính giới Pháp hồi ấy. Cả tướng De Gaulle và tổng bí thư đảng Cộng sản Pháp Maurice Thorez cũng nghĩ rằng muốn khôi phục quy chế cường quốc của nước Pháp vừa thua trận, bị Hitle chiếm đóng, Pháp phải khôi phục gấp lại các nước thuộc địa Á Phi, và gửi quân đội viễn chinh đi đánh chiếm lại!
- Cũng có ư kiến cho rằng chính phủ Pháp đă kư hiệp ước sơ bộ vịnh Hạ long (tháng 12- 1947), rồi hiệp ước Èlysées (8-3-1949) với ông Bảo Đại trao trả ‘’độc lập’’ cho Việt nam, th́ không cần đến chiến tranh nữa. Ư kiến này khó được chấp nhận v́ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra quyết liệt, quân viễn chinh Pháp đang được tăng cường bởi các đơn vị lê dương và Âu Phi hung hăn, ông Bảo Đại được thực dân Pháp đưa lại lên làm quốc trưởng không thể coi là đại diện cho chủ quyền đất nước, chấp nhận những hiệp ước ấy chỉ là đầu hàng thực dân.
- Lại có ư kiến cho rằng: ‘’nếu như ‘’ tháng 7 năm 1956, chính quyền Việt nam Cộng ḥa chịu thực hiện cuộc tổng tuyển cử tự do có giám sát quốc tế đúng như Hiệp định Giơnevơ qui định th́ có nhiều khả năng ông Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt nam thắng trong cả nước, nhưng sau đó t́nh h́nh sẽ chuyển biến theo một hướng khác hẳn. V́ đảng Cộng sản buộc phải chấp nhận đa nguyên đa đảng, một kiểu dân chủ với kiểm soát quốc tế, th́ nội chiến có thể tránh khỏi, và diễn biến thời cuộc sẽ đổi khác.
- Nhân dịp 30 năm ngày 30-4-1975, có báo tiếng Việt ở Hoa kỳ đặt vấn đề : xét về nguyên nhân sâu xa, sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, đến năm 1960 nếu như đảng CS không chủ trương xây dựng chủ nghĩa xă hội (kiểu Liên xô) trên miền Bắc và không tự nhận là tiền đồn của phe xă hội chủ nghĩa (tức là phe cộng sản quốc tế), đồng thời không dùng vũ lực ở miền Nam, th́ chiến tranh có thể tránh khỏi, v́ sẽ không là đối tượng của chiến lược ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản (containment strategy).
3-) Một số vấn đề lịch sử của nước ta :
a-) Sai lầm và sửa sai trong cải cách ruộng đất
- Cải cách ruộng đất ở miền Bắc do sự lănh đạo vô trách nhiệm, để cho chuyên gia ‘’thổ địa cải cách ‘’ của đảng CS Trung quốc hoành hành, cưỡng bức, gây nên không biết bao nhiêu tổn thất về sinh mạng, tài sản, làm xă hội hỗn loạn điêu đứng kéo dài.
- Tuy có sửa sai, nhưng sự sửa sai rất qua loa hời hợt, không rút ra những kinh nghiệm cần thiết để sửa chữa tận gốc. Cho nên nay ta vẫn cần bàn đến sâu hơn.
- Theo con số tiết lộ công khai th́ số ‘’địa chủ cường hào ác bá ‘’ bị quy sai và xử bắn là 2 vạn, - lại có ước đoán là 12 vạn; số bị chết trong chỉnh đốn tổ chức là ‘’vài ngàn‘’, nhưng con số thật có thể lên gấp nhiều lần. Nếu tính đầy đủ cả số người bị đấu tố, hành hạ, tra tấn đến tàn tật, ốm liệt, kiệt sức và chết sau đó; cả số tự sát v́ bị bức tử, oan ức, v́ nhục nhă; rồi giết nhau do hận thù, trả thù cho cá nhân, gia đ́nh, ḍng họ; v́ tan vỡ gia đ́nh, ly tán bố mẹ, vợ chồng, anh em, dẫn đến cảnh lang thang, bần cùng, nheo nhóc, côi cút … th́ không kể xiết. Chưa có nhà xă hội học nào thống kê dù chỉ để ước đoán. Nói đến hàng triệu nạn nhân không phải là ngoa.
- Khi sửa sai vẫn c̣n áp đặt nhận định ngang ngược: cải cách ruộng đất vẫn là thắng lợi lịch sử (!), thoả măn yêu cầu có ruộng của nông dân!
- Khi rút kinh nghiệm, đảng CS chỉ nói là do chủ quan, máy móc, không nói ǵ đến tinh thần nô lệ đối với các chuyên gia tàu, không dám nói đến thái độ kẻ cả, quân phiệt của bọn phái viên của Mao, để sau này vẫn chịu cho họ xỏ mũi, dạy bảo đánh tư sản, dẹp tư hữu, ép nông dân vào hợp tác hoá, đánh Nhân văn Giai phẩm, đánh thuế, đổi tiền…, gây tổn thất vô kể.
- Về kỷ luật th́ chỉ làm tṛ cười. Ông Trường Chinh là Trưởng ban CCRĐ trung ương mất chức Tổng bí thư, nhưng vẫn trong Bộ chính trị, vài tháng sau được là Phó thủ tướng, để ngay sau đó lại lên làm Chủ tịch Quốc hội! Ông Hoàng Quốc Việt phụ trách làm thí điểm CCRĐ mất chức Phó ban CCRĐ trung ương để rồi được cất nhắc lên làm Viện trưởng viện kiểm sát tối cao! Những con người từng kư tên duyệt hàng ngàn, vạn án tử h́nh oan trái không hề bị một trừng phạt nào, lại vẫn cầm cân công lư cho đất nước!
- Liệu ở một nước dân chủ, có pháp luật nghiêm minh, có đa nguyên đa đảng th́ sau những sai lầm khủng khiếp, tày đ́nh đến thế, ai c̣n có thể cho đảng CS tiếp tục cầm quyền? ai c̣n có thể cho kẻ giết dân bừa băi ở ngoài ṿng pháp luật, để gây thêm vô vàn tai hoạ.
- Điều trên đây giải thích v́ sao những người lănh đạo CS vẫn leo lẻo nói lấy được là nhân dân chỉ tín nhiệm họ, đất nước giao sứ mạng lịch sử cho riêng họ, nhưng lại không dám chứng minh điều ấy bằng mội cuộc trưng cầu dân ư, hay một cuộc tranh cử tự do có quan sát quốc tế. Bởi v́ họ phạm quá nhiều sai lầm và tội lỗi, tội ác; họ nợ nhân dân không sao tính xuể. Họ sợ bị vỡ nợ.
- Cuối năm 1956, khi sửa sai, ông Trường Chinh mời luật sư Nguyễn Mạnh Tường nói chuyện trong cuộc họp uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc về sự cần thiết của một chế độ pháp quyền. Ông là trí thức quư hiếm, đậu tiến sỹ văn học và luật học ở Pháp với nhận xét “xuất sắc “ của Ban giám khảo khi 23 tuổi. Ông Tường thẳng thắn phê phán t́nh trạng coi thường luật pháp, tuỳ tiện, vô trách hiệm, người ngay bị tội, kẻ sai lộng hành trong CCRĐ, và ám chỉ đến t́nh h́nh đảng CS coi thường luật, đứng trên luật, đứng ngoài luật. Ông được hoan ngênh nhiệt liệt. Và ngay sau đó ông mất sạch cả 6 chức vụ: Uỷ viên đoàn chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, Uỷ viên trung ương đảng dân chủ (do đảng CS lập ra), Chủ tịch Hội luật gia VN, Uỷ viên uỷ ban bảo vệ ḥa b́nh thế giới của VN, Giáo sư đại học, Phó Viện trưởng Viện Đại học. Đó là cái giá ông phải trả khi dám ‘’nói xấu’’ đảng, tuy thật ra đảng c̣n xấu gấp trăm lần ông nói! Thế là ông mất nguồn sống, phải bán hết sách quư như giấy vụn, nuôi một con gà đẻ trứng phải lần lượt chia trứng cho vợ, con gái ốm yếu và bản thân ông gày c̣m. Ông và gia đ́nh cũng là nạn nhân của CCRĐ, ngay trong thời kỳ sửa chữa sai lầm!
b-) Vụ án Nhân Văn – Giai phẩm
- Năm 1955 và 1956, do chính sách ‘’Trăm hoa đua nở’’ trong văn học của đảng CS Trung quốc và ảnh hưởng của Đại hội 20 của đảng CS Liên xô phê phán tệ sùng bái cá nhân Staline, một số văn nghệ sỹ miền Bắc có ư thức tự do lên tiếng yêu cầu được quyền tự do sáng tác, không có sự can thiệp, kiểm duyệt của các quan chức đảng, các chính uỷ trong quân đội.
- Họ xuất bản những tạp chí Nhân văn và tuyển tập Giai phẩm (Giai phẩm mùa Xuân, Giai phẩm mùa Thu), trong đó có nhiều bài ngụ ư chống lại cái gậy chỉ huy, lên án sự can thiệp thô bạo của đảng.
- Các nhà văn Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Phùng Quán… cùng những trí thức như các giáo sư Trương Tửu (Nguyễn Bách Khoa), Đào Duy Anh, Phan Khôi, Trần Đức Thảo… liền bị vạch mặt là chống đảng, chống nhân dân, chống chế độ. Một chiến dịch vạch mặt tố cáo kết tội ‘’bọn phản động, phản bội, tay sai đế quốc’’ mở ra do các ông Tố Hữu, Hoàng Tùng, Hồng Chương, Trần Quang Huy chỉ đạo, các ông Nguyễn Đ́nh Thi, Hoài Thanh, Hà Xuân Trường, Tô Hoài, Bảo Định Giang, Chế Lan Viên phụ hoạ.
- Ông Tố Hữu, nhà thơ cung đ́nh, gần như phát điên lên trong cơn trấn áp v́ cả 5 nhà thơ trẻ trên đây đều cho rằng bài thơ dài Vịệt Bắc của Tố Hữu chưa xứng đáng được nhận giải nhất thơ về năm 1955. Và thế là ông vẫn nhận giải nhất.
- Các lớp chỉnh huấn văn nghệ sỹ thuộc mọi ngành: văn, thơ, nhạc, kịch, hoạ, điêu khắc, nhiếp ảnh, múa, xiếc … được mở ra, không sót một ai, nhằm truy lùng triệt để bọn phản động, sau này có người gọi là những cuộc đánh hôi, bề hội đồng, lên đồng tập thể, để anh chị em văn nghệ sỹ mặc sức ‘’ tố điêu ‘’ nhau theo sự khuyến khích của đảng, vu cáo, chụp mũ nhau, chửi bới nhau, thù oán nhau để lập công.
- Cả miền Bắc c̣n mở ra những cuộc truy lùng bọn “Nhân văn tỉnh”, “Nhân văn huyện”, “Nhân văn xă”, do các đảng uỷ, ngành công an và chi bộ cộng sản tiến hành, trừng phạt tất cả những ai (đảng viên, giáo viên, học sinh, sinh viên) từng tỏ ra ca ngợi, ủng hộ, bảo vệ ‘’bọn Nhân Văn’’, thích thú đọc, truyền bá, cất giữ và lưu hành các số báo và ấn phẩm nói trên.
- Nạn nhân bi đát nhất của vụ án này là ông Nguyễn Hữu Đang - cán bộ kỳ cựu của đảng CS, nguyên là thứ trưởng văn hoá, Trưởng ban tổ chức lễ Độc lập 2-9-1945 ở Hànội, ông Trần Thiếu Bảo - Giám đốc nhà xuất bản Minh Đức và nhà văn nữ Lưu Thị Yến bút danh là Thuỵ An; 3 người này bị toà án nhân dân Hànội ngày 21-1-1960 kết tội là “phá hoại, làm gián điệp cho thực dân đế quốc” và tuyên án 15 năm tù. Nhà văn Thuỵ An và ông Bảo chết bi thảm do tù đày, ông Đang măn hạn tù sống cơ cực ở Thái B́nh, nhiều khi phải bắt chuột và cóc, rắn để ăn, hiện hơn 90 tuổi, điếc từ trong tù, vẫn sống độc thân ở Hànội.
- Hàng trăm nhà văn, nhà báo có dính đến Nhân văn Giai phẩm bị ghi vào sổ đen, bị cấm cầm bút, không được xuất hiện trên văn đàn, đi lao động cải tạo ở các hợp tác xă, hầm mỏ, nhà máy, khuân vác nguyên vật liệu, từ 6 tháng đến 2 năm.
- Măi đến hơn 20 năm sau, các nhà văn Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán mới được sinh hoạt lại trong Hội nhà văn và được phép viết bài và kư tên. Đây vẫn là kiểu ban ơn của đảng! Trong một nước có luật pháp, các ông có thể kiện lại kẻ vu cáo, có luật sư bênh vực, th́ đảng CS sẽ phải đền bao nhiêu? (được biết theo luật ở phương Tây một ngày tù oan được bồi thường gấp rưỡi lương một ngày, chừng 60 Euros/ngày, bằng hơn 1 triệu đồng VN).
- Một số chiến sỹ dân chủ trong nước cho rằng vụ án Nhân văn Giai phẩm vẫn chưa được giải quyết thoả đáng. Chưa có đại hội đảng hay cuộc họp ban chấp hành trung ương đảng nào có lời kiểm điểm, nhận lỗi lầm về cuộc khủng bố văn nghệ sỹ rộng lớn này. Ban tư tưởng và văn hóa, trước đó là Ban tuyên huấn và Ban văn hoá văn nghệ của ban chấp hành trung ương đảng vẫn xử sự theo kiểu trịch thượng ban ơn, cho các văn nghệ sỹ hưởng ǵ th́ được hưởng, thế thôi, dù là kẹo ngọt hay roi vọt và mắng mỏ, xỉ vả.
- Nếu như ở Việt nam có một chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng, có luật pháp nghiêm minh th́ có đảng nào dám đối xử với văn nghệ sỹ ngang ngược và tàn tệ như vậy? nếu có tự do báo chí và có báo tư nhân th́ đảng CS có dám coi văn nghệ sỹ như trẻ nít, như người ăn kẻ ở như vậy không? đến nỗi ông bố một nhà văn phải than với con rằng: ”mày là cái loài ǵ mà để họ (ư nói đảng cộng sản) muốn trói lúc nào th́ trói, muốn cởi trói lúc nào th́ cởi, hả con?”.
- Do chế độ độc đoán kéo dài nên dù có đổi mới, đảng CS vẫn giữ nguyên thái độ quan liêu thô bạo đối với văn nghệ sỹ, trí thức và toàn xă hội. Đảng quy định từng bản nhạc, tửng cuốn sách của miền Nam trước đây cho dân được phép đọc!
- Đảng CS vẫn giả câm giả điếc trước yêu cầu nóng bỏng của văn nghệ sỹ trẻ đ̣i sớm chấm dứt nạn độc quyền: một đảng cầm quyền, một học thuyết chính trị, một triết học (mác-xít), một tư tưởng (Hồ Chí Minh), một bút pháp (hiện thực xă hội chủ nghĩa), một hội nhà văn, một nhà xuất bản cho mỗi thể loại, một kiểu phê b́nh (được gọi là phê b́nh quyền uy gắn với tay sai của nó là phê b́nh xu phụ). Đảng đă trả lại quyền tự do canh tác cho nông dân, tự do buôn bán cho tiểu thương, tự do kinh doanh cho nhà tư sản, sao không trả lại cho văn nghệ sỹ, nhà báo, trí thức quyền tự do tư duy, viết, vẽ, hát, sáng tạo, biểu diễn, tŕnh bày, triển lăm, xuất bản, giao thiệp, kết nhóm, lập hội, phát biểu, bàn luận, phê b́nh…Một nền văn học nghệ thuật bị đóng khuôn, xỏ mũi chỉ ‘’ sáng tạo’’ nên những thứ phẩm loại xoàng. Bài học từ vụ án Nhân văn – Giai phẩm vẫn c̣n nguyên tính thời sự.
c-) Vụ án “xét lại-chống đảng,làm gián điệp cho nước ngoài”
- Vụ án chính trị này nổ ra từ cuối năm 1963, ngay sau cuộc họp lần 9 (khoá III) của Trung ương đảng cộng sản Việt nam chuyên bàn về đường lối quốc tế, giữa lúc cuộc tranh luận nổ ra gay gắt trong phong trào CS quốc tế, chia thành 2 thế lực đối lập do đảng CS Liên xô và đảng CS Trung quốc cầm đầu. Mỗi bên đều cho ḿnh là đúng, là cách mạng chân chính, là trung thành với chủ nghĩa Mác. Phía TQ lên án phía LX là ‘’xét lại hiện đại ‘’; phía LX lên án TQ là “giáo điều, bảo thủ’’.
- Tại cuộc họp 81 đảng cộng sản tại Moscow tháng 11-1960 bản “Tuyên bố chung Moscow” được thông qua, nhất trí với dự thảo của Liên Xô, nhấn mạnh: chiến tranh thế giới có thể ngăn ngừa; chung sống và thi đua hoà b́nh là cần thiết; hoà b́nh, dân chủ và phát triển là mục tiêu của toàn thế giới; chống sùng bái cá nhân, phát huy dân chủ trong phong trào cộng sản, công bằng và phồn vinh trong xă hội.
- Đảng CS Trung quốc bác bỏ các quan điểm trên, cho rằng chiến tranh là không thể tránh khỏi, là không đáng sợ, chiến tranh cách mạng là cần thiết (dù có dùng bom nguyên tử, dù chết hàng trăm triệu người), chủ nghĩa ‘’xét lại hiện đại ‘’ là tay sai nguy hiểm nhất của chủ nghĩa tư bản - đế quốc...Trung quốc chỉ được vài đảng CS của Nam tư, Anbani, Bắc Triều Tiên, Cuba, Thái lan, Ấn độ, Mă lai, Nam dương tán thành.
- Đoàn đại biểu đảng cộng sản Việt nam do Chủ tịch đảng Hồ Chí Minh dẫn đầu đă kư vào bản Tuyên ngôn tháng 11-1960 nói trên, nhưng sau đó bị đảng CS TQ gây sức ép liền quay ngoắt lại theo đuôi TQ. Nghị quyết 9 ra đời tháng 12- 1963 chép gần nguyên theo các văn kiện của TQ, được đọc ngày đêm trên đài phát thanh Hànội, cổ vũ chiến tranh, bác bỏ chung sống hoà b́nh, bênh vực việc sùng bái lănh tụ, tận lực ca ngợi Lénine, Staline, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành, Fidel Castro … Theo kể lại, các ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu tỏ ra hăng hái nhất. Ông Hồ lưỡng lự, không dám cưỡng lại, cáo ốm vắng mặt hôm biểu quyết.
- Một cuộc truy lùng, phát hiện, lên án, trừng phạt “bọn xét lại chống đảng, làm gián điệp tay sai cho bọn xét lại Liên xô” nổ ra suốt 2 năm 1964 và 1965. Bộ trưởng ngoại giao, uỷ viên TƯ đảng Ung Văn khiêm; Phó chủ nhiệm uỷ ban khoa học kỹ thuật, uỷ viên TƯ đảng Bùi Công Trừng; thứ trưởng văn hoá uỷ viên TƯ đảng Lê Liêm; thứ trưởng quốc pḥng uỷ viên TƯ đảng Nguyễn Vịnh; phó chủ tịch Quốc hội Dương Bạch Mai; Viện trưởng Viện triết học Hoàng Minh Chính; thiếu tướng tổng cục trưởng hậu cần Đặng Kim Giang; đại tá cục trưởng cục quân báo Lê Trọng Nghĩa; đại tá chánh văn pḥng bộ quốc pḥng Lê Minh Nghĩa; đại tá cục trưởng cục tác chiến Đỗ Đức Kiên; vụ trưởng lễ tân bộ ngoại giao, từng là thư kư riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh Vũ Đ́nh Huỳnh; các nhà báo, nhà văn Phạm Kỳ Vân, Phạm Việt, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Kiến Giang,Trần Châu, Lưu Động, Trần Đ́nh, Trần Thư, Trần Minh Việt, Hoàng Thế Dũng, Đặng Đ́nh Cần, Mai Luân, Phan Thế Vân, Mai Hiến, Nguyễn Gia Lộc, Phùng Văn Lộc, Vũ Huy Cương, Nguyễn Thị Ngọc Lan…
- Cũng cần kể ra các ông Nguyễn Minh Cần phó chủ tịch uỷ ban hành chính thủ đô Hànội, đại tá Lê Vinh Quốc phó tư lệnh quân khu III, thượng tá Văn Doăn tổng biên tập báo Quân đội nhân dân năm 1965 sang Moscow học ở trường đảng đă quyết định ở lại Liên xô để tránh bị khủng bố và trừng phạt; vợ con các ông đều bị phân biệt đối xử và trừng phạt thay.
- Gần 40 nhân vật trên đây chỉ là những nạn nhân nổi bật, nổi tiếng của vụ án, được nêu lên trong công luận, có tên trong hồ sơ của vụ án, mà ông Lê Đức Thọ được Bộ chính trị đảng CS cử làm trưởng ‘’Ban xét tội và kết án ‘’. Số nạn nhân thật ra gấp hàng trăm lần như vậy. Đó là những cán bộ đảng viên phải kiểm điểm trong các cuộc chỉnh huấn, buộc phải làm kiểm thảo và nhận tội, rồi bị kỷ luật đảng, như phê b́nh cảnh cáo, hạ tầng công tác, đưa ra ngoài cấp uỷ, ngoài cấp lănh đạo, không bị truy tố, giam giữ, tù đày, quản chế; trong lư lịch, thường ghi: “bị ảnh hưởng nặng của quan điểm xét lại “, “cần theo dơi để giáo dục cải tạo tiếp “, suốt đời không ngóc đầu lên được.
- Cũng có nạn nhân tuy được nhắc rất nhiều trong các cuộc hỏi cung, nhưng lại không bị bắt giữ, không bị tra hỏi trực tiếp và không bị xử trí rơ ràng v́ uy tín trong đảng, trong xă hội quá lớn, có tiếng tăm ở nước ngoài, đó là đại tướng Vơ Nguyên Giáp. Ông bị ám chỉ trong vụ án này là một “kẻ cầm đầu dấu mặt” nguy hiểm nhất, với cái trọng tội là từng nhận một lá thư riêng tuyệt mật của “tên trùm xét lại Nikita Khroutchev “- Tổng bí thư đảng CS Liên xô, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên xô, qua tay của viên đại sứ xét lại Sécbacốp ở Hànội. Không có sự che chắn của ông Hồ ông tướng Giáp đă bị tiêu tan sự nghiệp.
- Gần 40 nạn nhân chính bị hành hạ ra sao, xin hăy kể trường hợp ông Hoàng Minh Chính, được gán tội là “tên xét lại đầu sỏ “; ông bị bắt ngày 27-7-1967. Lư do là sau Nghị quyết 9, ông Chính vẫn giữ nguyên quan điểm cũ của đảng là tán thành Nghị quyết đại hội 20 của đảng CS LXô và Tuyên bố chung Moscow tháng 11-1960, c̣n dám viết 2 bức kiến nghị gửi ban chấp hành TW phê phán bộ chính trị đă phạm sai lầm từ bỏ lập trường cũ và bác bỏ từng điểm quan điểm giáo điều mù quáng của đảng CS Trung Quốc. Ông bị 6 năm biệt giam, đánh đập, buộc ăn thức ăn ôi thối, chất độc, ruồi nhặng, bị 2 tên “sỹ quan“ cai tù Nguyễn Ngọc Nghị và Hoa Văn Lan thả sức hành hạ, túm tóc, nhét giẻ vào mồm, bẻ tay, bóp cổ… nhưng không sao buộc được ông “quỳ gối cúi đầu nhận tội “. Ông được ra tù sau Hiệp định Paris 1-1973, nhưng vẫn bị quản chế.
- Tháng 6-1981, nhân Quốc hội mới họp, ông gửi cho Chủ tịch Quốc hội đơn kiện, yêu cầu khởi tố công dân Lê Đức Thọ đă lộng quyền, phi pháp, tuỳ tiện hành hạ công dân lương thiện Hoàng Minh Chính. Quốc hội im re, c̣n chuyển đơn cho ông Lê Đức Thọ; ông Thọ nổi giận quyết định tống giam ông lần nữa, từ 6-10-1981 đến năm 1987, rồi ông lại bị quản chế tại nhà đến năm 1990.
- Năm 1994, ông Nguyễn Trung Thành, cán bộ chủ chốt của Ban bảo vệ chính trị của Ban chấp hành trung ương đảng đă nghỉ hưu, từng làm nhiệm vụ thụ lư vụ án “xét lại chống đảng “, là người giúp việc chính cho ông Lê Đức Thọ trong việc nghiên cứu, xét xử vụ án, viết thư cho bộ chính trị khẳng định vụ án này hoàn toàn oan sai, không một ai trong 34 người bị bắt giam phạm một tội ǵ đáng bị tù cả, cần phải minh oan ngay cho họ và gia đ́nh họ.
- Lập tức ông Đỗ Mười - tổng bí thư, và ông Đào Duy Tùng - uỷ viên thường trực bộ chính trị, triệu tập ông Nguyễn Trung Thành đến trụ sở trung ương đảng, quát mắng ông Thành là sai lầm, “ về hưu rồi, sao không đi giải trí, câu cá “ lại đi bênh bọn phản động chống đảng; ông Thành bị khai trừ khỏi đảng và buộc phải ngậm tăm. Bị nhiều cán bộ đảng viên đ̣i phải công khai làm rơ vụ án, không thể để người ngay bị án oan, kẻ làm bậy vẫn lộng hành, ông Đỗ Mười và Đào duy Tùng lại giở tṛ gian lận, công bố mấy lời “thú nhận phạm tội “ của các can phạm, viết và kư trong hoàn cảnh bị đe doạ, bị đói khát hành hạ, bị uống thuốc lú lẫn…, nghĩa là hoàn toàn vô giá trị. Sự ngang ngược thật không có giới hạn.
- Do đó, vụ án ‘’xét lại chống đảng’’ phi lư, phi pháp dến nay vẫn c̣n nguyên ư nghĩa, vẫn chưa được kết luận lại và minh oan cho người bị án oan. T́nh h́nh đảng ngồi trên pháp luật, đứng ngoài pháp luật, tự vỗ ngực là có mọi quyền tối cao của đất nước, muốn ai sống được sống, muốn ai chết phải chết, đến nay vẫn c̣n nguyên vẹn. Sau vụ án này, đảng bỏ tù và quản thúc Thượng tướng Chu Văn Tấn, từng là người sáng lập Cứu Quốc Quân hồi 1944, bộ trưởng quốc pḥng năm 1945, tư lệnh quân khu Việt Bắc, lănh tụ số 1 của các dân tộc thiểu số Việt Bắc, chẳng cần một phiên toà nào, chỉ cần cái gật đầu của ông Lê Duẩn và ông Lê Đức Thọ, mặc cho sự chống đối của các tướng Bằng Giang, Nam Long, Vũ Lập, Quang Trung…hồi 1979.
- Cũng vẫn theo nếp làm phi lư và phi pháp ấy, gần đây các ông Lê Hồng Hà, Nguyễn Thanh Giang, Phạm Quế Dương, Trần Khuê, rồi Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Khắc B́nh, Nguyễn Vũ B́nh … bị ngang nhiên kết tội là gián điệp, làm tay sai cho nước ngoài bất chấp sự thật, chẳng cần bằng chứng …, chưa kể hàng trăm nông dân Uy Nỗ (Gia lâm), Thái B́nh, Cần Thơ, Sóc Trang, Biên Ḥa… bị cướp đất, đi khiếu kiện, lại bị bỏ tù v́ ‘’gây rối, chống phá chính quyền ‘’! Sự oan ức của người dân lương thiện không để đâu cho hết! Tất cả vẫn chỉ v́ độc quyền, đảng trị!
d-) Phong trào hợp tác hoá nông ngiệp (1960 – 1986)
- Việt nam vốn là một nước nông nghiệp. Miền Bắc Việt nam sau cuộc kháng chiến chống Pháp vẫn đủ lương thực. Dân tộc ta từ lâu đă có tập quán và kinh nghiệm trồng lúa nước. Từ năm 1957, đảng cộng sản chủ trương bắt đầu thực hiện tập thể hoá bằng xây dựng tổ đổi công, để năm 1958 xây dựng Hợp tác xă cấp thấp và từ 1960 xây dựng Hợp tác xă bậc cao.
- Đại hội đảng CS kỳ thứ III mở đầu cho việc xây dựng CNXH trên miền Bắc và dùng bạo lực để “giải phóng miền Nam”, thống nhất đất nước. Trên miền Bắc, cải tạo công thương nghiệp, xoá bỏ tư sản ở thành thị đi đôi với hợp tác hoá ở nông thôn. Đảng cộng sản giải thích rằng con đường cải tạo XHCN là cuộc đổi đời lịch sử đưa đất nước tiến lên một tầm cao mới, xóa bỏ bóc lột và nghèo đói, mở đường lên chủ nghĩa cộng sản, thiên đường ngay trên trái đất này!
- Có cơ man nào là nghị quyết, đường lối, chính sách, kế hoạch, cuốn sách, bài báo, lớp học chỉ để thuyết phục, chứng minh rằng hợp tác xă, lao động tập thể là ưu việt, tiến bộ, có lợi ra sao so với lao động tư nhân, cá thể, gia đ́nh. Tất cả đều vô duyên, vô tích sự, vô dụng và tệ hại!
- Mặc dầu biết bao nhiêu là băn khoăn, do dự, nghi ngờ, và chống đối ngấm ngầm, đảng CS đă cưỡng bức toàn miền Bắc, rồi từ 30-4-1975 cả nước vào con đường hợp tác hoá nông nghiệp, để rồi từ năm 1986 mới cởi trói, thực hiện khoán sản phẩm, trả lại cho nông dân quyền tự do xử dụng ruộng đất, giải thể hợp tác xă.
- Một sai lầm nặng nề, dai dẳng, kéo dài suốt hơn 26 năm, giáng tai hoạ kinh khủng đến mọi vùng, mọi tỉnh huyện làng xă, mọi gia đ́nh và mọi nông dân, vậy mà kẻ gây nên tai hoạ ấy vẫn nhơn nhơn khẳng định rằng đảng luôn đúng, luôn sáng suốt và sáng tạo, khuyết điểm có chăng chỉ là bộ phận, tạm thời, thứ yếu.
- Chỉ riêng việc kể từ khi giải thể hợp tác xă, người nông dân được tự do lao động trên mảnh đất ḿnh có toàn quyền xử dụng, sản xuất nông nghiệp tăng vọt lên, để có thể xuất khẩu ngày càng nhiều lúa gạo, nông sản, thuỷ sản, hải sản. Điều này cho ta nghĩ rằng trong hơn 26 năm hợp tác hoá, nền sản xuất nông nghiệp ta đă thiệt mất bao nhiêu là tiềm năng, nông dân đă bị hụt mất biết bao nhiêu tiền của! Đă có thể tránh cho bao nhiều triệu đồng bào ta, trẻ em ta khỏi cảnh cực nhục, đói khổ, gầy c̣m cho đến ốm yếu, chết đói v́ kiệt sức, suy dinh dưỡng. Tội này ở ai?
- Tôi c̣n nhớ một buổi học của cán bộ quân đội về con đường hợp tác hoá tháng 10-1960 ở Quần ngựa Hànội, một đại uư dám có ư kiến rằng:” ư thức tập thể không chắc hơn ư thức cá nhân; trung đoàn tôi có xe đạp công và xe đạp tư. Xe đạp công anh em đi như phá, hàng chục chiếc xe công chỉ 3 tháng là tan tành v́ cha chung không ai khóc, c̣n xe tư thường được chăm sóc, dùng gượng nhẹ, hàng vài năm vẫn c̣n như mới “. Tướng Nguyễn Chí Thanh giải đáp, lên án cậu đại uư là “ngu, lạc hậu, đầy lệch lạc cá nhân chủ nghĩa, tư tưởng nông dân cá thể, chính v́ vậy mới cần đến giai cấp công nhân, đến chủ nghĩa Mác, đến đảng CS!”. Lư sự cùn của ông đại tướng về chiếc xe đạp và chủ nghĩa cá nhân cứ ám ảnh tôi suốt 45 năm nay.
- Hồi ấy tôi hay ghé qua các hợp tác xă. Ở đâu cũng vậy, mỗi hộ gia đ́nh được giữ lại 5% diện tích khi vào hợp tác, làm mảnh ruộng riêng, mảnh vườn riêng. Mảnh vườn nhỏ xíu được thâm canh, chăm sóc đặc biệt về giống, cày bừa, cuốc xới, tưới bón, trừ sâu, năng xuất gấp bội so với ruộng hợp tác. Trong khi đó cảnh đi làm theo kẻng, đi muộn về sớm, vừa làm vừa nghỉ dài dài, làm tà tà, dành công sức cho mảnh vườn riêng, làm cho sản xuất hợp tác xă cứ tụt dần. Rồi đến khi lên hợp tác xă cấp cao, quy mô lớn, có khi bao gồm cả một xă, các phe nhóm ḍng họ tranh nhau các chức bí thư đảng uỷ, chủ tịch xă, chủ nhiệm hợp tác xă, thủ quỹ, kế toán, uỷ viên kiểm tra, kiểm soát, thư kư, giữ kho, kỹ thuật, phụ trách nghề phụ, ruộng thí nghiệm, trại chăn nuôi, kỹ sư trồng trọt, ao cá bác Hồ, đội văn công, nhà bảo tàng, pḥng tiếp khách…; phân chia thu hoạch theo điểm lao động, luôn bị tệ “rong công phóng điểm”, chia chác bất công bất minh chi phối, khắp mọi nơi hợp tác xă đều phá sản rơ rệt, trong khi báo đài vẫn cứ rả rả về những hợp tác xă tiền tiến trong “tưởng tượng” và trong các báo cáo.. “ láo ”! Có hợp tác xă hạch toán công điểm từ 60 xu một điểm, do sản xuất sa sút cùng cực chỉ c̣n có 8 xu một điểm, khi giá lúa là 250 đồng/một tấn, giá chợ đen lến đến 500 đ/tấn. Không ít hộ thu hoạch đất 5% c̣n cao hơn thu hoạch trên 95% phần đất đưa vào hợp tác! Có gia đ́nh 4 lao động ở huyện Ứng hoà, Hà Tây cần ít nhất 80 kư lúa một tháng mới tạm đủ sống nheo nhóc, nhưng thu về được có 30 kư, có khi chỉ 26 kư, không đủ ăn cháo loăng!
- Thơ tiếu lâm, đả kích tràn đầy, như:
Mỗi người làm việc bằng hai
Để cho chủ nhiệm sắm đài mua xe
Mỗi người làm việc bằng ba
Để cho đảng uỷ xây nhà lát sân!
- Hồi 1970 nhiều cán bộ có tâm huyết nhận quá rơ con đường hợp tác hoá là con đường sai lầm, đói khổ lầm than, kêu trời không thấu, c̣n bị trên kết tội là mất lập trường, vô kỷ luật, bị đe doạ khai trừ khỏi đảng, và bị bỏ tù nữa, vẫn kiên quyết làm chui, phá rào, lặng lẽ khoán sản phẩm đến hộ gia đ́nh trong huyện ḿnh, trong tỉnh ḿnh phụ trách, thả lỏng và giải thể trên thực tế một số hợp tác xă. Đó là trường hợp ông Kim Ngọc, bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phú và một số bí thư huyện uỷ, thương dân, cứu dân bất chấp hiểm nguy cho cá nhân ḿnh. Ông Kim Ngọc bị ông Trường Chinh, Hoàng Tùng, Tố Hữu lên án, kết tội, châm biếm trên báo đảng và chết trong uất hận. Nghĩ lại, chỉ có cơ chế độc đảng quái dị mới cho phép người có trí tuệ và tâm huyết bị kẻ giáo điều mù quáng đè đầu dạy bảo như thế!
- Khi từ bỏ một sai lầm về đường lối cơ bản trong nông nghiệp suốt hơn 30 năm, quay ngoắt trở lại kinh tế tư nhân và thị trường tư do của thời xưa, đảng không hề nhận chân sai lầm tệ hại dai dẳng của ḿnh, không hề “”xin lỗi xă hội “, hay chí ít là “lấy làm tiếc “ với đồng bào của ḿnh! Đây là một cuộc tàn phá sức sản xuất xă hội trên quy mô cực lớn, gây nên đói khổ triền miên trong chiến tranh. Họ luôn xử sự như ông chủ, ông vua, lũ quan lại hống hách, muốn làm ǵ th́ nhân dân cứ phải cúi đầu mà chịu, để cho chết đói cũng cứ phải chịu! Ta thử hỏi nếu có chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng, th́ sau một sai lầm khủng khiếp đến vậy th́ làm sao đảng CS không bị lên án, kết tội và đuổi khỏi chính quyền để nhường một đảng khác cầm quyền! và để c̣n lâu mới có thể quay lại tham chính. Do khư khư giữ độc quyền nên nhân dân không có sự lựa chọn nào khác, đây là bi kịch dai dẳng hơn 60 năm nay của dân ta.
4 -/ Một số nhân vật lịch sử
- Dưới đây đề cập đến một vài nhân vật lịch sử thế giới và Việt nam liên quan đến cuộc đấu tranh cho dân chủ tự do và nhân quyền ở nước ta hiện nay; đây không phải là tiểu sử đầy đủ, chỉ là nhắc lại những sự đánh giá, nhận xét khác nhau để các bạn tham khảo.
a -) Các Mác (Karl Marx)
- Mác (1818 – 1883) người Đức, là nhà triết học, nhà chính trị, nhà báo, là người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản, cùng Ănghen viết Tuyên ngôn Cộng sản năm 1848, lập ra Quốc tế cộng sản thứ nhất (c̣n gọi là Đệ Nhất Quốc tế CS hay Quốc tế I) năm 1864 tại thủ đô nước Anh London.
- Mác nghiên cứu xă hội tư bản rất sâu rộng ở châu Âu, viết bộ Tư bản luận đồ sộ gồm 3 tập (tập 1 in năm 1867; tập 2 năm 1885 và tập 3 năm 1894; 2 tập sau do Ăng-ghen bổ sung và hoàn thiện sau khi Mác chết). Mác t́m ra sự h́nh thành lợi nhuận trong quan hệ kinh tế - xă hội tư bản chủ nghĩa, do bóc lột sức lao động bằng giá trị thặng dư của chủ tư bản đối với người lao động làm thuê. Do đó Mác chủ trương đẩy mạnh đấu tranh giai cấp, nêu bật vai tṛ lịch sử của giai cấp công nhân sản nghiệp lớn trong các thành phố công nghiệp tập trung, mà đảng CS là tổ chức lănh đạo, nhằm loại trừ giai cấp tư sản, đưa nhà máy, hầm mỏ, trang trại thành của chung của xă hội, xoá bỏ quyền tư hữu các phương tiện sản xuất. Đó là xă hội xă hội chủ nghĩa, bước đầu của chủ nghĩa cộng sản, trong đó nền sản xuất phát triển rất cao, năng xuất lao động cực lớn, của cải thừa thăi, con người ung dung làm việc theo sức ḿnh và tha hồ hưởng thụ theo nhu cầu.
- Ăng-ghen (Friedrich Engels: 1820 – 1895) người Đức là nhà nghiên cứu xă hội, nhà kinh tế, nhà buôn và tư bản nhỏ, rất tán thành học thuyết của Mác, hết ḷng giúp Mác cả về vật chất và nghiên cứu, cùng Mác viết Tuyên ngôn CS, tổ chức Đệ nhất Quốc tế CS và xuất bản Tư bản luận. Ông viết cuốn ‘’ chống Duhring ‘’ để bảo vệ và giải thích học thuyết Mác. Ông gặp Mác ở Paris năm 1844 và từ đó 2 người cứ như h́nh với bóng trong một t́nh bạn trong sáng thuỷ chung, cho đến khi Mác mất năm 1883.
- Một nét cần lưu ư là Mác có thái độ khoa học và biện chứng, tư duy rất linh hoạt, cho rằng học thuyết ông luôn biến động để thích nghi với sự chuyển động không ngừng của xă hội, do đó học thuyết Mác chỉ là kim chỉ nam, là gợi ư; ông luôn là người ”phản Mác-xít”, luôn tự phê phán ḿnh để thành ” một Mác khác “.
- Chính do thái độ khoa học, biện chứng, trung thực như thế mà nhân dân Đức, trí thức Đức và cả thế giới tiến bộ cho rằng tuy học thuyết Mác bị áp dụng mù quáng, máy móc, lệch lạc ở nhiều nơi, gây nên hậu quả tàn phá rộng lớn suốt cả thế kỷ 20, nhưng Mác không chịu trách nhiệm về sự mù quáng bi thảm ấy của những kẻ say mê quyền thế đă lợi dụng Mác. Ông vẫn được nghiên cứu ở các trường đại học như một nhà tư tưởng và tên ông vẫn được đặt cho một đại lộ ở thủ đô Berlin, một tượng Mác cùng Ăng-ghen hiện vẫn tồn tại ở vườn hoa trung tâm Alexander.
- Mác đă bị phong trào CS lợi dụng và lạm dụng, giải thích chủ nghĩa Mác một cách tuỳ tiện, trái ngược nhau, cắt xén và trích dẫn một cách cẩu thả phản mác-xít, từ Lénin đến Stalin, rồi Mao Trạch Đông, cho đến Trốtsky, cả đến Pôn pốt cũng đều tự nhận là nhà mác-xít chân chính! Một tư duy khoa học linh hoạt, luôn tươi thắm giữa cuộc đời sinh động như hoa thơm cỏ lạ, đă bị làm cho chết héo chết khô đặt trên bàn thở để tụng niệm và cúng bái theo nhu cầu phe đảng!
b -) Lê-nin
- Lê–nin (Vladimir Illich Lénine; 1870 – 1924) nhà lănh đạo nước Nga, tốt nghiệp đại học luật, làm luật sư khi 22 tuổi. Chịu ảnh hưởng lớn của Mác, Ăng-ghen, Plékhanốp. Bị bắt khi 25 tuổi, 27 tuổi bị đày 3 năm ở Sibéri; sau đó ông sống ở nước ng̣ai 17 năm. Năm 1917 ông từ Thuỵ sĩ về nước lănh đạo cuộc Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi, trở thành Chủ tịch đảng cộng sản và Nhà nước Liên xô cho đến khi chết ngày 21-1-1924.
- Tác phẩm quan trọng nhất của Lênin là cuốn ”Chủ nghĩa đế quốc – giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” (1916). Ông lập ra Quốc tế CS III tháng 3-1919 và lập ra Liên bang Xă hội chủ nghĩa Xô viết (gọi tắt là Liên Xô) tháng 12 năm 1922.
- Cuối năm 1991, sau khi Liên Xô tan ră và đảng CS Liên xô giải thể, nhiều tài liệu tuyệt mật được lưu trữ từ cách mạng tháng Mười được phép giải toả cho các nhà nghiên cứu lịch sử khai thác, nhiều sự thật vốn được dấu kỹ về Lê-nin được lần lượt được công bố, khác với những văn kiện chính thức cũ trong đó “sự thật “ thường được cắt xén theo nhu cầu chính trị. Một Lê-nin khác, thật hơn, được mô tả.
- Theo những tài liệu mới, đảng Công nhân Xă hội Dân chủ Nga từ đầu thế kỷ 20 đă chia làm 2 phái, tả và hữu, về sau mang tên Bônsêvích (đa số) và Mensêvích (thiểu số). Sau đó phái trên trở thành đảng Cộng sản (Bônsêvích) Liên Xô. Xưa nay, phái Mensêvích bị lên án là ”chủ trương xây dựng một tổ chức kiểu câu lạc bộ tự do, chuyên tranh căi nhau theo những chủ trương cải lương, thủ tiêu đấu tranh “. Thật ra không phải vậy. Thật ra phái của Lê-nin chủ trương bạo lực, vũ trang khởi nghĩa, biến chiến tranh thế giới (1914 – 1918) thành nội chiến, đập tan chính quyền Kerensky lập ra sau cách mạng lật đổ Nga hoàng tháng 2-1917, làm ngay cách mạng vô sản. Trái lại, phái của Plêklanôp và Martôp chủ trương làm cho xong cuộc cách mạng dân chủ đă, không thể đốt cháy giai đoạn, thực hiện đa nguyên đa đảng, ba quyền phân lập, tôn trọng hiến pháp và luật pháp; cần tránh nội chiến v́ nội chiến là tai hoạ cho đất nước, dân tộc. Sau cách mạng tháng Mười, sắc lệnh hoà b́nh được thông qua, nhưng Lê-nin coi đó chỉ là chiến thuật, thực chất là phải đẩy mạnh nội chiến, thực hiện ngay chuyên chính vô sản với chế độ độc đảng, quyền tự do của công dân, xây dựng xă hội dân chủ chỉ là những điều viển vông, sách vở, không cần thiết, lạc lơng với không khí sục sôi cách mạng.
- Đại văn hào Gorki, một thời thân với Lê-nin đă viết trên báo “Novaia Jizn” (cuộc sống mới):” Lê-nin lầm tưởng có thể lao vào tội ác như cuộc tàn sát ở Pêtrôgrát và ở Moscow, thủ tiêu tự do ngôn luận và thực hiện những cuộc bắt bớ phi lư. Lê–nin đang dẫn giai cấp vô sản đến thảm hoạ”. Plêklanôv, học giả mác-xít tiền phong, mà Lê-nin từng coi là thày, lớn hơn Lê-nin 14 tuổi, không can ngăn được tṛ, c̣n bị tṛ chửi lại rất thậm tệ: “ tên cơ hội “, “kẻ liếm gót giày bọn tư sản “.
- Martov vốn là người Do thái, từng cộng tác thân thiết với Lê-nin trong toà soạn báo Iskra, cũng bị Lê–nin thoá mạ là “tên cơ hội hèn hạ, cầm đầu bọn Mensêvích ngu ngốc “. Martov từng khẳng định từ 1920:” Sớm muộn, những người Bônsêvich sẽ phải rời sân khấu chính trị để nước Nga có thể xây dựng một thể chế dân chủ trên căn bản luật pháp “. Lời tiên đoán ấy nay mới thành sự thật, hơn 70 năm sau.
- Trong việc tận diệt tầng lớp Koulak (phú nông), - thật ra phần lớn là trung nông lớp trên giỏi làm nông nghiệp, những tài liệu lưu trữ mới công bố cho thấy trách nhiệm chính là ở Lê-nin, với nhận xét: “ những tên koulak - nhà giàu nông thôn”, “ rắn độc”, “ những con đỉa hút máu!”. Lê–nin viết chỉ thị kêu gọi: “ chiến tranh với bọn koulak! “ hăy diệt bọn koulak không chút chùn tay!”. Thế là 2 triệu hộ nông dân khá giả trong 15 triệu nông dân Nga bị diệt, thường là thủ tiêu cả gia đ́nh.
- Một hồ sơ đầy đủ về cựu hoàng đế Nicolas Rômanôp được công bố năm 1993, cho thấy “cuộc tàn sát cả gia đ́nh cựu hoàng được thực hiện đêm 16 rạng 17-7-1918, theo lệnh từ Lê-nin gửi cho Xô-viết Yêkaterinbuông: giết sạch, không cần xét xử, thi hành ngay “. Nửa đêm, cả gia đ́nh cựu hoàng được đánh thức, lệnh xuống hầm v́ ‘’có lộn xộn ngoài đường phố’’, Nicolas đi trước, bế con trai duy nhất Alexis 13 tuổi, đến vợ ông là cựu hoàng hậu Alexandra Fêđôrôvna cùng 4 con gái. Thế là nhóm xạ thủ 3 người nổ súng liên hồi; Nicolas bị viên đạn đầu tiên, vợ ông và một bé gái trúng đạn tiếp; bác sỹ riêng Bolkine của gia đ́nh và một bé gái út bị đạn sau cùng. Anh đầu bếp, cô người ở và 2 bé gái c̣n dẫy dụa bị giết cho chết hẳn bằng lưỡi lê.
- Chính Léon Trostky kể lại trong hồi kư của ông lời dạy của Lê-nin: “Nếu chúng ta ngần ngừ trong việc xử bắn một tên bạch vệ, một tên phản động th́ cuộc đại cách mạng của chúng ta c̣n có ư nghĩa ǵ!”.
- Những tư liệu lưu trữ nay được công bố dần cho thấy chính Lê–nin là cha đẻ của những trại cải tạo, trại lao động khổ sai đặc biệt, các Goulag rùng rợn. Chỉ trong 2 năm 1918 và 1919, số binh lính và sỹ quan thời Nga hoàng và thời cách mạng tháng 2-1917, đă có 1.761.000 bị đày đi các trại ấy. Thời Staline con số ấy lên đến hơn 19 triệu!
- Các nhà chính trị giáo điều thường gắn chặt Mác với Lê-nin, đến mức đồng nhất 2 người ấy, gọi là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, con người mác-xít - lê–nin-nít, ngụ ư rằng người tiếp thu, kế thừa, phát triển chủ nghĩa Mác chỉ có Lê –nin là xứng đáng nhất.
Các giáo sư chính trị am hiểu nhất tôi gặp ở London, Berlin và Hoa kỳ đều cho rằng không có ǵ sai lầm hơn! Một tư duy linh hoạt, khác hẳn một tư duy sơ cứng. Một tâm hồn nhân văn, phác hoạ thế giới không bóc lột, 4 biển là nhà, khác hẳn một con người hung hăn, loại trừ nhau không thương tiếc. Một chủ trương kết hợp luật pháp với sức mạnh, cả sức mạnh không bạo lực như băi công với sức mạnh bạo lực khởi nghĩa, công xă, khác hẳn một chủ trương bạo lực vũ trang là tất cả, sức mạnh quân sự thay cho luật pháp, bất cần luật pháp.
- - Một sự khác biệt căn bản nữa là Mác chủ trương cách mạng nổ ra trước hết, quyết định nhất ở các nước công nghiệp phát triển cao nhất, ở Đức, Anh, Pháp, Bỉ, Hàlan…nơi có đông đảo công nhân đại xí nghiệp, đồng thời, liên tiếp, lần lượt nổ ra liên hoàn để hỗ trợ nhau. C̣n Lê–nin chủ trương cách mạng vô sản có thể nổ ra và thắng lợi ở một nước c̣n lạc hậu về công nghiệp, ở một khâu yêu nhất của chủ nghĩa đế quốc. Nhiều giáo sư sử học Pháp cho rằng đă theo Mác, đă là người mác-xít th́ ắt không thể là người theo Lê–nin, không thể là người lê–ni-nít; và ngược lại đă là người theo Lê–nin th́ người ấy không thể c̣n theo Mác được. Cũng do đó không thể có cái ǵ gọi được là chủ nghĩa Mác – Lê–nin.
- Chính kiến phổ biến được chấp nhận trong giới chính trị và trí thức bước vào thế kỷ 21 là Mác và Lê-nin sống từ thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, chết từ năm 1883 và 1924, nghĩa là đă hơn 120 năm và hơn 80 năm rồi; t́nh h́nh kinh tế - xă hội 1 trăm năm nay lại phát triển với tốc độ rất cao. Mác và Lê-nin đều không hiểu ǵ về sức nguyên tử và bom nguyên tử, về chinh phục vũ trụ, chưa biết ǵ về vô tuyến truyền h́nh, càng không biết ǵ về máy bay phản lực, về máy điện toán, về internet và điện thoại cầm tay…Lúc ấy, phân biệt chủng tộc c̣n công khai tồn tại, ở Nam Phi xe công cộng, khách sạn và vườn hoa c̣n cấm không cho người da đen bước vào, ở Hồng Kông c̣n yết bảng nhiều nơi: cấm súc vật và người Trung hoa! Nếu 2 ông được sống cho đến nay, tất quan điểm lập trường, chính kiến chính trị của 2 ông đă có nhiều đổi thay to lớn. Làm sao lấy nhận thức chính trị của người đă chết trên dưới một trăm năm nay rồi lại có thể lănh đạo xă hội hiện tại được? Chính trị không phải là tôn giáo; nền chính trị xă hội ở đâu cũng phải do người đương thời, người đang sống có tư duy sống động giải quyết lấy, sao lại để cho những người đă chết giải quyết thay!
- Các nhà chính trị, xă hội học thế giới cho rằng tất cả quan điểm lập luận của Mác và Lê–nin đều đă lỗi thời, xă hội tư bản đă tự thay đổi, tự biến đổi tận gốc từ sau thế chiến 2; hệ thống thuộc địa và đế quốc đă biến mất; tầng lớp trung lưu phát triển nhảy vọt; nền kinh tế tri thức dựa vào thông tin và trí tuệ chiếm lĩnh thị trường đang toàn cầu hoá nhanh. Khái niệm tư bản nhân dân xuất hiện để bất cứ ai do tài năng kinh doanh quản lư và thời cơ cho phép đều có thể làm giàu thành nhà tư bản chân chính, hợp pháp, và ai cũng có thể mua ít nhiều cổ phần, chứng khoán, trở thành nhà chủ tư bản công cộng được phân chia lợi nhuận chính đáng theo kỳ hạn. Các khái niệm: giai cấp vô sản, giá trị thặng dư, cách mạng vô sản, chủ nghĩa xă hội, chủ nghĩa cộng sản, phong trào CS quốc tế, sứ mệnh lịch sử đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản đang rẫy chết v.v… đều già nua, khô héo, không c̣n nội dung ban đầu của nó. Chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lê-nin không c̣n tác dụng lănh đạo, chỉ đường, chỉ c̣n ư nghĩa gợi ư, tham khảo, đặt trong thư viện và bảo tàng.
c -) Stalin
- Stalin (Joseph Vissarionovitch Dzhugashivili Staline, 1879 – 1953): người dân tộc Géorgie, sau khi tốt ngiệp trung học, vào học nhà tu đạo công gíáo chính thống, rồi vào đảng Công nhân Xă hội dân chủ Nga, sau đổi thành đảng cộng sản (Bônsêvich) Nga, sau thành đảng Cộng sản Liên xô. Tham gia Cách mạng tháng Mười Nga 1917, được cử làm Uỷ viên nhân dân (như bộ trưởng) các vấn đề dân tộc của Chính phủ Xô viết, từ năm 1922, khi Lê-nin ốm nặng, được bàu làm Tổng bí thư đảng CS Liên xô, rồi kiêm Chủ tịch Chính phủ Xô viết suốt 30 năm, cho đến khi chết đột ngột tháng 3 năm 1953.
- Staline là người chỉ đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xă hội, thực hiện công nghiệp hoá đất nước, tập thể hóa nông nghiệp ở Liên xô. Ông giải tán Quốc tế CS III Comintern năm 1943 để kết liên minh với các nước phương tây, đến năm 1947 lại lập Cominform (Cơ quan Thông tin Cộng sản quốc tế).
- Ông kư với Đức hiệp ước bí mật Xô – Đức không xâm lược nhau tháng 8-1939 để giữ an ninh cho Liên xô, đổi lại cho Hít–le tiến công Ba-lan ngay sau đó. Tháng 6-1941, Đức tiến công Liên xô. Liên xô bị bất ngờ, phải rút lui trên toàn tuyến, cho đến tháng 1-1943 với trận phản công từ Stalingrát (bắt sống hơn 1 triệu quân cùng bộ chỉ huy Tập đoàn quân VI của tướng Paulus) mới chuyển sang đẩy lùi bọn phát xít. Do mất cảnh giác với phát xít Đức và cuộc thanh trừng lớn trong Hồng quân (đặc biệt là cuộc thanh trừng trong các năm 1937, 1938, 1939, Nguyên soái tư lệnh Hồng quân Tukhachevsky, 7 viên tướng và 2 vạn binh sỹ bị xử bắn do tính đa nghi của Staline), quân Đức tiến nhanh trên toàn mặt trận dài 2.700 km, từ Bắc Cực xuống Hắc Hải, với gần 3 triệu quân trong chiến dịch Barbarossa; trong chiến dịch này, - được coi là lớn nhất cho đến nay trong lịch sử thế giới, quân Đức bắt sống 5 triệu 700 ngàn binh lính, sỹ quan và thanh niên Liên xô, sau này chỉ c̣n hơn 2 triệu người sống sót; 3 triệu rưỡi người đă chết trong cảnh lao động khổ sai tại các công trường và nhà máy Đức; (hơn 2 triệu người trở về Liên xô sau chiến thắng đều bị nghi ngờ và hầu hết chết bi thảm trong các trại cải tạo v́ ‘’ đă đầu hàng và cộng tác với kẻ thù”).
-Cuối năm 1941, quân Đức chỉ cách Moscow 20 kilômét, Hit-le huênh hoang chiến tranh Đức-Xô sắp kết thúc, sẽ rút bớt về 44 sư đoàn v́ thừa quân, phương Tây dự đoán Liên xô sụp đổ hay đầu hàng trong vài tuần, Staline tập trung hơn 100 sư đoàn huấn luyên và trang bị theo chiến trận mùa đông, mở cuộc phản công đêm 6-12 trong cơn băo tuyết lạnh dưới 0 độ, chọc thủng mặt trận dài hơn 300 kilômét. Quân Đức chuyển hướng chính xuống phía Nam từ đó. Sau trận chiến Moscow, Staline nổi lên là một thiên tài quân sự.
- Đặc điểm của Staline là tính cứng rắn, nghiêm khắc, lạnh lùng (như tên ông tự chọn là Staline – Stal, như Steel tiếng Anh, nghĩa là sắt thép); ông hay nổi nóng, và có bản chất hung dữ, độc đoán, được một số nhà sử học uyên bác và khách quan chứng minh và nhận định là ‘’ nhà độc tài hung bạo sắt máu nhất ‘’ trong lịch sử loài người.
- Báo cáo mật của tổng bí thư đảng CS Liên xô Khroutchev (1894 – 1971) ngày 25-2-1956 tại Đại hội 20 lên án mạnh mẽ tệ sùng bái cá nhân Staline và chỉ ra bản chất kiêu ngạo, đa nghi, tàn ác của Staline, với lập luận của ông là:”càng lên chủ nghĩa xă hội th́ đấu tranh giai cấp càng thêm gay gắt”, “kẻ thù giai cấp luôn nằm ngay trong hàng ngũ chúng ta “; sau Đại hội đảng lần thứ 17, Staline mở một cuộc thanh trừng lớn, c̣n gọi là cuộc ‘’đại khủng bố đỏ ‘’ từ 1937 đến 1939; 98 trên 139 uỷ viên trung ương tại chức, 1108 trên 1956 đại biểu dự đại hội đảng lần thứ 17 bị kết án là ‘’phản bội, kẻ thù của nhân dân’’, ‘’gián điệp cho nước ngoài’’ và xử bắn. Chính Staline ra lệnh xử bắn Lép Kamenev(1883 – 1936) uỷ viên bộ chính trị, G. Dinôviev(1883 – 1936) cũng là uỷ viên bộ chính trị, trong cái gọi là ‘’vụ án Moscow’’ do Staline dựng lên năm 1936, rồi xử bắn luôn cả N.Boukharin (1888 – 1938) từng là uỷ viên bộ chính trị kiêm Chủ tịch Đệ tam Quốc tế CS, vào năm 1938 về tội ‘’làm gián điệp cho bọn phản động quốc tế ‘’.(Sau Đại hội 20, hàng chục ngàn cán bộ đảng viên cũ bị Staline giết hại được minh oan, phục hồi danh dự, nhưng mọi việc đă qua; họ là nạn nhân bi thảm của cá nhân Staline, thật ra là của cả một chế độ chính trị chuyên quyền độc đảng, độc đoán, nên mù quáng độc ác về bản chất).
- Tội ác đối với dân Liên xô của Staline th́ không sao thống kể hết. Đó là hàng 30 triệu lượt công dân bị đày doạ ở hơn 2400 trại cải tạo trên vùng Sibêri giá lạnh, rải rộng khắp nước, cho đến giữa thủ đô Moscow; đó là hàng triệu công nhân, trí thức, văn nghệ sỹ lao động khổ sai trên các công trường đào vàng, đào than, phá đá, làm đường bộ, đường sắt, mà nhà văn Aleksander Solzhenitsyn (1918 - hiện c̣n sống, giải thưởng Nobel văn học năm 1970) mô tả sinh động và ghê rợn trong cuốn hồi kư ”Quần đảo Goulag ‘’ xuất bản năm 1974, dù đây chỉ là một phần triệu triệu của sự thật (ông tham gia Hồng quân từ 1941 đến 1945, bị 8 năm tù giam khi 27 tuổi chỉ v́ một câu ‘’thất thố ‘’ đối với lănh tụ tối cao Staline trong một lá thư gửi bạn cũ)
- Tội ác của Stalin đối với nước ngoài th́ có thể kể đến cuộc tàn sát trong rừng Katyn diễn ra vào giữa năm 1940, một tội ác được che dấu và vu cáo cho người khác suốt trong 50 năm trời mới được phát hiện ra ánh sáng. Đó là cuộc tàn sát bí mật 14.734 sỹ quan và binh sỹ Ba-lan (trong đó có 295 viên tướng) trong khu rừng sâu Ka-tyn gần Smolensk được thực hiện hồi tháng 3 năm 1940. Đến năm 1941 quân Đức tràn vào chiếm đóng Ba-lan rồi sau đó chúng lại bị quét khỏi Ba-lan bởi Hồng quân Liên Xô. Nơi chôn người trong rừng Ka-tyn được phát hiện. Thân nhân những người bị tàn sát kéo nhau đi t́m xác người thân. Chính quyền do Liên Xô dựng lên theo lệnh Moscow đổ vấy việc tàn sát ấy cho quân Đức thực hiện lệnh của Hít–le. Tuy nhiên ở Ba–lan vẫn lưu truyền những điều hoài nghi về thủ phạm đích thực của vụ giết người này. Từ năm 1944 giới báo chí và ngoại giao Anh Mỹ cũng có người nghi ngờ về bàn tay của Moscow trong vụ này, nhưng họ bị chính quyền chặn họng v́ Anh Mỹ đang mong muốn Liên Xô đẩy mạnh hơn nữa cuộc tiến công về phía Tây và tuyên chiến với Nhật bản; họ sợ làm phật ḷng Staline. Tháng 4-1990, Tổng thống Goócbachov ngay thẳng công nhận sự thật và công bố “Tờ tŕnh“ của trùm mật vụ Berya (Laventy Berya 1899 – 1953; trùm an ninh, uỷ viên bộ chính trị, bị bắt sau khi Staline chết; bị xử bắn ngày 24-12-1953) đề ngày 5-3-1940 đệ tŕnh Staline đề nghị thủ tiêu toàn bộ số quân nhân Ba-lan v́ số này hầu hết là trí thức, có ư thức dân tộc rất ‘’nặng‘’, vừa chống phát xít Đức vừa chống chủ nghĩa Đại Nga!. Chữ xét duyệt đồng ư và chữ kư “ Staline “ c̣n nguyên trên bản chính và lưu trữ trong hồ sơ loại “tuyệt mật” của Bộ chính trị đảng CS Liên xô. Tháng 6-1990 phóng viên vô tuyến truyền h́nh Moscow đến vùng Ka-tyn, t́m gặp một nhân chứng sống là một kẻ ‘’đồ tể ‘’ từng tham gia cuộc tàn sát. Hắn lúc này đă 82 tuổi, kể lại hắn được lệnh bắn vào gáy từng người, từ sáng sớm, đến mỏi rời tê dại cả bàn tay và cánh tay. Mấy năm sau hắn c̣n kinh hoàng; lúc ấy hắn không dám chống lệnh, sẽ bị bắn luôn. Thâm ư của Staline rất rơ, thủ tiêu tinh hoa dân tộc Ba-lan để đặt dân tộc này dưới sự thôn tính vĩnh viễn của Liên Xô, với tham vọng làm chủ châu Âu và thế giới.
- Sau Đại hội 20, Liên xô thực hiện quá tŕnh “phi thần thánh hoả “ Staline, viết hẳn lại lịch sử đảng cộng sản LX, viết hẳn lại lịch sử quân sự, viết hẳn lại tiểu sử Staline, xác định công và tội, mặt tích cực và mặt tiêu cực của nhân vật này, trả lại sự thật cho lịch sử; công lao của các tướng lĩnh có thực công và thực tài như các nguyên soái Joukov, Malinốpski, Vassilépski, Rokossovski, Timochenkô…được xác định; danh nghĩa do Staline tự phong:‘’ Staline là Lénine vĩ đại của thời đại mới ‘’, ‘’ Staline, vị Nguyên soái vĩ đại nhất của mọi thời đại “ được thu hồi, xoá bỏ; quan tài kính và thi hài Staline được đưa ra khỏi lăng đá đỏ giữa Hồng trừơng; hơn 6.000 tượng đài bằng đá và bằng đồng bị phá đổ; hàng loạt tác phẩm văn học, thơ ca, phim ảnh được xem xét lại, như cuốn phim đồ sộ ‘’ Công phá Berlin” bị cấm chiếu…Các Bách khoa toàn thư lớn nhất, với lập luận chặt chẽ và dẫn chứng hiển nhiên, xếp ông vào loại ‘’ nhà độc tài tay đẫm máu nhất của các thời đại ‘’, ‘’nhà quân sự có gan nướng quân ḿnh tàn khốc nhất ‘’, ‘’ nhà vơ biền vô trách nhiệm nhất với binh sỹ của minh ‘’ (với dẫn chứng trong chiến dịch cuối của thế chiến 2, để chiếm được nhiều đất nhất cho phe cộng sản, Staline ra nghiêm lệnh cho các tập đoàn quân phải chiếm bằng được vùng nào trong thời hạn nhất định rất ngắn, nếu không các tư lệnh không hoàn thành lệnh sẽ bị xử bắn; chỉ để chiếm Đông đức và độc chiếm thủ đô Berlin trước quân Mỹ - Anh, sau khi vượt sông Oder, Staline tập trung đến 1 triệu 250 ngàn quân và 22 ngàn đại bác, và riêng trên địa bàn thủ đô Berlin đă chịu tổn thất lên đến 300 ngàn tử sỹ Hồng quân trong 3 tuần lễ.
- Staline với Việt nam: Ở trong các nước XHCN c̣n tồn tại như Trung quốc, Bắc Hàn, Cu-ba, Việt nam, h́nh ảnh Staline trong công chúng vẫn c̣n gần như nguyên vẹn. Tài liệu chống sùng bái cá nhân và Nghị quyết của Đại hội 20 đảng CS Liên xô, đặc biệt là bản Báo cáo mật của Kroutchev vẫn bị nghiêm cấm lưu hành (bạn có thể đọc toàn văn trên mạng internet Liên minh Dân chủ Tự do, mục ‘’tác phẩm ‘’). Các em nhỏ, bạn trẻ, nhiều đảng viên kỳ cựu c̣n thuộc các câu thơ về ‘’Ông Staline, đồng chí Staline, Đại nguyên soái Staline, lănh tụ Staline của chúng ta ‘’, như:
Bữa trước mẹ cho con xem ảnh
Ông Stalin bên cạnh nhi đồng
Áo Ông trắng giữa mây hồng
Mắt Ông hiền hậu, môi Ông mỉm cười
Stalin! Stalin!
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu ḷng con gọi Stalin…
Và:
Có Người mới có được nồi cơm no
Có Người mới có tự do tháng ngày
để nhà thơ cung đ́nh Tố Hữu ghi ḷng tạc dạ tiếp rằng:
Ơn này nhớ để hai vai
Một vai ơn Bác, một vai ơn Người!
Và c̣n để hô toáng lên:
Hoan hô Stalin!
Đời đời cây đại thọ
Rợp bóng mát hoà b́nh
Đứng đầu sóng ngọn gió!
-Nhiều người c̣n nhớ dạo nào, lễ kết nạp đảng viên, trang nghiêm,huyền bí, không thể thiếu ảnh 4 vị lănh tụ kính yêu: Mác, Ăng-ghen, Lê-nin, Sta-lin, một bộ 4 ông tây râu xồm, trong đó Sta-lin mặc quân phục, lon đại nguyên soái, huân chương đỏ chóe, râu mép bự, trông oách nhất. Cũng khó quên thời Điện Biên Phủ, những ngày cuối cùng, ống phụt đạn lớn hàng loạt ‘’ orgue của Staline ‘’ vừa đến kịp để phun băo lửa vào khu trung tâm và hầm Đờ Cát. Và lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội 2 đảng Lao động trên Việt Bắc đầu năm 1952, đại biểu nào cũng ghi thật kỹ để về kể lại đến tận chi bộ: ‘’ Bác bảo đảm rằng hai đồng chí lănh tụ của chúng ta (chỉ lên 2 bức ảnh lớn trong hội trường) Staline và Mao Trạch Đông không bao giờ phạm sai lầm! ‘’.
- Đến năm 2005 này, nhân kỷ niệm 60 năm chiến thắng phát xít, báo chí và vô tuyến truyền h́nh nước Nga, kể cả tổng thống Nga Pu-tin trong cuộc lễ ngày 8-5-2005) ở Moscow có mặt gần 60 tổng thống và thủ tướng toàn thế giới, không hề nói ǵ đến Staline; vậy mà ở Hànội, từ tháng 3 báo Nhân dân, Quân Đội Nhân dân, báo An ninh thế giới và Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đă có một lọat bài, có cả ảnh ‘’ Cụ Xít ‘’ – như dân gian ta thường gọi, và một số cuộc nói chuyện, kể lể công lao lịch sử của Đại nguyên soái Stalin, với thiên tài quân sự, đă cứu nhân loại khỏi tai hoạ phát xít. Vẫn cứ như là xa xưa, thời kín mít, khi ngoài cửa phải niêm yết ‘’ nhà tôi không nghe đài địch ‘’, ‘’đọc báo địch là không yêu nước ‘’, không ai dám chào và bắt tay người nước ngoài, kể cả ‘’đồng chí Liên xô hay đồng chí Cu-ba’’ v́ sợ ông công an phường nh́n thấy lại phải tŕnh khai lôi thôi! Phải chăng v́ cái năo trạng cổ lỗ, bảo hoàng hơn vua, lập trường kiên định vững vàng như thế của cái trung tâm Học viện nói trên - được các nhà trí thức dân chủ gọi là ‘’trung tâm u mê hoá trí tuệ ‘’ mà Ban tổ chức đại lễ ở Moscow năm nay cố t́nh ‘’quên ‘’ mời đoàn VN dự lễ, dù họ không quên Mông cổ, Bắc Hàn, Đức, Nhật bản … V́ chuyên hát lạc điệu nên Ban tư tưởng và văn hoá Hànội đă tự loại Việt nam và các dàn loa của nó ra khỏi dàn đồng ca hiện đại của thế giới văn minh.
- Cũng vào dịp này, cũng nên ngả mũ cúi đầu chào lăo tướng cựu tổng biên tập báo Nhân Dân trong 27 năm liền (từ 1955 đến 1982) Hoàng Tùng đă 92 tuổi c̣n dám phá rào và nhảy một pha vượt rào ngoạn mục; trong bài luận văn dài về thời ‘’đổi mới ‘’, ông dám mạnh miệng nói to ư riêng của ông là: ‘’Staline trên hành động phạm tội ác đă vượt xa những nhân vật kinh khủng nhất là Thành cát Tư hăn, Napoléon và Hitle cộng lại ‘’. Khi nói vậy, nhà mác-xít thượng thặng này hiểu rơ rằng Thành cát Tư hăn (Genghis-Khan 1167 – 1227) hoàng đế Mông cổ khét tiếng hung bạo về giết sạch, phá sạch, đốt sạch từ Á sang Âu, vó ngựa đến đâu là tan hoang b́nh địa đến đó. Vậy mà c̣n kém rất xa chúa tể cộng sản Stalin - người ông măi măi hiền hậu của nhà thơ Tố Hữu.
d -) Mao Trạch Đông
- Mao Trạch Đông (1893 – 1976) là lănh tụ đảng CS Trung quốc, Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa từ năm 1949. Từng lănh đạo cuộc Vạn lư Trường chinh dài 9.600 kilômét năm 1934 và 1935 qua vùng núi cao, tuyết phủ, khi lên đường ở Giang tây có 80.000, đến nơi vùng Thiểm Cam Ninh c̣n 8.000 người.
- Tự nhận và được đảng CS Trung quốc coi là Mặt trời đỏ của phương Đông – Đông Phương Hồng ; nhận định ‘’ gió Đông thổi bạt gió Tây ‘’; là lănh tụ tối cao, tuyệt đối của đảng CS Trung quốc từ năm 1935 (hội nghị Tuân Nghĩa) cho đến khi chết năm 1976 (41 năm).
- Tụ tin, cao ngạo, độc đoán, được suy tôn là người đồ đệ trung thành nhất của Mác - Ăng-ghen, Lê-nin và Sta-lin, người phát triển chủ nghĩa Mác cho các nước thuộc địa và nửa thuộc địa ở châu Á.
-Mao đề cao vai tṛ của nông dân, đặc biệt là bần cố nông; chủ trương lấy nông thôn bao vây thành thị, coi các nước nông nghiệp là nông thôn của thế giới; đề cao vai tṛ của bạo lực vũ trang, của chiến tranh giải phóng, theo quan điểm ‘’chính quyền đẻ ra từ ṇng súng ‘’.
- Thực hiện cuộc ‘’chống Mỹ viện Triều’’ năm 1950 – 1953, đưa Chí nguyện quân Trung quốc vào tham chiến, đẩy lùi quân Mỹ từ biên giới Trung -Triều trên bờ sông Áp lục về vĩ tuyến 38, gần 1 triệu quân Trung Quốc bị tử trận.
- Mang nặng tư tưởng tả khuynh cực đoan, Mao đề ra ’’ Đại nhảy vọt’’ (1958 – 1960) với mục tiêu 15 năm vượt nền kinh tế nước Anh, lập Công xă nhân dân, làm ruộng cao sản, lập hàng triệu ḷ cao luyện thép trên sân nhà, gơ chiêng trống để trừ chim sẻ (làm đảo lộn môi trường), dẫn đến hậu quả tàn phá nền sản xuất, làm chết đói 20 triệu dân từ 1959 đến 1962.
- Với tư tưởng gạt bỏ luật pháp, theo chủ thuyết vô chính phủ, Mao ra sức kích động tuổi trẻ non nớt ’’tạo phản’’ làm loạn, tạo nên hàng trăm triệu ‘’Hồng Vệ Binh ‘’ gây rối trong cuộc Cách mạng văn hoá vô sản từ 1966 – 1971.
- Mao thực hiện bàn tay sắt thanh trừng tàn khốc mọi người chống đối trong đảng, từ Vương Minh, Cao Cương đến Bành Đức Hoài, Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu... Bành Đức Hoài (1903 – 1974) là Nguyên soái tư lệnh quân Chí nguyện ở Triều tiên khuyên can Mao về sự tai hại của ‘’ Đại nhảy vọt ‘’, Mao không nghe c̣n bỏ tù ông năm 1966 và ông chết bi thảm trong tù năm 1974. Lưu Thiếu Kỳ (1898- 1969) là Chủ tịch Nước can ngăn Mao về sự nguy hiểm của bọn Hồng vệ binh ‘’tạo phản ‘’ liền bị Mao đưa cả 2 vợ chồng ra cho Hồng vệ binh đấu tàn bạo : bị đội mũ lừa, giải đi trên đường phố Bắc kinh, bị trói, bị tát, bị nhổ vào mặt, bắt quỳ và ḅ,rồi bị bỏ tù không xét xử từ tháng 10 năm 1968 và chết rục cùng vợ ông trong tù tháng 11-1969. Lâm Bưu (1907 – 1971) là Nguyên soái, thay Bành Đức Hoài làm Bộ trưởng Quốc pḥng từ năm 1966, được chính Mao chọn làm người thừa kế, bị Mao vốn đa nghi cho là có liên lạc với ‘’bọn xét lại Liên xô ‘’, liên ra lệnh thủ tiêu. Lâm Bưu được mật báo tin này, liền báo cho con trai là phó tư lệnh không quân Lâm Lập Quần cho máy bay chở 2 vợ chồng chạy trốn rạng sáng 13-9-1971, nhưng v́ không đủ nhiên liệu, máy bay có 9 người bị rơi trên đất Mông Cổ, tất cả đều chết.
- Ngay sau khi Mao chết vào ngày 9-9-1976, ‘’bè lũ 4 tên’’ do bà vợ thứ 3 của Mao là Giang Thanh (Jiang Qing) cầm đầu bị công khai tố cáo và lên án. Chu Ân Lai là người tỏ ra nhu nhược với bọn này đă chết trước Mao hơn một tháng, vào ngày 1-8-1976. Lũ 4 người mất chỗ dựa. Người thay Mao đứng đầu đảng CS là Hoa Quốc Phong càng nhu nhược, từng ‘’sợ Giang Thanh như sợ cọp’’. Đặng Tiểu B́nh từng bị Mao gạt khỏi quyền lực 3 lần v́ ương bướng, 3 lần trở lại cầm quyền, liền đặt ngay vấn đề truy tố cả 4 tên ra pháp luật, với ư định ‘’phi Mao hoá ‘’ dứt khoát, ư định này ông chỉ thổ lộ với con gái cưng. Đặng Tiểu B́nh công khai khẳng định Đại nhảy vọt và Cách mạng Văn hoá Vô sản thời Mao là 2 sự kiện bi thảm. Toà án nhân dân Bắc kinh luận tội bè lũ 4 tên: lộng quyền, phá hoại đất nước, sát hại người lương thiện, phản quốc, huỷ hoại nền văn hoá... và kết án : Giang Thanh và Trương Xuân Kiều(Zhang Chunqiao) tử h́nh; Vương Hồng Văn(Wang Hongwen) tù chung thân; Diêu Văn Nguyên (Wao Wenyan) tù 20 năm. Giang Thanh và Trương Xuân Kiều được hạ án xuống chung thân. Giang Thanh tự sát trong tù ngày 14-5-1991. Diêu Văn Nguyên ra tù năm 1996.
Mao và Việt nam :
- Như trên đă nói, ông Hồ Chí Minh từng trịnh trọng nhận định rằng : lănh tụ Mao Trạch Đông của chúng ta không bao giờ phạm sai lầm! Ngay trong thời ‘’Đại nhảy vọt ‘’, ông Hồ đă hăm hở viết một loài bài trên báo Nhân dân, sau được in thành sách : ‘’ Những kinh nghiệm của Trung quốc chúng ta cần học ‘’, kư tên Trần Lực, giới thiệu từ trồng lúa cao sản đạt đến 50 tấn lúa một héc-ta (!) đến đắp ḷ luyện thép ở sân nhà nông dân (!), và cả đánh trống gơ chiêng để giết chim ăn hại lúa, trong lúc báo l’Humanité của đảng CS Pháp phải bịt mũi chê các tṛ trên đây là lẩm cẩm, ngây ngô, phản khoa học!
- Dấu ấn sâu đậm của Mao trên nước ta có thể nói là những sai lầm vấp phải trong thời Cải cách ruộng đất do các phái viên Cải cách thổ địa của ‘’Mao xủ xỉ ‘’cử sang, một mực ép mỗi xă cứ phải có đủ tỷ lệ 5% số hộ là địa chủ và ít nhất mỗi xă phải có 2 hay 3 địa chủ cường hào gian ác, để xử bắn. Họ lớn tiếng dạy :’’ phang shẩu à! phang shẩu à! ‘’ nghĩa là phải phóng tay, phải phóng tay, nghĩa là tha hồ mà làm tới mạnh mẽ, không sợ làm quá, làm sai! Cứ phải ‘’pằng pằng à! pằng pằng hảo hảo à! ‘’ nghĩa là xử bắn mới là tốt, là cách mạng! Như trên đă nói phần lớn bị bắn là người kháng chiến yêu nước.
- Dấu ấn thứ hai của Mao là sự chia đôi Việt nam làm 2 phần tại hội nghị Giơneve; từ đầu lập trường của đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa là ngừng bắn tại chỗ, theo h́nh thái da báo, xen kẽ; đến khi bàn đến chia đôi, đoàn Việt nam Dân chủ Cộng hoà đ̣i chia tại vĩ tuyến 13 qua Đèo Cả, rồi khi bị đoàn Trung quốc ép, cố bám chặt vĩ tuyến 16 sát Đà nẵng, nhưng Chu Ân Lai đă đi đêm với thủ tướng Pháp Bi-đô chấp nhận vĩ tuyến 17. Thế là ngoại trưởng Chu Ân Lai về nước, gặp ông Mao, rồi trên đường trở lại Giơnevơ, triệu tập ông Hồ cùng tướng Vơ Nguyên Giáp sang Liễu châu, gần Nam Ninh thủ phủ tỉnh Quảng tây, để chuyển cho 2 người ư kiến của ông Mao là cần giải quyết cho xong việc đàm phán với Pháp, chấp nhận vĩ tuyến 17, 2 năm sau có tổng tuyển cử, không thể kéo dài cuộc chiến thêm nữa. Sau này tướng Giáp kể lại, ông cùng ông Hồ đều sững sờ, nhưng đành chịu. Qua sự kiện này, Chu Ân Lai vừa kể công với Hànội lẫn Paris là giúp mang lại hoà b́nh, đồng thời kiếm lợi lớn riêng cho Trung quốc, có vai vế cao sang khi xuất hiện lần đầu trên sân khấu quốc tế.
- Năm 1993, bác sỹ Lư Chí Thuỵ (Li Zhisui) sống ở Chicagô - Hoa kỳ, từng là bác sỹ riêng của ông Mao suốt 22 năm (từ đầu năm 1955), cho ra mắt cuốn sách ‘’Cuộc đời riêng của chủ tịch Mao ‘’, hơn 600 trang. Ông cung cấp nhiều nét mới lạ chân thực về Mao vốn bị che dấu kỹ. Cuốn sách được dịch ngay ra 12 thứ tiếng, phát hành số lượng lớn nhất là ở Trung quốc. Qua sách này, ông Mao sống khép ḿnh, cô độc, không bạn bè, tập quán kỳ dị, hoang dâm vô độ, tính khí dị thường. Ông không đánh răng (‘’hổ đánh răng đâu sao răng nó trắng vậy! ‘’), không tắm, chỉ lau ḿnh bằng khăn nhúng nước nóng, pḥng ngủ bao màn đen để không rơ ngày hay đêm, chuyên ngủ ngày, b́nh thường luôn trần truồng hay là chỉ khoác một áo ngủ mỏng, luôn có 5, 6 cô gái trẻ ở quanh để phục vụ mọi thứ, trong pḥng lớn đánh số 118 giữa Đại lễ đường nhân dân có giường ngoại khổ để Mao ngủ một lúc với 2 hay 3 cô; các cô phần lớn chọn từ các đoàn văn công quân đội, ganh nhau để được Mao để ư, trong đó Mao cưng nhất cô Trương Ngọc Phượng (Zhang Yufeng, sinh năm 1944 kém Mao 51 tuổi), sau làm thư kư riêng cho Mao, phục vụ Mao từ khi 16 tuổi. Dù được bác sỹ Lư khuyên can, Mao vẫn ngang nhiên nhẫn tâm truyền bệnh phong t́nh cho các cô, thậm chí khi bác sỹ Lư khuyên ông giữ vệ sinh rửa ráy bộ phận sinh dục sau mỗi quan hệ, th́ Mao bảo : khỏi cần, cứ quan hệ liên tiếp là bộ phận của các cô đă coi như lau rửa cho ta rồi!(xin lỗi bạn đọc, tôi nói ra chuyện cực kỳ tồi tệ này, để kể cho hết lẽ về Mao, theo như bác sỹ Lư mong muốn, v́ ông coi như thế là làm điều lành, làm phúc cho dân nước ông và toàn thiên hạ). Trong khi đă từ 10 năm nay, bộ máy tuyên truyền Bắc kinh thôi nói rả rả về Mao, lặng lẽ ‘’phi Mao hoá’’, chỉ c̣n gọi lăng của Mao là nhà kỷ niệm, không c̣n nhắc tư tưởng Mao Trạch Đông vĩ đại, th́ Ban tuyên truyền và văn hoá của đảng Cộng sản VN vẫn ngăn cấm những sách báo chân thực về Mao, như cuốn sách trên đây của bác sỹ Lư. Họ vẫn cứ một mực bảo hoàng hơn vua, mao-it nhiều hơn lỳ lợm hơn người Tàu!
- Bác sỹ Lư Chí Thuỵ nhận xét : nếu như ở Trung quốc có chế độ dân chủ đa đảng như ở Mỹ, nhân dân có tiếng nói, cử tri được lựa chọn tự do một cách công khai và trong sáng, th́ một con người thô bỉ vô luân, sống vô đạo mông muội như Mao, khó được bàu làm xă trưởng ở Hồ nam (Trung quốc), chưa nói ǵ đến ngự trị trên đầu 1 tỷ dân!
đ -) Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh (1890 – 1969) là người lănh đạo cao nhất của đảng CS Việt nam từ khi thành lập năm 1930, là Chủ tịch nước Việt nam dân chủ cộng hoà từ năm 1945 đến khi mất vào ngày 2 tháng 9 năm 1969, thọ 79 tuổi.
- Ông Hồ đă lập nên Mặt trận Việt nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh tổ chức quần chúng của đảng CS, và huy động Việt minh cùng nhân dân cả nước tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, buộc vua Bảo đại thoái vị. Ngày 2-9-1945, ông Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập tại quảng trường Ba Đ́nh
- Ông lănh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp từ đêm 19-12-1946 đến chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 5-1954, dẫn đến Hiệp định Giơnevỏ tháng 7-1954, chia đôi đất nước ở vĩ tuyến 17, dọc sông Bến Hải.
- Ông cùng Bộ chính trị và Ban chấp hành trung ương đảng CS Việt nam phát động cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam từ năm 1959 (Nghị quyết 9), và xây dựng chủ nghĩa xă hội trên miền Bắc từ năm 1960 (sau Đại hội III). Ông cùng đảng CS đưa miền Bắc Việt nam nhập vào trong phe Xă hội chủ nghĩa, tự nhận là tiền đồn của phe này, đồng thời đảm nhận nghĩa vụ quốc tế d́u dắt Lào và Cam-bốt cùng xây dựng chủ nghĩa xă hội và chủ nghĩa cộng sản, trên tinh thần ‘’hữu nghị đặc biệt’’
- Ông là nhân vật Việt nam được nhận định và đánh giá trái ngược nhau nhất, bởi nhân dân trong nước cũng như bởi cộng đồng người Việt ở nước ngoài hiện nay. Một bên, ông được coi là lănh tụ vĩ đại nhất của nhân dân và của đảng CS, là anh hùng dân tộc vô song, có đạo đức cao đẹp, có bản lĩnh lănh đạo tuyệt vời, thông minh tài trí, hy sinh cả cuộc đời cho dân tộc và giai cấp cần lao. Ông được ca ngợi là nhà cách mạng mẫu mực, nhà chiến lược nh́n xa trông rộng, nhà chính khách từng trải, nhà ngoại giao linh hoạt, nhà quân sự tài năng, nhà hiền triết thâm thuư, nhà thơ đặc sắc, nhà báo lăo luyện, nhà văn hóa lớn...
Việc sùng bái cá nhân ông được truyền bá khá sâu rộng, có khi mang vẻ thần bí,coi ông như thần, thánh, như loan truyền mắt ông có 2 con ngươi, khi ông c̣n sống đă có bàn thờ ở vùng nông thôn; có người thắp hương khấn vái ông khi con cái ốm đau, gia đ́nh gặp nạn; gần đây tổ chức ‘’Phật giáo quốc doanh ‘’ (của nhà nước) c̣n phong ông là ‘’Bồ tát ‘’. Nhiều cuốn sách, phim ảnh, bài hát, bài thơ, tranh, tượng, lăng đồ sộ, Viện bảo tàng và nhà lưu niệm Hồ Chí Minh ghi lại công lao của ông cho hậu thế.
Tố Hữu vẫn đi đầu trong dàn hợp xướng xưng tụng :
Hoan hô Stalin!
Đời đời cây đại thụ
Rợp bóng mát Hoà b́nh
Đứng đầu bóng ngọn gió
Hoan hô Hồ Chí Minh!
Cây hải đăng mặt biển
Băo táp chẳng rung rinh
Lửa trường kỳ kháng chiến!
và vẫn 2 nhân vật vĩ đại ấy :
Việt nam có Bác Hồ
Thế giới có Stalin
Việt nam có độc lập
Thế giới có hoà b́nh
Thêm nữa:
Ngày mai dân có ruộng cày
Ngày mai độc lập ơn này nhớ ai
Ơn này nhớ để hai vai
Một vai ơn Bác một vai ơn Người
-Ngược hẳn lại, bên tố cáo, lên án, kết tội ông Hồ Chí Minh bằng những danh từ xấu xa nhất: trùm cộng sản khát máu, tội đồ của dân tộc, tay sai CS Liên xô, tay sai Trung cộng, bán nước hại dân, với tính khí xảo trá, lật lọng, lừa dối, đạo đức giả, hoang dâm. Tôi kể các dẫn chứng sau đây để bạn đọc, nhất là các bạn trẻ trong nước rộng đường xem xét, theo tinh thần minh bạch, trong sáng, công khai, không thiên vị, không áp đặt và thành kiến. Bên này đặt ra nhiều câu hỏi, như:
● sao lại có nhiều ngày khai sinh khác nhau (19 tháng 5, hay 15 tháng 1,hay 20 tháng 9?), các năm sinh khác nhau, 1889?, 1890?, 1892? hay 1895,1896?; ngày và năm nào là đúng? Việc ǵ mà khi nắm chính quyền rồi vẫn c̣n dấu ngày sinh thật? như thế là không ngay thật, không minh bạch.
● việc anh thanh niên Nguyễn Tất Thành gửi đơn xin vào học Trường thuộc địa của Pháp (đào tạo quan lại bản xứ cho thực dân) đề ngày 15-9-1911 gửi từ Marseille, c̣n lưu trữ ở Pháp, sao Hànội vẫn không công nhận là có thật? Họ vẫn cứ cố nói lấy được là anh Thành lúc ấy chỉ một ḷng đi t́m đường cứu nước!
● việc ông Hồ có vợ, có nhiều vợ, nhiều mối t́nh và sống chung với nhiều phụ nữ, từ cô Bière nào đó ở Paris, cô Véra Vassileva ở Moscow, cô Nguyễn Thị Minh Khai ở Hồng kông và Moscow, cô Tăng Tuyết Minh ở Quảng Châu Trung quốc, cô Nông Thị Xuân ở Hànội. Bộ máy tuyên truyền Hànội vẫn một mực bác bỏ hết, cố giữ nguyên h́nh ảnh ông Hồ không hề nghĩ đến t́nh cảm riêng tư, một ḷng hy sinh cho cách mạng. Có vợ, có người t́nh th́ có ǵ là xấu xa, c̣n cho thấy ông cũng là con người b́nh thường, việc che dấu chỉ làm tăng thêm niềm nghi ngờ về những chuyện khác hệ trọng hơn. Chính cô tiến sỹ sử học Mỹ Sophia Quinn Judge đến Hồng kông, Quảng Châu, Paris, Moscow để viết rơ ông Hồ chung sống ra sao với bà Minh Khai, 2 người khai rơ với Văn pḥng đệ tam Quốc tế và Trường Phương Đông là vợ chồng, ở chung hơn 6 tháng trong một buồng nhỏ ở kư túc xá. Chẳng lẽ đó là tài liệu giả?, ‘’ v́ hoạt động bí mật nên phải đóng giả vợ chồng’’, như một vài cán bộ tuyên huấn chống chế một cách gượng gạo, v́ đây là khai với Quốc tế CS kia mà!
- Ông Hoàng Tranh (Huang Zheng) nhà ngiên cứu sử học Trung quốc đăng trên tạp chí Đông Nam Á tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) số tháng 11-2001 bài ‘’ Hồ Chí Minh và người vợ Trung quốc Tăng Tuyết Minh ‘’ tả rơ đám cưới 2 người vào tháng 10 năm 1926 tại nhà hàng Thái B́nh giũa thành phố Nam Ninh, có bà Thái Sướng, bà Đặng Dĩnh Siêu vợ ông chu Ân Lai dự. Ban tư tưởng và văn hoá cấm báo trong nước dịch đăng bài này. Cũng lại sợ một sự thật nữa! Trước đó, hai nhà báo Bùi Đ́nh Kế và Kim Hạnh bị vạ khi đưa tin có thật này trên báo.
● Mối quan hệ giữa ông Hồ và cô gái Tày Nông Thị Xuân cũng cần làm rơ. Sự việc bị tiết lộ khi ông Nguyễn Hữu Thọ, nguyên là Chủ tịch Mặt trận dân tộc giải phóng sau là Chủ tịch Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam, hồi 1983 là Chủ tịch Quốc hội đă nhận một lá đơn-thư đề ngày 29-7-1983 của anh thương binh có vợ là cô Nguyễn thị Vàng, quê làng Hà mạ, xă Hồng Việt, huyện Hoà An, tỉnh Cao bằng. Thư kể rằng: cô Vàng có chị họ là Nông thị Xuân, tên khác là Nguyễn thị Minh Xuân. Năm 1955, 2 cô được đưa về Hànội ở trên gác số nhà 66 hàng Bông Nhuộm. Cô Xuân buộc phải phục vụ bí mật ông Hồ. Năm 1956 cô sinh con trai, tên là Nguyễn Tất Trung do chính ông Hồ đặt, gởi ông Nguyễn Lương Bằng rồi ông Chu Văn Tấn, và cuối cùng là ông Vũ Kỳ nuôi, đổi tên là Vũ Trung, nuôi cùng 2 con trai ông Vũ Kỳ là Vũ Vinh và Vũ Quang. Lá thư tố cáo Trần Quốc Hoàn, uỷ viên bộ chính trị, bộ trưởng Công an đă hăm hiếp nhiều cô gái, trong đó có cô Xuân rồi mang đi thủ tiêu cô Xuân qua một ‘’tai nạn ô tô’’ đêm 11-2-1957, và cô Vàng sau đó (khi 2 cô 23 tuổi); lá thư khẩn thiết yêu cầu làm rơ vụ án kinh khủng này. Trước khi mất, ông Nguyễn Hữu Thọ chuyển lại cho người thân giữ cẩn mật lá thư, dặn là để công bố khi thuận lợi cho công lư (các bạn có thể t́m đọc lá thư này trên mạng internet đối - thoại, ở mấy trang cuối phụ lục cuốn ‘’ Đêm giữa ban ngày ‘’ của nhà văn Vũ Thư Hiên. Hiện lá thư là đồ quốc cấm trong nước, mặc dù họ leo lẻo: dân biết, dân làm chủ, quyền được thông tin trung thực, tính công khai, minh bạch, trong sáng! Có ai t́nh nguyện điều tra làm rơ vụ án này?
● Các đảng viên các đảng Quốc Dân đảng, Đại Việt, Duy Dân, Phục Quốc, Trốskưt…, các tôn giáo Phật giáo, Công giáo, Tín lành, Cao Đài, Hoà Hảo … lên án ông Hồ về trách nhiệm trong việc thủ tiêu giết hại các đảng viên, thủ lănh và tín đồ của họ; con số này chưa xác định là bao nhiêu, có thể rất lớn. Họ cho rằng việc đặt cho đường phố các tên Nguyễn Thái Học, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền… chỉ là đạo đức giả v́ nếu các vị này c̣n sống ắt không ‘’nuốt ‘’ nổi chủ nghĩa CS và ắt sẽ bị chung số phận với những Trương Tử Anh, Tạ Thu Thâu, Huỳnh Phú Sổ rồi! (bị Việt Minh và đảng CS giết sau Cách mạng tháng Tám 1945).
● Nhiều nhà lănh đạo các đảng trên đây tố cáo ông Hồ đă mù quáng theo một học thuyết sai lầm có hại, mặc dầu lúc ấy đă có nhiều nhà chính trị văn hoá uyên bác như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Kư, Phạm Duy Tốn… cảnh báo rơ rằng chủ nghĩa cộng sản là học thuyết sai lầm, nguy hiểm, mục đích nhân từ (xă hội không giai cấp, 4 biển là nhà) không thể đạt bằng bạo lực, chiến tranh, hận thù và đổ máu. Các vị trên đây cùng sách báo Tây phương từng phê phán rất rơ sự kiện Xô viết Nghệ an hồi 1930 đă mù quáng, quá khích ra sao, khi thực hiện khẩu hiệu ‘’trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ ‘’; khi vô sản, bần cố nông thất học nắm được chính quyền th́ tai họa khôn xiết kể! Họ tha hồ lùng giết người có học, đốt sách, phá chùa, chẻ câu đối làm củi, chặt đầu tượng Phật, phá bia, hôi của, kích động hận thù ḍng họ. Tai họa Xô viết gây cho xă hội nông thôn gấp nhiều lần và dai dẳng gấp bội sự đàn áp của thực dân. Tai họa CS cho cả nước là tai họa thời Xô viết Nghệ an nhân lên qui mô cả nước với thời gian 60 năm. Do đó, ông Hồ bị lên án là phạm tội nặng (trọng tội) mang tính chất tội ác dai dẳng và có ư thức, mặc dầu đă được ngăn chặn và cảnh báo trước.
- Quan điểm của các chiến sỹ dân chủ về ông Hồ Chí Minh: việc đánh giá ông cần khách quan, toàn diện, khoa học và công bằng. Không nên có định kiến, theo cảm tính và cực đoan. Việc coi ông như thần thánh, không hề có sai lầm, hay coi ông như hồ quỷ cố t́nh lao vào tội ác đều là quá đáng. Hai cách nh́n trái ngược ấy lại làm điều kiện cho nhau. Sự tuyệt đối phủ nhận thôi thúc sự chống lại bằng sùng bái tuyệt đối. Sự sùng bái tuyệt đối cũng phi lư như là sự phủ nhận tuyệt đối. Con người là ở giữa thần thánh và ma quỷ. Ông Hồ là con người. Ông đă thành nhân vật lịch sử. Mặt tích cực của ông Hồ không phải là nhỏ. Ông là người lănh đạo của cuộc Cách mạng tháng Tám, được toàn dân hưởng ứng, kết thúc thời kỳ thực dân và phong kiến, mở ra thời kỳ mới cho đất nước. Dù cho lúc ấy phát xít Nhật đă làm đảo chính ngày 9-3-1945 lật đổ thực dân Pháp trao ‘’độc lập’’ cho vua Bảo đại, nhưng vẫn c̣n viên toàn quyền Nhật ngự trị ở Phủ toàn quyền.
Chủ tịch Chính phủ kháng chiến Hồ chí Minh c̣n lănh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, c̣n gọi là cuộc chiến 9 năm, đến thắng lợi, với chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ, thực dân Pháp phải từ bỏ Việt nam. Ư kiến cho rằng cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp không cần thiết v́ các thuộc địa sẽ sớm muộn được trao trả độc lập, như Ấn độ, Nam dương, Mă lai; ư kiến này không có sức thuyết phục v́ thái độ của Pháp lúc ấy khác hẳn với Anh trong chính sách thuộc địa. Như phần trên đă nói, chính giới Pháp rất lạc hậu nghĩ lầm rằng để khôi phục quy chế cường quốc sau khi phải đầu hàng Đức và bị Đức chiếm đóng th́ nhất thiết phải phục hồi hệ thống thuộc địa; do đó có chiến tranh Việt nam và Angiêri. Chính giới Anh sau khi đại thắng Hít-le không có mặc cảm như Pháp nên rất rộng răi với thuộc địa của họ.
Đáng chú ư là 2 thành tựu tích cực trên đây gắn liền với lănh tụ Hồ Chí Minh không dính dáng trực tiếp ǵ đến học thuyết cộng sản, thậm chí chính v́ không dính dáng trực tiếp với học thuyết cộng sản mà mới có thắng lợi; ông Hồ phải tuyên bố giải tán đảng vào tháng 11-1945, và một mực thanh minh rằng: không! tôi không phải là người cộng sản. Sự khôn ngoan của ông là ở đó.
Theo các chiến sỹ dân chủ, mặt tiêu cực của ông Hồ là ở chỗ nào? Trước hết có thể nói rằng ông Hồ là người yêu nước, nhưng yêu nước theo kiểu riêng của ông, theo sự hiểu biết và niềm tin của ông. Ông Hồ từng trả lời khi được hỏi: ông Ngô Đ́nh Diệm là người thế nào, rằng:’’ Ông Diệm là người yêu nước theo kiểu của ông ta ‘’. Không thể nói ông Hồ không yêu nước - như không ít người ở hải ngoại một mực khẳng định, ông từng bị thực dân truy lùng, xử tử h́nh vắng mặt, bị thực dân Anh bắt giam và xử án ở Hông kông, bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ hàng năm trời…, chỉ v́ thật sự ông có ư chí đấu tranh bất khuất cho nền độc lập nước nhà.
Khi 30 tuổi, tự nhận là c̣n non nớt về chính trị, nghe tiếng Pháp c̣n chưa rành, ông tham dự một cuộc họp của đảng xă hội Pháp ở Tours năm 1920, được biết đệ Tam Quốc tế Cộng sản chủ trương giải phóng thuộc địa, thế là ông gửi trọn niềm tin vào tổ chức này; sau đó được đọc một luận văn ngắn của Lê-nin cũng về vấn đề giải phóng thuộc địa ông ôm bài báo vào ngực hét toáng lên giữa đêm khuya:’’ ánh sáng đây rồi! con đường giải thoát đây rồi!‘’, để rồi sau đó bắt cả dân tộc đi theo, không c̣n cựa quậy ǵ được nữa, suốt hơn 70 năm ṛng. Sự hăm hở, bốc đồng, nhẹ dạ của anh thanh niên tự nhận là ‘’non nớt về chính trị ‘’đă quyết định số phận dân tộc ta như vậy.
Các chiến sỹ dân chủ hiện nay đều nhận ra rằng qua thử nghiệm của gần một thế kỷ, chủ nghĩa Mác - Lênin mà Đệ Tam Quốc tế áp dụng đă phá sản triệt để cả về lư luận và thực tiễn, v́ nó thiếu cái lơi nhân văn, cái lỗ hổng tệ hại của nó là quyền tự do cho mỗi con người, là xă hội dân sự cho đất nước.
Đây có thể là lầm lẫn lớn nhất của ông Hồ. Con người ai chẳng lầm lẫn!
Con người có dại mới nên khôn
Ai nên khôn chẳng dại đôi lần!
Chính ông Hồ từng nói: ‘’ Chỉ có con người c̣n trong bụng mẹ hay con người đă nằm trong quan tài mới không phạm sai lầm ‘’. Nhưng chọn một học thuyết sai lầm, cho riêng ḿnh th́ không nói, nhưng cho một tổ chức, cho một chính đảng, lại là một chính đảng cầm quyền, lại là độc quyền không chia sẻ cho ai, không suy suyển trong mấy chục năm dài, th́ lầm lẫn ‘’vĩ đại ‘’ đến vậy thật là tai họa kinh hoàng.
Lầm lẫn - mà không phải cố t́nh phạm sai lầm, v́ lúc 30 tuổi, anh Nguyễn Tất Thành sau khi có ư định gần mười năm trước vào học trường thuộc địa để thành đạt trong cuộc đời vẫn có thể đổi ư trong môi trường chính trị tự do Pháp để chân thành chọn con đường của Lê-nin như không ít thanh niên và trí thức Pháp hồi ấy.
Anh thật ḷng tin rằng con đường Mác – Lênin là con đường đúng nhất, hay nhất, đáng chọn nhất, hơn hẳn con đường của Nguyễn Thái Học, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Cường Để.
- Nay học thuyết Mác – Lênin đă không c̣n sức sống ở Liên xô, đang chỉ c̣n cái bóng mờ nhạt ở Trung quốc, ta có thể trách ông Hồ là ông từng sống ở Moscow suốt từ 1924 đến 1938, giữa những năm khủng bố đỏ rùng rợn nhất của Staline,- khi mỗi ngày báo đảng Pravda đăng tin xử bắn hết uỷ viên bộ chính trị này đến ủy viên trung ương khác, và hàng sâu ‘’tên phản động ‘’, vậy mà ông vẫn sùng bái ‘’trùm tội ác của các thời đại ‘’ đến tuyệt đối, sùng bái chuyên chính vô sản và đấu tranh giai cấp đến tuyệt đối, th́ cái ‘’tâm ‘’ và cái ‘’trí ‘’ ông ở đâu?
- Tôi từng gặp và nói chuyện với 4 vị luật sư của nước ta: Trần Công Tường, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Thọ, Phan Anh, cả 4 đều nhận xét, ca thán, có lúc phẫn nộ về sự coi thường luật pháp của chính ông Hồ. Việc đóng cửa trường đại học luật ngay sau tháng 8-1945, việc chấm dứt đào tạo và xử dụng luật sư, việc các toà án nhân dân chỉ xử theo chỉ thị của đảng, việc quốc hội dưới thời ông không thực hiện chức năng làm luật, gây nên vô vàn bất công oan trái, người chịu trách nhiệm chính là Chủ tịch nước, chủ tịch đảng CS Hồ Chí Minh.
Do đó có thể nói lỗ hổng lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh là tinh thần dân chủ pháp trị, là tinh thần đa nguyên đa đảng, là tự do báo chí, tự do tôn giáo,tự do bầu cử đầy đủ trên cơ sở một nền dân chủ có luật pháp nghiêm, b́nh đẳng cho mọi công dân. Cái lỗ hổng to tướng ấy con cháu của ông hiện vẫn đang phải ra sức lấp đầy một cách gian truân, trước hết bởi các chiến sỹ dân chủ trong và ngoài nước.
-Về tư tưởng Hồ Chí Minh: hiện trong nước tư tưởng Hồ Chí Minh được nói đến nhiều vô kể, những luận văn dài ḷng tḥng rất ít nội dung thực chất.
Trước hết ông Hồ luôn nói rằng ông không có tư tưởng ǵ riêng cả. Mọi tư tưởng cách mạng, Mác, Lênin, Stalin và Mao đă nói lên hết rồi.
Ông nói ông chỉ để lại cái tác phong, cái cách sống: cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, thế thôi.
Nếu mang ‘’Hồ Chí Minh toàn tập’’ ra đọc, đánh dấu, thống kê, ghi chép th́ điều mà ông viết, nói, căn dặn nhiều nhất là: nước ta tiến thẳng lên chủ nghĩa xă hội không qua chủ nghĩa tư bản, hay: bỏ qua chủ nghĩa tư bản tiến thẳng lên chủ nghĩa xă hội. Do đó mà vừa cải cách ruộng đất xong đă bắt dân vào hợp tác xă. Chưa ǵ đă ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Chưa ǵ đă xoá bỏ tư hữu.
Từ năm 1986, Đại hội VI đề ra chủ trương xây dựng ‘’nền kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa’’ th́ đó là sự từ bỏ tư tưởng trung tâm trên đây của ông Hồ, không bỏ qua nữa mà là quay lại với chủ nghĩa tư bản. Đơn giản thế thôi. Nhưng c̣n cố đèo thêm cái đuôi ‘’định hướng xă hội chủ nghĩa’’ chỉ là để chữa thẹn, thế thôi!
Khôn mà không ngoan! Chỉ v́ cái đuôi ḷng tḥng ‘’định hướng xă hội chủ nghĩa’’ mà các đoàn thương lượng Việt nam về gia nhập WTO (tổ chức thương mại quốc tế) luôn bị chất vấn là: rơ ràng đây chính là sự can thiệp của nhà nước, cho nên không phải thị trường tự do, từ đó nhà nước luôn tác động về giá cả, thuế khoá, bù giá, định giá, ưu đăi của ngân hàng nhà nước, như trong vụ cá ba sa, quần áo, dày da …, rơ ràng là cái đuôi lôi thôi, nặng nề, phiền phức v́ đến nay chưa có ai định nghĩa nổi thế nào là ‘’xă hội chủ nghĩa’’, đang c̣n phải nghiên cứu, t́m ṭi chán!
- Thế c̣n việc UNESCO suy tôn Hồ Chí Minh là ‘’Danh nhân Văn hoá Thế giới ‘’ th́ thế nào? Người bảo có, người bảo không, sự thật là thế nào? Tôi từng dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội trường Ba đ́nh Hànội vào ngày 19-5-1990, có một số bạn bè quốc tế dự đến từ Liên xô, Trung quốc, Cu-ba, Bắc Triều tiên, Lào, Cam-bốt, Pháp, Anh, Angiêri… Tôi gặp ông A.Patti (người Mỹ, trong tổ chức t́nh báo OSS từng có mặt ở Việt Bắc và Hànội hồi cách mạng tháng Tám 1945) tại đây; có ông R.Chandra, người Ấn độ, nguyên trước kia là chủ tịch Hội đồng Hoà b́nh thế giới dự. Không có đại diện nào của UNESCO đến Hànội dự. Và cũng không ở đâu UNESCO đứng ra tổ chức lễ kỷ niệm cả. Để trả lời bạn Phương Nam hỏi, tôi đă đến t́m hiểu tại trụ sở chính của UNESCO ở Paris (số 7, place de Fontenay). Đầu đuôi là thế này. UNESCO có nếp làm việc: nhân kỷ niệm ngày sinh những nhân vật nổi bật của các nước thành viên vào những năm chẵn thứ một trăm (năm sinh lần thứ 1, 2, 3, 4 hay 5 trăm năm) th́ các nước gửi đề nghị đến UNESCO, UNESCO ghi nhận, xem xét và khuyến cáo các nước thành viên tham gia và Chủ tịch UNESCO có thể ủng hộ, hỗ trợ các nước ấy nếu cần. V́ đây là tổ chức về giáo dục, khoa học và văn hoá nên người được đề nghị phải có hoạt động nổi bật về 1 trong 3 mặt này. Cuộc họp của Đại hội đồng UNESCO lần thứ 24 từ 20/10 đến 20/11/1987 tại Paris xét thư đề ngày 14-7-1987 của bộ trưởng Vơ Đông Giang, chủ tịch UNESCO của Việt nam, thông báo rằng Việt nam sẽ tổ chức trọng thể kỷ niệm ngày sinh lần thứ một trăm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào dịp 19-5-1990, chủ tịch Hồ Chí Minh c̣n là ‘’ nhà văn hoá xuất săc của Việt nam ‘’; cuộc họp quyết nghị: - ghi nhận (noter) thông báo của Việt nam; - khuyến cáo (recommander) các nước hội viên tham gia kỷ niệm; - yêu cầu (prier) Ngài Tổng giám đốc UNESCO ủng hộ (soutenir) việc kỷ niệm, nhất là ở Việt nam. Do đó có thể nói là UNESCO có ra nghị quyết về việc kỷ niệm này theo đề nghị của đoàn Việt nam.
- Cùng trong phiên họp này, UNESCO ghi nhận đề nghị của Liên xô kỷ niệm lần thứ một trăm ngày sinh của ’’nhà văn và nhà giáo dục lớn‘’ Semionovitch Makarenko; ghi nhận đề nghị của Cộng hoà liên bang Đức về kỷ niệm lần thứ 500 ngày sinh của nhà ‘’tiên tri cấp tiến’’ (prédicateur progressiste) Thomas Mùnzer; ghi nhận đề nghị của Thái lan về kỷ niệm lần thứ 1 trăm ngày sinh của nhà phê b́nh văn học uyên bác Phya Anuman Rajadhon; và cuối cùng là đề nghị của Thổ nhĩ kỳ (Turquie) về kỷ niệm 4 trăm năm ngày sinh của ‘’nhà kiến trúc kiệt xuất’’ Sinan, từng xây dựng nhà thờ Hồi giáo kỳ vỹ Suleymaniye giữa thủ đô Istanbul cùng nhiều công tŕnh ở vùng Balkan và các nước Ả-rập, đều vào dịp 1990.
Nhưng...(chính cái ‘’nhưng’’ này là điều người ta muốn dấu kín) nhưng sau đó, một số thư từ, kiến nghị, bài báo gửi đến UNESCO phản đối mạnh mẽ quyết định này, suốt cả năm 1988, 1989 và đầu năm 1990, nêu bật sự kiện thuyền nhân và trại cải tạo, của chính những người trong cuộc với phim ảnh kèm theo, nêu rơ bản chất chế độ đàn áp tàn bạo do ông Hồ chí Minh lập nên, một chế độ phi nhân - phản văn hoá. UNESCO c̣n tiếp hàng chục đoàn đại biểu từ Pháp, Mỹ, Anh, Úc chống đối việc UNESCO dính vào một việc không được dư luận tán đồng. Đại biểu Hội cựu chiến binh Pháp do tướng Simon là chủ tịch trực tiếp đến trụ sở UNESCO tŕnh bày rơ gần 9 ngàn tù binh Pháp bị bắt sống ở Điện Biên Phủ chỉ có hơn 5 ngàn trở về là do sự đối xử vô nhân đạo của chính phủ Hồ Chí Minh...Thế là ông chủ tịch UNESCO quyết định lờ đi, thôi, UNESCO không tham gia việc kỷ niệm nữa để bảo toàn uy tín của tổ chức quốc tế này. C̣n chính phủ Việt nam làm ǵ th́ tuỳ họ. V́ chưa đến cuộc họp sau (cách 4 năm mới họp Đại hội đồng) nên vấn đề thay đổi này không kịp đưa ra trước Đại hội đồng UNESCO.
Gần đến ngày kỷ niệm 19-5-1990, 2 sự kiện dồn đến. Bức tường Berlin đổ sập tháng 11/1989; một loạt chế độ cộng sản Đông Âu tan biến, Hànội mất một loạt đồng minh; Tổng giám đốc UNESCO Amadou M’Bow người châu Phi (Sênêgal) bê bối về tài chính bị thay thế bởi ông Frederico Mayor người Tây ban nha; ông này ra hẳn chủ trương: UNESCO không tổ chức cũng không tham dự một h́nh thức nào kỷ niệm ông Hồ; ông cũng nói rơ: không có khoản tiền nào của UNESCO để chi cho việc này nữa.
Đến ngày kỷ niệm, Sứ quán Việt nam ở Paris vất vả chạy vạy thuê một pḥng nhỏ ở trụ sở UNESCO để vớt vát thể diện. Ban quản trị trụ sở UNESCO giao hẹn không được treo ảnh và apphích ngoài hành lang, giấy mời chỉ được ghi là dự một tối văn nghệ. Giấy mời của sứ quán in h́nh Hồ Chí Minh và nền UNESCO bị Văn pḥng UNESCO phản đối là ‘’không được phép, không nghiêm chỉnh ‘’(incorrect) phải hủy, và in vội giấy mời khác. Một đoàn múa rối nước từ Hànội sang biểu diễn; cuộc kỷ niệm dự định vài trăm, nhưng chỉ có dưới một trăm người Việt của sứ quán và Hội Việt kiều ’’yêu nước‘’ cùng mươi người của đảng CS Pháp; làm tại trụ sở UNESCO, nhưng không có một quan chức, một nhân viên nào của UNESCO đến dự. Bà giữ thư viện và tư liệu UNESCO trả lời tôi : ‘’Có văn bản lưu trữ về nghị quyết, nhưng không có văn bản lưu trữ nào nói về sự thực hiện, v́ UNESCO đă bất động,không làm ǵ cả, trên thực tế là coi như không có nghị quyết, do hoàn cảnh đặc biệt xảy ra sau đó ‘’.
Đầu đuôi câu chuyện là thế. Chuyện có có không không, có mà thành không là như thế. Cái gọi là ‘’Bác Hồ chúng ta được UNESCO của Liên Hợp Quốc ra nghị quyết tuyên dương, công nhận là anh hùng dân tộc và danh nhân văn hoá thế giới, và UNESCO tổ chức long trọng lễ kỷ niệm‘’ hoá ra là thế, đầu và đuôi là như thế. Cần rơ ràng, minh bạch, tỏ tường như thế.
Về tiểu sử Hồ Chí Minh: đây là vấn đề có nhiều điều mờ ảo, trái ngược và gây tranh căi. Ngày và năm sinh; động cơ khi xuất dương; nhiều bài báo kư tên Nguyễn Ái Quốc là của chung các ông Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Phan Chu Trinh nữa hay là của riêng ông Hồ; có những năm dài trong tiểu sử tự kể không biết ông làm ǵ, ở đâu; ông là người có tư tưởng quốc gia hay cộng sản; ông thông minh hay xảo trá; hiền từ hay độc ác; khiêm tốn hay cao ngạo; có tư tưởng riêng hay không; sống đạm bạc khổ hạnh hay ngược lại; đạo đức cao siêu hay đạo đức giả… Xin mời các nhà sử học trẻ nước ta vào cuộc để giải mă những câu hỏi gai góc và lư thú trên đây, với thái độ khách quan khoa học.
Có thể tham khảo rất nhiều sách và tài liệu. Trong nước, có ‘’Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch ‘’ của Trần Dân Tiên, ‘’Vừa đi đường vừa kể chuyện ‘’ của T.Lan, đều do ông Hồ viết; gần đây là những bài viết sâu sắc của nhà nghiên cứu Lữ Phương hiện ở Sàig̣n: - Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh, và: - Huyền thoại Hồ Chí Minh. Ở ngoài nước có cuốn ‘’Ho Chi Minh ‘’ của nhà sử học Pháp Pierre Brocheux, những bài nghiên cứu của bà nhà báo Mỹ Sophia Quinn Judge, lư thú nhất là bài ‘’Những năm thiếu vắng của Hồ Chí Minh ‘’ (The missing years of Ho); đồ sộ nhất là cuốn ‘’ Hồ Chí Minh, một cuộc đời ‘’ (Ho Chi Minh, a life) của William J. Duiker, giáo sư sử học Mỹ, dày 690 trang. Bộ thông tin Hà nội định dịch cuốn này để in nhưng lại muốn kiểm duyệt khá nhiều đoạn, bị tác giả phản đối: hoặc là in nguyên bản, hoặc là thôi!
Về câu châm ngôn:’’ Không có ǵ quư hơn độc lập tự do ‘’. Các cuốn tiểu sử trên đây đều có nhắc đến câu nói trứ danh này của ông Hồ. Câu này được khắc bằng vàng trên tường đá vân ngay pḥng lớn của Lăng Hồ Chí Minh. Nhưng các nhà sử học phương Tây đều chú ư đến cách giải thích khá là ‘’lương thiện’’ của Viện Mác- Lênin kiêm Viện nghiên cứu tư tưởng Hồ chí Minh rồi trở thành Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh hiện tại. Họ giải thích rằng ‘’tự do’’ đây đi tiếp với ‘’độc lập’’, là chỉ tự do chung của dân tộc, của đất nước, không hề có cái nghĩa tự do của cá nhân theo kiểu tư sản đâu, đừng tưởng bở nhé! Quả là vậy. Câu này ông Hồ nói trong thời chiến tranh, chỉ để nói độc lập và tự do của tập thể.
Xin đọc kỹ Hồ Chí Minh toàn tập; ông Hồ tỏ ra phẫn nộ khi người dân thuộc địa ở Sénégal, người da đen ở Mỹ, người Annamít ta bị đánh đập, treo cổ, kéo xe, làm phu phen, phục vụ ông Tây bà đầm, bị chửi bới, roi vọt, với thân phận người dân thuộc địa, nô lệ mất tự do. Không thấy một chỗ nào ông bênh vực người dân dưới chính thể của ông bị đàn áp, áp bức, ngược đăi. Thậm chí ông tỏ ra dửng dưng, không chút động ḷng khi ông Vũ Đ́nh Huỳnh người thư kư riêng thân cận với ông hơn 20 năm trời bị vu cáo và ngồi tù không xét xử; rồi một loạt uỷ viên trung ương từng bị tù đày thời Pháp thuộc bị nhóm Lê Duẩn, Lê Đức Thọ hăm hại, như các ông Ung Văn Khiêm, Bùi Công Trừng, Lê Liêm, Nguyễn Vịnh…Ông hoàn toàn làm ngơ khi ông Nguyễn Mạnh Tường, ông Trần Đức Thảo, 2 trí thức xuất sắc nhất bị đày đoạ; ông cũng tảng lờ khi biết rơ bà Nguyễn Thị Năm là người yêu nước từng cưu mang nhiều chiến sỹ cộng sản, bị tuyên án xử bắn… Nhiều nhà sử học quốc tế cho rằng ông đă thần phục Staline đến độ tuyệt đối v́ khi tuổi đến độ chín - từ 35 đến 50 tuổi, ông sống ở Moscow nên đă nhiễm sâu cung cách cầm quyền sắt máu của Staline, coi đó là mẫu mực của chính quyền vô sản. Mọi người được học qua trường đảng cao cấp Moscow đều được học về chỉ thị có tên ‘’ Về cuộc khủng bố đỏ ‘’ mang lời dạy của Lênin: ‘’ Nếu chúng ta ngần ngừ trong việc xử bắn một tên bạch vệ, một tên phá hoại th́ cuộc đại cách mạng của chúng ta c̣n có ư nghĩa ǵ? ‘’. Ông Hồ luôn tỏ ra là con người Lêninít và Stalinít trung kiên; quyền tự do của công dân, xây dựng xă hội dân sự có luật pháp và t́nh thương là ở ngoài quan niệm chính trị của ông.
Có nhà nghiên cứu nói đến trái tim thép lạnh tanh của ông khi bà vợ cũ có hôn thú Tăng Tuyết Minh ḍ hỏi về ông suốt từ 1945 đến 1964, ông vẫn làm ngơ, cho đến khi đảng CS Trung quốc khuyên bà nên quên chuyện này đi, và bà vẫn ở vậy cho đến chết vào tháng 11 năm 1991, thọ 86 tuổi. Cũng có người nói thái độ không b́nh thường của ông đối với người anh cả Nguyễn Tất Khiêm và với bà Thanh chị ruột ông, cũng như với làng quê Kim Liên, khi ông về Hànội từ năm 1945 mà đến tận năm 1957 mới về thăm quê lần đầu!
Đến bao giờ chúng ta mới có một tiểu sử chân thật về Hồ Chí Minh? Có nhà sử học trẻ nào dám lao vào việc khó khăn nhưng hấp dẫn và lư thú này.
Xin giới thiệu với cá bạn trẻ trong và ngoài nước một bản tiểu sử ông Hồ rất đặc sắc, chỉ có 2 trang, một ngh́n chữ, in lén theo kiểu ‘’luồn và lách‘’ trên báo Văn nghệ ở Hànội rồi bị thu hồi ngay, do nhà văn trẻ Trần Duy Quang nghiền ngẫm trong gần mười năm để phóng ra với dũng khí và tâm huyết của ḿnh, có tít là ‘’Linh nghiệm‘’, xin mời bạn đọc thưởng thức ở phần phụ lục cuốn sách nhỏ này.
Di chúc của ông Hồ Chí Minh: Ông Hồ mất ngày 2-9-1969, nhưng v́ đó là ngày Quốc khánh nên được công bố ngày ông mất là 3-9, để sau này khi bị lộ, dư luận không chịu sự gỉả dối, lại phải sửa lại cho đúng là ngày 2-9. Nhưng điều quan trọng hơn là khi công bố, bản di chúc đă bị thiến mất một số đoạn, trong đó có 3 đoạn chính. Phải đến 20 năm sau,tháng 5-1989,: ông Vũ Kỳ đăng bài hồi kư ‘’ Bác Hồ viết di chúc như thế nào‘’ trên báo Nhân dân chủ nhật, ám chỉ đến những đoạn bị cắt, công luận tỏ ra phẫn nộ, buộc Bộ chính trị phải đưa ra trước Quốc hội nguyên văn tập di chúc rồi in ra tập di chúc đầy đủ. Đoạn bị cắt đầu tiên là:’’Theo ư tôi việc phải làm trước tiên (sau ngày thắng lợi hoàn toàn) là chỉnh đốn lại đảng…’’(có gạch bút đỏ ở dưới); đoạn thứ 2 bị cắt là:’’tôi đề nghị miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xă nông nghiệp để cho đồng bào hể hả, mát dạ mát ḷng thêm niềm fấn khởi, đẩy mạnh sản xuất ‘’; đoạn thứ ba bị cắt là:’’ Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là hỏa táng, v́ như thế đối với người sống đă tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất.’’ Quốc hội họp tháng 12-1989 ra nghị quyết miễn thuế 50 % cho nông dân trong 2 năm 1990 và 1991. Di chúc ông Hồ được công bố toàn bộ, chụp lại nguyên bản viết tay và đánh máy. Ông Vũ Kỳ gặp tôi, cụng ly một vại bia Hànội ăn mừng bà con nông dân ta cực nhọc nay đỡ khổ được đôi chút, dù cho 2 chúng tôi bị Ban bí thư trung ương xát xà pḥng một trận v́ ‘’vô kỷ luật, làm chuyện tày đ́nh mà không xin phép ai cả ‘’.
Về Lăng Hồ Chí Minh: Mặc dù ông Hồ có ư muốn được hoả thiêu, lăng ông vẫn cứ được xây, uy nghi, đồ sộ, phần trên mái có người nói vui là giống chiếc mũ dạ cô-dắc Nga. Gỗ quư nhất, đá vân đủ màu từ khắp nơi được chọn kỹ đưa về Hànội. Nhiệt độ trong lăng quanh năm giữ ở khoảng 16 đến 18 °, với 2 máy điện dự trữ. Cả một Bộ tư lệnh lăng do 2 ông tướng chỉ huy, bằng 2 tiểu đoàn, canh gác, pḥng thủ nghiêm mật, tuyển theo lư lịch 3 đời trong trắng, chọn kỹ cả về h́nh thể: khoẻ, gọn, cao, khôi ngô, bắn súng, vơ thuật đều loại ưu; 2 tiêu binh như tượng đất nung, dù nắng chói, mưa dầm, gió mạnh, gác cửa vào. Một đội ngũ kỹ thuật đào tạo từ Liên xô, với những chuyên gia và chuyên viên thượng thặng, gần một trăm người chia thành nhiều kíp lo việc bảo quản ‘’từng tế bào của lănh tụ ‘’; có người tán thêm: mỗi sợi tóc, mỗi sợi râu, mỗi móng tay, móng chân của ‘’ông Cụ ‘’ đều có một lư lịch.
Thi hài ông Hồ là đề tài cấm kỵ nhưng vẫn được bàn đến từ cơ quan làm việc, gia đ́nh đến vỉa hè. Bác sỹ của ông Mao kể rằng hồi 1976 khi Mao hấp hối, một đoàn Trung quốc sang Hànội học cách bảo quản thi hài, th́ được biết tai trái của ông Hồ đă rụng ra, phải dán lại; không có cách nào cưỡng lại quy luật sinh - tồn - diệt của tạo hoá. Ngay từ năm 1974 tôi đă nghe mấy cụ lăo nông ở làng Kim Liên quê ông Hồ tỏ ra rất không hài ḷng khi biết rằng bộ năo và bộ nội tạng gồm tim và ruột gan của lănh tụ đă bị lấy ra và chôn ở một nơi nào đó; các cụ cho rằng điều này là tối kỵ, là xúc phạm thi hài không thể chấp nhận v́ ‘’cụ Hồ không c̣n toàn thân’’, có cụ nói không ‘’toàn thây’’, ngược lại với đạo lư và tập quán dân tộc. Như vậy gọi là thi hài nhưng thật ra chỉ là cái vỏ bọc cơ thể, h́nh hài ngoại vi, không c̣n ǵ là ‘’cụ Hồ thật ‘’. Vẫn c̣n mù mờ về bộ xương ông Hồ c̣n nguyên hay cũng đă rút ra rồi.
Lăng ông Hồ cũng thành sự kiện ngoại giao nhiều khi khó xử, phức tạp. Khách nhà nước thường có mục viếng Lăng Chủ tịch Hồ chí Minh. Thế nhưng có tổng thống, thủ tướng, bà hoàng này, ông vua nọ, đoàn đại biểu cấp cao kia xin miễn, lờ đi, cám ơn … rồi thôi. Tổng thống Pháp và bà Mitterrand được phía Việt nam nhiều lần gợi ư, một mực ‘’cám ơn’’, dù lên Điện Biên Phủ ông vẫn viếng đài liệt sỹ ‘’Việt minh’’. Tổng thống Chirac và Tổng thống Clinton đều chỉ yên lặng liếc nh́n lăng ông Hồ khi qua gần đó; họ nghĩ ǵ về ông Hồ, về lăng, thật khó đoán.
Tương lai của lăng ông Hồ? cũng khó đoán. Mỗi người một ư.
Nhiều người cho rằng: nó sẽ vĩnh cửu, v́ thực sự ông là lănh tụ vĩ đại, tiêu biểu cho cuộc đấu tranh của dân tộc, chống thực dân Pháp, phát xít Nhật, đế quốc kiểu mới Mỹ, giành trọn vẹn độc lập, tự do cho đất nước. Ông tiêu biểu cho niềm tự hào dân tộc. Dân tộc nào cũng ước mong có một lănh tụ tuyệt vời đến vậy. Ta có rồi, sao lại dại dột dèm pha, hạ thấp xuống, có phải là việc làm thiếu suy nghĩ không. Sao lại không tô vẽ thêm cho cao đẹp thiêng liêng hơn lên. Bới móc làm ǵ những chuyện xưa cũ về sinh hoạt, vạch áo làm ǵ cho người xem lưng, làm thế là thiếu thiện tâm, là thấp kém, thiếu khôn ngoan.
Ngược lại, có ư kiến là mọi việc phải ṣng phẳng, minh bạch, theo giá trị thật, tốt xấu rơ ràng, công tội phân minh; phải làm vậy mới mở đường cho dân tộc tiến lên những tầm cao mới, giải thoát đất nước khỏi sức ỳ tệ hại do lầm lẫn những giá trị, đường sáng không đi, đâm quàng vào bụi rậm, mất bao nhiêu công sức thời gian sinh mệnh, để đến nông nỗi lạc hậu, nghèo khổ, chia rẽ, thua kém xa các nước láng giềng, lạc lơng giữa thế giới văn minh ngày nay! Vậy rồi mà không tỉnh, sao mà ‘’ngu‘’ lâu thế!
Có nhiều bạn trẻ học ở Liên xô và Đông Âu về cho rằng Staline oai phong là vậy, thế mà cũng bị đưa ra khỏi lăng ở Hồng trường; nay việc đưa thi hài ông Lê-nin ra khỏi lăng đă được đặt ra, chỉ c̣n là thời gian thực hiện, khi bước vào thời kỳ ‘’hậu Pu-tin ‘’ nay mai thôi. Nay thi hài Lê-nin là đối tượng ṭ ṃ của khách du lịch hơn là di thể vị lănh tụ kính yêu để chiêm ngưỡng. Ở Bungari ông Đimitrov (Dimitrov Georgi Mikhailovich, 1882 – 1949) được sùng bái c̣n hơn ông Hồ, từng cầm đầu Quốc tế Cộng Sản III, lănh tụ cấp thế giới, cũng bị đưa ra khỏi lăng; lăng đồ sộ Đimitrov bị đập nát, nhường chỗ cho vườn trẻ đầy hoa, nụ cười và tiếng hát, tràn nhựa sống, có ích cho đời hơn. Báo ‘’Tuổi trẻ ‘’ ở thủ đô Sofia số ra năm 2.000 điểm lại các nhân vật thế kỷ 20 và trưng cầu ư kiến bạn đọc, th́ chỉ có 13% tỏ ra luyến tiếc cái lăng Đimitrov, 76% tán thành việc phá bỏ, 11% không có ư kiến. Bungari sau đó có đa nguyên đa đảng, dân có tự do, đổi đời.
Có ư kiến cho rằng chính ông Hồ đă đề ra việc xây lăng cho ông, c̣n duyệt bản vẽ lăng trước khi ông mất; tôi cho là không có điều ấy, từ trong nước chưa có một dư luận, một tiết lộ, một bằng chứng nào nói vậy. Đây chỉ là một phỏng đoán, giả thuyết. Theo tôi, đối với người dù ta không ưa, vẫn phải công bằng thận trọng khi phán xét. Hồi xưa tôi cả tin, cho rằng ông Ngô Đ́nh Diệm thường ăn nằm, thông dâm với cô em dâu Lệ Xuân, rằng ông Ngô Đ́nh Nhu suốt ngày nằm ngậm tẩu thuốc phiện, ông Ngô Đ́nh Cẩn chuyên ăn gan người bị ông giết…như bộ máy tuyên truyền Hànội phổ biến, theo quan niệm vu oan cho kẻ thù là điều tự nhiên, có lợi cho cách mạng, nên làm. Về sau, tôi xác minh đó toàn là chuyện dựng đứng, vu cáo. Tôi nghĩ mong muốn ‘’hoả thiêu’’ là thành thật của ông Hồ.
Chiến sỹ dân chủ Trần Khuê yêu cầu thực hiện đúng yêu cầu của ông Hồ trong di chúc, là hoả thiêu ông với nghi thức đàng hoàng. V́ theo tập quán Á đông không ǵ thiêng liêng hơn là nguyện vọng cuối cùng của người sắp từ giă cuộc đời. Huống ǵ mong muốn ấy lại cao đẹp, trong sáng, lại ‘’hợp vệ sinh’’, như chính ông Hồ viết trong di chúc.
Trong số người mong muốn ‘’hỏa thiêu‘’ thi hài ông Hồ cũng có không ít người duy tâm, nặng về mê tín dị đoan, cho rằng đất nước ta chưa yên ổn, quá nhiều bất an tệ nạn - từ tham nhũng đến nghiện hút, siđa, buôn bán phụ nữ trẻ em… chỉ v́ thi hài cực thiêng của ‘’ cụ Hồ ‘’ bị chia sẻ, toàn thân cụ chưa được nhập vào đất mẹ, vong linh cụ nay đây mai đó, không yên vị, không mồ yên mả đẹp nên đất nước bị ‘’động’’ trên quy mô lớn, phong tục lễ nghi tuỳ tiện, kỳ cục, bị ‘’sái ‘’ về thiên ư nhân tâm (ư trời và ḷng người), không chỉnh sửa th́ c̣n là ‘’động ‘’măi không yên.
- ‘’Cháu xin thưa với Bác…’’. Trong nước, không ít người quở mắng tôi là lếu láo với lănh tụ tôi từng kính mến, rằng nhân vật vĩ đại này là bất khả xâm phạm, không ai được động đến! Nếu họ muốn, tôi kính cẩn thưa với Bác rằng:” Thưa Bác! Cháu luôn nhớ, Bác từng 2 lần họa thơ với bố cháu; bố cháu mất, Bác đến gặp an ủi từng người trong gia đ́nh. Cháu tin rằng Bác không bao giờ cố ư định tàn phá đất nước như không ít người nghĩ sai về Bác. Nhưng quả thật Bác đă nhầm lẫn. Bác đă nhầm lớn về học thuyết Mác. Bác đă nhầm khi cố công dịch lịch sử đảng cộng sản Liên xô do Stalin viết khi Bác ngồi bên bờ suối cạnh hang Pác Bó. Cháu tin rằng nếu Bác c̣n sống Bác sẽ tỉnh ra khi Liên xô vĩ đại là thế đối với Bác đă chuyển sang nền dân chủ đa nguyên đa đảng, để hoà nhập với thế giới tiến bộ. Cháu cũng tin rằng Bác rất không hài ḷng và rất khổ tâm khi thi hài Bác không c̣n nguyên vẹn, chỉ c̣n cái vỏ, chưa được nhập hẳn vào ḷng đất, mà lại lăng phí một cách kinh khủng đến vậy – tiền chi phí cho lăng Bác hàng năm có thể dùng để xây dựng hàng trăm trường học và bệnh viện, trong khi sinh thời cháu được biết Bác từng lộn phong b́ cũ để dùng lại, làm gương tiết kiệm cho toàn dân… Bác linh thiêng, xin phù hộ để cho những người lănh đạo hiện nay mau tỉnh ngộ, sớm nhận rơ sai lầm, đi vào con đường dân chủ chân chính! ‘’
5-/ Vài nhân vật chính trị ở Việtnam:
Sau khi ông Hồ Chí Minh mất, một số nhân vật kế thừa ông trong bộ máy của đảng và nhà nước để cai trị đất nước. Dưới đây là sự đánh giá tổng quát của dư luận thường dân, chỉ để tham khảo. Đáng chú ư nhất có các nhân vật sau đây:
- Lê Duẩn: xuất thân từ thư kư ga đường sắt, bị tù đày ở Côn đảo, là tổng bí thư đảng Lao động từ đại hội III năm 1960 đến khi khi chết cuối năm 1986. Tự kiêu, tự cho là tài giỏi hơn ông Hồ (từng nói:’’ tôi hơn bác Hồ, bác Hồ mở mồm là nói nhân nghĩa lễ trí tín là tư tưởng phong kiến, bác Hồ nghe Mao bảo ǵ là vâng dạ; tôi dám căi lại Mao, tôi nói nhân dân làm chủ tập thể là tư tưởng công nhân ‘’). Càng tự kiêu sau toàn thắng 1975, ‘’ ta thắng siêu cường số 1 thế giới là điều khó nhất trần đời nên việc ǵ cũng làm đươc ‘’, do đó chủ trương rất ẩu: đánh vào Cambốt để rồi ở lại 10 năm với tổn thất lớn (lẽ ra sau khi đánh quỵ Khơme đỏ nên giao lại cho ASEAN và Liên Hợp Quốc giải quyết tiếp), cải tạo tư sản, hợp tác hoá, bỏ tù sỹ quan viên chức cũ …không cần ư kiến của trung ương đảng, Quốc hội. Áp đặt xây dựng hợp tác xă cấp cao, tuỳ tiện chia cắt các tỉnh huyện. Tự ư cắt di chúc ông Hồ Chí Minh. Bệnh chủ quan, duy ư chí, vĩ cuồng.
-Lê Đức Thọ: chuyên trách về tổ chức của đảng. Nhấn mạnh tiêu chuẩn ‘’vừa hồng vừa chuyên ‘’, chủ nghĩa lư lịch, đường lối giai cấp ‘’coi trọng bần cố nông’’. Cùng Lê Duẩn tạo nên vụ án ‘’xét lại-chống đảng, làm gián điệp cho nước ng̣ai ‘’,khủng bố trí thức và sỹ quan trung thực không cần xét xử, ám hại, đầy đoạ nhiều cán bộ cao cấp. Cao ngạo, không nhận giải Nobel cùng Kítxinhgiơ. Cùng Lê Duẩn đặt ông Hồ ra khỏi quyền lực từ 1966; vu cáo để vô hiệu hoá và hăm hại tướng Vơ Nguyên Giáp. Cuối đời c̣n háo danh yêu cầu Lê Duẩn đang hấp hối chuyển chức tổng bí thư cho ḿnh, bị Lê Duẩn khinh bỉ đuổi ra cửa (xem hồi kư của Đoàn Duy Thành:’’ xem ra LĐT rất mót chức tổng bí thư ‘’; ’’tôi (LD) vừa đuổi cổ nó ra‘’).
-Trường Chinh: giáo điều theo Trung Quốc; chịu trách nhiệm chính sai lầm trong cải cách ruộng đất với hậu quả nặng nề kéo dài. Bảo thủ nặng, bác bỏ đề nghị về khoán sản phẩm của ông Kim Ngọc bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phú.
-Phạm Văn Đồng: mũ ni che tai; nhu nhược; suốt 40 năm làm thủ tướng (từ 1948 đến 1987) không làm nên việc ǵ đáng kể. Khi thư kư của ông là Việt Phương bị nạn chỉ v́ mấy câu thơ, ông không mảy may quan tâm can thiệp. Ở hội nghị Giơnevơ 54, chiều theo ư cắt ngang đất nước của Chu Ân Lai và Molotov.
-Vơ Nguyên Giáp: Tài năng rơ nhất là về thay phương châm tác chiến ở Điện Biên Phủ trưa 25-1-1954 từ ‘’ đánh nhanh giải quyết nhanh‘’ sang ‘’đánh chắc tiến chắc ‘’. Trong cuộc chiến từ 1960 đến 1975, không có chủ trương quận sự ǵ nổi bật. Không hề vào chiến trường miền Nam. Gần đây đấu tranh quyết liệt đ̣i xét xử công khai ‘’ vụ án siêu nghiêm trọng Tổng cục 2 và T4 ‘’, nhưng do động cơ minh oan cho cá nhân hơn là đ̣i công bằng cho xă hội, cho biết bao đồng đội bị hăm hại và oan uổng. Thiếu công tâm, muốn thâu tóm công lao vào cho ḿnh nhiều hơn thực tế, không dám thừa nhận là về chỉ đạo chiến tranh tướng Nguyễn Chí Thanh công lao sắc sảo hơn bản thân ông nhiều, cũng như về tài chỉ huy tại chiến trường tướng Trần Văn Trà cũng vượt ông rất rơ.
- Đỗ Mười: ít học, tham vọng lại quá lớn. Gần nhà ông, cổng câu lạc bộ lao động ai đó viết 2 câu: - Giỏi a, đồng chí Đỗ Mười! Lớp 3 chưa đỗ đă ngồi Bí thư. Từng qua các chức cao nhất: thủ tướng, tổng bí thư. Nổi tiếng là ông ‘’trùm cải tạo‘’, quét tư sản từ Hànội, Hải pḥng đến Sài g̣n. Được ông Phạm Văn Đồng nhận xét: ‘’Chỉ có phá! ‘’. Phó thủ tướng Đoàn Duy Thành cho ông ĐM là kẻ lươn lẹo, thâm hiểm, lá mặt lá trái, tàn nhẫn với đồng chí. Là chỗ dựa chính cho tướng Lê Đức Anh dựng lên tổng cục 2 làm công cụ lũng đoạn và khủng bố nội bộ bộ máy đảng và nhà nước. Từng nói về Lê Khả Phiêu: ‘’nó đá tôi, nay tôi đá nó ‘’. Uy tín sa sút lớn, với tai tiếng ‘’triệu phú đỏ ‘’.
- Lê Đức Anh: được Lê Duẩn và Lê Đức Thọ trọng dụng để hạ thấp tướng Giáp; tư lệnh quân ‘’t́nh nguyện‘’ vào chiếm đóng Cambốt từ 1979 đến 1988. Lư lịch gian trá, tự chui vào đảng CS. Cai đồn điền cao su của thực dân Pháp trước 1945. Khi là bộ trưởng quốc pḥng và chủ tịch nước, dựng lên tổng cục t́nh báo (TC2) làm công cụ lũng đoạn chính trị và khủng bố nội bộ đảng và nhà nước, bôi nhọ và vu cáo tướng Giáp, đưa tin CIA đă mua chuộc gần 30 quan chức có địa vị cao nhất (qua nhân vật ‘’ảo‘’ T4 của TC2). Bị hàng loạt tướng tá và cựu chiến binh lên án, vạch mặt. Uy tín sa sút lớn. C̣n dựa vào sự nhu nhược của bộ chính trị.
- Những nhân vật đáng quư ‘’Yêu nước là yêu dân chủ ‘’: tỏ thái độ rơ ràng về yêu cầu cải tổ chính trị, dân chủ hoá xă hội, xây dựng xă hội pháp quyền, minh bạch hoá và trong sạch hoá bộ máy cầm quyền: Trần văn Hà, Phan Đ́nh Diệu trong Mặt Trận Tổ quốc, Lê Đăng Doanh, Nguyễn Thiện Tâm, Trần Lực, Nguyễn Minh Tâm, Nguyễn Mạnh Sơn, Đặng Văn Việt, Ngô Yên, Nguyễn Thụ, Trần Duy Nghĩ, Dương Trung Quốc, Phạm Khiêm Ích … trong giới trí thức, các tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Nguyễn Nam Khánh, Phạm Hồng Sơn(Nguyễn Thành Chính), Phùng Thế Tài, Lê Tự Đồng, Đoàn Y Thành…, các cựu chiến binh Vũ Cao Quận, Trần Bá, Trần Đại Sơn, Trần Dũng Tiến…, các đảng viên kỳ cựu như Cao Hồng Lănh, Hoàng Tùng, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Tài, Trần Quốc Thuận…, các nhà văn, nhà phê b́nh văn học như Nguyên Ngọc, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Duy, Dương Tường, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Huệ Chi, các luật sư dân chủ yêu cầu lập nhóm luật sư ‘’V́ công lư ‘’ như Trần văn Đài, Phan Thị Hương Thủy…, các nhà báo Kim Hạnh, Trần Đ́nh Bá, Thái Duy, Lê Hoàn, Huỳnh Văn Đồng, Lan Anh, Phạm Lưu Vũ… Họ đang ngày thêm đông. Yêu cầu lớn nhất của họ là dân chủ hoá thứ thật, giao hẳn quyền lực cho những người dân đen không nắm quyền lực (power to powerless), tạo nên một nền chính trị trẻ trung, năng động, hấp dẫn v́ sôi nổi, có cạnh tranh, ganh đua và luôn chuyển động theo ư dân.
6 -/Về công cuộc ‘’ Đổi mới ‘’ ở nước ta.
a -) Bắt đầu của « đổi mới »: Đổi mới ở nước ta bắt đầu từ năm 1986, với Đại hội VI của đảng Cộng sản. T́nh h́nh 10 năm sau ‘’toàn thắng và thống nhất ‘’, từ 1975 – 1985 là vô cùng bi đát về mọi mặt; đói kém, xác xơ, lạm phát 400 đến 600% mỗi năm; do sự kiêu ngạo sau chiến thắng của các vị lănh đạo tự cho phép tha hồ bốc đồng. Ông Lê Duẩn cao hứng về Nam hà hứa hẹn chỉ 5 hay 7 năm nữa dân ta mỗi nhà có tủ lạnh, vô tuyến. Họ kéo quân vào Cam-bốt, xua đuổi người Hoa, đánh trả quân Tàu, đổi tiền, quét tư sản, ngăn sông cấm chợ, đốt sách cũ, thách thức thế giới cấm vận.
Bế tắc, dân ta tự xé rào, phá lỏng hợp tác xă, thế là họ phải lùi, chịu khoán sản phẩm, nới lỏng thông thương. Đường lối Perestroika (đổi mới) và Glasnost (minh bạch) của nhà lănh đạo Goorbachov ở Liên xô thôi thúc thêm, để nhà bảo thủ Trường Chinh thốt lên: đổi mới hay là chết.
Khác hẳn với Liên xô và Trung quốc, đổi mới sớm từ những năm 1974 và 1978, có nhà tư tưởng đổi mới là Goorbachev và Đặng Tiểu B́nh cầm cương, có lư luận, học thuyết hẳn hoi, đặc điểm đổi mới của Việt nam là không chủ động, không có người đề xướng, không có lư luận và bài bản, lấy đôi chút của Liên xô, lấy nhiều hơn của Trung quốc, chắp vá, dè dặt, vừa làm vừa sợ, đến đâu hay đến đấy, cho đến nay. Báo chí quốc tế đến Hànội hỏi: ai là kiến trúc sư của đổi mới, ai là nhà lư luận của đổi mới, ai là nhân vật có thể coi là người phát ngôn, người giải thích có quyền uy về đổi mới? không biết, không có, không cần! cho đến nay không có một bộ óc nào ở Hànội chuyên suy nghĩ về đổi mới cả. Nghĩ mà kinh!
b-) Thành tích và ư nghĩa của đổi mới: Qua 20 năm đổi mới, nền kinh tế đă có bước phát triển rơ rệt. Nông nghiệp phát triển mạnh nhất. Lương thực không c̣n khan hiếm, xuất khẩu mỗi năm đạt 4 đến 6 triệu tấn gạo. Cà-phê, hạt điều, tiêu, ca cao, rau quả, hoa tươi đều xuất ngày thêm nhiều. Hải sản, thuỷ sản cũng bán được hàng tỷ đô-la/năm. Hàng may mặc, dày dép, đồ gỗ, mây tre, đồ thủ công mỹ nghệ đều là hàng xuất khẩu có giá. Ngành du lịch đón khách nước ngoài cũng như du lịch nội địa phát triển khá. Công cuộc xây dựng đô thị, từ các cơ sở công cộng đến nhà ở tư nhân đều tiến mạnh. Sự nghiệp giao thông vận tải mở rộng, cầu cống, đường bộ đường sắt đều được nâng cấp, kéo dài. Giao lưu hàng hoá, nhất là buôn bán, dịch vụ tư nhân phát triển mạnh. Đời sống nhân dân, nhất là dân đô thị được nâng cao. Tiền lương cán bộ viên chức, bộ đội, công an được cải tiến và cải thiện rơ rệt.
Nếu so với cuộc sống khắc khổ trong chiến tranh, so với 2O năm trước, trước đổi mới, có thể nói đất nước đă có bước phát triển dài, một cuộc đổi đời theo nghĩa nào đó.
Nguyên nhân của những thành tích to lớn trên đây chính là sức lao động bền bỉ sáng tạo của nhân dân lao động ta ở mọi miền của đất nước, cộng với tài nguyên phong phú đa dạng của nước ta ở mọi miền: ruộng đồng, rừng núi, vùng trung du và biển cả.
Bài học lư thú có ư nghĩa sâu sắc nhất có thể rút ra từ những thành tích ấy là cứ khi nào, ở đâu nhà nước và đảng không can thiệp thô bạo, để cho nhân dân quyền tự do lao động và kinh doanh th́ ở đó, lúc đó kinh tế phát triển mạnh mẽ. Nếu như nông dân ta không bị ép buộc vào hợp tác từ năm 1960, nếu như quyền tự do kinh doanh (xin nhớ tự do cá nhân chứ không phải tự do tập thể) được tôn trọng ngay từ năm 1975 - khi có hoà b́nh và thống nhất, th́ ta đâu có kém xa Thái lan và Philippin đến thê thảm như hiện nay.
c -) Những vấn đề tồn tại của “đổi mới”
Do đổi mới ở Việt nam ta không có ’’nhà kiến trúc’’ (như Goorbachov ở Liên xô, Đặng Tiểu B́nh ở Trung quốc), thiếu viễn kiến, nặng về kinh tế, gần như bất động về chính trị, không đồng bộ nên có nhiều nhược điểm, nhiều mâu thuẫn; hậu quả là mặt này triệt tiêu kết quả mặt kia, bất công xă hội nặng nề hơn trước, người ngay thẳng g̣ lưng làm cho kẻ gian manh ăn hết, xă hội trở nên hỗn tạp, xuống cấp chưa từng có, ḷng dân không yên. Dưới đây là những vấn đề cấp bách nhất:
Vấn đề tốc độ phát triển. Hiện tốc độ phát triển là khoảng 7% mỗi năm. Sản phẩm quốc dân GDP theo đầu người của Việt nam năm 2004 là :
- gần 500 US$ (theo Tổng cục thống kê ở Hànội là 480 US$,, theo Ngân hàng thế giới WB là 440 US$); trong khi của Thái lan là 2.500 US$, của Nam Hàn là 16.000 US$, của Singapour là 25.000 US$, Trung quốc là gần 1.000 US$. Dù cho duy tŕ tốc độ 7 đến 8% th́ không thể nào rút ngắn khoảng cách với các nước trên v́ dù cho tốc độ của họ rất thấp th́ 3 hay 4% của họ vẫn lớn hơn ta rất nhiều. Do vậy muốn vươn lên thu hẹp dần khoảng cách với Thái lan chẳng hạn, ta nhất thiết phải đạt mức từ 10% trở lên. Đây là một khả năng hiện thực, những với những điều kiện là chống tham nhũng thật có hiệu quả, luật pháp đủ và nghiêm cho mọi người, thu hút đầu tư cao hơn nhiều, huy động vốn tư nhân trong nước dồi dào hơn, hoà nhập hẳn vào thế giới với luật chơi chung. Mấu chốt nhất là phải có dân chủ đa nguyên đa đảng trong trật tự và luật pháp.
Vốn lớn ở đâu? Hiện vốn ta thiếu nghiêm trọng để đạt tỷ lệ phát triển cao. Các nước phát triển hiện xuất vốn giúp ta mỗi năm gần 3tỷ US$, tính ra chưa đến 40 US$ đầu người. Để đạt ư định phát triển theo tỷ lệ trên 10%, xây dựng lại đàng hoàng hơn, to lớn hơn, đổi mới đồng bộ cơ sở hạ tầng, từ hệ thống phân phối điện thật hiện đại từ nguồn điện đến từng hộ, hệ thống cống rănh đô thị đến hệ thống tưới tiêu toả rộng, từ hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông, đường biển đến các bến xe, bến cảng, sân bay, từ mạng lưới giáo dục đến mạng lưới y tế, các cơ sở công nghiệp, nghiên cứu khoa học v.v..., chúng ta cần ít nhất từ 120 đến 140 tỷ US$ trong mười năm (chừng 1.500 US$/ mỗi người trong 10 năm, mỗi năm 150 US$). Chỉ có đa nguyên đa đảng, có dân chủ và nhân quyền là bài toán gay gắt này mới được giải quyết, v́ sẽ giải toả được ngay sự e ngại, dè dặt từ các nước phát triển cao : Hoa kỳ, Liên Âu, Úc, Nhật bản, Canada, Đông Nam Á, đồng thời hoà giải thật sự với cộng đồng sẽ mời gọi bà con ta vui vẻ mở rộng hầu bao và nô nức trở về tham gia xây dựng lại quê hương thực sự của ḿnh (hiện bà con ta ở ngoài nước vẫn chưa cảm nhận được đất nước đă thuộc hoàn toàn của chính ḿnh). Vấn đề vốn lớn sẽ không c̣n nan giải.
Giải quyết quốc nạn tham nhũng : Tệ tham nhũng hoành hành trên nước ta như một bầy quỷ dữ ma quái dai dẳng. Quốc nạn, nạn nội xâm, phải ra tay, thẳng tay, phải tuyên chiến với nó. Luật tham nhũng, sắc lệnh chống tham nhũng, uỷ ban quốc gia chống tham nhũng, phong trào quần chúng chống tham nhũng, tất cả đều vô hiệu, làm tṛ cười, như phủi bụi. Các vụ động trời : Épcô Tăng Minh Phụng, Tân trường Sanh, dầu khí, viễn thông, hàng không, xây dựng cơ bản, thương nghiệp, nhà đất...vụ sau lớn hơn, tinh vi hơn, liên quan rộng hơn; từ 1 triệu lên 10 triệu US$, từ hàng trăm tỷ lên hàng vài ngh́n tỷ đồng Việt nam; vụ Lă thị Kim Oanh (190 tỷ đồng) chưa dứt th́ vụ ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh vọt lên 2.500 tỷ. Chủ tịch thủ đô Hànội Hoàng Văn Nghiêm dùng công quỹ xài ô-tô loại đặc biệt sang Lexus giá 5 tỷ đồng (bằng 3.000 con trâu), c̣n cậy thế mua rẻ ngôi biệt thự 200 mét vuông chỉ phải trả có 53 triệu đồng VN (bằng 8 lạng vàng), trong khi giá trị thật là 4.000 lạng! Một vụ cướp trắng tài sản của nhân dân mà cả nước đều nhắm mắt cam chịu. Các báo chỉ nêu lên cho vui rồi lại câm như hến. Một mối nhục cho làng báo luôn bị khoá mồm, với hơn một ngh́n nhà báo h́nh như cũng có được học chút ít về cái nghề ‘’cao quư ‘’ này. Nếu ở bất kể nước dân chủ có tự do báo chí và pháp luật nghiêm nào, ông Nghiêm sẽ phải ra hầu toà và phải nhả ra hết những của cải xă hội đă cướp đoạt phi pháp, lại c̣n bị xử tội nữa.
Luận điệu ngụy biện của giới cầm quyền là: tham nhũng th́ thời nào không có, nước nào không có, có ǵ mà làm to chuyện. Ở các nước, tham nhũng lên đến trên 100 ngàn US$ đă là vụ nghiêm trọng. Ở Việt nam số vụ lên đến trên 100 ngàn US$ kể ra không hết, số lên hàng triệu US$, hàng chục triệu US$ đang xảy ra hàng loạt. Nước ta c̣n nghèo, nhiều vùng nông dân chỉ thu nhập có 300 US$ /năm, th́ tham nhũng càng là bọn sâu bọ tàn nhẫn, cần trừng trị và quét thẳng tay. Tham nhũng ở Việt nam vừa nhiều, vừa nặng, vào loại đặc biệt cao nhất của toàn thế giới.
Chỉ có tự do báo chí, có dân chủ đa nguyên đa đảng, có luật pháp nghiêm, chấm dứt độc quyền cai trị, độc quyền báo chí, độc quyền luật pháp của một phe đảng th́ mới trị được tận gốc nạn tham nhũng
Cần tiếp tục đổi mới như thế nào? Tốc độ phát triển ở nước ta đă chậm lại. Các dự trữ do tiềm năng tự nhiên cạn dần. Nguồn đầu tư quốc tế ODP cho vay nhẹ lăi và viện trợ để phát triển rất có hạn. Theo ư kiến các chuyên gia có tŕnh độ cao của Liên Hợp quốc, Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, cần sớm đổi mới thêm một bước về kinh tế và mạnh dạn về chính trị, theo hướng : coi trọng và mở rộng quyền tư hữu và quyền tư do kinh doanh của tư nhân được hiến pháp và luật pháp bảo đảm; thực hiện tự do báo chí, cho phép tư nhân ra báo, xuất bản; bắt đầu thực hiện đa nguyên đa đảng để có cạnh tranh, kiểm soát lẫn nhau; tách các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; từ bỏ khái niệm ‘’ thị trường tự do theo định hướng xă hội chủ nghĩa ‘’ v́ chưa xác định được nội dung, lại có hại v́ bị cho là sự can thiệp của nhà nước xă hội chủ nghĩa vào kinh tế; nếu thay vào đó là ‘’thị trường tự do theo định hướng dân chủ ‘’ th́ hay nhất! Nên từ bỏ hẳn cái khái niệm ‘’ kinh tế quốc doanh giữ vai tṛ chủ đạo trong nền kinh tế ‘’, v́ có thể bị hiểu là nhà nước chèn ép, khống chế kinh tế tư nhân, mâu thuẫn với khái niệm b́nh đẳng giữa các loại sở hữu trong cạnh tranh lành mạnh.
Thực hiện đổi mới như trên, ta sẽ đưa nước ta lên một tầm cao văn hoá mới, chấm dứt độc quyền nắm chính quyền (v́ độc quyền ở đâu, bao giờ cũng có hại), mở ra những tiềm năng mới của dân tộc, hoà nhập hoàn toàn với thế giới dân chủ tiến bộ, hoà giải trọn vẹn với hơn 2 triệu bà con ở hải ngoại, mở ra thời kỳ phát triển cao vững bền, cả nước sẽ được hưởng lộc dồi dào của đổi mới do chính toàn dân tạo nên.
IV-/ Cuộc vận động dân chủ hoá ở nước ta
Qua t́nh h́nh đất nước ta từ hơn 60 năm qua như tŕnh bày ở các phần trên, có thể nhận rơ t́nh h́nh về mọi mặt hiện nay và thấy việc dân chủ hoá đất nước là cần thiết và cấp bách ra sao. Xây dựng dân chủ đa nguyên đa đảng là giải pháp gốc của mọi giải pháp, là ch́a khóa để giải quyết nhiều bế tắc và khó khăn, là ngưỡng cửa bước vào một tŕnh độ văn hoá cao của xă hội, là sự hoà nhập trọn vẹn vào thế giới văn minh, bước đi quyết định dẫn đến hoà giải người Việt với nhau sau thời gian dài ly tán và chia rẽ.
Đây là nhiệm vụ lịch sử đầy khó khăn, gian khổ, một cuộc đấu tranh phức tạp trên nhiều mặt nhưng cũng là một trách nhiệm cao đẹp của những người Việt yêu nước thực ḷng, thương dân thật ḷng, những người Việt có lương tâm, có tâm huyết, có đạo đức, có trách nhiệm với dân ḿnh Tổ quốc ḿnh.
Đây là một sự nghiệp chung của tập thể những tấm ḷng yêu nước, rất xứng đáng để các bạn hạ quyết tâm, dấn thấn thực hiện, tự nguyện gánh vác. Đây là một sự nghiệp lịch sử tất thắng, nhất định toàn thắng trong tương lai không xa, v́ hợp với quyền lợi, nguyện vọng của đông đảo nhân dân ta, hợp với xu thế của thời đại, của khu vực và toàn thế giới, hợp với tương lai của các thế hệ Việt nam tiếp nối.
Dưới đây là những vấn đề nhận thức và thực tế cần trao đổi, đối thoại về công cuộc dân chủ hoá.
1 -/ Dân chủ là ǵ, từ đâu đến
Dân chủ nói nôm na là người dân làm chủ, người dân b́nh thường tham gia làm chủ của đất nước. Đối lập với dân chủ là độc đoán, độc tài, là quân chủ, là phát xít, trong đó mọi quyền hành tập trung trong tay một lănh chúa, một lănh tụ, một ông vua, một hoàng đế, hay một nhóm độc quyền, một nhóm độc đoán tập trung mọi quyền lực, ngoài sự kiểm soát của xă hội, của nhân dân.
Thật ra xă hội loài người đă nghĩ đến và thực hiện quyền dân chủ từ rất xa xưa, ngay sau cuộc sống của người nguyên thuỷ từ bày, đàn.
Hơn 3.000 năm trước, ở một số đô thị Hy lạp trên 10 ngh́n dân đă thực hiện dân chủ sơ khai, qua những cuộc họp bàn, hỏi ư kiến, xử lư công việc chung rất rộng răi, mỗi nam công dân tự do đều có quyền tham dự, phát biểu và biểu quyết, trừ phụ nữ và nô lệ.
Sau đó, ở nước Ư cổ đại, tại đô thị Roma đă có nền Cộng ḥa Rôma, cũng theo chế độ dân chủ trực tiếp như ở Hylạp, thị dân Rôma trực tiếp tham gia chính quyền dân chủ, trừ phụ nữ và người nô lệ. Về sau số dân tăng lên, không c̣n thực hiện được dân chủ trực tiếp, phải chuyển sang dân chủ gián tiếp, thông qua các người đại diện.
Hiện nay, dân chủ trực tiếp c̣n tồn tại ở Thuỵ Sỹ, một nước nhỏ,trung lập, dân thưa, có những cuộc họp công dân toàn thôn để bàn công việc của thôn hay của tổng (canton).
Về sau chế độ quân chủ được thực hiện khắp năm châu, được thực hiện cha truyền con nối trong ḍng họ, theo quan niệm tuân theo sứ mệnh của Thượng đế, của Trời - thế Thiên hành đạo, con của Trời – Thiên tử. Các ông vua có toàn quyền tuyết đối, muốn ai chết người ấy phải cúi đầu chịu chết. Nếu gặp ‘’Minh Quân’’ – vua sáng suốt, thương dân, có bản lĩnh cầm quyền mở mang đất nước th́ được nhờ; gặp ’’hôn quân, bạo chúa ‘’- vua ác, vua dốt, vua xấu th́ đành cắn răng mà chịu.
2-/ Bước phát triển của dân chủ :
Đầu thế kỷ 13, vua nước Anh lập ra Hội đồng quư tộc để giúp ư kiến cho Vua, một h́nh thức sơ khai của dân chủ. Hội đồng này gồm các nhà quư tộc có uy tín và tŕnh độ được lựa chọn và đề cử theo dư luận xă hội, được nhà vua chấp nhận. Các hội đồng này về sau, khi tiếng nói của nhân dân được lắng nghe và có giá trị, được chuyển thành Quốc hội (Parliament) tạo nên nền quân chủ lập hiến. Quốc hội cử ra thủ tướng và chính phủ, thu hẹp dần quyền lực của nhà Vua. Các nền quân chủ chuyên chế dần dần thuộc về dĩ văng.
Trong thế kỷ 19, h́nh thức quân chủ lập hiến lan rộng gần khắp châu Âu, cho đến thế kỷ 20, các chế độ quân chủ lập hiến đă trở thành các chế độ cộng ḥa về thực chất, trên căn bản các cuộc bàu cử dân chủ; nhà vua hay nữ hoàng và hoàng tộc chỉ c̣n có ư nghĩa tượng trưng, thường chỉ c̣n bóng dáng trên tem bưu điện, giấy bạc, đồng tiền và các lễ nghi theo tập quán. Họ không c̣n thực quyền.
Lănh thổ nước Mỹ vốn là thuộc địa của nước Anh, nhân dân đă nổi dậy tiến hành chiến tranh dành độc lập từ năm 1760. Giữa cuộc chiến tranh, tướng George Washington (1732 – 1799) Tổng tư lệnh đội quân miền Bắc chỉ đạo việc thảo ra bản Tuyên ngôn Độc lập được Đại hội nhân dân (Continental Congress) thông qua ngày 4-7-1776 (được coi là Ngày Quốc khánh, ngày lập quốc của Hoa kỳ); sau chiến thắng Yorktown (1781) và sau Hoà ước tháng 9-1783 với nước Anh, 13 thuộc địa cũ của Anh ra sức củng cố Hợp chúng quốc Hoa kỳ, một nước độc lập, dân chủ ngay từ ngày thành lập , để trở thành nước dân chủ hùng mạnh nhất, tiến bộ nhất, dẫn đầu các nước dân chủ toàn thế giới hiện nay..
Tuyên ngôn Độc lập do Thomas Jefferson (1743 – 1826) khởi thảo. Tinh thần cơ bản của bản tuyên ngôn là xác định con người sinh ra vốn đă b́nh đẳng (không ai cao hơn người khác), và đă tự nhiên có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Các quyền này có sẵn, không ai ban phát cả, không thể cắt xén, hạn chế, chuyển nhượng. Bản Tuyên ngôn này đă có ảnh hưởng lớn đến nước Pháp và các nước châu Âu.
Nước Pháp với cuộc Cách mạng tư sản dân quyền năm 1789 đă đi đầu xây dựng nền dân chủ ở châu Âu, với sự kiện lịch sử san bằng nhà tù Bastille tiêu biểu của chế độ quân chủ chuyên chế, để ngày 14-7 trở thành Ngày Quốc khánh Pháp.
Hiến pháp của Hoa kỳ được thông qua tại Đại hội nhân dân (Convention) ở Philadelphia năm 1787. Năm 1789, G.Washington được bàu là Tổng thống đầu tiên của Hoa kỳ, ông được bàu 2 khoá liền, làm tổng thống đến năm 1797 và mất năm 1799
Hiến pháp 1787 của Hoa kỳ có 4 diểm nổi bật, đó là : - nền dân chủ cao, dựa trên quyền tư do bàu cử và ứng cử của công dân ; - khẳng định không một viên chức chính quyền nào, dù là tổng thống, được đứng trên luật pháp ; - h́nh thức liên bang, tản quyền, các bang có quyền rộng răi trên lănh thổ của ḿnh; tôn trọng các đặc điểm địa phương, không máy móc rập khuôn; - và 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tách riêng, kiểm soát, kiềm chế nhau chặt chẽ, ngăn chặn tệ lộng quyền.
3-/ Làn sóng dân chủ đa đảng tràn sang châu Á :
Cho đến gần cuối thế kỷ 20, châu Á và châu Phi có vẻ như đứng ngoài trào lưu dân chủ của thế giới. Trật tự dân chủ h́nh như chỉ thích ứng với phương Tây, với châu Âu, châu Mỹ và châu Úc.
Giá trị riêng của châu Á?: Nhiều nhà lư luận, nghiên cứu lập luận rằng ở châu Á, nền văn hoá Khổng giáo và Nho học bắt rễ sâu, cổ suư tôn ty trật tự, phục tùng vua quan coi như cha mẹ của dân [ nếp nghĩ và sống : quân bảo thần tử thần bất tử bất trung = vua bảo quan chết, quan phải chịu chết, nếu không th́ phạm tội nặng không trung thành]. Do đó họ cho rằng dân châu Á chỉ coi trọng tự do của tập thể, nghĩa là độc lập của đất nước, không có tập quán và yêu cầu tự do cho cá nhân ; thậm chí họ cho rằng đó là những giá trị riêng đáng quư của châu Á, không rơi vào tệ hưởng lạc cá nhân tự do tư sản! Họ cho rằng chính do các giá trị châu Á mà các nước này ổn định, không bị xáo trộn, có lợi cho phát triển.
Vấn đề dân trí?: cũng nhiều nhà lư luận cố t́nh lập luận rằng dân trí nhiều nước châu Á c̣n thấp, c̣n phải qua một thời gian để phổ cập giáo dục, nâng cao tŕnh độ chính trị của công dân, phát triển văn hóa, chừng 5 hay 10 năm nữa mới có thể bắt đầu dân chủ hoá.
Đời sống đă, dân chủ sau! : c̣n có lập luận cho rằng hiện nay dân châu Á c̣n sống thiếu thốn, chưa no đủ, hăy tập trung lao động sản xuất, nâng cao đời sống về mọi mặt đă ; dân chủ hiện nay c̣n là đồ xa xỉ, ngoài tầm suy nghĩ của người dân, họ chỉ muốn làm ăn sinh sống cho yên ổn. Dân chủ chỉ làm cho cuộc sống xă hội bị xáo trộn, mất ổn định, không có lợi c̣n có hại.
Cuộc sống đă trả lời : không có câu trả lời nào rơ ràng, dứt khoát, có sức thuyết phục bằng cuộc sống. Vào những năm cuối của thế kỷ 20, một số nước châu Á vùng dậy, thức tỉnh về dân chủ, náo nức tham gia câu lạc bộ dân chủ rộng lớn toàn thế giới. Trước đó các nước thật sự dân chủ chỉ có Ấn độ và Nhật bản là 2 nước dân chủ tiêu biểu ở châu Á. Ấn độ theo chế độ Liên bang, Nhật bản theo chế độ Quân chủ lập hiến. Trong ṿng chỉ mười năm gần đây làn sống dân chủ tràn vào Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Nam Hàn kết thúc chế độ quân phiệt một đảng của nhà độc tài Pác Chung Hy ; Đài loan kết thúc chế độ quân phiệt một đảng của Thống chế Tưởng Giới Thạch với kiểu cách cha truyền con nổi là Tưởng Kinh Quốc ; Philippin kết thúc chế độ độc tài tham nhũng của tổng thống Ferdinand Marcos ; Thái lan kết thúc chế độ chuyên quyền quân phiệt của các thống chế ; Inđônêxia kết thúc chế độ quân phiệt gia đ́nh trị của tướng Suharto ; Malaixia bước vào thời kỳ đa nguyên đa đảng, với những cuộc tranh cử tự do; cho đến Cambốt cũng bước vào thời kỳ bàu cử tự do có quan sát quốc tế của Liên Hợp Quốc trên cơ sở đa đảng, không c̣n độc quyền của đảng Nhân dân cách mạng (cộng sản trá h́nh) của ông Hunsen do Việt nam dựng lên từ hồi 1979.
Hiện nay, các nước Đông Nam Á c̣n theo chế độ độc đảng độc đoán chỉ c̣n có Myanmar (Miến điện) của nhóm độc tài quân phiệt, Lào và Việt nam.
Cuộc sống đă trả lời rơ ràng dứt khoát : tuyệt đại đa nhân dân Đông Nam Á và Đông Bắc Á đều trước sau chọn con đường dân chủ. Đă là con người có suy nghĩ, ai chẳng muốn được tự do, ai chẳng có khát vọng tự do. Đến như con chim, con cá c̣n muốn xổ lồng bay cao bay xa, vũng vẫy nơi sông biến, có ǵ khổ nhục hơn là cảnh ‘’cá chậu chim lồng ‘’! Dân chủ và tự do là tư thế sống ngẩng cao đầu, là nếp sống của con người có tư cách, tự trọng, là đ̣i hỏi của con người có trí tuệ và nhân phẩm.
4-/ Việt nam không thể là ngoại lệ. Vậy tại sao cho đến nay nước ta vẫn chưa trở thành một nước thật sự dân chủ? Tại sao dân cổ đại ở Hy lạp và Rô-ma đă hưởng quyền dân chủ mà dân ta đến thế kỷ 21 mà vẫn c̣n chậm tiến đến vậy. Tại sao dân châu Âu và châu Mỹ đă được hưởng mọi quyền dân chủ từ thế kỷ 18, 19, mà Việt nam ta đến thế kỷ 21 rồi mà đảng CS c̣n lập luận là chưa nên, chưa cần dân chủ hoá!
Tất cả là do thái độ vô lư, bảo thủ, cổ hủ của những người lănh đạo của đảng cộng sản Việt nam. Họ leo lẻo nói : coi dân là chủ, làm chủ tập thể nhưng lại khinh dân, cho rằng nhân dân chưa đủ tŕnh độ dân trí để thực hiện dân chủ.
Họ nêu : dân biết, dân bàn,dân làm, dân kiểm tra, nhưng lại không cho dân cái quyền bỏ phiếu tự do, tự ḿnh kén chọn người đại diện cho ḿnh ra cầm quyền.
Họ giả dối và có thể nói là gian dối khi Hiến pháp công nhận quyền tổ chức các chính đảng chính trị của những người công dân th́ cũng lại khẳng định đảng cộng sản là đảng duy nhất được nắm quyền ở nước ta.
Họ trí trá, nói một đằng làm một nẻo, đặt tên nước ta là Việt nam Dân chủ Cộng hoà nhưng thật ra chẳng phải là một nước cộng hoà v́ người dân không có quyền b́nh đẳng, hơn 2 triệu đảng viên được coi là tốt hơn, tiên tiến hơn, thực tế có nhiều quyền hành và quyền lợi hơn gần 80 triệu dân c̣n lại, trong khi trong thực tế số đảng viên quan chức cầm quyền lại tham nhũng, thiếu tư cách và nhiều khi kém trí tuệ hơn người ngoài đảng, người dân thường ; Việt nam không phải là một nước dân chủ v́ theo thể thức đảng chọn, giao cho mặt trận Tổ quốc do đảng cộng sản nắm chặt làm công cụ cho ḿnh làm việc giới thiệu rồi bắt dân bầu theo danh sách đă chọn, th́ đó là kiểu bầu cử dân chủ giả hiệu, bầu cử tiền chế, hoàn toàn vô giá trị trước nhân dân, trước công luận thế giới.
Nhận ra sự giả dối xấu xa ấy, linh mục Nguyễn văn Lư ở Thừa thiên Huế đă viết trên đầu lá đơn gửi chính quyền địa phương :
Việt nam Dân chủ Cộng ḥa
Chưa độc lập - Mất tự do - Không hạnh phúc
Và ông giải thích rằng nước c̣n phụ thuộc về học thuyết chính trị của nước ngoài th́ chưa có độc lập; chưa có tự do báo chí, tự do tôn giáo, tự do bàu cử th́ sao gọi được là tự do; và người có ư kiến khác với đảng liền bị vào tù th́ đâu là hạnh phúc.
Mới đây, báo Le Figaro (Pháp) viết về nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều tiên đă nhận xét rằng chỉ riêng cái tên nước như vậy đă chứa đựng 3 sự bịp bợm, v́ nước này là một kiểu vương quốc cộng sản - ông vua Kim cha nhường ngôi cho ông vua Kim con - (không có một chút cộng hoà nào), cũng không có một chút dân chủ và tính chất nhân dân nào (v́ không có quyền tụ do báo chí, di chuyển, tôn giáo, bàu cử ; chỉ có một quyền duy nhất là tự do...chết đói!)
a -) Dân chủ ngay bây giờ! đă là quá chậm! Đảng cộng sản Việt nam luôn nuôi dưỡng niềm tự hào dân tộc, luôn đề cao tinh thần tiền phong của dân tộc trong công cuộc giải phóng dành độc lập, đi đầu trong việc công phá hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp; đảng cộng sản c̣n cao hứng đề cao niềm tự hào dân tộc lên tận mây xanh khi cao ngạo nhận định rằng : ‘’ ở Việt nam cứ ra ngơ là gặp anh hùng!’’. Hay : ‘’ thật là vinh dự được là người Việt nam trong thời đại Hồ Chí Minh, khi biết bao người dân các nước khác chỉ ước mong mỗi buổi sáng khi tỉnh dậy được thấy ḿnh là người Việt nam’’. Thật ra đó là sự kiêu ngạo cộng sản, của những người cộng sản cực đoan đến độ bệnh hoạn, nghĩ rằng mọi vinh dự tự hào của Việt nam đều bắt nguồn, gắn bó với đảng cộng sản. Nhiều người đang nh́n thấy sự thật là trái ngược với điều ngộ nhận ấy. Họ dần dần nhận ra cứ nơi nào lúc nào đảng để cho người dân tự do th́ ở đó nơi đó có phát triển, tiến bộ; nơi nào lúc nào đảng can thiệp vào cuộc sống, như bắt dân vào hợp tác xă, bắt nông dân phóng tay cải cách ruộng đất, ngăn sống cấm chợ, bắt buộc văn nghệ sỹ phải kết án ‘’bọn nhân văn giai phẩm làm gián điệp ‘’... th́ y như rằng xảy ra oan trái bi thảm.
Đến nay đảng lại hứa hăo : được, chắc chắn có dân chủ, nhưng xin cố chờ. Xin để ngày mai. Để cho kinh tế phát triển đă. Để cho đời sống lên cao đă! Y như một hiệu ăn niêm yết ngoài cửa :’’ bản hiệu ngày mai mời khách ăn không mất tiền’’, và cứ để nguyên như vậy ngày này sang ngày khác.
Câu trả lời của các chiến sỹ dân chủ và nhân dân ta là : chúng tôi cần dân chủ ngay bây giờ, không thể tŕ hoăn được nữa. Bây giờ đă là quá chậm. Chúng tôi chỉ muốn đi tiên phong trong trào lưu dân chủ chứ không muốn làm chiếc đèn đỏ cuối cùng. Chúng tôi muốn là những anh hùng dân chủ chứ không muốn cái thân phận ‘’cá chậu chim lồng ‘’, một kiểu nô lệ cho một học thuyết, cho một chính đảng.
Đảng đă làm phí phạm của dân tộc không biết bao nhiêu tiềm năng, sinh mạng và thời gian. Xin đủ, quá đủ rồi! Chúng tôi không c̣n có thể chịu đựng thêm ách độc đoán của một đảng độc quyền khinh miệt chúng tôi hoài đến vậy. Nhất là thời mở cửa chúng tôi không c̣n u mê, dại dột, cả tin, ấu trĩ như trước đây nữa. Chúng tôi đă và đang trưởng thành nhanh chóng. Không ai c̣n có thể lừa dối được chúng tôi nữa!
Dân chủ ư? th́ đây : dân chủ ở cơ sở! từ năm 1996, sau những cuộc đấu tranh sôi nổi của nhân dân Thái b́nh chống bọn cường hào mới ở địa phương, nhà cầm quyền cộng sản đă một mặt trừng trị vài tên sâu mọt của dân để xoa dịu sự phẫn uất của quần chúng, mặt khác họ trả thù những người mà họ gán cho là cầm đầu cuộc nổi dậy, trong đó có nhiều cựu sỹ quan và cựu chiến binh ngay thẳng, truy tố và kết án họ là gây mất trật tự công cộng ; hiện vẫn c̣n người ở trong tù. Sau đó chính quyền cộng sản ra hàng loạt sắc lệnh, nghị định, qui định, hướng dẫn về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Cho đến nay cơ sở bao gồm các thôn xă ở nông thôn, các khóm phường ở thành thị, và cao hơn là các quận, huyện. Đây là một bước tiến quan trọng v́ đông đảo đồng bào ta sống ở cơ sở, và người công dân nào cũng gắn bó với một cơ sở nhất định. Dân chủ ở cơ sở đặt ra nhiều vấn đề hệ trọng từ vấn đề bàu cử hội đồng nhân dân, uỷ ban hành chính, kế hoạch xây dựng nông thôn, chi tiêu ngân sách, thu thuế, giáo dục, y tế, quản lư ruộng đất, nhà cửa, kiện cáo, khiếu nại, tố cáo, hoà giải, xét xử... đều phải công bằng, minh bạch, trong sáng, đúng pháp luật, chí công vô tư, luôn đặt lợi ích thật sự của nhân dân và đất nước lên trên hết.
Đă có nhiều người đặt vấn đề : sao lại không dân chủ từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên cho đồng bộ, lại chỉ đổi mới ở cơ sở? Nhà có 4 hay 5 tầng, sao lại chỉ quét có 2 tầng dưới? c̣n mấy tầng trên th́ để đến bao giờ? Chẳng lẽ chỉ có dưới mới không có dân chủ mà trên th́ đă tốt đẹp lắm rồi, dân chủ lắm rồi! Rơ ràng việc dân chủ hoá ở cơ sở là nửa vời, là khập khiễng, là lộn ngược, là phi lư, không thể chấp nhận được. Đất nước, bộ máy quản lư quốc gia là một cơ thể sống thống nhất, luôn vận động từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, không thể cắt ngang hông, chặt ra riêng rẽ như vậy được.
b -) Nền dân chủ một đảng vậy, có được không? Hơn một năm nay, Hànội tung ra một món hàng mới, do một doàn đại biểu Quốc hội đi rao bán ở Hoa kỳ, châu Âu và châu Úc : nền dân chủ một đảng! ; bà phó chủ nhiệm Ban đối ngoại của Quốc hội Tôn Nữ Thị Ninh dẫn đầu đoàn cất tiếng rao, c̣n dịch ra là ‘’ one party democracy ‘’, ‘’ La démocratie d’ un seul parti ‘’. Không lọt tai một ai.
Món hàng dân chủ một đảng mang nhăn hiệu Việt nam bị ế, ế trơ ế trọi, ế từ Á sang Âu, ế từ Mỹ sang Úc, không có một nơi nào hưởng ứng hết, không một nhân vật nào tán thành hết. Thà rằng im. Thà rằng không rao bán hàng ‘’rỏm‘’.
V́ tên món hàng nghe đă lạ tai, đă chối tai. Một đảng là độc đảng, là độc quyền, là một ḿnh cầm quyền, một ḿnh một chiếu, không chia sẻ với ai, là ngược hoàn toàn với dân chủ, người dân có quyền lựa chọn, có quyền lập hội, lập đảng, có quyền tự do tự ḿnh lựa chọn đại biểu của ḿnh, chính đảng của ḿnh tham gia chính quyền. Do đó dân chủ tất nhiên phải là dân chủ đa đảng, dân chủ tất dẫn đến đa đàng, tất là đa đảng. Một đảng, độc đảng, độc quyền đảng trị là trái hẳn, ngược hẳn, là sự phủ định của dân chủ. Cái này loại trừ cái kia, như là nước với lửa, không thể hoà trộn, chung sống được.
Dân chủ đa đảng ở Việt nam là yêu cầu cấp bách, không thể tŕ hoăn : Trên thế giới này chưa có ở đâu, chưa có bao giờ có một nền dân chủ một đảng cả. Nếu có chăng, nó chỉ tồn tại trong tưởng tượng, trong sự bịa đặt của 2 nhà độc tài cộng sản ở Liên xô là Lê–nin và Stalin. Lê-nin c̣n bất chấp sự thật, đă lừa dối c̣n nói ngoa là nền dân chủ xô viết ‘’dân chủ một triệu lần hơn nền dân chủ tư sản ‘’ mà không đưa ra được dẫn chứng nào cả. Chẳng lẽ dân chủ tuyệt vời ấy nằm ở chỗ là Lê-nin chỉ cần gật đầu là hàng ngàn đảng viên cộng sản theo phái Mensêvích bị coi là kẻ thù giai cấp, gián điệp đế quốc và bị bắn không ai xét xử. Hay ở chỗ Stalin ra lệnh bắn các đồng chí của ḿnh từng là uỷ viên trung ương đảng cộng sản, cả uỷ viên bộ chính trị nữa chỉ v́ không đồng t́nh với chính sách của Stalin tàn sát hàng triệu trung nông và phú nông của nước Nga; (sau đại hội đảng Cộng sản Liên xô lần thứ 17, Stalin đă ra lệnh xử bắn 98 trong số 139 uỷ viên trung ương được đại hội đó bàu ra; các uỷ viên bộ chính trị L.Kamenev, N.Boukharin, G.Dinoviev cũng bị bắn không xét xử). Dân chủ đến thế th́ thật là khủng khiếp. Phải chăng các nhà lănh đạo Việt nam đă học và nói theo Lê-nin, lắp đi lắp lại hàng triệu triệu lần để rồi hoang tưởng tin rằng các đảng cộng sản xây dựng theo khuôn mẫu đảng cộng sản Liên xô cũng dân chủ hơn càc đảng khác hàng triệu lần? Và để tin rằng có thể tồn tại một nền dân chủ một đảng.
Xin mời bạn tưởng tượng rằng nếu như ở nước ta có một nền dân chủ đa đảng, nếu như bên cạnh đảng cộng sản c̣n có một vài đảng khác gồm những người yêu nước không theo chủ nghĩa cộng sản, hoạt động hợp pháp trong một quốc hội được bàu cử dân chủ, các đảng cạnh tranh nhau để tranh thủ lá phiếu cử trị theo định kỳ 3 hoặc 4 hoặc 5 năm, th́ rất có thể - có thể nói chắc chắn nữa -, những sai lầm trong cải cách ruộng đất đă không xảy ra nặng nề và tệ hại đến vậy! Đă có ngay những lời phát hiện, ngăn ngừa, cảnh báo, phản đối để giải quyết. Và cũng rất có thể không ai dám chỉ một câu phán xét mà tống vào tù gần 300 ngàn sỹ quan viên chức cũ không thời hạn, coi sinh mạng đồng bào ḿnh như cỏ rác ; và nếu có đa nguyên đa đảng th́ sự kiện bi thảm của hàng triệu thuyền nhân sẽ không thể xảy ra, sẽ không thể có chuyện ngành công an chịu trách nhiệm về an ninh của nhân dân lại dám làm cái việc phản dân hại nước là bán thuyền, bán băi, bán chỗ để thu vàng (từ 3 lạng vàng đế 12 lạng mỗi người), rồi cung cấp những chiếc thuyền ọp ẹp, máy cũ, ép nhận gấp đôi gấp 3 trọng tải, để rồi tàu thuyền bị ch́m khi sóng to gió lớn, bị cướp biển tiến công số người chết bi thảm không biết là bao nhiêu, kẻ chịu trách nhiệm là ngành công an vẫn nhởn nhơ nhận danh hiệu ‘’anh hùng ‘’! Nếu có đa nguyên đa đảng th́ không thể xảy ra những cuộc tàn sát và hành hạ nhân dân đến mức kinh hoàng đến vậy, mà kẻ gây ra vẫn nhởn nhơ ngoái ṿng luật pháp.
Đă từng có đa đảng rồi đó? Đă có người khoe rằng hồi sau cách mạng tháng Tám ở nước ta đă có dân chủ đa đảng đó sao? Hồi ấy cạnh đảng cộng sản c̣n có đảng Dân chủ và đảng Xă hội. Hồi ấy đảng Dân chủ có tổng bí thư là ông Dương Đức Hiền, đảng Xă hội có tổng bí thư là ông Nguyễn Xiển. Thật ra đây chỉ là dân chủ đa dảng ‘’dỏm‘’, một thứ hàng giả, một món ăn ‘’giả cầy ‘’. Nó càng khẳng định sự cần thiết của dân chủ đa đảng thật sự, đa đảng đàng hoàng, thực chất. Hai đảng này là do đảng cộng sản lập nên từ A đến Z, nghĩa là lấy từ các trí thức và nhà tư sản, tiểu tư sản từng tham gia Mặt trận Việt Minh cùng với một số từng là đảng viên hay cảm t́nh viên của đảng cộng sản để lập nên. Chính đảng cộng sản viết ra tôn chỉ, mục đích và điều lệ của ‘’2 đảng anh em’’ nói trên. Trong 2 đảng ‘’anh em ‘’ ấy có đảng đoàn của đảng cộng sản lănh đạo. Có người nói : đảng mẹ đặt trong ḷng đảng con; cũng có người bảo : đảng mẹ đẻ sinh đôi ra 2 đảng anh em, luôn quây quần quanh và tuân theo lời mẹ dạy.
Đến khi đảng đă an toàn qua cầu, đă dành toàn thắng trong chiến tranh, đă thu hết trọn mọi thành tích và thành quả về ḿnh th́ đảng cộng sản, đảng mẹ cho 2 đảng anh em con đẻ của ḿnh thở hắt ra không một chút thương tiếc. Hai đảng bị giải thể, xoá sổ hộ tịch. V́ vào năm 1984 ấy, mỗi đảng chỉ c̣n vài chục đảng viên, tuổi từ 66 đến 88 tuổi, tất cả đều quá tuổi hưu, và như một lăo giáo sư thày dạy tôi, một thời là uỷ viên trung ương đảng Xă hội thở dài : ‘’chanh đă vắt kiệt hết nước rồi! ‘’. Trụ sở của 2 đảng, tạp chí, cơ quan ngôn luận của 2 đảng, hoạt động của họ chẳng c̣n vết tích nào hết, ngay cả trong bảo tàng cách mạng.
Thế là kết thúc thân phận làm cây cảnh, làm ‘’kiểng ‘’ trang trí cho vườn hoa Ba đ́nh. Ở đây cần nói thêm rằng trong số nhân sỹ ấy có nhiều nhân vật có trí tuệ, có kiến thức sâu rộng và có nhân cách vượt xa nhiều uỷ viên bộ chính trị của đảng cộng sản. Về ư thức dân chủ và nhận thức về tầm quan trọng cực kỳ của luật pháp, quan điểm của các luật sư Trần Công Tường, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Thọ vượt xa quan điểm ‘’đảng đứng trên luật’’ mà ông Hồ Chí Minh học được ở Stalin..
Phải nói rơ những sự thật hiển nhiên như thế v́ gần đây khi yêu cầu đa nguyên đa đảng trở nên cấp bách, một vài cán bộ ban tưởng và văn hoá của đảng cộng sản leo lẻo nói rằng : tưởng ǵ, điều ấy có ǵ là mới, v́ bác Hồ chúng ta đă sáng suốt thực hiện dân chủ đa đảng từ hơn 50 năm trước, nay nếu cần th́ trở lại với tư tướng Hồ Chí Minh thôi mà! Lại một sự gian lận trơ trẽn. Khỏi cần lư giải.
Phải là dân chủ đa nguyên đa đảng thật sự : Cần cảnh giác khi đảng cộng sản nói đến đa nguyên đa đảng. V́ có thể họ sẽ lại làm cái màn kịch đảng dân chủ và đảng xă hội. Họ đă cử nhiều đoàn của Ban tổ chức và Ban tư tưởng – văn hoá của trung ương đảng cộng sản sang Cộng ḥa liên bang Đức, Hà lan, Na uy... để nghiên cứu về đảng xă hội dân chủ tại các nước ấy. Nếu như làm việc nghiên cứu ấy để đổi tên đảng cộng sản Việt nam sang một tên khác, như nhiều cán bộ cộng sản thức thời yêu cầu th́ đó là việc đáng làm , nên làm. Đă có ư kiến từ trong đảng cộng sản là trở về với tên đảng Lao động, hay đảng Nhân dân, hay đảng Nhân dân Cách mạng, hay là đảng Dân chủ - Xă hội, hoặc đảng Xă hội Dân chủ...
Nhưng xin chớ bao giờ nghĩ đến chuyện ‘’quen mui thấy mùi ăn măi ‘’, để lập đảng mới ‘’giả cầy‘’ theo kiểu đảng dân chủ và đảng xă hội hồi trước. Không thể được!
Ngày nay dân trí đă khác hẳn trước, công luận đă khác hẳn trước, cộng đồng người Việt ở ngoài nước theo dơi t́nh h́nh trong nước rất chặt chẽ, nước ngoài nh́n vào cũng rất bén nhạy sành sơi, dễ ǵ mà lừa được mọi người. Chỉ có một con đường lương thiện, ngay thẳng là : công nhận, tạo điều kiện h́nh thành một vài đảng khác, cạnh tranh một cách công khai, b́nh đẳng với đảng cộng sản đương quyền. Đây có thể là một quyết định sáng suốt, được ḷng dân, được quốc tế hoan ngênh nhất của đảng cộng sản.
Đây là điều tất yếu phải đến, hợp với thời đại ngày nay, như là tuyệt đại đa số các nước trên thế giới, giống như hầu hết các nước thành viên Đông Nam Á khác đă có dân chủ đa đảng, như các nước Thái lan, Philippin, Mă lai, Inđônêxia, Cambốt, làm gương cho nước Lào, tách khỏi nước quân phiệt Miến điện đang bị cả thế giới cô lập và phê phán. Liệu đảng cộng sản c̣n ù lỳ, ngang ngược, cưỡng lại xu thế thời đại được bao lâu nữa?
c-) Đảng cộng sản có lợi ǵ khi thực hiện đa nguyên đa đảng? Những người lănh đạo của đảng cộng sản rất có lư khi họ sợ đa nguyên đa đảng như sợ cọp. V́ đang ngồi một ḿnh một chiếu, tha hồ ăn món ǵ th́ ăn, chọn rượu ǵ th́ chọn, không phải chia cho ai. Nhưng biết hổ thẹn một chút, có tự trọng một chút th́ không ai làm vậy. Lẽ ra ngay từ khi họ cùng nhân dân cướp được chính quyền hồi cách mạng tháng Tám xong là họ phải trả lại chính quyền cho toàn dân, chứ không giữ chịt lấy thành của riêng liền tù t́ 60 năm dài. Lẽ ra họ phải chịu sự kiểm soát của toàn dân, qua những cuộc bỏ phiếu định kỳ, 2 năm, 3 năm hay 4, hoặc 5 năm một lần, có tranh cử với 1 hay vài đảng khác, hoặc là qua những cuộc trưng cầu dân ư, xem đa số nhân dân có c̣n tín nhiệm họ hay không.
Việc họ làm trong 60 năm qua là sai luật pháp, sai đạo lư, cứ khẳng định bừa là nhân dân tín nhiệm chúng tôi, chỉ tín nhiệm riêng một ḿnh chúng tôi, chúng tôi được lịch sử giao cho sứ mệnh lănh đạo tuyệt đối, thường xuyên, liên tục. Cứ như một ông chồng độc đoán, đă kém hiểu biết lại hung tợn, vợ con không chịu nổi, vẫn một mực bịt miệng vợ con, lớn tiếng rằng người ta vẫn yêu tôi, mê tôi, tin cậy tôi, xưa nay như vậy, măi măi về sau cũng vẫn như vậy. Thật là vô duyên. Đă có bạn trẻ thắc mắc một cách châm biến rằng cái ông lịch sử mặt mũi ra sao, mà lại cắc cớ đến vậy, giao hoài cho đảng cộng sản gánh vác sự nghiệp nằng nề đến thế mà không cho đổi ca, cho người khác gánh vác thay.
Thật ra thực hiện dân chủ đa đảng, đảng cộng sản có lợi to trông thấy. Đảng sẽ có đối tượng để ganh đua, tỷ thí, để thi tài, sánh đức, từ đó mới chữa được thói hư tật xấu, như bệnh tham nhũng, cửa quyền, bè phái, vô trách nhiệm. Sẽ có người chỉ ra những sai lầm ngay từ khi mới xuất hiện. Quốc nạn tham nhũng bất trị sẽ có thể bị khống chế và đẩy lùi. Đảng cộng sản sẽ được hoàn thiện, trong sạch hơn, trí tuệ hơn, hồi phục được tín nhiệm đang sa sút, không c̣n bị nhân dân chê cười, khinh miệt như hiện nay.
Hai là khi có cạnh tranh, có thi đua tài năng và đạo đức giữa nhiều đảng, nếu đảng cộng sản thắng cử th́ đó mới thật là chiến thắng vẻ vang, đáng hănh diện. Tính chính đáng (legitimacy) được chứng minh đàng hoàng. Nếu cứ chạy đua một ḿnh, không có ganh đua, tự ḿnh bầu lấy ḿnh, không có tranh cử th́ việc trúng cử thật vô duyên, không mảy may có giá trị.
Chính v́ vậy mà đảng cộng sản đang bị phân hoá ra 2 phía, những người chống đối dân chủ đa dảng và những người tán thành. Người chống đối là số ham đặc quyền đặc lợi, ích kỷ, đạo đức giả, tầm nh́n nông cạn ; người tán đồng là số trong sáng, đặt quyền lợi nhân dân, đất nước làm trọng, số trí thức am hiểu thời cuộc và tuổi trẻ có chí tiến thủ. Ở giữa là số c̣n lưỡng lự; xu thế là số tán thành ngày càng tăng, thuận theo sự thức tỉnh về dân chủ hoá của xă hội.
d-) Dân chủ là được lựa chọn. Đảng cộng sản rất sợ sự lựa chọn. Mà dân chủ là lựa chọn. Cái ưu viện của dân chủ đa nguyên đa đảng là cái quyền lựa chọn của nhân dân qua lá phiếu của mỗi người. Thời bao cấp, thời kinh tế tập trung, người dân không có quyền lựa chọn. Đảng cho ǵ th́ phải cúi đầu chịu. Gạo là món hàng chính, chỉ độc có gạo của một cửa hàng mậu dịch. Hôm nào gạo ngon th́ dân nhờ. Hôm nào gạo vỡ, gạo tấm, gạo hôi, cho đến gạo mốc cũng cứ phải mua. Vải cũng thế. Đảng qui định phân phối một năm 3 mét vải, 4 mét rưỡi hay 5 mét cũng chịu. Chỉ có vải đen, vải xanh, vải trắng. Khi có mét rưỡi lụa là đă thầm biết ơn đảng. Xà pḥng cũng vậy. Chỉ có xà pḥng giặt, có khi thêm một gói xà pḥng bột; c̣n xà pḥng thơm, gần Tết mới phân phối thêm một bánh. Phở mậu dịch, nghĩ lại mà kinh ; v́ cấm phở tư nhân, bị lên án là vi phạm chính sách lương thực nên phở mậu dịch chiếm độc quyền; một thời gọi là phở không người lái, chỉ có bánh và nước lơng bơng, không ăn th́ nhịn. Nay, với kinh tế thị trường, người dân được tha hồ lựa chọn. Riêng về gạo, thôi th́ đủ thứ ; muốn có gạo quê, gạo dự, gạo tám thơm, gạo Thái lan, gạo Ấn độ...tha hồ mà chọn. Vải lụa th́ ngàn vạn thứ. Phở th́ tha hồ mà chọn. Niềm vui được lựa chọn, cái thú được kén, niềm hạnh phúc được tha hồ cân nhắc, đắn đo, ướm thử, chê bai, t́m kiếm, khám phá ra hàng ḿnh ưa thích nhất. Chỉ riêng việc ngắm nh́n hàng hoá muôn màu muôn vẻ, đủ kiểu đủ cỡ là đă sướng con mắt rồi. Không c̣n cảnh ‘’nhà Mậu‘’ lèo tèo, xám xịt, đầy bụi rác, mạng nhện giăng với các cô mậu dịch lơ đăng đỏng đảnh bất cần trả lời khách.
Câu hỏi lớn của xă hội là: thị trường tự do tốt đẹp là thế, người dân trở thành hoàng đế được quyền tự do lựa chọn hàng hoá cho ḿnh, tại sao không cho dân tự do lựa chọn người lănh đạo, người đại diện của chính ḿnh, lập ra và lựa chọn chính đảng của chính ḿnh? tại sao đảng cộng sản vẫn một mực buộc người dân ta sống hoài kiếp không có tự do chính trị, kiếp kẻ tôi đ̣i, thấp cổ bé họng về chính trị? Sao đảng cộng sản lại không cho dân ta có quyền hưởng nền dân chủ đa đảng như dân Thái lan, Philippin, Cambốt, Inđônêxia, Đài loan, Nam Hàn? Đảng cộng sản tự nhận là lực lượng lănh đạo sao lại ḱm hăm nhân dân ḿnh trong cảnh lạc hậu chậm tiến như vậy?
Dân chủ và tự do có ǵ khác nhau? có quan hệ với nhau ra sao? Dân chủ và tự do có ư nghĩa khác nhau nhưng lại gắn bó chặt với nhau. Dân chủ là một khái niệm rộng, chỉ bản chất của cung cách quản lư đất nước, bản chất của chế độ chính trị, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, thực thi các quyền tự do của người công dân. Tự do là những quyền hành xử tuỳ theo ư riêng của ḿnh, không bị ai bắt buộc, thường gồm có tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do bàu cử. Ngoài những tự do chính trị cơ bản ấy, c̣n có tự do kinh tế, tự do kinh doanh, buôn bán, tự do di chuyển, chọn nơi định cư, tự do xuất dương, tự do văn hóa. Nền dân chủ thật hay giả, cao hay thấp, ưu việt hay không là tuỳ thuộc ở việc thực thi các quyền tự do nói trên được minh định trong các văn kiện pháp lư (gồm Hiến pháp và hệ thống pháp luật) ra sao và được thực thi đến mức nào?
Như ở trên đă nói, có những nước mang tên là dân chủ mà người dân nói chung không có quyền tự do th́ không thể coi đó là nước dân chủ. Như nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà, nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều tiên, nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Cu-ba. Nước Việt nam ta vẫn chưa được coi là một nước dân chủ, v́ vẫn c̣n bị cai trị bởi một đảng duy nhất tự nhận là được lịch sử giao phó. Xét về các mặt tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tôn giáo, tự do bầu cử th́ Việt nam bị xếp vào loại độc đoán, phi dân chủ, hay phản dân chủ.
Ai có thẩm quyền nhận định nước này, nước kia là dân chủ hay phản dân chủ? Chúng ta ở vào thời đại toàn cầu hoá. Toàn thế giới có Liên Hợp Quốc gồm gần 200 nước tham gia. Liên Hợp Quốc có một loạt cơ quan thông tin, thống kê, nghiên cứu, văn hoá, khoa học, xă hội làm việc hàng ngày với các chuyên gia thuộc nhiều nước hội viên. Thế giới có nhiều viện nghiên cứu và các trường đại học tŕnh độ cao được gọi là cái ‘’kho trí khôn ‘’, cái ‘’túi càn khôn ‘’ của loài người. Lại có những bộ ‘’Bách khoa toàn thư ‘’ ra định kỳ hàng năm hay hằng 2 năm, hằng 5 năm, 10 năm, khổ lớn, từ 20 đến 60 tập mỗi loại, trong đó cập nhật mọi thông tin có giá trị của toàn thế giới, nay c̣n được đưa lên mạng internet chứa hàng tỷ từ, với nhiều sinh ngữ : Anh, Pháp, Đức, Ư, Tây Ban Nha,Nhật, Trung văn, Ârập... Lại c̣n nhiều tổ chức tư nhân quốc tế chuyên ngành và chuyên đề, chỉ chuyên theo dơi về tự do báo chí, tự do tôn giáo, mức độ tham nhũng và minh bạch, thực thi nhân quyền, về bảo vệ phụ nữ, trẻ em, tù chính trị, về thu nhập của các tầng lớp xă hội, về công tác xă hội, từ thiện, xoá đói giảm nghèo, chống Sida, chống nghiện hút ma tuư...Tất cả đều gần như chung một ngôn ngữ với tŕnh độ khách quan khoa học cao nhất, chẳng ai đánh lừa, mê hoặc hay mua chuộc được họ.
Về chế độ xă hội, văn kiện đảng cộng sản khẳng định Việt nam ở ‘’thởi kỳ phát triển chính trị rực rỡ nhất‘’ trong lịch sử của ḿnh, đứng trong hàng ngũ ‘’tiên phong của các dân tộc’’, th́ các văn kiện quốc tế lại nói ngược rằng về tŕnh độ chính trị và dân trí, Việt nam đang ở một tầng văn hoá – chính trị thấp hơn các nước có tŕnh độ trung b́nh v́ chưa được hưởng tự do báo chí và tự do bầu cử là 2 nấc tiêu biểu của nền văn minh nhân loại. Không một ai cho rằng kiểu ’’ đảng chọn dân bầu ‘’ là có một chút giá trị nào. Không một ai cho rằng có một đại biểu quốc hội ở Hànội nào là thay mặt cho người dân; họ chỉ thay mặt cá nhân ḿnh và đảng đẻ ra họ. Về thống kê quốc tế th́ thật không có ǵ để tự hào; Việt nam luôn ‘’khiêm tốn‘’ đứng hàng cuối, ‘’đèn đỏ‘’ về thu nhập tính theo đầu người ở Đông Nam Á, ‘’đèn đỏ ‘’ về nạn tham nhũng, cả về tệ lăng phí, về bệnh hành chính nặng nề và phiền hà, lại c̣n ‘’đội bảng ‘’ về tinh công khai, minh bạch, luôn khuất tất, che dấu đủ thứ, cho đến ngành giáo dục cũng là quán quân châu Á về số tiến sỹ, phó tiến sỹ, giáo sư và phó giáo sư ‘’dỏm ‘’, bằng tốt nghiệp mọi cấp ‘’dỏm ‘’ lên đến hàng nǵn, chục nǵn...Vấn đề không phải là che dấu những mặt tồi tệ ấy mà là nh́n thẳng vào sự thật, cùng t́m ra nguyên nhân để chung ḷng khắc phục. Mà thiếu sót mấu chốt là không có dân chủ đa đảng nên sinh ra độc đoán quan liêu và tham nhũng nặng nề.
đ-) Dân chủ đa đảng đă rơ, c̣n đa nguyên là ǵ? Đa nguyên là một nhận thức, một quan niệm về tự nhiên, về triết học, về chính trị làm cho dân chủ đa đảng thêm hiệu quả và thêm giá trị. Đa nguyên là nét tự nhiên vốn có của vạn vật, làm cho cuộc sống muôn vẻ, phong phú, sống động. Hai con người cùng chung một h́nh thể, một cấu trúc, đều có đủ mọi bộ phận như nhau, không thứa không thiếu bộ phận nào, nhưng đi sâu vào t́m hiểu th́ không bộ phận nào của người này lại giống y hệt như bộ phận tương ứng của người kia. A giống B, nhưng A cũng không giống y như B; A và B cùng là người, nhưng A là ông A, B là ông B. Hai ông đều có đầu ḿnh, 2 tay, 2 chân ; nhưng ai cũng nhận ra đây là ông A, kia là ông B, trộn không lẫn được. H́nh thể là thế, chính kiến chính trị cũng vậy. Do đó cần phải tôn trọng sự cách biệt, sự khác biệt trong nhận thức và tư tưởng. Đa nguyên c̣n bao gồm ư nghĩa của chuyển động. Theo quan điểm triết học, sự chuyển động, thay đổi của vạn vật là quy luật phổ biến ; tôi là A mà cũng là A’ ; lúc này tôi là tôi, cũng không c̣n là tôi, ngày mai lại càng khác. Những khác nhau là biểu hiện của đa nguyên.
Thực hiện dân chủ đa nguyên là khi bỏ phiếu th́ đa số thắng thiểu số, khi th́ đa số tuyệt đối, khi th́ đa số tương đối. Người thua trong bỏ phiếu thông qua luật buộc phải tuân theo luật, nhưng lại được quyền bảo lưu ư kiến ḿnh. Người thua lúc này không thể bị coi là thua hẳn, thua vĩnh viễn mà vẫn có thể thắng lần sau, trong những điều kiện khác. Theo quan điểm đa nguyên, nhà cầm quyền bất kể thuộc đảng nào đều phải coi trọng quyền lợi và cuộc sống của những nhóm thiểu số, theo quan điểm b́nh đẳng ; người thiểu số, vùng dân tộc thiểu số được quan tâm ; người có tôn giáo như người không theo tôn giáo, người theo Công giáo như người theo Phật gíao; người miền Bắc, miền Trung, miền Nam đều b́nh đẳng, 3 miền đều được quan tâm, nhưng đều được có những đặc điểm riêng. Ở Hoa kỳ chế độ tản quyền theo h́nh thức Liên bang, luật lệ bang này có thể khác bang khác về một số điểm; có bang giữ án tử h́nh, có bang bỏ tử h́nh, là biểu hiện của dân chủ đa nguyên.
Quan điểm đa nguyên có tác dụng làm cho cuộc sống dân chủ thêm đa dạng, phong phú, hài hoà, ngăn chặn xu hướng độc đoán, lợi dụng đa số để khống chế, loại trừ, trấn áp phe thiểu số để thống trị lâu dài, có hại cho xă hội, đất nước. Quan điểm dân chủ đa nguyên phải được thể hiện trong Hiến pháp, luật pháp, trong nền nếp cầm quyền, quản trị đất nước và trong cuộc sống xă hội.
Dân chủ đa nguyên đa đảng có làm mất ổn định, gây rối loạn xă hội ? Đây là một lư do thường được các nhà chính trị ở Hànội nêu lên để tŕ hoăn việc dân chủ hoá, để nhân dân ta luôn mong muốn cuộc sống ổn định e dè lo sợ cuộc sống sẽ đảo lộn bất an khi có dân chủ đa đảng. Không có ǵ sai lầm hơn khi đưa ra con ‘’ngáo ộp’’ dân chủ như thế. Vậy th́ tại sao phần lớn các nước trên thế giới lại từ bỏ chế độ độc tài đảng trị để chuyển sang chế độ dân chủ đa đảng? Tại sao các nước hùng mạnh nhất, kinh tế phát triển cao nhất, cuộc sống của nhân dân sung túc, ổn định, hạnh phúc nhất đều là các nước dân chủ đa đảng hết, không có lột ngoại lệ nào. Họ khôn hơn ta hay dại hơn ta? Họ ở tŕnh độ cao hơn ta hay thấp hơn ta?
Trước đây tôi cũng có mối lo tương tự. Thế rồi tôi ra nước ngoài sống trong môi trường dân chủ đa đảng. Tôi quan sát, so sánh và suy ngẫm. Quả thật nền dân chủ đa đảng là ưu việt về mọi mặt, rất có lợi cho đất nước, cho nhân dân, nó là nguồn sống cực kỳ cần thiết cho nước Việt nam ta. Nếu ta có nền dân chủ đa đảng thật sự từ 1945 th́ nay nước ta đă khác hẳn, đă ở một tầm cao khác hẳn hiện nay, và cũng có thể tránh biết bao mất mát thời gian và sinh mạng. Ta đă nhỡ tàu một nền văn minh mới đến hơn nửa thế kỷ. Nay không phải là lúc thở dài than văn, mà là phải xắn tay áo lên xây dựng nền dân chủ đa nguyên đa đảng ngay từ hôm nay cho khỏi chậm tiến, so với các nước láng giềng trước hết đă.
Để hiểu rơ bộ máy dân chủ vận hành ra sao, với tính ṭ ṃ của người viết báo, tôi đă dự hàng giờ các cuộc họp lúc nào cũng sôi nổi sinh động của Quốc hội Pháp, Quốc hội Mỹ, Quốc hội Úc, của Hội đồng nhân dân tỉnh ở Tây ban nha và Canada. Các đảng đối lập nhau, nhưng luôn có một hoà khí, tương thân tương kính. Tương thân v́ dù cho khác biệt về quan điểm, đường lối chính trị họ đều gọi nhau là đồng viện, là đồng nghiệp, cùng là đại biểu của toàn dân, cùng chung ư định phục vụ nhân dân và đất nước. Họ đấu tranh với nhau khá là quyết liệt, chuyên t́m sơ hở của đối phương để tấn công, mài nhọn lập luận cho sắc sảo, đưa ra dẫn chứng vững, nhưng cũng luôn phục thiện, công nhận lầm lỡ trong ư kiến của ḿnh, biết rút lui ư kiến, biết xin lỗi đối phương không chút sỹ diện hăo. Tuy có nhiều đảng, nhưng các đảng lớn không dùng thế đa số để áp đảo các đảng khác mà chỉ biểu quyết sau khi đă phát biểu cho hết ư kiến, và các đảng thiểu số cũng được phát biểu đầy đủ chính kiến của ḿnh. Các đảng đối lập vẫn có khá nhiều điểm tương đồng, và có khi tương đồng sâu sắc. Đó là khi bàn đến những việc về quốc pḥng, an ninh, đối ngoại, chống khủng bố, chống thiên tai, th́ thường ư kiến nặng về đồng thuận. Không có chuyện các đảng đối lập chỉ coi nhau là thù địch, chống đối nhau với hận thù mù quáng. Đó là v́ họ đă được chọn lựa, sàng lọc kỹ qua bao nhiêu cuộc bàu cử từ dưới lên trên, không phải qua danh sách của một ban tổ chức của một đảng như ở nước ta.Họ đúng là tinh hoa chính trị, có trí tuệ và tâm huyết đều ở tŕnh độ cao, được quần chúng theo dơi, tuyển lựa bằng lá phiếu, lại được báo chí tự do hướng dẫn và các cuộc thăm ḍ dư luận ở mọi cấp giúp thêm cho rộng đường lượng giá và quyết định.
Các cuộc họp quốc hội thường là công khai, họp quanh năm (chỉ nghỉ vài tuần lễ mùa hè), có báo chí theo dơi, có nhân dân đến dự thính, được truyền qua vô tuyến truyền h́nh và truyền thanh, chính phủ luôn luôn phải có mặt để trả lời ngay những chất vấn nóng hổi của các nghị sỹ.
V́ các lẽ trên, không ai yêu nước, yêu công bằng, muốn ổn định trong tiến bộ lại không ‘’mê ‘’ dân chủ đa đảng và dấn thân cho công cuộc dân chủ hoá.
e-) Xây dựng dân chủ và xây dựng xă hội dân sự có ǵ khác? Dân chủ với xă hội dân sự có mối quan hệ khăng khít. Chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng càng làm cho xă hội dân sự phát triển mạnh. Xă hội dân sự nói lên cơ cấu tổ chức do người công dân tự sáng kiến, lực lượng của ḿnh tạo nên không có sự can thiệp của nhà nước. Dân chủ phát triển đến đâu th́ xă hội dân chủ phát triển đến đấy. Xă hội theo chế độ chuyên chế một đảng càng đơn giản, cứng nhắc, lạnh lùng và tẻ nhạt bao nhiêu th́ xă hội dân sự dân chủ càng sôi nổi, náo nhiệt, đa dạng, đầy sức sống bấy nhiêu. Do quyền tự do lập hội, tự do kết đoàn, tự do sáng tạo, tự do giao lưu nên người công dân thả sức hoạt động hợp tác về mọi mặt để phát triển tài năng cá nhân đến mức cao nhầt. Do đó xă hội dân sự cũng được gọi là xă hội công dân. Các hiệp hội, câu lạc bộ đủ loại, nhóm, tổ, đoàn... mọc lên như nấm. Từ nhóm câu cá, bắn chim, đánh cờ, du thuyền, chơi tem đến hội từ thiện giúp người tàn tật, người khiếm thị, khiếm thính, người bị lao, bị hủi, đến nhóm bảo vệ thú quư hiếm, bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá, từ nhóm thơ, ca, hội họa, điêu khắc, nghiên cứu sử, sưu tầm dân ca đến các hội du lịch, thám hiểm...Xă hội dân sự biểu thị rơ chế độ dân chủ là ‘’do dân, của dân và v́ dân ‘’. Xă hội dân sự muôn h́nh muôn vẻ không có sự can thiệp của nhà nước, theo tinh thần của luật pháp dân chủ là : người công dân tự ḿnh có mọi quyền tự do không phải xin phép ai, đội ơn ai, ghi nhớ ơn ai, trừ những ǵ pháp luật cấm có văn bản hẳn hoi, mà những điều cấm cũng chỉ v́ lợi ích của xă hội dân sự, được đại diện của dân thông qua. Điều này ngược với chế độ xă hội độc đoán độc tài, con người sinh ra là đă không có quyền ǵ hết, đảng cầm quyền cho phép làm ǵ th́ mới được làm, sinh ở đâu phải ở đó, phải biết ơn đảng và chế độ ngay từ khi lọt ḷng, đảng cho hát bài hát nào th́ hát, lớn lên chỉ có một đoàn thanh niên buộc phải vào không th́ mang tiếng là hư hỏng, phải vào đảng duy nhất là đảng cộng sản để tiến thân, buộc phải yêu chủ nghĩa xă hội (mà không biết h́nh thù ra sao) mới là yêu nước! Trong văn học nghệ thuật chỉ được phép theo bút pháp hiện thực xă hội chủ nghĩa, tác phẩm chỉ được in từ một nhà xuất bản nhà nước, cho đến phê b́nh văn học cũng chỉ có người phê b́nh ‘’quyền uy‘’ do đảng thừa nhận mới được lên tiếng. Xă hội độc đoán độc đảng và xă hội dân sự đa nguyên đa đảng khác nhau một trời một vực. Trong xă hội trên, quyền của đảng, nhà nước là vô hạn, nhà nước tha hồ ức hiếp, hoạnh họe, móc túi nhân dân, ngự trị trên đầu nhân dân, do đó nhân dân luôn có nỗi sợ thường trực với nhân viên nhà nước, nỗi sợ truyền đời này sang đời kia, nhưng mở mồm ra là phải ca ngợi :’’ơn đảng, ơn Bác ‘’. Dưới chế độ dân chủ đa đảng, muốn vào đảng nào là hoàn toàn tự chọn, muốn rời đảng này nhập đảng khác là quyền mỗi con người, có khi chồng một đảng, vợ một đảng, con không đảng hay vào đảng khác nữa. Người dân sống ung dung tự tại, không phải sợ bất cứ ai, không lo ai quấy rầy, ức hiếp. Ngược lại quan chức, cảnh sát, cơ quan hành chính đều thường xuyên biết ‘’ sợ ‘’ người công dân. V́ nếu làm sai, bất công, vô lễ, áp bức người dân là người dân có quyền phản đối, tố cáo, phát đơn kiện và đ̣i bồi thường thiệt hại theo pháp luật.
g-) Chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng là chế độ dân chủ pháp trị : Đây cũng là vấn đề cơ bản trái ngược nhau giữa 2 chế độ đối lập. Chế độ độc đảng độc đoán đứng trên pháp luật, đứng ngoài pháp luật, đặt đảng cộng sản lên vị trí độc tôn duy nhất. Đảng không cần luật pháp, coi khinh luật pháp, do đó ở Việt nam trường luật bị giải thể ngay từ sau cách mạng tháng Tám, toà án nhân dân không xét xử theo luật mà theo quyết định của cấp uỷ đảng, luật sư là nhân vật dư thừa, không mảy may cần thiết. Từ khi đổi mới đảng cộng sản hối hả làm luật, vài chục bộ luật mỗi năm mà vẫn thiếu; mới đây có phiên họp Quốc hội thông qua đến 15 bộ luật.
Nhưng vẫn c̣n những vấn đề cơ bản mà luật vẫn thiếu hoặc mù mờ không rơ ràng dứt khoát, giải thích tuỳ tiện; như về quyền sở hữu đất và nhà ; như về quyền tư hữu; như về quan điểm lấy kinh tế quốc doanh làm chủ đạo, về khái niệm thị trường tự do theo định hướng xă hội chủ nghĩa...Có luật rồi, nhưng vấn đề thi hành luật mới là vấn đề nan giải. Cả một xă hội không quen, không có nếp tôn trọng luật, không có nếp thi hành luật và các bản án, kể cả các cấp chính quyền, các cấp uỷ đảng, các cấp toà án đến người dân, th́ xử án vẫn tuỳ tiện, vẫn có nhiều trường hợp theo yêu cầu của đảng, như nhiều vụ án xử các chiến sỹ dân chủ là ‘’gián điệp’’ mà không hề có chứng cứ; như hàng chục ngh́n kẻ phạm tội bị tuyên án rồi mà vẫn nhởn nhơ ngoài xă hội. Rồi v́ chính cán bộ nắm chính quyền không hiểu ǵ về luật quốc tế mà quyết định đ́nh chỉ một huấn luyện viên về môn bóng đá một cách ngẫu hứng (cứ coi như dân ḿnh), bị thua kiện và phải bồi thường hàng trăm nǵn US$ ; hay như vụ Hàng không Việt nam kư với một hăng bảo hiểm Ư rồi quên (!) mất giao kèo, cũng bị tuyên phạt đến 5 triệu US$ ; hay với việc chèn ép Việt kiềutừ Hà lan về nước đầu tư Trịnh Vĩnh B́nh để tước đoạt toàn bộ tài sản hàng chục triệu US$, của ông, nay bị kiện lại trước toà án quốc tế, với số tiền đ̣i bồi thường lên đến 100 triệu US$. Các số tiền này cứ việc lấy trong ngân sách, của dân là của chùa, phung phí vô lư, vô tội vạ.
Trong một xă hội dân chủ đa đảng, luật pháp là chúa soái, là trọng tài tối cao, là người phán xử cuối cùng, là kẻ cầm cân nảy mực, là uy lực cao nhất của toàn xă hội. Luật pháp chỉ có mục tiêu cao nhất là bênh vực cuộc sống của mỗi công dân, bảo vệ đến mức cao nhất mọi quyền tự do đầy đủ của công dân, và một mục đích là hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp của bộ máy chính quyền đối với công dân. Một hệ thống chính quyền gồm có 3 ngành chủ yếu : ngành lập pháp (quốc hội) chuyên làm ra pháp luật, bổ xung và giải thích luật pháp; ngành hành pháp (chính phủ) chuyên áp dụng thi hành luật pháp; và ngành tư pháp (toà án các cấp) chuyên xét xử những vi phạm pháp luật nhằm làm cho luật pháp được thực hiện nghiêm minh và việc xét xử công bằng đúng luật; 3 quyền này được phân chia trách nhiệm rơ ràng, tách ra riêng rẽ, kiểm soát lẫn nhau để loại trừ và ngăn ngừa sư lộng quyền của mỗi ngành, v́ lợi ích của mọi công dân.
Trong xă hội dân chủ pháp trị, pháp luật nghiêm minh, nếp thượng tôn luật pháp thành truyền thống và quy củ, nhà cầm quyền, từ anh cảnh sát, chú công an, ông công chức, bà thư kư hành chính đến xă trưởng, quận trưởng, lên đến ngài tỉnh trưởng và cả đến thủ tướng và tổng thống đều phải sợ người công dân lương thiện. V́ luật pháp lập ra để bảo vệ người công dân lương thiện. Trong kinh tế hàng hoá, người mua là thượng đế, là hoàng đế, th́ trong xă hội dân chủ pháp trị, mỗi công dân lương thiện là một hoàng đế được pháp luật phục vụ, bảo vệ che chở cực kỳ chu đáo. Sự bất khả xâm phạm thân thể, nhà cửa, thư từ, điện thoại, cuộc sống riêng là thiêng liêng. Anh công an vào nhà tư cũng phải có lệnh hợp pháp. Khi bị truy tố, khởi tố, người bị can vẫn phải được coi là vô tội cho đến khi toà tuyên án. Tại toà án bị cáo được quyền tự bào chữa hoặc thuê luật sư bảo vệ. Tuyên án phải dựa vào chứng cứ được xác nhận. Kẻ bị tuyên án có thể kháng cáo. Tổng thống phạm luật cũng bị truy tố.
Có những vụ án oan, sau 10 năm, 20 năm hay hơn nữa, được xem xét và xử lại, minh oan và bồi thường thiệt hại cho người bị oan.
h-) Đệ tứ quyền là thế nào : ngoài 3 quyền nói trên c̣n có ngành truyền thông báo chí c̣n được gọi là quyền lực thư tư, đệ tứ quyền. Trong xă hội dân chủ đa nguyên đa đảng, ngành báo chí có quyền lực mạnh mẽ h́nh thành công luận. Do luật báo chí dân chủ bảo đảm cho báo chí thực thi quyền tự do ngôn luận được hiến pháp công nhận, nên công dân nào cũng ra báo được. Luật bảo đảm cho nhà báo quyền t́m hiểu, điều tra mọi sự bất công, quyền nói lên sự thật không một ai ngăn cấm và kiểm duyệt, trừ khi có chiến tranh hay trường hợp khẩn cấp. Không một đảng nào, cấp chính quyền nào, dù là tổng thống hay bộ trưởng được cản trở công việc t́m hiểu, thu lượm tài liệu của nhà báo. Phần thưởng cao nhất của các nhà báo không phải là do ca ngợi chế độ, ca ngợi lănh tụ, mà là do bảo vệ những công dân b́nh thường bị oan trái, áp bức, do dám phanh phui những mờ ám của viên chức cầm quyền, vạch mặt bọn mafia, xă hội đen bất chấp hiểm nguy. Nhà báo không phải là nhà văn buộc phải văn hay chữ tốt mà phẩm chất hàng đầu của nhà báo là phục vụ công bằng và an ninh của xă hội công dân.
Ở Việt nam, hiện có đến 1.200 nhà báo, cũng được đào tạo trong trường lớp, cũng có học ngoại ngữ và có giao tiếp với nước ngoài, nhưng nói chung vẫn c̣n bị kiềm chế và kiểm soát. Báo chí quốc tế nhận định chưa có tự do báo chí ở Việt nam; Hội phóng viên không biên giới nhận định các nhà báo Việt nam vẫn c̣n bị bịt miệng do ‘’ băng keo dán ‘’ của đảng ; nền báo chí Việt nam bị xếp loại rất ít tác dụng phục vụ xă hội công dân, là vào loại lạc hậu, dưới mức trung b́nh của thế giới, loại chậm tiến ở Đông Nam Á. Lẽ ra trong t́nh h́nh hiện nay báo chí Việt nam có nhiều điều kiện để khởi sắc phục vụ xă hội công dân đang nảy nở, nhưng không khí vẫn im ĺm tẻ nhạt, các tờ báo bán chạy nhất lại là của ngành công an lợi dụng những chuyện ly kỳ, dật gân, đồi trụy để mê hoặc tuổi trẻ, tự hạ thấp phẩm chất của người làm báo.
Tuy nhiên dưới chế độ độc đoán một đảng, ở nước ta cũng có những nhà báo kiên cường, thật sự là nhà báo ‘’nhân dân ‘’, đi ngược lại báo ‘’nhân dân ‘’ của đảng. Đó là nhà báo Nguyễn Vũ B́nh 35 tuổi (năm 2005), biên tập viên Tạp chí Cộng sản, bị tù từ năm 2002 chỉ v́ lên tiếng chống tham nhũng và bất công, yêu cầu lập đảng dân chủ tự do. Như nhà báo Lan Anh phóng viên của báo Tuổi trẻ có trái tim nhạy cảm với dân nghèo ốm phải mua thuốc đắt do bọn đầu cơ trong công ty Zuellig Pharma được các quan chức y tế tiếp tay lộng hành đă viết những bài điều tra sắc sảo, do đó cô bị nhà nước truy tố. Hay hồi 1987, nhà báo Trần Đ́nh Bá phóng viên báo Quân đội Nhân dân đă viết phóng sự điều tra tố cáo ông Tô Duy, chủ nhiệm ban vật giá trung ương (ngang cấp bộ trưởng) chiếm nhà công thành nhà riêng cho gia đ́nh và con cháu ông ta. Mấy năm trước báo Thanh niên điều tra và đưa ra ánh sáng vụ Năm Cam, điển h́nh bọn mafia – xă hội đen câu kết với quan chức ngành công an và kiểm sát; bọn này lũ lượt ra toà là một nét khởi sắc của báo chí Việt nam thời đổi mới , nhưng rồi cả làng báo sau đó lại như ch́m trong sự tẻ nhạt và hiệu quả xă hội nghèo nàn.
V- / Dân chủ và nhân quyền
Khi nói đến dân chủ, bàn đến vận động dân chủ không thể không nói đến vấn đề nhân quyền. Dân chủ và nhân quyền là 2 vấn đề liên quan chặt chẽ với nhau, tăng cường sức mạnh cho nhau. Người đâu tranh cho dân chủ cũng đồng thời là người đấu tranh cho nhân quyền, và cuộc đấu tranh cho nhân quyền lại thúc đẩy mạnh mẽ cuộc vận động cho dân chủ đa nguyên đa đảng. Dân chủ hoá thường là cuộc vận động trong phạm vi từng nước, từng quốc gia, c̣n nhân quyền thường bao hàm cuộc đấu tranh cho mọi quốc gia, cho toàn nhân loại, theo quan niệm loài người là ‘’một’’, là một thể thống nhất, tứ hải giai huynh đệ (bốn biển là anh em), thế giới chung một mái nhà. Thời đại toàn cầu hoá, vấn đề nhân quyền trên toàn thế giới cũng trở nên cấp bách.
1-/ Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (10–12–1948) Năm 1948 sau 3 năm chuẩn bị, ngày 10-12, Đại hội đồng Liên Hợp quốc nhất trí thông qua bản Tuyên ngôn về Nhân quyền, dựa vào Hiến Chương của Liên Hợp Quốc năm 1945. Đây là một bước tiến lớn của nền chính trị quốc tế, đánh dấu sự trưởng thành to lớn của nền văn minh nhân loại, thành một chỗ dựa cực kỳ hệ trọng để phổ cập quyền con người ra toàn thế giới. Việt nam sau khi được gia nhập Liên Hợp Quốc đă long trọng cam kết tôn trọng bản Tuyên ngôn lịch sử này từ năm 1982.
Bản tuyên ngôn rất phong phú nhưng cô đọng, chỉ có 4 trang nhỏ, gồm 30 điều. Trên đại thể, đó là các quyền tự do, b́nh đẳng, sống an toàn, không bị làm nô lệ, bị tra tấn, bị xâm phạm nhân phẩm; được pháp luật bảo vệ để không bị bắt giữ, giam cầm một cách độc đoán; được tôn trọng về đời tư, gia đ́nh, nơi ở, thư từ; được tự do đi lại, cư trú, được ra khỏi nước ḿnh, trở về nước hoặc xin tỵ nạn, được tự do đổi quốc tịch; có quyền sở hữu tài sản, có quyền tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tự do phát biểu ư kiến, tự do hội họp, lập hội; có quyền làm việc, trả lương công bằng, tham gia công đoàn, hưởng an sinh xă hội, quyền nghỉ ngơi giải trí, được hưởng giáo dục miễn phí (và bắt buộc ít ra ở cấp tiểu học)...[ nhân đây, xin lưu ư các bạn là nước Việt nam đang bị chỉ trích là vi phạm Tuyên ngôn này v́ bắt học sinh và gia đ́nh đóng đủ loại học phí, từ tiền sách vở, đóng bàn ghế, mua bảng đen, tủ sách, sửa trường lớp, canh gác bảo vệ trường lớp, tiền vệ sinh, văn nghệ, thể thao...đều là vi phạm nguyên tắc ‘’giáo dục miễn phí ‘’ ít nhất là ở cấp tiểu học - hiện đă phổ cập bắt buộc miễn phí phổ biến ở cấp trung học và không ít nước miễn phí đến cả bậc đại học ].
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền là một lợi khí rất sắc bén trong tay các chiến sỹ đấu tranh cho dân chủ trong nước, ở nước ngoài và các bạn quốc tế khắp 5 châu quan tâm đến quyền sống tự do của nhân dân ta. Chúng ta cần nghiên cứu thật sâu thật kỹ để vận dụng nhuần nhuyễn và linh hoạt.
Chính quyền độc đảng độc đoán luôn viện cớ ‘’chủ quyền thiêng liêng ‘’ của từng quốc gia để coi những lời khuyên can, cảnh báo, lên án những vi phạm nhân quyền ở Việt nam của quốc tế là can thiệp thô bạo vào nội trị nước ta. Đó là cái lưỡi gỗ trâng tráo nhưng đáng thương của ngừơi phát ngôn bộ ngoại giao Hànội. Họ buộc phải nói vậy mà biết rằng ḿnh vô lư, nhưng v́ miếng ăn mà vẫn cứ phải nói như vẹt. Vô lư v́ ai đă kư vào bản Tuyên ngôn là đă cam kết với Liên Hợp Quốc và toàn thế giới tôn trọng nội dung bản Tuyên ngôn ấy. Khi nước nào vi phạm th́ cơ quan Liên Hợp Quốc và mọi thành viên, mọi công dân của thế giới đều có quyền tố cáo, lên án và yêu cầu chấm dứt sự vi phạm. Đó là quyền cũng là nghĩa vụ không ai có thể phủ nhận.
Nhà luật học Pháp René Cassin (1887-1976) là người dự thảo chính của bản Tuyên ngôn. Ông được thưởng giải Nobel năm 1968 về công hiến không mệt mỏi cho nhân quyền thế giới. Lời nói được truyền tụng của ông là:‘’ Nếu ở đâu đó trên thế giới c̣n có vi phạm quyền con người th́ an ninh và hoà b́nh quốc tế vẫn c̣n bị đe dọa ‘’.
Ngày ban hành Tuyên ngôn 10-12 được công nhận là ‘’ Ngày Nhân Quyền ‘’ của toàn thế giới.
Để theo dơi việc vi phạm nhân quyền, Liên Hợp Quốc có nhiều tổ chức chuyên môn như Uỷ ban nhân quyền, hội đồng nhân quyền, Trợ lư và các phái viên tổng thư kư về nhân quyền; trên thế giới có nhiều tổ chức phi chính phủ chuyên theo dơi việc tôn trọng nhân quyền như Human Rights Watch (Quan sát về Nhân quyền), Amnesty International, Mạng lưới Nhân quyền, mạng internet Nhân quyền, họp mặt nhân quyền, bàn tṛn nhân quyền, tạp chí Nhân quyền...
2-/Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị (1966)
Năm 1966, Liên Hợp Quốc thông qua Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị, cụ thể hoá thêm nội dung của bản Tuyên ngôn trên đây.
Bản Công ước có 3 phần và 27 điều, tập trung nêu bật phẩm giá bẩm sinh và những quyền b́nh đẳng của mỗi công dân trong cộng đồng thế giới. Công ước công nhận những nạn nhân của vi phạm nhân quyền có quyền khiếu nại và đ̣i đền bù, bồi thường về những thiệt hại. Công ước nêu rơ cần rất thận trọng khi tuyên án tử h́nh và thực hiện việc hành quyết, và không được tuyên án tử h́nh với vị thành niên (dưới 18 tuổi)và với phụ nữ mang thai; không được tra tấn, đối xử vô nhân đạo và cưỡng bức lao động; cấm mọi h́nh thứ kỳ thị về chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, quốc gia, xă hội, tài sản, ḍng dơi ; các thành phần thiểu số được quyền hưởng văn hoá riêng, truyền giáo và hành đạo riêng, được xử dụng ngôn ngữ riêng.
Công ước đă phát triển cụ thể hơn, chi tiết hơn các quyền tự do đă được xác định trong Tuyên ngôn. Đây lại thêm một chỗ dựa pháp lư, một vũ khí sắc bén để bảo vệ có hiệu quả quyền con người ở khắp nơi trên quả đất.
3-/Công ước quốc tế về những quyền kinh tế, xă hội, văn hóa (1966)
Cũng trong năm 1966 Liên Hợp Quốc thông qua Công ước về những quyền kinh tế, xă hội và văn hóa, cụ thể hoá những quyền tự do của mọi công dân về 3 mặt kinh tế, xă hội và văn hoá. Trước hết là các quyền được làm việc và trả lương tương xứng, được nghỉ ngơi, giải trí, tham gia nghiệp đoàn,có bảo hiểm và an sinh xă hội, các sản phụ được chăm sóc, không được bóc lột lao động trẻ em và thiếu nhi, bảo hiểm sức khỏe và giữ an toàn lao động; tài nguyên quốc gia phải được khai thác trên cơ sở khoa học kỹ thuật, đồng thời bảo vệ môi trường ; mọi người phải được tham gia đời sống văn hoá, hưởng các thành tựu khoa học và quyền tiếp nhận lợi ích do bản quyền sáng tác, sáng chế, phát minh của ḿnh. Công ước lại nhấn mạnh đến việc thực hiện giáo dục tiểu học hoàn toàn miễn phí ở mọi nước, việc giáo dục trung học,giáo dục kỹ thuật và hướng nghiệp cũng phải phổ cập cho mọi người và cũng tiến dần đến miễn phí.
Ở Việt nam có điều rất trái ngược là lẽ ra đảng lănh đạo, chỉnh phủ, quốc hội và các cơ quan ngôn luận phải đi đầu trong việc tôn trọng nhân quyền và dân quyền, lẽ ra các cơ quan chuyên chính như cảnh sát, công an, toà án phải đi đầu trừng trị những kẻ vi phạm nhân quyền và dân quyền th́ đảng, chính quyền lại vi phạm nặng nề nhất quyền con người, toà án lại công khai vu cáo công dân lương thiện, công an chuyên ngăn cản trấn áp người dân lương thiện bị oan ức đi khiếu kiện.
Điều ngược đời đáng hổ thẹn nữa là người trong nước th́ đă bị đảng truyền cho căn bệnh vô cảm, nên bảo vệ công dân Việt nam bị oan trái mạnh nhất lại là các báo chí nước ngoài, các chính phủ nước ngoài, các tổ chức nhân quyền quốc tế, tổ chức phóng viên không biên giới và bà con người Việt ở ngoài nước.
Các vị uỷ viên bộ chính trị, các vị uỷ viên trung ương đảng và đảng viên cộng sản nghĩ ǵ khi thấy ông thủ tướng / uỷ viên bộ chính trị Phan Văn Khải phải sang tận thủ đô Washington DC, vào Nhà trắng chỉ để kư với tổng thống Bush bản cam kết một chiều là phía đảng và chính phủ Việt nam từ nay sẽ xin tôn trọng quyền tự do hành đạo của mọi công dân nước ḿnh. Có vị nào suy nghĩ cho sâu, cho ra lẽ để cảm thấu đáo cái quốc nhục này? Th́ ra một ông tổng thống từ một nước xa xôi, thuộc lục địa khác, từ xưa là nước thù địch, nay lại là người bảo vệ mạnh nhất, có hiệu quả nhất cho quyền làm người cho ra người khỏi sự áp bức tàn bạo của đảng cầm quyền trên đất Việt nam đầy những nghịch lư. Bản cam kết Việt - Mỹ mang chữ kư của ông Khải nên để vào nơi trang trọng của cuốn lịch sử đảng cộng sản Việt nam.
VI-/ Chung sức chung ḷng
Bạn quư mến!
Trên đây đă tŕnh bày với bạn những vấn đề chính liên quan đến cuộc vận động dân chủ hóa ở nước ta.
Có thể bạn đă có hiểu biết ít nhiều về vấn đề rộng lớn này. Hiểu biết của tôi c̣n nông cạn, cũng c̣n nhiều sai sót, mong bạn bổ sung, chỉ vẽ cho để vấn đề thêm phong phú và hữu ích.
Ở mấy trang cuối này xin trao đổi với bạn về việc chúng ta nên có thái độ nào để tham gia cuộc vận động này.
1-) Cuộc vận động lịch sử: Đây đúng là một cuộc vận động lịch sử. Nó sẽ đem đến cho nhân dân thân yêu của tất cả chúng ta những quyền tự do vừa cao quư vừa thiết thực mà ông cha ta chưa bao giờ được hưởng. Trước kia ông cha ta phải cúi rạp ḿnh trước vua quan, rồi trước bọn thực dân, rồi suốt ngày tụng niệm ‘’ơn đảng ơn Bác ‘’, đến độ lẩm cẩm nghĩ rằng:
Ngày xưa khô héo quạnh hiu
Có Người mới có ít nhiều vui tươi
Ngày xưa đói rách tơi bời
Có Người mới có được nồi cơm no
Ngày xưa cùm kẹp dày ṿ
Có Người mới có tự do tháng ngày
Người viết hoa đây là Staline đấy, để mà:
Ơn này nhớ để hai vai
Một vai ơn Bác một vai ơn Người.
Không! Chúng ta chỉ biết ơn bố mẹ ta, thày giáo ta, bà con nông dân cầy cấy, người chiến sỹ hy sinh cùng ta chống thực dân Pháp, người công nhân làm đường, các mẹ, các chị cấy cầy gồng gánh…và vô số ân nhân b́nh thường khác.
Qua cuộc vận động này chúng ta chung sức thay đổi hẳn nhận thức của toàn xă hội, nhận thức về giá trị giả và giá trị thật, đính chính những lầm lẫn lưu cữu, để tất cả thẳng lưng ngẩng đầu tự tin, để thương yêu nhau v́ cùng bị nhẫm lẫn, cùng bị ăn ‘’quả lừa ‘’ to đùng, nay c̣n có may mắn tỉnh ngộ, không như biết bao người trọn cả một cuộc đời lầm lẫn.
2-) Cuộc vận động văn hoá: Mọi cuộc vận động chính trị đều khởi đầu bằng văn hoá. Cuộc vận động dân chủ hiện nay về bản chất là một cuộc vận động văn hoá. Nhà khoa học vật lư nguyên tử Liên xô Sakharov là một trí thức dân chủ đầy tính nhân văn nhận định rằng:’’ không có ǵ vô văn hoá, phản văn hoá hơn là một chính đảng dùng chính quyền để ngự trị trên đầu của nhân dân nước ḿnh, trên đầu của đồng bào ḿnh ‘’; cùng một ư như thế, nhà báo Pháp Jean Lacouture cho rằng: ‘’ đảng cộng sản Việt nam đă thực hiện chính sách thực dân đối với nhân dân nước ḿnh ‘’ và ông tự đặt ra khái niệm để chỉ sự kiện kỳ quặc ấy là: autocolonisation. Cuộc vận động dân chủ hoá hiện nay chính là làm theo ư của nhà dân chủ Phan Chu Trinh v́ ông là người đề xướng mạnh mẽ cuộc vận động dân quyền, coi dân quyền là cơ bản nhất, là nội dung của việc khai dân trí, là biện pháp cơ bản để giải quyết tận gốc vấn đề dân sinh. Cuộc vận động dân chủ thực chất là sự thức tỉnh nhận thức về quyền tự do của người dân, người dân có bao nhiêu là quyền cần tận dụng cho hết để mưu cầu hạnh phúc cho riêng ḿnh và gia đ́nh. Khi mọi người dân đều hiểu rơ và thực hiện cũng như làm cho mọi người cùng thực hiện đủ các quyền đă xác định th́ chất lượng cuộc sống sẽ đạt một tầng cao mới, cuộc sống xă hội sẽ phong phú, hài hoà, tươi đẹp hơn rất nhiều, và đất nước sẽ bước vào một tŕnh độ văn minh cao hơn hẳn thời một đảng độc đoán cầm quyền. Cái lợi sẽ thuộc về quảng đại dân chúng v́ mọi khả năng sáng tạo của công dân sẽ được phát triển đến mức cao nhất trong xă hội dân sự, cả về giáo dục, y tế, văn học nghệ thuật, nghiên cứu khoa học cũng như về lương tâm đạo đức và nghĩa t́nh thương yêu đùm bọc sẻ chia trong cộng đồng xă hội. Trong xă hội văn minh thượng tôn luật pháp, nạn tham nhũng sẽ bị khống chế, đẩy lùi để đi đến bị loại bỏ. Thật khó ḷng được như Na uy và Thụy điển, hầu như tuyẹt nhiên không có nạn tham nhũng, hối lộ, trộm cắp, lừa đảo, nhưng ta có thể thu hẹp dần khoảng cách với các nước tiên tiến tuyệt vời ấy.
3-) Sự nghiệp của toàn dân. Sự nghiệp dân chủ hoá là sự nghiệp của toàn dân. Một số ít người tản mạn không thể làm nên một sự nghiệp lớn. Huống ǵ đây là một cuộc đổi đời sâu rộng về nếp nghĩ, về nếp ứng xử, về các quan hệ xă hội, về cơ cấu quyền lực, về sự vận hành của luật pháp, về cung cách quản trị đất nước.
Sự nghiệp này không tự nhiên mà thành. Chúng ta phải đứng cả dậy đ̣i lại. Không ai có quyền ban phát, họ cũng không tự nguyện hoàn trả lại chúng ta. Mỗi công dân trên cương vị của ḿnh cần chủ động nhận phần trách nhiệm thực hiện và lôi cuốn người xung quanh tham gia một cách thiết thực cuộc đấu tranh quyết liệt này. Giới trí thức, nhất là trí thức các ngành khoa học xă hội có vai tṛ hệ trọng. Các nhà luật học, sử học, triết học, kinh tế học, các văn nghệ sỹ hăy hăng say vào cuộc. Bao nhiêu điều cần xem xét đánh giá lại để trả lại cho sự thật, cho sự công bằng, cho khoa học. Hăy từ bỏ thái độ ‘’pḥ chính thống‘’ thấp kém, hăy pḥ sự thật, pḥ lẽ phải, pḥ dân chủ, pḥ nhân dân, pḥ những người bị đối xử bất công, vừa v́ đại nghĩa, vừa v́ hôm nay họ bất công với người này th́ mai họ sẽ lại bất công với chính ḿnh.
Từ một việc nhỏ như gần đây trong nước đă có một nhà văn lăo thành nhận rằng chính ông hồi 1946 đă bịa ra chuyện em Tám tẩm dầu xăng vào người thành đuốc sống để xông vào đốt cháy kho đạn lớn của thực dân Pháp ở Thị Nghè, Sài g̣n. Cả xă hội cho là chuyện thật, người ta làm kịch, làm thơ, cả 3,4 thế hệ thiếu nhi tin là chuyện thật, vườn hoa Lê Văn Tám được đặt cho vườn Mạc Đĩnh Chi xưa, người ta c̣n đặt giải thưởng Lê Văn Tám. Việc lầm lẫn này bản thân nó không có hại, nhưng nó lại bộc lộ một tư duy non yếu, một nhận thức mê muội của nhiều thế hệ, v́ chỉ một chi tiết:’’ em Tám tẩm một chai xăng vào áo quần, châm lửa xong xông vào kho đạn cách cổng khoảng 40 thước khiến bọn lính gác hoảng sợ bỏ chạy …’’ th́ tỉnh táo một chút cũng biết là không thể có thật, v́ bị lửa thiêu em Tám chạy 2 bước đă là khó v́ xăng bắt lửa cực nhạy.
Gần đây nhà sử học Mỹ Christoph Gieben ở Đại học Washington để công sưu tầm tư liệu về hành động treo cờ đỏ khởi nghĩa của thuỷ thủ tàu chiến Pháp ở biển Hắc hải do chiến sỹ hải quân Tôn Đức Thắng thực hiện hồi chiến tranh thế giới thứ nhất; anh vào các kho tư liệu của hải quân Pháp, kho lưu báo hàng ngày hồi ấy, t́m lại các tin của các hăng tin quốc tế, đối chiếu hàng nǵn bài báo, báo cáo, bản tin…để kết luận đây là chuyện hoang đường, không có một chút tăm hơi của sự thật. Ông được biết chính nhà sử học Trần Huy Liệu cũng đă nghiên cứu sự kiện này và tỏ ra hoài nghi. Vậy Việt nam xử sự thế nào với kết luận ấy của nhà sử học có lương tâm nghề nghiệp, dù ông vẫn khâm phục cụ Tôn Đức Thắng của Việt nam về những mặt khác có thật. Điều kỳ lạ nữa là có bạn biết rơ khi cụ Tôn c̣n sống, cụ đă phẫn nộ rằng: ‘’ Đ.M.(xin lỗi bạn đọc) tao có làm chuyện ấy đâu! ‘’ nhưng họ vẫn mặc, để tô vẽ râu ria cho đảng!
Các bạn trẻ dồi dào sức sống, tự tin, cầu tiến bộ, không bị quá khứ nặng nề ḱm hăm là mũi xung kích của dân chủ hoá. Khi có bầu cử dân chủ, các cử tri dưới 40 tuổi chiếm đa số cử tri nước ta. Các bạn trẻ! hăy tự ḿnh t́m hiểu và tự ḿnh t́m ra con đường của chính ḿnh, cho bản thân ḿnh.!
4-/ Chúng ta không đơn độc: Sự nghiệp to lớn nào cũng phát triển từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, từ ít đến nhiều. Hiện nay chúng ta đă có vài trăm chiến sỹ dân chủ tiền phong và kiên trung toả rộng trên cả nước. Đó là vốn quư cần bảo vệ và nhân lên không ngừng. Các chiến sỹ Hoàng Minh Chính, Phạm Quế Dương, Trần Khuê, Nguyễn Thanh Giang, Hà Sỹ Phu, Hoàng Tiến, Bùi Minh Quốc cả nước biết đến. Các bạn trẻ Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Khắc Toàn, Nguyễn Vũ B́nh, Lê Chí Quang, Đỗ Nam Hải nối tiếp. Cụ Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang tỏ rơ ḷng yêu nước khi lớn tiếng đ̣i dân chủ đa nguyên đa đảng. Linh mục Nguyễn văn Lư nêu gương kiên cường khi khẳng định trước kẻ cầm quyền chế độ này ‘’ chưa độc lập, thiếu tự do, không hạnh phúc ‘’. Nhà văn gan góc Dương Thu Hương đầy tâm huyết, nhọn sắc trong văn phong và táo tợn trong phát ngôn là một nét son tiêu biểu nhân cách của người phụ nữ thời dân chủ. Chị luôn ngồi bệt xuống cỏ với chị em bất hạnh, đau đáu xót thương đồng đội thanh niên xung phong suốt tuổi thanh xuân không hề biết hạnh phúc chồng vợ, khi ở tuyến lửa trở về th́ đă quá th́! Xin chớ ai bĩu môi chê bai chị kiêu ngạo và thô lỗ khi chị kể lại lời nhận xét dân gian:‘’ đảng cộng sản đă trở thành đảng cộng đớp, đảng cộng mút ‘’, và khi chị nói với nhà báo Mỹ ở Paris tháng 7-2005 mới đây: ‘’tôi phải về nước để phỉ nhổ vào mặt cái chế độ này ‘’. Chúng ta nên có thái độ đa nguyên, mỗi chiến sỹ dân chủ có cách tiến công riêng vào cường quyền theo phong cách, theo cái tạng của ḿnh. Với cái tạng ấy, phong cách ấy, nữ văn sỹ họ Dương không tham gia tổ chức nào nhưng độc chiêu của chị không kém hiệu lực của một đội quân bà Trưng bà Triệu trong cuộc chiến dành dân chủ.
Gần đây một loạt tiếng nói nhiều sức nặng lên tiếng đ̣i đa nguyên đa đảng. Nhà khoa học Trần Văn Hà trong trung ương Mặt trận Tổ quốc, nhà kinh tế Lê Đăng Doanh cố vấn cho nhà nước, ‘’con hùm sám đường số 4 ‘’ Đặng Văn Việt vừa làm chuyến du lịch Hoa kỳ, nhà toán học Phan Đ́nh Diệu, và đáng kể nữa là nhà báo mác-xít kiêm nhà tuyên huấn cộng sản hàng đầu Hoàng Tùng … đều đông thanh yêu cầu chấm dứt chế độ độc đảng toàn trị, chuyển sang chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng, v́ độc quyền ở đâu cũng tệ hại, v́ đổi mới cơ cấu chính trị không đi kịp đổi mới kinh tế th́ các thành tựu mong manh về kinh tế có thể bị tiêu tan.
5 -/ Gieo hạt, nảy mầm nở hoa và kết trái. Thế là chúng ta đang ở thời kỳ phát triển khá nhanh của cuộc vận động dân chủ. Không ai hài ḷng về thành quả đă đạt, nhưng cũng không có lư do ǵ để bi quan. Hạt giống dân chủ dân quyền được gieo từ nhà chí sỹ Phan Chu Trinh, từ quan điểm pháp trị của Nguyễn Mạnh Tường, từ sự trỗi dậy đ̣i tự do sáng tạo không có sự can thiệp của đảng cộng sản của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, qua tác động của cách mạng dân chủ Pháp, của sự ra đời của Liên bang dân chủ Hoa kỳ, rồi sự truyền bá của bản Tuyên ngôn Nhân Quyền và 2 bản Công ước quốc tế tiếp theo…dẫn đến t́nh trạng dân chủ đa nguyên đa đảng đang bắt rễ sâu vào giải đất khao khát tự do này. Trong thời mở cửa, thông tin quốc tế nhanh nhậy, những cuộc cách mạng không bạo lực, cách mạng nhung, cách mạng hoa hồng, hoa cẩm chướng, hoa thuỷ tiên…đang tăng thêm sức mạnh cho phong trào dân chủ ở nước ta.
Rễ ngày càng bám sâu toả rộng, hoa đă nở từng chùm, chúng ta hăy chăm sóc tưới bón cần mẫn để hoa trổ thêm bông, kết thành mùa trái ngọt cho toàn dân ta thưởng thức hương vị của tự do và dân chủ.
Cuộc vận động dân chủ đang đứng trước thời cơ thuận lợi hiếm có. Chế độ độc đoán độc đảng đang khủng hoảng to. Nội bộ đang phân hoá trầm trọng. Uy tín của đảng cầm quyền xuống thấp nhất. Đông đảo đảng viên thường chán nản, băn khoăn, mất phương hướng. Phong trào dân chủ đang trở nên Lương tâm Việt nam, Trí tuệ Việt nam, Tương lai Việt nam. Tuổi trẻ Việt nam mê say lư tưởng, b́nh đẳng, công lư và hội nhập quốc tế nh́n thấy rơ phong trào dân chủ là sinh mệnh của chính ḿnh. Chưa bao giờ có phong trào quốc tế yểm trợ dân chủ Việt nam lại rộng lớn, mạnh mẽ và có hiệu quả như hiện nay.
Việc giới cầm quyền ở Việt nam ráo riết làm mọi việc cần thiết để sớm gia nhập WTO Tổ chức thương mại thế giới, có thể vào cuối năm nay, để có thể có điều kiện duy tŕ nhịp độ phát triển ở mức cao cũng là một thời cơ thuận cho cuộc vận động dân chủ hoá. V́ khi đă hoà nhập rồi th́ Việt nam buộc phải chơi theo luật chung của thế giới, trong đó có việc công khai minh bạch về kinh tế tài chính, có việc tuân thủ luật pháp rất nghiêm, và thực hiện tự do hóa rất cao về mọi mặt.
Riêng với các bạn đang có may mắn làm việc, kinh doanh và học tập ở Liên Xô cũ và Đông Âu, thật đáng mừng là các bạn đang được hưởng niềm vui và những lợi ích của một chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng ưu việt. Nhiều bạn tự nguyện tham gia cuộc vận động dân chủ, t́m hiểu và truyền bá những sách báo và tư tưởng dân chủ, bất chấp sự cản trở trơ trẽn và thấp kém của sứ quán – là h́nh ảnh thu nhỏ của bộ máy quan liêu, độc đoán và tham nhũng của trong nước. Hăy thấu hiểu nỗi đau và thiệt tḥi của đồng bào trong nước chưa được hưởng tự do đầy đủ và tự nguyến dấn thân cho tự do thật sự của quê hương.
6- / Bạn c̣n nấn ná chờ đợi ǵ nữa? T́nh h́nh đă rơ, bạn c̣n nấn ná ǵ mà không tham gia cuộc vận động dân chủ.
Anh bạn trẻ tôi gặp ở Cali hăng hái lắm. Cả gia đ́nh anh từ Vĩnh Long sang đă hăng hái tham gia mặt trận chủ trương dùng bạo lực vũ trang. Mẹ anh hiến mấy lạng vàng không tiếc. Anh luyện vơ, tập thể thao, sẵn sàng tự nguyện trở về ‘’quang phục quê hương’’. Anh đinh ninh đấy là con đường duy nhất. Anh cho đấu tranh không bạo lực là dở hơi, là ngu, là dại, không hiểu ǵ cộng sản cả. Sau 2 năm suy nghĩ, nản chí, anh nhận ra con đường bạo lực quả là vô hiệu, là dở hơi, là dại thật, ngu thật. V́ ḷng dân trong nước không thuận. V́ sức đâu, ủng hộ quốc tế đâu? Sẽ chỉ là những bi kịch thiêu thân mù quáng. Anh là người chân thật, thẳng thắn, đôi khi ăn nói bỗ bă. Anh tỉnh dần. Và nay anh là chiến sỹ dân chủ tận tuỵ, hăng say, yêu đời. Anh mở computơ chuyên cần. Anh đọc bài trên các mạng dân chủ. Anh in và truyền bá các bài sắc sảo từ trong nước. Anh t́m địa chỉ email các bạn cũ c̣n trong nước để trao đổi ư kiến, t́nh h́nh và tài liệu. Anh viết bài cho báo điện tử Đàn Chim Việt và được hồi âm, gây tranh luận sôi nổi bổ ích.
Lại một chị tôi gặp ở Pari. Chị quê miền Trung, ăn nói mạnh miệng ‘’ngoa ngoắt ‘’ không kém ǵ Dương Thu Hương. Chị chống cộng tối ngày. Chị căm ghét tôi, nghi ngờ tôi, đ̣i tôi phải nhận tội và sám hối. Rồi dần dần chị hiểu tôi, hết nghi tôi là gián điệp, là ‘’cuội’’ … Nhưng chị vẫn không tin ở phong trào vận động dân chủ. Từ khi chị nói chuyện với anh Đặng Phúc Lai về t́nh h́nh chính trị trong nước, khi anh ở Hànội mới sang cuối năm 2002, chị thay đổi hẳn. Chị hiểu ra rằng cứ căm thù ngút ngàn, mở mồm chửi rủa suốt ngày bọn kẻ cướp bất lương th́ cũng không đụng ǵ đến chúng. Một mực ngăn không để đồng bào về nước - v́ về nước là công nhận bọn nó, là tiếp sức bọn nó, là phản bội bà con tỵ nạn – th́ đồng bào trở về càng đông. Ra sức khuyên nhủ bà con chớ gửi tiền về nước, cố chịu đựng, thư thả, th́ số tiền bà con gửi về ngày càng nhiều, từ 2 tỷ US$ lên 3 tỷ, nay đến 4tỷ rồi! Từ đầu năm nay chị đổi khác hẳn. Chị theo dơi rất đều mỗi hoạt động của các chiến sỹ dân chủ. Chị có cách nh́n thực tế, tỉnh táo, thông minh hơn. Chị t́m cách nói chuyện với anh Trần Khuê ở Sài g̣n và hẹn sẽ về thăm anh trong năm nay. Chỉ hiểu ra rằng đây là cuộc đấu tranh mà mọi người yêu quê hương cần tham gia với khả năng ḿnh, góp gió thành băo, không thể chỉ khoanh tay ngồi nh́n; chỉ chửi đổng cho nguôi thù hận hay thở dài là đầu hàng chúng, là điều những nhà cầm quyền độc đoán chỉ mong có thế.
7-/ Trận tuyến dân chủ, không có trận tuyến nào khác cả:
Cuộc vận động lịch sử cho dân chủ hiện nay có sắp xếp lực lượng mới; mọi chuyện không c̣n như trước, như thời chiến tranh. Trong cuộc vận động lịch sử này, trận tuyến được vạch ra rơ rệt. Nhân dân trong nước, đối tượng chủ yếu của sự đè nén áp bức kềm kẹp của đảng độc đoán là lực lượng đấu tranh trực tiếp hàng ngày, được hàng ngũ các chiến sỹ dân chủ làm tiêu biểu, là đầu tàu, là mũi nhọn. Lực lượng trí thức, văn nghệ sỹ yêu dân chủ, tuổi trẻ năng động cầu tiến, sỹ quan cựu chiến binh của các bên nay có chí hướng dân chủ… là lực lượng hậu bị hùng hậu của cuộc vận động. Lực lượng dân chủ trong cộng đồng ở nước ngoài là lực lượng hỗ trợ có ư nghĩa quyết định cho cuộc vận động dân chủ ở trong nước. Mối liên hệ dân chủ trong ngoài nước trở nên sinh tử. Lục lượng dân chủ hải ngoại đảm nhiệm việc tranh thủ sự ủng hộ mạnh mẽ của quốc tế, bao gồm các báo chí truyền thông, các tổ chức nhân quyền, các chính phủ, quốc hội các nước, tạo nên sức ép quốc tế ngày càng mạnh và có hiệu quả.
Không nên có một ranh giới nào khác. Bộ máy tuyên truyền và an ninh trong nước rất thích thú cho rằng chủ trương việc tô đậm ranh giới quốc - cộng của một số người đề xướng là rất phù hợp ư định của Hànội, đó là cô lập trong nước với ngoài nước, là giữ nguyên ranh giới người thắng với kẻ thua trong chiến tranh, là giúp cho phía họ be bờ đắp luỹ giữ trận tuyến cũ, không để h́nh thầnh thế trận mới rất nguy hiểm cho họ. Do đó ngành tư tưởng và an ninh trong nước không hề lo ngại và không cần đối phó ǵ đối với việc hô hào tô đậm ranh giới Quốc - Cộng, trái lại họ rất lo sợ đối phó quyết liệt với trận tuyến dân chủ đang phát triển không ngừng tiến công vào trong hàng ngũ họ. Những báo cáo của bộ công an Hànội bị tiết lộ nói lên rơ ràng điều ấy. Chẳng lẽ một số người tự nhận là’’quốc gia kiên định’’ lại đi tiếp sức cho chế độ độc đoán như vậy. Một cuộc chiến đấu hoàn toàn mới cần một sắp xếp lực lượng hoàn toàn mới. Sao cứ ngoái cổ lại phía sau, một phía sau đen tối đă thất bại từ lâu.
Vậy th́ nên thành lập hay tham gia đảng chính trị dân chủ nào? Câu hỏi này vượt ra khỏi cuốn sách nhỏ này. Xin tuỳ các bạn t́m hiểu, suy nghĩ và lựa chọn. Ở ngoài nước có không ít đảng, phong trào, tập hợp, liên minh, hội, câu lạc bộ, mạng lưới, họp mặt, v.v…. Rồi sẽ c̣n những tổ chức khác xuất hiện, dựa vào quyền tổ chức, quyền kết đoàn lập hội được Tuyên ngôn Nhân quyền và các Công ước quốc tế năm 1966 bảo đảm là bất khả xâm phạm. Sự trấn áp của nhà nước bị xem là phi pháp, là vi phạm cam kết trước cộng đồng quốc tế, c̣n là tự thú nhận sự thấp kém, mất tự tin v́ không dám chấp nhận sự ganh đua công khai minh bạch, lấy lá phiếu cử tri làm trọng tài.
8-/ Lương tâm dân chủ: Các bạn tham gia cuộc vận động hăy vững tâm bền chí, tự tin và tin vào phong trào đang rộng mở. Hăy bền gan quyết chí đến cùng. Hăy giữ đoàn kết nhất trí trong nội bộ tổ chức của ḿnh. Và khoác vai kết hợp với các tổ chức dân chủ khác cùng chung con đường đấu tranh không bạo lực.
Tất cả các tổ chức dân chủ và các chiến sỹ dân chủ hăy coi nhau là anh em, là bạn đường hoặc chung một hướng, thân thiết hợp tác, tránh đố kỵ và chia rẽ.
Đến nay vẫn c̣n có người tự nhận là dân chủ, là yêu nước, là quốc gia chân chính lại truyền bá những điều phi lư nhất, như tung dư luận là các anh Đoàn Viết Hoạt, Lê Xuân Khoa, Nguyễn Chí Thiện, Nguyễn Gia Kiểng, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Thanh Giang, Trần Khuê, cả anh Trần Độ đă mất, và bản thân tôi – Bùi Tín, là ‘’cuội ‘’, là Việt cộng ‘’gộc ‘’ không có thể thay đổi bản chất, là ‘’đặc công đỏ ‘’ rất nguy hiểm…Tôi không chút tự ái cá nhân, tự nhận phần lỗi v́ đă không đủ sức làm cho mọi người hiểu rơ ḿnh, và chỉ khuyên những người c̣n cố t́nh ‘’nhầm lẫn’’ là họ đang vô t́nh hay cố ư tiếp tay chẳng mấy đắc lực cho chế độ độc đoán, và các kẻ cầm đầu ngành tư tưởng và an ninh trong nước vô cùng hoan ngênh những bài viết vừa độc ác quỷ quyệt, vừa thấp kém cả về trí tuệ và nhân cách đến vậy! H́nh như lương tâm dân chủ, lương tâm làm người lương thiện không có trong những con người đáng thương ấy. Sự bất lương của họ ai cũng có thể nhận ra.
Với lương tâm dân chủ, các chiến sỹ dân chủ trong nước đang nhận ra thời cơ, vẫy nhau để phối hợp trong một cuộc vận động rộng lớn, bao gồm nhiều tổ chức, thành phần, dân tộc, lứa tuổi, địa phương, tôn giáo, người ngoài đảng, đă ra khỏi đảng hay c̣n trong đảng cộng sản, từ các chiến sỹ dân chủ đă công khai xuất hiện đến các chiến sỹ c̣n vô danh. Anh chị em đang thu hẹp những bất đồng nhỏ, những hiểu nhầm về cá nhân để củng cố và mở rộng lực lượng.Trong phong trào dân chủ mở ra rộng, trong cơn khủng hoảng chính trị, từ giới trí thức, thậm chí từ các cơ quan lănh đạo của đảng cộng sản Việt nam có thể xuất hiện một người hay một nhóm lănh đạo phong trào dân chủ đa đảng. Thời thế tạo anh hùng. Một Gorbachev, một Elsin, một Vaclav Havel, một Lech Walesa, một Aung San Suu Kyi, một Nelson Mandela, một Trần Thuỷ Biển … ở Việt nam rồi sẽ xuất hiện. Đă và đang nổi lên một số gương mặt tiêu biểu.
Nếu bạn có chí khí anh hùng th́ đây chính là mảnh đất để bạn dụng vơ bằng con đường nhân ái không bạo lực nhưng khá quyết liệt và cũng đ̣i hỏi hy sinh.
Nếu bạn nuôi dưỡng chí căm thù ngút trời với những đàn áp bất công, tàn ác bất nhân do chế độ độc đoán gây ra th́ cuộc vận động này chính là phương cách hợp lư nhất để bạn thanh toán những món nợ chung và nợ riêng, để tàn ác và bất công sẽ bị loại khỏi cuộc sống của dân ta dưới một chính thể thật sự tốt đẹp là dân chủ đa nguyên đa đảng.
Ai là người Việt nam thật ḷng yêu nước ḿnh thương dân ḿnh, yêu lư tưởng tự do, công bằng, bác ái, quư trọng dân chủ thứ thật: dân chủ đa nguyên đa đảng hăy dang rộng tay khoác vai nhau, chung sức chung ḷng dấn thân cho dân chủ. Trước kia ‘’yêu nước là yêu chủ nghĩa xă hội’’. Nay ‘’yêu nước là yêu dân chủ’’. Dù xa cách, chúng ta là anh chị em thân thiết chung một mái nhà ấm cúng ta đang chung sức xây dụng: nước Việt nam hoà b́nh dân chủ đa nguyên đa đảng, một nước Việt nam thật sự tự do, đầy sức trẻ khoẻ, vươn ḿnh trong nắng ấm và gió lộng bên bờ Thái B́nh Dương.
Thân yêu gửi bạn niềm tin vững chắc.
Paris. Tháng 1-2006.
Phụ lục
1- Chuyện vui của các chiến sỹ dân chủ (từ kho tiếu lâm Moscow)
v Lê-nin mất tích. Hồng trường Moscow. Trong Lăng Lê-nin. Một buổi sáng, tổ Hồng quân đi tuần trong lăng giật ḿnh, sững sờ không thấy thi hài Lê-nin đâu. Mọi người nhớn nhác hoang mang. Bỗng thấy một bức thư nhỏ đặt trong quan tài kính. Trên thư là nét chữ quen thuộc của Lê nin: ‘’ Hỡi nhân dân nước Nga! Hỏng bét rồi! Phải làm lại từ đầu. Tôi lên đường sang Thuỵ sĩ. Xin lỗi tất cả! Tạm biệt! ‘’ kư: Lénine.
v Ở quảng trường tháng Mười. Thủ tướng Kossighin đi qua tượng của nguyên soái Joukov, bỗng thấy Joukov vẫy gọi rồi thầm th́: ‘’ Đồng chí thủ tướng thân yêu, tôi đứng đây đă 13 năm, mỏi chân lắm rồi. Đồng chí thấy không, ở đằng kia sao tướng Kutudốp lại được cưỡi ngựa đàng hoàng, thế là bất công! ‘’.
Kossighin về báo cáo chuyện lạ này cho tổng bí thư Bréjnev và đưa Bréjnev đến thăm và an ủi Joukov. Chưa kịp chào hỏi Joukov nổi giận hét lên: ‘’ Đồng chí Kossighin! Tôi yêu cầu đồng chí dắt lại đây cho tôi một con ngựa sao đồng chí lại dắt đến một con lừa! ‘’.
v Trên xe buưt ở Moscow đông nghịt khách. Một ông già bỗng hỏi một người to béo đứng cạnh: - thưa ngài, xin chào ngài, cho phép tôi hỏi: ông có làm việc ở cơ quan KGB (an ninh) không ạ?
- không!
- vậy ông có ông bạn thân nào có vinh dự ấy không ạ?
- không!
- tôi xin được ṭ ṃ thêm một chút. Ông có láng giềng nào làm việc cho KGB không ạ?
- không!
- vậy tôi xinhân hạnh báo cho quư ngài là chiếc dày da to lớn của ngài đă đặt nhầm trên bàn chân trái khốn khổ của tôi từ khi xe bắt đầu chạy.
v Chúc Tết. Sáng mồng một Tết. Bí thư thành uỷ Moscow đến thăm một gia đ́nh gương mẫu có 4 người con. Chủ gia đ́nh lần lượt giới thiệu 3 người con đầu. Anh cả là đảng viên sỹ quan vừa được huân chương Sao đỏ. Anh thứ hai là cán bộ một xí nghiệp quốc doanh vừa được tuyên dương chiến sỹ thi đua toàn quốc. Anh thứ ba là đoàn viên thanh niên cộng sản vừa nhận bằng khen của trung ương đoàn. Bí thư hỏi: thế c̣n thằng thứ tư đâu? Chủ nhà lúng túng thưa: dạ cháu Ivan c̣n kém, chẳng có thành tích ǵ, cháu đang sang nước Thổ nhĩ kỳ kiếm ăn tạm thời. Bí thư liền dạy:’’ Gọi nó về, phải rèn luyện cho bằng 3 anh nó, gọi ngay về, hiểu không? ‘’. Chủ nhà giật ḿnh:’’ thưa đồng chí, đồng chí thông cảm cho, một ḿnh I-van gửi tiền về nuôi cả nhà này đấy ạ ‘’
v Ở trưởng đảng trung ương Liên xô.
Thầy dạy môn kinh tế: - chủ nghĩa tư bản đang đứng trên bờ của vực thẳm, các đồng chí có hiểu không?
Tṛ: - thưa giáo sư hiểu ạ. Có phải chủ nghĩa tư bản đứng trên bờ vực để cúi xuống nh́n cho thật rơ chủ nghĩa xă hội đang ch́m xuống đáy vực ra sao, phải không ạ?
Thầy lại dạy: - Chủ nghĩa xă hội đă đuổi kịp và vượt chủ nghĩa tư bản…
Tṛ (nhanh mồm): thưa thày, có phải đó là trong cuộc chạy đua chí mạng xuống hố thẳm diệt vong không ạ?
● Giữa bữa tiệc tất niên, một vị nâng cốc cao giọng chúc: Xin các đồng chí cùng tôi nâng cốc chúc mừng đồng chí Bí thư thành uỷ kính mến của chúng ta, - chúc mừng không phải v́ đồng chí có 2 biệt thự v́ ai chả cần một nhà để ở và một nhà để nghỉ ngơi cho lại sức,
- chúc mừng không phải v́ đồng chí mới có xe Mercedes nhập khẩu v́ ai chẳng cần xe thật tốt để phục vụ tốt đất nước,
- chúc mừng không phải v́ cuối năm nay đồng chí đă gửi vào quỹ tiết kiệm 2 tỷ rúp (bằng 2 triệu US$) v́ đảng luôn dạy chúng ta phải tiết kiệm, mà chỉ v́, vâng chỉ v́ đồng chí Bí thư thành uỷ kính mến của chúng ta rơ ràng là một con người cộng sản chân chính!
● Tết 1962. Đài phát thanh Moscow báo tin mừng: đồng chí lănh tụ
kính mến Nikita Khroutchev của chúng ta vừa được thưởng Huân chương cao quư Lê-nin do kỳ tích gieo lúa ḿ trên vùng đất Kadắctăng, và…thu được vụ năng xuất cực cao ở …Canada!
● Ở thế giới bên kia, Gorki t́nh cờ gặp lại Lê-nin, rủ nhau vào quán rượu. Gorki gọi 2 cốc Vodka mỗi cốc 1 Rúp. Lê-nin vội ngăn: xin lỗi đồng chí đại văn hào, cho tôi nửa Rúp thôi nhé. Đồng chí nhớ không khi c̣n ở trên dương thế đồng chí mời tôi cốc Vodka lớn thế là tôi say đứ đừ, sinh ra ba hoa, bốc đồng, kêu gọi bừa: giai cấp vô sản vùng lên làm chủ thế giới. Tôi bị họ mắng té tát, không dám lắp lại sai lầm xưa nữa.
● Đài phát thanh Moscow loan tin khẩn cấp: ‘’ Thưa đồng bào! Đêm qua bọn kẻ trộm bất lương tay sai đế quốc đă đột nhập trụ sở Bộ Nội vụ Liên xô ăn trộm toàn bộ kết quả của cuộc bầu cử, nên bộ chính trị vừa quyết định cuộc bàu cử Xô viết Liên bang dự định vào ngày chủ nhật sắp tới sẽ hoăn không thời hạn.’’
● Phát xít Hitle bất ngờ tiến công Liên xô. V́ bị bất ngờ, quân đội Liên xô lùi liên tiếp hàng 5 tháng liền. Lính thắc mắc: c̣n rút đến đâu nữa!
Các chính uỷ trấn an: khỏi lo, các đồng chí! Đại nguyên soái Stalin là vị tướng tài ba nhất thế giới. Ngài đang dử đại quân của địch vào sâu tận trong dăy núi Oural rồi vây lại không cho chúng trở về nữa.
● Nhân kỷ niệm ngày sinh của đại văn hào Nga Pouchkine, Nhà nước Liên xô đặt giải thưởng cho giới điêu khắc làm một bức tượng lớn để lưu niệm. Hơn 200 bức tượng dự thi, Pouchkine đứng, Pouchkine ngồi, Pouchkine đọc thơ, Pouchkine mơ mộng, Pouchkine diễn thuyết… Sau 2 ngày phân loại cho điểm để loại dần, bức tượng được trúng giải nhất là tượng: Staline ngồi đọc sách trong tay cầm cuốn tuyển tập thơ của Pouchkine
● Tito luôn băn khoăn về ḷng dân đối với bản thân ông ta. Tito hay làm chuyến thâm nhập quần chúng để thăm ḍ. Ông đến một cổng xí nghiệp, hỏi riêng một công nhân trẻ: ‘’ cậu có yêu quư lănh tụ Tito không? ‘’. Anh ta nh́n quanh như không dám trả lời nơi đông người. Anh ta đi măi ra tận ngoại ô, qua một cánh đồng mới dừng lại. Tito bám theo, đến gần ḍ hỏi. Cậu công nhân nh́n trước nh́n sau, ghé sát tai Tito thầm th́: ‘’ ông phải giữ kín cho tôi nhé. Ai khác nghe được th́ nguy hiểm cho tôi. Thế này này, riêng tôi tôi yêu quư ông Tito nhiều lắm! ‘’.
● Thanh tra giáo dục đến trường xuất sắc nhất thủ đô Nam tư để kiểm tra. Ông hỏi một học sinh lớp 3 :
- bố em là ai?
- bố em là đồng chí Tito ạ.
- mẹ em là ai?
- mẹ em là đảng cộng sản Nam tư ạ.
- giỏi, đúng sách. Lớn lên em muốn điều ǵ?
- dạ, em muốn được mồ côi ạ!
● Tổng bí thư Brejnev được phong Đại Nguyên Soái Liên xô. Hai năm sau ông c̣n được thưởng danh hiệu ‘’ Nghệ sỹ công huân của Liên bang xô viêt ‘’. Giới nghệ sỹ Liên xô b́nh luận : đó là do tài nhập vai của ông khi đóng vai diễn Đại nguyên soái.
● Tổng bí thư Brejnev cặp bồ với một nữ nghệ sỹ múa balê Svetlana, kém ông gần 40 tuổi. Một bữa cô ta làm nũng, Brejnev đưa quà ǵ cũng lắc. Ông lo lắm, nhử rằng : em muốn ǵ ta cũng chiều, nói đi. Cô ta ỏn ẻn : anh hăy kư lệnh mở toang biên giới nước ta đi.
Brejnev hiểu ngay : - em khôn thế! nghĩa là mọi người sẽ đi hết, chỉ c̣n 2 chúng ḿnh ngự trị trên đất này, phải không cưng!
● Một phụ nữ Nam tư đi xe đạp dừng lại trước vườn hoa lớn sát trụ sở đảng cộng sản Nam tư. Bà tựa xe vào chiếc cột cạnh đấy. Một chú cảnh sát chạy lại hoạnh hoẹ: đi chỗ khác, lănh tụ Tito sắp đi qua đây.
Bà ta tưng tửng rằng : cám ơn chú, khỏi lo cho tôi, tôi đă khoá xe rồi!
● Lănh tụ Dubsek của Tiệp khắc rất ương ngạnh với Liên xô. Một bà tiên hiện ra : tôi cho ông ước 3 điều.
Điều thứ nhất? - quân Tàu tràn sang chiếm Tiệp khắc rồi rút. Điều thứ hai? - quân Tàu lại tràn qua đây lần nữa.
Điều thứ ba? - quân Tàu lại tràn qua lần nữa rồi rút. V́ 6 lần tràn qua tràn lại Liên xô th́ cả 2 nước lớn ấy phỏng c̣n có ǵ tồn tại nữa!
● Ông bố (Nam tư) hỏi con :
- khi con gặp điều may th́ con nói ǵ?
- thưa cha, cám ơn Thượng đế ạ.
- không được, phải nói cám ơn đồng chí Tito,
- vậy khi đồng chí Tito mất th́ con sẽ cám ơn ai?
- ừ nhỉ, để bố xin ư kiến chi bộ đảng,
- chả cần, con sẽ nói ngay : cám ơn Thượng đế!
● Người dân Nam tư gặp bạn, hớn hở : này tớ báo cho cậu 1 tin vui và 1 tin buồn ; tin vui là Tito nghẻo rồi ; tin buồn là : tin ấy chưa được xác nhận là có thật.
● Brejnev đón bà mẹ từ vùng quê ra Moscow. Ông mở tiệc lớn để các quan đại thần trong triều đ́nh Kremli đến chào mừng mẹ ḿnh. Xong ông dẫn mẹ đi dạo phố trong chiếc xe Cadillac do tổng thống Nixon tặng, rồi đi Sochi nghỉ mát trên chiếc máy bay riêng ; bà mẹ vẫn tỏ ra không vui. Ông dẫn bà vào biệt thự riêng, nơi pḥng tắm, bồn vệ sinh, gương cực lớn đều mạ vàng, đóng khung vàng ṛng. Ông thưa mẹ : từ khi con c̣n bé mẹ đă ao ước con thành đạt hơn người. Nay con sống sang trọng hơn bất cứ ông vua nào, chắc mẹ vui lắm chứ! Bà mẹ ghé tai con nói nhỏ : ‘’ Con của mẹ ơi! Mẹ vui th́ vui vậy thôi, nhưng lo lắm, sợ lắm, nếu bọn đỏ nó trở lại th́ khéo cả mẹ và con đều sẽ đi đứt cả thôi! ‘’.
● Brejnev đi thăm Ấn độ trở về liền gọi chuyên gia trang điểm dung nhan tổng bí thư đến, bảo : ‘’ Ngươi hăy vẽ cho ta một nốt đỏ giữa trán như ta thường thấy trên trán các phu nhân Ấn độ, nghe không? V́ hôm ở New Delhi bà Indira Gandhi nói nhỏ với ta rằng : ngài là nhân vật tuyết vời, chỉ thiếu mỗi một cái nho nhỏ ờ chỗ này thôi! và bà ấy chỉ ngay giữa trán ta!’’. (bà Gandhi muốn chỉ cái bộ óc, cái trí khôn)
● Đại hội đảng cộng sản đang thảo luận sôi nổi về tương lai huy hoàng, chủ nghĩa cộng sản thắng lợi trên quy mô toàn thế giới. Một đại biểu rụt rè đứng dậy : ‘’ Thưa các đồng chí, tôi xin mạnh dạn nói lên nỗi lo và thắc mắc như sau : sau khi chủ nghĩa cộng sản toàn thắng khắp nơi th́ ta sẽ t́m nơi nào để nhập cảng lúa ḿ cho nhân dân? ‘’.
● Kinh tế học mác-xít.
- Chế độ nào ngắn nhất trong nước cộng hoà xă hội chủ nghĩa chúng ta?
- Chủ nghĩa xă hội.
- vậy chế độ nào dài nhất?
- con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xă hội.
- con đường nào hay nhất?
- từ chủ nghĩa xă hội quay về chủ nghĩa tư bản
- con đường nào mù mịt mơ hồ nhất?
- con đường kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa.
● Cửa hàng bán thịt giữa Moscow.
- Trước cách mạng vô sản. Cửa hàng có bảng kẻ tên chủ: Vassili.
Bên trong là từng tảng thịt ḅ to tướng tươi rói.
- Sau cách mạng vô sản. Không có bảng, chỉ biết là cửa hàng quốc doanh, với 2 chữ nguệch ngoạc: ‘’ thịt ḅ ‘’, và ở trong là ông chủ cũ: Vassili, không có miếng thịt nào.
● Theo khoa học xô viết.
Sau một thời gian nghiên cứu và tranh luận các nhà khoa học Liên xô chứng minh đuợc rằng Adam và Êva thời cổ đại đúng là công dân của Liên bang Xô viết. Căn cứ: 2 người đều sống ở thiên đường và đều không có ǵ để che thân cả!
● Đảng cộng sản lúc thoái trào.
Bí thư chi bộ lo lắng v́ hàng ngũ thưa dần, phong trào bỏ đảng lan mạnh, liền đề ra chỉ tiêu:
- Ai giới thiệu một người vào đảng th́ được miễn họp chi bộ 6 tháng!
- Ai giới thiệu 5 người vào đảng th́ được ra đảng.
- Ai giới thiệu 10 đảng viên mới sẽ được cấp chứng nhận là chưa bao giờ là đảng viên cả.
● Sau khi Hồng quân Liên xô vào Tiệp khắc.
- Tại sao Hồng quân Liên xô vào đất Tiệp?
- V́ nhân dân Tiệp khắc yêu cầu.
- Sao họ ở lại lâu thế?
- V́ họ t́m măi chưa thấy người mời họ vào.
● Người Mỹ và người Nga ai dân chủ hơn ai?
Người Mỹ khoe với người Nga: - ở nước tôi người ta có thể đến ngay trước Nhà Trắng hô lớn đả đảo tổng thống Nixon mà không ai dám động đến. Người Nga đáp ngay - Tưởng gí! ở nước tôi, ai cũng có thể làm điều ấy, nghĩa là hét đả đảo tổng thống Nixon hàng ngàn lần, đúng như ở Mỹ, không ai dám cấm mà c̣n được hoan ngênh nữa.
2/ Vài câu ca dao mới:
● Mất mùa là tại thiên tai
Được mùa là bởi thiên tài đảng ta
● Có con mà gả chồng gần
Nửa đêm xe đạp mang phần cho cha
Có con mà gả chồng xa
Tháng tháng nó gửi đô la ḱn ḱn
● Nhà ai giàu bằng nhà cán bộ?
Hộ nào sang bằng hộ đảng viên
Dân t́nh thất đảo bát điên
Đảng viên mặc sức vung tiền vui chơi
● Nguyệt lạc ô đề sương măn thiên
Giang phong như hoả đối sầu miên
Canh khuya thao thức mạn thuyền
Biết người quân tử vượt biên chốn nào?
● Hoan hô các cụ trồng cây
Mười cây chết chín, một cây gật gù
Các cháu có mắt như mù
Mười cây chết tiệt, gật gù ở đâu?
● Tôn Đản là chợ vua, quan
Vân Hồ là chợ những gian nịnh thần
Đồng Xuân là chợ thương nhân
Vỉa hè là chợ ‘’ nhân dân anh hùng ‘’
● Hoan hô thứ nhất anh Ba (ông Lê Duẩn)
Tưởng là vĩ đại, hoá ra thằng khùng
Hoan hô bác Phạm Văn Đồng
Ôm chức thủ tướng mà không làm ǵ
Hoan hô bác Nguyễn Văn Linh
Việt kiều về nước linh đ́nh ăn chơi
Hoan hô cả bác Đỗ Mười
Dẹp tan tư sản rồi mời nó vô
Hoan hô con cháu bác Hồ!
● Ai về qua tỉnh Nam Hà
Xem lũ đầy tớ xây nhà bê tông
Tớ ơi! mày có biết không?
Chúng ông là chủ mà không bằng mày!
● Phong lan, phong chức, phong b́
Trong ba phong ấy, phong ǵ quư hơn
Phong lan ngắm măi cũng buồn
Phong chức th́ phải cúi luồn vào ra
Chỉ c̣n cái phong thứ ba
Mở ra thơm nức, cả nhà cùng vui
● Thanh ‘’ cha ‘’, thanh ‘’mẹ ‘’, thanh ‘’ǵ ‘’
Hễ có phong b́ là nó ‘’ thanh kiu ‘’ (cám ơn)
● Đảng ta là đảng thần tiên
Đa-lô (đô –la) th́ được đa nguyên th́ đừng!
● Đa tài đa lộc th́ mừng
Đa thê càng tốt, xin đừng đa nguyên
● Ngày đi, đảng gọi ‘’ Việt gian ‘’
Ngày về đảng vội chuyển sang ‘’ Việt kiều ‘’
Chưa đi, phản động trăm chiều
Về rồi, thành khúc ruột yêu ngàn trùng
● Trăm năm bia đá cũng ṃn
Bia chai cũng vỡ, chỉ c̣n ‘’bia ôm ‘’
● Thày giáo lănh lương ba đồng
Làm sao sống nổi mà không đi thồ?
Nhiều thày phải đạp xích lô
Làm sao xây dựng tiền đồ học sinh
● Cô giáo phải bán bia ôm
Ôm phải học tṛ, ăn nói sao đây!
● Dân đói th́ đảng càng no
Sức đâu ủng hộ, hoan hô suốt ngày?
Đảng béo th́ dân càng gầy
Độn bắp, độn sắn biết ngày nào thôi?
● Lương chồng lương vợ lương con
Đi ba buổi chợ chỉ c̣n lương tâm
Lương tâm đem chặt ra hầm
Với rau muống luộc, khen thầm là ngon!
3-/ Vài bài thơ hay
Thơ Nguyễn Công Trứ:
Ṿng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả trả vay
Chí làm trai; Nam Bắc Tây Đông
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể
Thơ Phan Bội Châu:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho vỡ núi non
Xách búa đánh tan năm bẩy đống
Đưa tay đập vỡ mấy trăm ḥn
Thơ Phùng Quán:
Lời mẹ dặn
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
Chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngă
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá
Cây vạn niên thanh
Vạn niên thanh
Ơi cây vạn niên thanh!
Cả một đời tôi chỉ khiếp phục anh
Anh uống độc khí trời
Anh xơi độc nước lă
Anh vẫn tràn trề sức lực tươi xanh
Vẫn tặng được cho đời chất thơ của sắc lá
Vạn niên thanh
Ơi cây vạn niên thanh
Cả một đời tôi chỉ khiếp phục anh
Thơ Nguyễn Duy :
Tổ quốc nh́n từ xa (trích)
... Xin đừng hót những lời chim chóc măi
Đừng lớn lối khi dân ḿnh ốm đói
Vẫn c̣ng làm cho thẳng lưng ăn
Đổi mới thật hay giả vờ đổi mới?
Máu nhiễm trùng có thay thế được chăng!
Thật đáng sợ ai không c̣n thương ai
Càng đáng sợ khi không c̣n ghét ai
Ngày càng hiếm hai câu thơ tuẫn tiết
Ta là ai? ta cần thiết cho ai?
Có thể ta không c̣n tin ai đó
Có thể ai không c̣n tin ta nữa
Dẫu làm sao vẫn tin ở con người
Dẫu làm sao đừng khoanh tay bó gối
Đánh thức tiềm lực (trích)
Cần lưu ư :
lời thật thà có thể bị đem ra xử tội
lời nịnh hót dối lừa có thể được tuyên dương
đạo đức giả có thể thành dịch tả
ḷng tốt lơ ngơ có thể lạc đường
Cần lưu ư :
có cái miệng được chế thành cái bẫy
sau nụ cười là lởm chởm răng cưa
có cái môi mỏng ráp hơn lá mía
hôn má bên này bật máu má bên kia
có trận đánh úp nhau bằng chữ nghĩa
khái niệm bắn ra không biết lối thu về
Cần lưu ư :
có lắm sự nhân danh lạ lắm
mượn áo thánh thần che đậy lốt ma ranh
nhân danh thiện tâm làm điều ác đức
rao vị nhân sinh để bán món vị ḿnh
Cần lưu ư
có lắm nghề lạ lắm
nghề mánh mung cứa cổ bóp hầu nhau
nghề chửi đổng, nghề ngồi lê, nghề vu cáo
nghề ăn cắp ḷng tin và chẹn họng đồng bào
có cả nghề ‘’siêu nghề‘’ gọi là nghề ‘’không làm ǵ cả’’
thọc gậy bánh xe cũng một thứ nghề
Bộ sưu tập những điều ngang trái ấy
Là phù chú ma tà ru tiềm lực ngủ mê
Thơ Bùi Minh Quốc :
Tổ quốc rùng ḿnh trong cơn nhậu nhẹt
(nhân đọc thơ Những cây thông kêu của Thanh Thảo)
C̣n ai kêu cho những cây thông không biết nói
khi nhà thơ bị bóp cổ nghẹn lời
rừng nguyên sinh vung lưỡi ŕu quỷ đói
rắc rắc cây xô, cốc chạm, quỷ vang cười
Chúng đang nhậu từng cánh rừng giải núi
từng mảng trời ruột đất ḷng khơi
nhậu mọi thứ từ Vua Hùng để lại
nhậu tới nàng Tô Thị ră thành vôi
Chúng nó nhậu trên thân em trinh bạch
trên lưng mẹ già c̣m cơi một đời bom
con mất xác dưới chân thành Quảng Trị
mẹ khoét hầm nuôi tiếp biết bao con.
Kia mẹ về run rẩy dưới mưa tuôn
qua cửa vi-la trông đàn con ngồi nhậu
những đứa con thoát chết vụ khui hầm
đang tưng bừng nâng cốc tụng Nhân dân
Tổ Quốc rùng ḿnh trong cơn nhậu nhẹt
có nghe chăng con cháu ngợi ca Người
và hạ bút kư hợp đồng cái rẹt
hợp đồng này giàu đẹp lắm Người ơi!
Thơ Pêtôfy (Hung ga ri)
Tự do và ái t́nh
Tự do và ái t́nh
V́ các người ta sống
V́ t́nh yêu lồng lộng
Tôi xin hiến đời tôi
V́ tự do muôn đời
Tôi hiến dâng t́nh ái
(Xuân Diệu dịch)
Thơ Ngô Minh Hằng
Tỉnh dậy đi!
Như chú bé tiếc hoài con dế nhỏ
Ta ngậm ngùi thương măi một ḍng sông
Như tượng đá bâng khuâng hồn thiến cổ
Ta ôm hồn Do Thái đứng hoài mong
Ôi Tổ quốc, quê hương ta sầu hận
Sóng điên cuồng cao ngất ngọn tang thương
Mong đợi măi ngày nước tuần, dân vận
Sao bao năm chưa xoay chuyển luân thường
Sao bao năm vẫn làm người vong quốc
Vẫn ớn hèn trong mộng mị áo cơm
Vẫn phân hoá, không sao đoàn kết được
Vẫn đành ḷng bán rẻ cả danh thơm
Vẫn vô t́nh bán ḿnh cho quỷ dữ
Mua giầu sang, mua mộng mị công hầu
Quên tất cả lương tâm và lịch sử
Mặc vong tồn cho thế hệ mai sau
Tỉnh dậy chứ, sao mê hoài măi thế?
Ḱa giống ṇi thôi đă quá đau thương
C̣n kịp đấy, tỉnh mau đi mà để
Biết rằng ḿnh c̣n có một quê hương
Thơ mừng phong trào dân chủ
Sóng thần dân chủ
Kính tặng những nhà đối kháng trong phong trào dân chủ
Phong trào dân chủ khởi nay mai
Sức mạnh toàn dân trong lẫn ngoài
Bạo lực đi lùi vào quá khứ
Tự do cùng tiến đến tương lai
Độc tài tham nhũng không nơi trú
Dối trá cửa quyền hết sống dai
Đất nước nở bừng hoa trí tuệ
Qua cơn tăm tối những năm dài
Trần Thế Thi (tháng 7-2005)
Nụ hoa dân chủ
Ấp ủ bao năm đă đến ngày
Nụ hoa dân chủ chớm hôm nay
Trời Nam trí thức mừng ly cạn
Đất Bắc sỹ phu chúc chén đầy
Quốc nội sỹ phu đang náo nức
Hải ngoài một khối cũng xăn tay
Hợp nhau bứng gốc cây chuyên chế
Cho đoá tự do nở đất này
Trần Thế Thi (tháng 7-2005)
● Câu đối vui Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu:
Dân hai mươi triệu, ai người lớn?
Nước bốn ngàn năm, vẫn trẻ con!
Nhà văn Dương Thu Hương (trích):
● …Họ (nhà cầm quyền độc đoán) có thể làm mọi thứ trên lănh địa của họ, trước một đám đông thiếu ư chí, thiếu hiểu biết và khiếp nhược, nhưng chắc chắn họ không thể ngạo mạn với dư luận tiến bộ trên thế giới, không thể dối láo hoặc phỉ báng những đối tác có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và sự tồn tại của họ.
Đến Asile (Achille) cũng c̣n bị đánh quỵ chỉ v́ cái gót chân, huống hồ nhà cầm quyền Việt nam, một chính thể chỉ tồn tại trên 2 bệ đỡ: sự thiếu hiểu biết và sự khiếp nhược của dân chúng.
Tôi cũng xin trở lại với một hiện thực mà ông Claude Allègre (nhà báo Pháp) đă xác nhận: dưới cái cớ là dân tộc can đảm này đă chiến thắng các siêu cường quốc, người ta đi đến chỗ quên đi một nền độc tài đẫm máu đang thực thi ở đó.
Vâng, sự lăng quên đă kéo dài 3 thập kỷ. Núp trong bóng của lăng quên những tên tiểu bạo chúa hoành hành trên giải đất bùn lầy.Máu những người vô tội khô kiệt trong những trại giam. Tên các chiến sỹ đấu tranh cho dân chủ được nêu lên như các ví dụ để khủng bố dân chúng, một dân chúng vốn đă kiệt sức v́ nghèo đói và khiếp nhược…V́ lẽ đó, tôi kêu gọi những ai có lương tri hăy bước ra khỏi lăng quên, hăy giúp cho những Phạm Quế Dương, Nguyễn Khắc Toàn, Trần Khuê, Nguyễn Vũ B́nh, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Đan Quế, Lê Chí Quang, giáo sư Nguyễn Đ́nh Huy thoát khỏi sự chà đạp của kẻ cầm quyền. Đó là cách tốt nhất để dân tộc Việt nam có cơ hội nhích thêm vài bước trên con đường đi đến nền dân chủ.
● … Cho đến nay, chiến tranh Việt nam được xử dụng để biện minh cho việc duy tŕ quyền lực trong tay nhà nước.
Tất cả tuyên truyền của nhà nước chỉ nhằm tạo ra một huyền thoại về chiến tranh để tâng bốc và đe dọa dân chúng. Dân được bảo rằng:’’ dân tộc ta là anh hùng. Chúng ta nên kiêu hănh về lịch sử của chúng ta. Nhưng đừng bao giờ quên rằng đảng đă lănh đạo dân tộc đến thành công’’. Nhà nước lừa dối dân chúng bằng một niềm kiêu hănh mù quáng.
… Ở nước tôi sự sợ hăi đă nghiền nát mọi thứ, chiến sỹ can đảm trở thành người thường dân hèn nhát. Do đó tôi phải trở về nước. Tôi phải trở về để làm một việc là: phỉ nhổ vào mặt cái chế độ này!
(trả lời phỏng vấn của nhà báo Mỹ Alan Riding – báo New York Time, tháng 7/2005 tại Paris, nhân chuyến sang Rôma / Ư nhận một giải thưởng Văn học)
Bà Aung San Suu Kyi, chiến sỹ dân chủ kiên cường:
● Sinh ngày 19/6/1945 tại thủ đô Rangoon của Miến Điện, nay gọi là Myanmar; con gái tướng Aung San, nhà lănh đạo cuộc kháng chiến dành độc lập và trở thành Thủ tướng đầu tiên của Miến điện độc lập cho đến khi bị ám sát ngày 17/7/1947.
Mẹ của bà – bà Daw Khin Kyi từng là đại sứ ở Ấn-độ và Nêpal, nuôi con gái đến tuổi 15 rồi gửi bà vào học trong trường Đại học Delhi; sau đó bà sang Anh học ở trường Đại học Oxford, tốt nghiệp ngành Chính trị - Kinh tế. Bà từng làm việc ở cơ quan Liên Hợp Quốc (New York) từ năm 1968. Năm 1972 bà kết hôn với tiến sỹ Michael Aris chuyên nghiên cứu về Tây Tạng. Bà có 2 con trai, Alexander (1973) và Kim (1977).
Về nước hoạt động trong cuộc vận động dân chủ đa nguyên đa đảng từ năm 1988, bà lập ra phong trào dân chủ NLD và trở thành người lănh đạo được quư mến và tin cậy. Năm 1990 nhóm lănh đạo quân phiệt chịu tổ chức bàu cử đa đảng, NLD thắng to, dành đa số áp đảo (80%) trong quốc hội. Bọn quân phiệt trở mặt, không công nhận kết quả bầu cử, c̣n bắt bớ, bỏ tù, khủng bố NLD. Bà bị quản thúc. Bà được Giải thưởng Nhân quyền Rafto, Giải thưởng Sakharov và Giải Nobel-Ḥa b́nh năm 1991; bà tặng toàn bộ số tiền thưởng giải Nobel 1,3 triệu US$ cho quỹ Giáo dục và y tế của Miến điện.
Nhóm quân phiệt chỉ mong bà ra nước ngoài, nhưng bà một mực ở lại ngay cả khi chồng bà ốm nặng và chết ở Anh tháng 3 năm 1999.
Bà Aung San Suu Kyi mảnh mai mà kiên nghị làm điên đầu bọn quân phiệt độc đoán là tấm gương kiên cường của chiến sỹ dân chủ gan vàng dạ sắt cho mọi phụ nữ, tuổi trẻ, trí thức đang thao thức dấn thân cho dân chủ.
Bà viết cuốn sách: ‘’Hăy tự giải thoát khỏi nỗi sợ hăi ‘’ (Se libérer de la peur – Nhà xuất bản Femmes - Phụ nữ /Pháp -1992), và trả lời phỏng vấn, có những câu sau:
● …Chúng ta cần làm cho cả thế giới hiểu rơ rằng nhân dân Miến Điện chúng ta tất cả đang bị cầm tù bởi nhóm quân phiệt ngay trên quê hương của ḿnh.
●...Hăy làm cho tiêu tan nỗi sợ hăi!
Hăy cùng nhau đứng cả dậy! không ai quỳ gối nữa!
Hăy lớn tiếng đ̣i lại tự do! không ai thở dài than khóc nữa! Hăy hát to lên bài ca kết đoàn!
Hăy nh́n thẳng vào mũi súng của cường quyền! Và dành cho nhau những nụ cười thân ái!
Chúng ta hăy biết sợ sự vô t́nh, vô cảm, sự nản ḷng, sự mất phương hướng của chính chúng ta và giúp nhau làm tiêu tan những điều đáng sợ hơn cả ấy.
Phương Nam (Đỗ Nam Hải):
● … Theo tôi, để giải quyết tận gốc vấn đề của dân tộc bị phân hoá hiện nay, không thể chỉ đơn thuần đổi mới về kinh tế mặc dầu kinh tế là gốc. Lại không thể kỳ vọng vào những đợt cải cách hành chính chắp vá, hoặc những cái gọi là ‘’ Quy chế dân chủ cơ sở ‘’ mà đảng cộng sản đang miệt mài tung ra. Tất cả những động tác ‘’ tu sửa vặt ‘’ này đều đă bị thực tiễn chứng minh là thất bại.
Chiến tranh đă có độ lùi 30 năm rồi nhưng hôm nay dân tộc này vẫn bị phân hoá sâu sắc. Đất nước bị tụt hậu đến nhục nhă, quốc nạn tham nhũng vẫn tràn lan, bộ mặt luộm thuộm nhếch nhác vẫn bao trùm cả thành thị và nông thôn. Ngoài ra c̣n là sự cực kỳ lăng phí của công và một bộ máy quản lư xét về cơ bản là hư hỏng toàn diện từ trung ương tới địa phương và cơ sở.
Để có một nước Việt nam mới theo tôi vấn đề là phải thay đổi ở trên thượng tầng kiến trúc. Đây là vấn đề sống c̣n của dân tộc ta hôm nay. 30 năm là khoảng thời gian mà nhiều nước có nền chính trị tiến bộ đă có thể hoá Rồng, hoá Cọp. Đơn giản là v́ họ đă xây dựng được một luật chơi ngày càng công bằng và hoàn thiện ở tất cả các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xă hội, văn hoá, tư tưởng, thông tin, v.v…
C̣n ở Việt nam th́ dù thế kỷ 21 đă bước qua được 5 năm, giai cấp cầm quyền vẫn cứ loay hoay rị mọ để cố t́nh ‘’định hướng ‘’ đất nước này vào bụi rậm. Trong khi con đường quang đăng mà nhân loại tiến bộ đă và đang đi th́ lại bị họ dè bỉu, chê bai hết lời. Họ viện cớ rằng: nếu Việt nam mà đa đảng th́ chỉ có loạn.
Theo tôi, không cần lư luận dài ḍng; một khi anh đă nói rằng chính quyền của anh là của dân, do dân và v́ dân th́ tốt hơn cả là anh hăy trao Quyền tự quyết cho dân tộc ấy. Ở đó, ư chí và nguyện vọng của họ sẽ được thể hiện thông qua một cuộc Trưng Cầu Dân Ư để xác định cụ thể xem hôm nay dân tộc ấy muốn ǵ?
* Thân gửi Hải Yến và các bạn của Hải Yến,
… Anh hoàn toàn đồng ư với nhận xét của Hải Yến và các bạn rằng: ‘’thiên đường’’ Mác-Lênin nay đă quá lỗi thời rồi và đảng cộng sản chỉ dùng nó để nhồi sọ, ru ngủ thanh niên mà thôi.
Muốn chống bất công, đói nghèo, tụt hậu, muốn hoà nhập vào thế giới hiện đại, ngoài con đường dân chủ đa nguyên đa đảng và pháp trị, nhân dân Việt nam không có con đường nào khác!
… Chế độ chính trị phản dân chủ và phản dân tộc hiện nay chắc chắn là chế độ độc tài cuối cùng trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc.
… Phong trào dân chủ và những người dân chủ dẫu có phải trải qua sự đàn áp tàn bạo và sự chia rẽ thâm độc của giai cấp cầm quyền đến đâu đi chăng nữa, th́ nó vẫn cứ không ngừng tiến lên! Sự mất mát hy sinh của những cá nhân không quan trọng bằng sự trường sinh của cả dân tộc!
[ thư ngày 3-8-2005, trả lời thư của nữ sinh viên đại học Hànội
năm cuối Hải Yến cùng các bạn của Hải Yến; trong thư viết:
Chúng em đă đọc 5 bài viết của anh; chúng em cũng như nhân dân ta
không c̣n tin vào bộ máy cầm quyền cộng sản hiện nay cực kỳ tham
nhũng, mọt ruỗng, bạo hành đàn áp dân lành, cúi đầu quy phục Bắc
triều không chút liêm sỷ. Anh Phương Nam yêu quư, anh là tấm gương
sáng của thế hệ trẻ chúng em ]
● Linh Nghiệm
của Trần Huy Quang
(Mời bạn đọc, đọc xong bạn hăy đoán đây là tiểu sử của nhân vật nào?)
H…INH là con trai thứ ba trong một gia đ́nh nông dân, không nghèo nhưng cũng chẳng giàu có ǵ lắm. Cha anh ta có đỗ đạt, đă từng làm quan nhưng tính khí thất thường, ḷng đầy ham hố nên quan trên không mặn mà ǵ nên đă bỏ quan, khi đi dạy học ở chốn kinh kỳ, khi ngồi bốc thuốc ở vùng sơn cước. HINH thừa hưởng ở ḍng họ và khí chất của vùng chôn rau cắt rốn cái nết cơ bản cần cho kẻ có hoài băo tham chính là tính đa mưu túc kế, ḷng dạ thật không bao giờ lộ ra mặt, bạn bè cùng lứa không ai dám kết làm bằng hữu. Hinh sáng dạ, lại có chí, học đâu biết đó, hai mươi tuổi làm thơ chữ Hán, đọc Rút-xô, Mông-tét-ski-ơ…bằng nguyên bản, nhưng Hinh chán học, chỉ nhăm nhăm một dạ xuất ngoại. Đạo học không có đường tắt, mà lập thân bằng con đường học vấn th́ mù mịt, xa vời quá. Bằng văn chương th́ chỉ khi thế cùng lực tận, bất đắc dĩ mà thôi.
Hằng ngày Hinh sống như người nuốt phảI quả chuỳ gai vào bụng, buốt nhói, nhăn nhó, bồn chồn, vừa ngồi đă đứng lên, mới ngủ đă vùng dậy, trán nhăn tối, mắt xa xăm. Như đang phải ḷng một tiểu thư khuê các.
Nhưng Hinh đâu phảI là người dại dột, không bao giờ để phí chí khí, sức lực vào chuyện đàn bà. Vớ vẩn! Chiếm mười trái tim đàn bà đâu có khó nhưng một trái tim nhân loại th́ phải vượt trùng dương. Hinh ngước cái đầu mong đợi lên bầu trời, hoài vọng bóng dáng một con tàu, t́m kiếm một phép thần thông, mong đợi một dấu vết của cơi Thiên hoặc hơi hướng của miền Cực lạc để đưa về cho chúng sinh.
Tháng ngày như sợi chỉ căng mà ḷng khao khát làm trai hải hồ, khắc khoải mong một phút được quỳ dưới chân bậc Chí Thánh và nói : « Ơn người. Người là nguồn ánh sáng dẫn dắt chúng con …Lũ chúng sinh con khao khát được gặp Người… »
Thế rồi, như sự linh nghiệm của lời nguyện cầu, một đêm giông tố băo bùng đất trời như trong cơn đau sinh nở, Hinh đă lên chín tầng Thánh địa để được gập đấng Chí linh.
Bắt đầu là một ngọn nến, ánh lửa dịu ấm, toả một quầng sáng h́nh nón. Vầng sáng ấy toả hào quang, tia hào quang không thẳng mà có h́nh gấp khúc. Cuối cùng ở trung tâm vầng sáng ấy hiện ra khuôn mặt kiều diễm của một cô gái tóc vàng.
- Kính thưa… - Hinh bàng hoàng thốt lên.
- Không phải! – cô gái mỉm cười độ lượng. – Tôi chỉ là sứ giả của đấng Lập đạo. Anh có lời thỉnh cầu ǵ gấp lắm không? Người đang bận, việc hành đạo chỉ ở bước khởi đầu.
- Kính thưa, tôi là người của xứ Nhọc nhằn tăm tối…
- Thôi, anh không cần phải nói, chàng trai ạ, người xứ Nhọc nhằn có khát khao ánh sáng th́ việc hành đạo mới càng được dễ dàng. Đây anh cầm lấy, theo Đạo thư này, anh sẽ t́m được chân lư.
Vị sứ giả trao cho Hinh Đạo thư quư giá ấy rồi nhỏ dần, nhỏ dần cho đến khi chỉ c̣n như một cái chấm chính giữa vầng hào quang rồi biến mất giữa bao la. Hai tay đỡ cuốn sách trước trán, Hinh vẫn quỳ và thành kính đặt lên đó một cái hôn, rồi anh run run dở ra đọc :
« Hăy đi về phía Nam theo con đường một bên là cây và một bên là nước,cuối con đường có quán bia hơi và thịt chó ; đừng nh́n vào chốn đam mê ấy và đi thật chậm. Dọc đường sẽ có người hỏi : « Có đi không? » th́ đừng đi. Đó cũng là người cần lao chứ không phải ma quỷ cám dỗ, nhưng phải đành từ chốI. Đi tiếp, sẽ gặp một ki-ốt sách báo nên rẽ trái, trước mặt đă là vườn hoa nhỏ. Bây giờ anh phải khom người xuống, đi chậm bước từng bước một,mắt nh́n xuống mặt đất để « t́m cái này ». Cứ thế…chỉ cần một lúc sau,anh sẽ có được thiên hạ. »
Hinh ấp cuốn đạo thư vào ngực tức tưởi : « Trời ơi,bảo bối, bảo bối… ». Hinh sung sướng hét toáng lên. Tiếng anh vang rất to trong đêm và lúc ấy Hinh mới biết ḿnh vừa qua một giấc mơ. Nhưng trời ơi, tại sao những điều anh nung nấu trong tâm can bấy lâu nay lại được giải đáp trong mơ. Anh sung sướng và cảm động đến mức nước mắt giàn giụa. Ôi chúng sinh nhọc nhằn và tăm tối của ta, bảo bối này sẽ soi sáng đường chúng ta đi…
Sáng hôm sau, Hinh thành kính chuẩn bị lên đường. Quần áo tươm tất,mũ miện đàng hoàng. Trước nhà anh có một đại lộ chính Nam, có lẽ đúng là con đường này nên anh dấn bước ra đi. Một bên cây và một bên nước, hay một bên rừng một bên biển. Anh cứ đi, qua vài đoạn phố nữa th́ anh thấy ḿnh đi đúng con đường men theo cái hồ. Và giữa phố có hàng bia hơi thịt chó mà vài lần anh cũng đă bị cuốn vào đó. Ôi sự linh nghiệm không sai một dấu phẩy. Đường phố trong veo, lui cui mấy chiếc xe đạp chở kẹo bánh, than tổ ong đi bỏ mối cho các hàng nước vỉa hè, lọc cọc đôi chiếc xích-lô cà tàng đi t́m khách. Vài cô gái điếm vật vờ.
- Có đi không?
Một cô gái điếm rủ rê. Hinh nhớ đén giấc mơ mà thấy lạnh xương sống ; trong mơ cũng ba chữ ấy. Đến cuối phố, Hinh thấy một ki-ốt sách báo thật; chủ quán vừa mở cửa. Tại sao có sự kỳ diệu thế này, khi tỉnh anh nào có biết chỗ này có một quán sách? Đi tiếp gặp một ki-ốt sách báo nên rẽ trái, trước mặt là vườn hoa nhỏ. Hinh liền rẽ trái, đi một đoạn qua các cửa hàng bách hoá đă thấy vườn hoa Mùa Xuân.
Kẻ hành đạo không chần chừ đắn đo, đi tới giữa vườn hoa, ḷng ngây ngất hơi men, một nửa muốn bay lên, một nửa tŕ xuống. Mắt Hinh hoa lên, đâu Thiên thần, đâu địa Thánh, không biết con đang đứng giữa Địa đàng hay mặt đất. Rồi anh chợt tỉnh lại …« T́m cái này » là t́m cái ǵ, anh không hiểu nhưng không dám nghi ngờ lời vàng ngọc của đấng Tiên tri. Vườn hoa nằm cạnh đại lộ, lúc này đang vắng hoa, chỉ có mấy ông già tập thể dục muộn, dăm chàng thanh niên đá bóng và một tốp học sinh cấp ba đi học sắp qua. Bây giờ anh phải khom người xuống, đi chậm từng bước một, mắt nh́n xuống mặt đất… Hinh vừa cúi lom khom chăm chú t́m kiếm vừa lẩm nhẩm đọc. Anh như bị thôi miên, không biết ḿnh đang t́m cái ǵ, nhưng anh cứ trung thành với lời chỉ gíáo, người cúi lom khom, mắt dán xuống đất và bước từng bước một chậm răi.
Những người đang qua đường lấy làm lạ.
Bắt đầu là nhóm học sinh cấp ba, mấy đứa con trai vốn hiếu kỳ đi đến và tự hỏi, không biết ông kia t́m cái ǵ nhỉ? Chúng không thể tự giải đáp được.
-Anh ơi, anh t́m cái ǵ đấy?
Hinh mải mê không hề nh́n lên, chỉ buột miệng trả lời :
-T́m cái này.
Đối với chúng, câu trả lời ấy, làm ngứa ngáy chân tay. Nhất định cha này mất nhẫn, dây chuyền hay hạt xoàn ǵ đó thôi, chúng ḿnh mà vớ được th́ hay lắm.
Thế là cả bọn, cặp sách dồn lại một đống, nhảy vào cuộc t́m kiếm. Khi cả một đám người ḅ ra sục sạo t́m kiếm th́ sự lạ càng tăng lên hàng chục lần. Người đi qua vườn hoa không bao giờ hết, dân lang thang thất nghiệp, dân nhà quê bỏ ra thành phố kiếm cơm…đang đói rách hy vọng vớ được một chút may mắn, những người này đi đến và không thể không hỏi :
-T́m cái ǵ đấy?
Lần này th́ tụi trẻ con đă mau miệng trả lời :
-T́m cái này!
Câu này đối với người lớn làm ngứa ngáy đầu óc. Thế là họ bỏ cả gồng gánh, xe cộ, nhảy vào quảng trường.
Rồi tiếp đến …
Bây giờ là dân xích-lô, ba gác, dân ăn xin, trẻ mồ côi bán báo, dăm cô điếm, đám bụi đời móc túi nghe tin cũng t́m đến.
-T́m cái ǵ đấy?
-T́m cái này.
Mả mẹ chúng nó, giấu như mèo giấu cứt. Nhất định là hạt xoàn, ru-bi, có lẽ tối qua tụi đào đá đỏ qua đây đánh nhau đổ ra một bị đá đỏ không chừng. Mẹ chúng nó, ông mà biết trước, ông rào lại, ông đuổi tất. Ông kia được một viên rồi hả, bắt nộp phạt, chúng mày!
Cứ thế …
Và số người hy vọng có một chút no ấm ḅ lê trên vườn hoa để t́m vật báu, đến lúc này đă đông như đàn kiến.
Hinh chợt nhận ra tiếng ồn của đám đông và anh ngạc nhiên đứng nh́n họ. Hoá ra thiên hạ đang bu lại xung quanh ḿnh. Một lúc sau anh sẽ có được thiên hạ. Hinh sung sướng đến rơm rớm nước mắt và măn nguyện ra về.
Cái đám đông ấy cứ như ḍng nước trong ḷng sông, trôi đi chứ không cạn. Người đến trước thất vọng ra về trước, người đến sau thất vọng ra về sau. « T́m cái này » là cái ǵ th́ không ai biết, nhưng cứ hy vọng có chút no ấm mờ mờ phía trước cũng đă hấp dẫn lắm, để họ trở thành một ḍng nước.
Trưa.
Rồi chiều.
Và …vẫn c̣n đám đông xúm xít giữa vườn hoa Mùa Xuân.
Trần Huy Quang
-Bài này được đăng trên tuần báo Văn Nghệ, số 27 ra ngày 4/7/1992.
Bị thu hồi và có lệnh huỷ sau khi phát hành 4 ngày, nhưng càng được t́m đọc . Tác giả Trần Huy Quang bị treo bút 3 năm. Tổng biên tập lúc ấy là Hữu Thỉnh,tuy đi vắng, vẫn bị nghiêm khắc khiển trách. Tác giả cho biết phải suy nghĩ hơn 1 chục năm mới viết được truyện ngắn cô đọng này ; anh phải suy nghĩ chọn từng câu, từng chữ, từng ư, từng h́nh ảnh.
* Địa chỉ các chiến sỹ dân chủ và nhân vật nên gặp hoặc liên lạc [ để các bạn dùng khi cần / sắp xếp theo sự thu thập được nên không theo trật tự nào / c̣n thiếu nhiều,
xin bạn tự bổ sung ]
* Phạm Quế Dương 37 Lư Nam Đế Hànội 844.823.1372
* Nguyễn Thanh Giang A13 P9 Tập thể Pḥng không
Hoà Mục Trung Hoà quận Cầu Giấy Hànội 844.885.8601
* Hoàng Minh Chính 26 Lư Thường Kiệt quận Hoàn Kiếm Hànội
* Nguyễn Ngọc Lan 256/13 Tân Phước quận 10 thành phố HCM 848.855.3862
* Nguyễn Khắc Toàn 11 ngơ Tràng Tiền Hànội 844.826.0244
Bố Nguyễn Khắc Toàn là Ông Nguyễn văn Bái, giáo viên, Mẹ là Bà Trần Thị Quyết
* Nguyễn Vũ B́nh
và Bùi Thị Kim Ngân 26 tổ 67 B phường Vĩnh Tuy quận Hai Bà Trưng Hànội
* Lê Chí Quang 22 Trung Liệt Hànội 844.851.4000
Mẹ là Bà Nguyễn Kim Chung, kỹ sư nông nghiệp
* Hoàng Tiến pḥng 420 nhà A11 Thanh Xuân Bắc Hànội
* Trần Đại Sơn 51 Hàng Bài Hànội 844.826.3700
* Trần Dũng Tiến 12/95 Cự Lộc Thanh Xuân Hànội
* Nguyễn Thụ 14 Ngô Thời Nhiệm Hànội 844.943.0718
* Trần Khuê 296 Nguyễn Trăi th/phHCM
* Phạm Hồng Sơn và Vũ Thuư Hà 72 B Thuỵ Khê Hànội 944.984.0858
* L.M. Chân Tín 888 Kỳ Đồng quận 3 th/phHCM
* H.T. Thích Quảng Độ 90 Trần Huy Liệu ph.15
quận Phú Nhuận th/ph HCM
* Hà Sỹ Phu 4E Bùi Thị Xuân Đà Lạt
* Phương Nam
(Đỗ Nam Hải) 441 Nguyễn Kiệm ph9 quận Phú nhuận th/ph HCM
* Nguyễn Đ́nh Huy 265 Phan Thanh Giản ph5 quận 10 th/phHCM
* M/S Nguyễn Hồng Quang C5/1H Lương Đ́nh Của tổ 5 B́nh Khánh quận 2 th/ph HCM
* Một số tổ chức Bảo vệ Nhân quyền:
* Hiệp hội Nhân quyền Quốc tế (trụ sở tại CH LB Đức)
(International Society for Human Rights – ISHR)
Borsigallee 8, D-60388 Frankfurt Germany
email: asia@ishr.org
* Tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới - Reporters sans frontières
trụ sở tại Pháp : 5 rue Geoffroy-Marie 75009-Paris
email : rsf@rsf.fr
* Tổ chức bảo vệ Nhân quyền quốc tế Amnesty International (AI)
(có 1,8 triệu thành viên trên 150 nước) ; trụ sở tại nước Anh
Văn pḥng : 1 Easton Street London
WC1X 0DW UK
Điện thoại: 44.20-741.35500
* Tổ chức bảo vệ Nhân quyền quốc tế Human Rights Watch (HRW)
(trụ sở tại: New York, Washington D.C., Los Angeles, San Francisco,
London, Brussels, Geneva, Berlin, Toronto)
Văn pḥng chính: 350 Fifth Avenue 34th floor New York
NY 10118-3299 USA
Điện thoại: 1-(212) 290-4700
email: hrwnyc@hrw.org
* Tổ chức Văn bút Quốc tế International PEN
Uỷ ban về các nhà văn bị tù
(Writers in Prison Committee)
9/10 Charterhouse Buildings
London EC1M7AT UK
Điện thoại: 71-2534308
Trang b́a sau, kèm ảnh tác giả :
Tác giả cuốn sách nhỏ này là nhà báo Bùi Tín
Nhà báo Bùi Tín sinh ngày 29-12-1927 quê quán ở làng Liên Bạt, huyện Ứng Ḥa, tỉnh Hà Tây.
Ông vào Quân đội Nhân dân tháng 9 năm 1945 và vào đảng cộng sản tháng 3 năm 1946.
Ông về báo Quân đội Nhân dân từ năm 1965 và là Phó tổng biên tập báo này từ năm 1972. Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 ông là sỹ quan cao cấp nhất với cấp đại tá có mặt tại Dinh Độc lập Sàig̣n.
Năm 1976 ông được thưởng Huân chương Julius Fuçik của Tổ chức các nhà báo quốc tế (OIJ).
Năm 1982 ông sang báo Nhân dân, là Phó tổng biên tập phụ trách khối Nhà nước - An ninh - Quốc pḥng, rồi khối Văn hoá - Văn nghệ, từ năm 1988 kiêm Tổng biên tập tuần báo Nhân dân Chủ nhật.
Từ tháng 9 năm 1990 ông sang Pháp dự Hội hàng năm của báo Nhân đạo (l’ Humanité) rồi quyết định ở lại Pháp để đấu tranh cho tự do dân chủ ở quê nhà. Sau 45 năm trong Quân đội Nhân dân, sau 44 năm trong đảng cộng sản, ông Bùi Tín trở thành nhà báo tự do.
Năm 1992 ông viết cuốn hồi kư ‘’Hoa Xuyên Tuyết‘’, nói lên khát vọng tự do của đồng bào ta, tưởng là mảnh mai như đoá hoa giữa mùa đông nhưng có sức sống mănh liệt xuyên qua lớp băng tuyết dày để vươn lên bàu trời. Năm 1994 ông viết cuốn ‘’Mặt thật‘’ vạch trần những dối trá, che dấu sự thật của chế độ độc đoán độc đáng. Năm 1996 ông viết cuốn ‘’ Về 3 ông thánh‘’ giới thiệu những tư liệu quốc tế chân thực về các lănh tụ cộng sản được tô vẽ như những ông thánh. Năm 2000 ông viết cuốn ‘’Mây mù thế kỷ’’ phơi bày những sự thật trong thời chiến tranh cũng như ảo tưởng một thời về chủ nghĩa Mác –Lê-nin và chủ nghĩa xă hội.
Bốn cuốn sách trên ông đều đề ‘’ tặng tuổi trẻ của đất nước, với niềm ân hận của thế hệ đi trước thành tích ít, lỗi lầm nhiều ‘’.
Với cuốn sách nhỏ ‘’Tâm T́nh với Tuổi Trẻ Việt Nam ‘’ nhà báo Bùi Tín hướng dẫn các bạn trẻ trong và ngoài nước t́m hiểu rơ hơn một số vấn đề lịch sử trong chiến tranh cũng như thời hậu chiến và tham gia cuộc vận động dân chủ ở quê nhà.
Nhà báo Bùi Tín luôn giữ phong cách viết tỉnh táo, chân thành, trongsáng, có sức thuyết phục, dễ đi vào ḷng người.
Mong cuốn sách này sẽ là cẩm nang có ích để t́m hiểu sự thật và hành động cho dân chủ của các tấm ḷng yêu nước ḿnh, thương dân ḿnh, quyết dấn thân cho cuộc vận động dân chủ đang phát triển sâu rộng../.
Tháng 1-2006.
H Ê T