TUỔI TRẺ: HY VỌNG DUY NHẤT CHO TỰ DO VIỆT NAM



Huệ Vũ

Năm 1975, khi CS chiếm miền Nam, thế hệ quân cán chính Việt Nam Cộng Ḥa bị bắt đi tù cải tạo, tài sản bị tịch thu qua các chính sách đánh tư sản mại bản, dân chúng bị cưỡng bức đi kinh tế mới, vào hợp tác xă, người dân phải làm quần quật nhưng không đủ ăn, đủ mặc, phải xót xa nh́n đàn con thơ dại nheo nhóc, và càng đau ḷng đứt ruột hơn với hoàn cảnh đứa con mới sinh ra không có sửa để nuôi. Với chính sách cay nghiệt của CSVN, người dân không c̣n chọn lựa nào khác, thà chết c̣n hơn sống, liều lĩnh bỏ nhà bỏ nước ra đi. Thấm thoát trên 30 năm trôi qua! Ngày nay thế hệ con em lên năm lên ba cha mẹ tay bồng tay bế lên những chiếc thuyền mỏng manh, lênh đênh trên biển cả hay được sinh trên đất nước tự do sau đó đă trở thành những nhân tài ở hải ngoại, thế hệ xứng đáng tự hào đă làm vẻ vang dân tộc Việt.

Năm 1986, theo chân chính sách Perestroika, tức là tái cấu trúc cơ cấu của quan thầy Gorbachev, Đại Hội 6 CSVN quyết định thực hiện chính sách "đổi mới". Rồi t́nh h́nh thế giới thay đổi, Đông Âu và Liên Sô sụp đổ, CS chỉ c̣n một đường chọn lựa, mở cửa với Tây Phương, chính sách "đổi mới" và "mở cửa" này được CSVN tiếp tục phát huy để sinh tồn và được coi là chính sách chiến lược, trân trọng gọi là sự nghiệp đổi mới của đảng, đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Nhờ sự thay đổi từ thế giới CS và t́nh h́nh quốc tế, buộc CSVN cũng phải thay đổi này cũng đă đem cơ hội cho thế hệ trẻ trong nước vươn lên. Dù bị CSVN tiếp tục kềm chế, thế hệ trẻ Việt Nam trong nước cũng đă có thể tiếp xúc với văn minh Tây phương và hiểu biết giá trị dân chủ tự do. Không c̣n bị hoàn toàn bưng tai bịt mắt như thế hệ cha anh từng sống hay phục vụ cho chế độ CS.

Chính sách đổi mới được thực hiện trong trên 15 năm qua đă tạo nhiều thay đổi và hậu quả trên các mặt kinh tế , xă hội và chính trị tại Việt Nam. Nhưng một mặt thay đổi chính sách kinh tế, một mặt củng cố chế độ độc tài độc đảng, CSVN đang tiếp tục làm băng hoại đất nước và di hại khôn cùng cho dân tộc. Thế hệ đấu tranh trong 30 năm qua cho dân chủ Việt Nam đang lần lần già cỗi, thể hiện nhiều sắc thái tiêu cực, chia rẽ, ấu trĩ, cực đoan.. th́ tương lai của dân tộc chỉ c̣n trông chờ ở thế hệ con em.

I- CHẾ ĐỘ CS TÀN HẠI ĐẤT NƯỚC.

Sau khi cưỡng chiếm miền Nam, nhuộm đỏ hai miền đất nước, CS thiết lập chế độ toàn trị tại Việt Nam. Với sự biến chuyển của t́nh h́nh thế giới trong đầu thập niên 1990, CSVN phải thay đổi chính sách kinh tế, thay đổi luật pháp để có thể hội nhập vào cộng đồng thế giới, nhưng cho đến ngày hôm nay, chế độ CSVN vẫn là một chế độ độc tài đảng trị. Tất cả quyền lực quốc gia đều tập trung trong tay đảng CS. Người dân không có quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội hợp, lập hội, tôn giáo. Người nào lên tiếng chỉ trích đảng CS đầu bị coi là thành phần phản động, đều bị cầm tù. Một mặt củng cố chế độ độc tài, một mặt phải giao tiếp với Tây phương, cải cách kinh tế đă làm người Việt hải ngoại và nhiều b́nh luận gia hải ngoại cho rằng hàng ngũ CSVN đang chia rẽ, có hai thành phần bảo thủ và cấp tiến và ảo tưởng "cấp tiến" sẽ thắng thế, sẽ thực hiện cuộc thay đổi tại Việt Nam! Khuynh hướng thường thấy ở hải ngoại là đối với những đảng viên lănh đạo CS c̣n trẻ, được gán ngay cho họ thuộc thành phần cấp tiến, những người trong chính quyền có nhiệm vụ tiếp xúc, đàm phán, giao dịch với Tây phương coi họ là thành phần thân Tây Phương.

Từ quan điểm đó mơ ước Việt Nam sẽ có những Yeltsin để thay đổi chế độ. Những hy vọng và sự gán ghép như vậy thường chứng minh sai lầm. Trong các năm đầu thập niên 90, ở hải ngoại cũng đă từng có phong trào cho rằng Vơ Văn Kiệt có thể là một Yeltsin Việt Nam, thực tế qua thời gian chứng minh hoàn toàn khác. Nguyễn Tấn Dũng trước đây đă từng được coi là cấp tiến, hoàn toàn chỉ căn cứ vào lứa tuổi c̣n trẻ, nhưng trong vụ nông dân Thái B́nh, Dũng đă là người tuyên bố hung hăng nhất. Lê Khả Phiêu khi được lên làm bí thư, nhiều b́nh luận gia hải ngoại cũng đă đánh giá Phiêu là người "cải cách" v́ ông đă có quá tŕnh thực hiện nhiều cải cách trong quân đội, và người ta cũng cho rằng quân đội CSVN lại ít sắt máu hơn công an, ảnh hưởng Nga nhiều hơn Tàu..nhưng trong thời gian làm bí thư, Phiêu là một người luôn luôn nói lên tiếng nói cảnh cáo với đảng viên về diễn tiến ḥa b́nh, về ư đồ của Hoa Kỳ, rồi Phiêu đang được coi là thành phần lănh đạo phe thân Trung Cộng tại Việt Nam hiện nay v́ trong thời gian ông Phiêu làm bí thư cũng là thời gian cải thiện quan hệ Trung-Việt có nhiều tiến bộ và Việt Cộng đă dâng hiến một phần lănh thổ biên giới, cả hàng chục ngàn cây số vuông vịnh Bắc Việt cho Trung Cộng.

Đối với những người như Trần Đức Lương, Nông Đức Mạnh, là những người từng du học Liên Sô, trước đây cũng nhiều quan sát viên quốc tế coi họ thuộc thành phần có khuynh hướng cấp tiến. Thế nhưng khi ông Lương làm chủ tịch nước, ông Lương không làm được điều ǵ cấp tiến mà ông ta bị phe phản kháng tố tham nhũng, trong khi trước đây báo chí ngoại quốc đă từng diễn dịch ông Lương là một kỹ sư trong sạch. Nông Đức Mạnh khi mới lên làm bí thư, nhiều người cũng đă cho rằng phe canh tân, thân Tây Phương đă thắng thế, loại trừ Lê Khả Phiêu khỏi ghế Tổng Bí Thư vân vân.

Sau khi ông Nông Đức Mạnh ngồi trên ghế Tổng Bí Thư, chúng ta thấy CSVN gia tăng sự đàn áp với những người phản kháng và chống đối trong nước điển h́nh là sự đàn áp thô bạo Phật Giáo Ḥa Hảo, thực hiện các cuộc đấu tố để lăng nhục các ông Hoàng Minh Chính, Lê Chí Quang, Nguyễn Vũ B́nh, thu hồi và thiêu hủy các ấn bản như "Chuyện Kể Năm 2000" của nhà văn Bùi Ngọc Tấn, "Suy Tư và Ước Vọng" của TS Nguyễn Thanh Giang, "Đối Thoại 2000-2001" của G.S. Trần Khuê, "Nhật Kư Rồng Rắn" của tướng Trần Độ..

Đại Hội 10 của CSVN mới đây càng cho thấy CSVN vẫn luôn luôn là CS, trong khi chúng hô hào dân chủ nội bộ, nhưng những đảng viên tự ra ứng cử hay được đề cử không ai đắc cử, mà tất cả thành phần trung ương đảng cũờng đều là những người đă được sắp xếp từ trước. Từ những ảo tưởng trong quá khứ chứng tỏ sai lầm, việc thay đổi nhân sự sau Đại hội 10 của CS, không c̣n làm cho ai có thêm cái nh́n lạc quan đối với sự thay đổi chính trị của CSVN như trước. Giáo sư Carlyle Thayler của trường đại học New South Wales, là một chuyên viên nghiên cứu về Việt Nam, đă viết trên tờ Wall Street Journal ngày 10 tháng 7 năm 2006: " ..giống như Trung Quốc, những ồn ào về tiến bộ kinh tế ở Việt Nam đă che lấp sự thật là hệ thống chính trị hoàn toàn không thay đổi. Ông Triết, ông Dũng và những thành viên bộ chính trị đều là sản phẩm của hệ thống chính trị Leninist. Họ được chọn lựa v́ được đánh giá trung thành với đảng...."

Việt Nam đă có những chỉ số phát triển kinh tế rất cao từ các năm 1990 đến nay. Tổng sản lượng quốc nội năm 1995 chỉ khoảng 15 tỷ mỹ kim, năm 2005 lên được 35 tỷ. Thẹo ước lượng của Ngân Hàng Thế Giới và Ngân hàng Phát Triển Á Châu, năm 2004 vừa qua mức phát triển ở Việt Nam là 5.8% và chỉ số phát triển trong năm 2006 ước lượng sẽ ở vào khoảng 7.2%, một chỉ số rất cao so với các nước trong vùng. Trước năm 1986, Việt Nam là một nước nền có kinh tế xuống tận cùng bằng số, với t́nh trạng đó, khi được các nước viện trợ, được ngoại quốc đổ tiền vào đầu tư, dân chúng được cởi trói tự do làm ăn, th́ tốc độ phát triển cao hơn các nước trong vùng đă là những nước phát triển từ lâu là điều dễ hiểu. Từ khi mở cửa và đổi mới đến nay, mỗi năm CSVN nhận được viện trợ phát triển (ODA) của các nước và các cơ quan phi quốc gia (NGO) lên hàng tỷ mỹ kim. ODA trong năm 2004 là 2.8 tỷ, năm 2005 là 3.4 tỷ. Đầu tư trực tiếp (FDI) của ngọai quốc vào Việt Nam được tháo khoán năm 1998 là 2.2 tỷ, năm 1999 là 2.041 tỷ và năm 2000 là 1.9 tỷ... nâng tổng số FDI được đổ vào Việt Nam lên trên 20 tỷ. Ngoài những số tiền viện trợ, đầu tư , CSVN c̣n vay thêm tiền để phát triển, số nợ ghi nhận trong năm 1999 là 11 tỷ và năm 2002 tăng lên 12. 5 tỷ mỹ kim, hiện tại ở khoảng 14 tỷ, chiếm tới 38% GDP.

Việt nam là một nước giàu tài nguyên, về dầu hỏa mỗi năm xuất cảng được khoảng 3.5 tỷ mỹ kim, gạo 667 triệu, cà phê 501 triệu.v.v.tiền viện trợ không điều kiện của Việt kiều cũng khoảng từ 3 - 4 tỷ mỹ kim mỗi năm. Với số tư bản này được bơm vào nền kinh tế c̣n sơ khai, Việt Nam bắt buộc phải có chỉ số phát triển cao. Tuy nhiên, nh́n qua h́nh ảnh thay đổi tại Việt Nam so với 30 năm về trước, nh́n qua những chỉ số phát triển, không thể vội lạc quan cho tương lai của đất nước đă đành, mà nếu có một cái nh́n rất sâu rộng về chính sách kinh tế của CSVN và hậu quả của nó, chúng ta lại chỉ thêm đau ḷng cho dân tộc chúng ta. Chiêu bài CS đưa ra trong khi phải áp dụng các nguyên tắc kinh tế thị trường để phát triển kinh tế là "Kinh Tế Thị Trường Theo Định Hướng Xă Hội Chủ Nghĩa", quan niệm của CS đối với tài sản quốc gia vẫn trước sau như một là "dân làm chủ, nhà nước quản lư, đảng lănh đạo". Hậu quả này là làm cho nên sự phát triển kinh tế bị chèn kéo theo hai hướng nghịch lư. Sự phát triển đáng lẽ phải nhanh hơn, mau hơn, vững chắc hơn th́ lại bị tŕ trệ, dằn kéo trở lại. Công ty quốc doanh chiếm khoảng 50% tín dụng ngân hàng, nhưng sản lượng chỉ lên được 30% GDP, 60% là thua lỗ.

Trước áp lực của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân Hàng Phát Triển Á Châu, chính quyền CS hứa sẽ giải tư thêm một số công ty quốc doanh. Tuy nhiên, song song với việc t́m cách giải tư hay cổ phần hóa một số công ty, xí nghiệp quốc doanh thua lỗ, th́ CS cũng tập hợp các công ty xí nghiệp quốc doanh lại thành những đại công ty, tăng cường các đặc quyền, đặc lợi để khai thác các ngành điện, than đá, dầu hỏa, điện thoại, hàng không, hải sản, đá quư, vàng, sắt thép, tàu hỏa, cà phê, thuốc lá, giấy, thực phẩm, cao su.. bao trùm độc quyền 80% khả năng sản xuất và dịch vụ của toàn quốc. Một điểm đáng lưu ư, những công ty quốc doanh bị giải tư, cổ đông cũng phải là đảng viên CS. Trung Ương Đảng Khóa 9 và đại hội 10 CSVN vẫn chứng tỏ quyết tâm củng cố thêm nữa vai tṛ của Doanh Nghiệp Nhà Nước. Qua những ǵ CSVN đang thực hiện và nhắm tới trong việc xây dựng và phát triển kinh tế tại Việt Nam, cho chúng ta thấy mục tiêu nắm giữ, kiểm soát tất cả tài sản, tiềm năng kinh tế quốc gia trong tay của đảng CS không có ǵ thay đổi. H́nh thức quản lư và lănh đạo của Đảng đối với tài sản quốc gia có khác, nới lỏng hơn so với thời kỳ độc tài chuyên chế toàn trị, thích ứng phần nào khi phải gia nhập vào sinh hoạt kinh tế chung của Cộng Đồng Quốc tế, nhưng bản chất vẫn trước sau như một. CS không đặt quyền lợi và tương lai của quốc gia, coi những điều kiện thích ứng nhất để phát triển kinh tế là quan trọng, mà trọng tâm vẫn luôn luôn là Đảng. Độc Quyền kinh tế, nền kinh tế phải lệ thuộc, phục vụ đảng là mục tiêu.

Một chính thể độc tài, độc đảng tự do ngôn luận bị bóp chết là môi trường để tham nhũng phát triển. T́nh trạng tham nhũng ở Việt Nam hiện nay chính CS cũng coi là quốc nạn, lớn tiếng hô hào đối phó. Tuy nhiên, nh́n lại t́nh trạng mới thấy "tham nhũng" không phải là quốc nạn của CS mà là quốc sách của chúng. Trước đây, c̣n áp dụng chính sách chuyên chế, CS lấy kỷ luật sắt để bảo đảm sự trung thành của đảng viên, khi áp dụng chính sách cho người dân có thể có của cải riêng tư, CSVN đă lấy sự giàu có, lợi ích cá nhân làm phần thưởng để thu hút và giữ sự trung thành trong hàng ngũ. Trước sự chỉ trích của thế giới, CS đă luôn luôn hô hào trừng trị tham nhũng, khi Lê Khả Phiêu c̣n làm Tổng Bí Thư đă phát động chính sách phê b́nh và tự phê b́nh, nhưng không ai phê b́nh ai. Phạm Thế Duyệt bị tố cáo tham nhũng, cưỡng chiếm đất đai, Phạm Thế Duyệt vẫn b́nh chân như vại, vẫn là chủ tịch/chủ tịch đoàn trung ương của Mặt Trận Tổ Quốc, những dân biểu quốc hội khóa XI của quốc hội lại do chính ông Phạm Thế Duyệt chọn lựa trước, trước khi người dân đi bỏ phiếu. Tất cả đảng viên CSVN, những người hiện c̣n được sử dụng và hoạt động, không lên tiếng chống Đảng đều đang trở thành những người giàu có, cấp nhỏ giàu nhỏ, cấp lớn giàu lớn. Tài sản của quốc gia như thế, không bị đảng chi phối và chỉ huy, quản trị th́ nằm trong chương mục tư, nhà đất riêng của đảng viên. Người CS có biến h́nh, biến dạng từ những kẻ "vô sản" trở thành "tư sản", "đại tư bản", nhưng bản chất: Tài sản quốc gia phải ở trong tay đảng vẫn trước sau như một. Vụ PMU- 18 cho thấy trong khi đảng viên cao cấp có thể dùng hàng triệu đô la cho một cuộc cá độ, th́ dân chúng phần lớn không đủ ăn đủ mặc. Sau mấy chục năm cai trị theo "tư tưởng Hồ Chí Minh", Việt Nam trở thành một nước tham nhũng khủng khiếp, mà c̣n là một nước gần như không c̣n văn hóa, t́nh người. Trong mấy ngàn năm dân tộc Việt chưa bao giờ có t́nh trạng chủ khảo, thầy giáo đ̣i hỏi làm t́nh với học sinh, sinh viên để được cho điểm cao, chấm đỗ như Việt Nam dưới chế độ CS hiện nay.



II - NH̀N LẠI CUỘC ĐẤU TRANH CHO DÂN CHỦ VIỆT NAM CỦA THẾ HỆ TỪNG THAM GIA CHIẾN TRANH QUỐC CỘNG.


Người Quốc Gia Việt Nam trong nước cũng như ở hải ngoại đă tiếp tục đấu tranh chống lại chế độ CSVN sau khi mất nước, đào vong ra hải ngoại. Trong ṿng 30 năm qua các tổ chức tranh đấu, đảng phái chính trị, hội đoàn, đoàn thể quốc gia đă liên tục tranh đấu, phái đoàn ngoại giao CS đi đến đâu đều gặp sự đả đảo của người Việt hải ngoại. Sự đấu tranh của người Việt hải ngoại cũng đă góp phần làm cho thế giới thấy rơ hơn bộ mặt CS, t́nh trạng nhân quyền tại Việt Nam và lên tiếng bênh vực những người bị CS đàn áp trong nước. Khi đề cập đến những kết quả tích cực th́ cũng không thể không thừa nhận những khía cạnh tiêu cực. Nhưng khía cạnh tiêu cực này là sự chia rẽ, có quá nhiều tổ chức làm phân chia sức đấu tranh chung, th́ các đoàn thể, chính đảng tổ chức chống Cộng theo thời gian cũng đă phân hóa, một chia làm hai, làm ba, làm mất niềm tin của đồng bào, c̣n tự làm yếu đi khả năng hoạt động của tổ chức. Có tổ chức rất tên tuổi trước kia ngày nay chỉ c̣n là một danh xưng không hơn không kém! Khi khả năng đấu tranh ở hải ngoại v́ phân chia đă tự làm cho ḿnh suy yếu, tương lai Việt Nam lại được hy vọng qua phong trào đấu tranh trong nước. Trong thời gian Nguyễn Văn Linh phát động chiến dịch "đổi mới" cho văn nghệ sĩ CS có thể lên tiếng chỉ trích những sai trái của chế độ, hải ngoại đă ghi nhận có những ng̣i bút xuất sắc như Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp.. rồi mặc dầu chiến dịch của Nguyễn Văn Linh chấm dứt trước Đại Hội 7, phong trào chống đối trong nước tiếp tục được phát triển. Từ hàng ngũ văn nghệ sĩ đă đưa đến sự nhập cuộc của trí thức như Hà Sĩ Phu, đến những đảng viên cao cấp của CS như Hoàng Minh Chính, Nguyễn Hộ, Trần Độ, Trần Khuê.. Và mới đây cũng đă có sự nhập cuộc của những người trẻ như Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn... Tuy nhiên, trong bao năm qua trước sự chống đối trong nước này, thực tế, CS lúc th́ bắt giam, lúc th́ thả, lúc th́ quản chế tại gia theo sự yêu cầu và can thiệp của các cơ quan đấu tranh nhân quyền, nhưng một điều chúng ta nh́n thấy là tiếng nói của họ có thể tiếp tục gióng lên ở hải ngoại, thế nhưng trong nước th́ lại ít người biết đến.

T́nh trạng và quan điểm của những người đấu tranh trong nước và những người đấu tranh ở hải ngoại trong thời gian qua cho thấy khó có thể đi đến ḥa hợp tạo thành một sức mạnh chung của toàn dân để cáo chung chế độ CS hiện nay. Trong khi một số người Việt hải ngoại cho rằng phong trào phản kháng trong nước là hiện tượng tự nhiên sau khi chế độ CS trên thế giới sụp đổ và một số đảng viên CS Việt Nam cũng nh́n thấy được bản chất phi nhân, tai hại của chế độ đối với dân tộc, can đảm đứng lên chống đối, phản kháng, và sự phản kháng trong nước từ hàng ngũ đảng viên CS này cũng góp phần rất lớn cho công cuộc đấu tranh chung. Thế nhưng, cũng không ít người Việt hải ngoại lại cho rằng sự chống đối chế độ từ hàng ngũ đảng viên CS là đấu tranh cuội, là tṛ hề của chế độ dàn dựng để chứng tỏ với thế giới CSVN cũng chấp dung một phần nào những tiếng nói chống đối trong nước. Thậm chí c̣n có người cho rằng đă là CS, từng góp tay với đảng CS là kẻ thù của dân tộc! Phải tẩy chay tất cả những ǵ những người này nói hay làm!

Công cuộc đấu tranh cho dân chủ tự do của một dân tộc trong t́nh h́nh thế giới hiện nay rất cần sự yểm trợ và hậu thuẫn của nhiều nước, nhiều dân tộc. Nhưng có lẽ sai lầm nhất của các tổ chức đấu tranh trong thời gian qua đó là tin tưởng vào chiến lược quốc tế của Hoa Kỳ. Tin tưởng v́ nhu cầu chiến lược, bao vây Trung Cộng, Hoa Kỳ sẽ lôi kéo CS hay tạo biến động, làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia liên minh với Hoa Kỳ, trong nỗ lực đó, Hoa Kỳ sẽ giúp cho lực lượng tự do thắng thế, xây dựng tại Việt Nam một nước dân chủ đă là những tin tưởng kéo dài trong nhiều năm qua của khối chống Cộng hải ngoại. Chắc chắn nếu VN có một chế độ tự do, dân chủ, thân Tây Phương phải là những ǵ mà Hoa Kỳ rất mong muốn, nhưng Hoa Kỳ dồn nỗ lực đến đâu trong chiều hướng này tại Việt Nam, và Hoa Kỳ có sẵn sàng tạo cho Trung Cộng nhận thấy rơ rệt Hoa Kỳ là một đe dọa thực sự đối với Bắc Kinh hay không là những ǵ chúng ta phải cân nhắc. Với tiềm năng quân sự và kinh tế của Trung Cộng, trong tương lai, nước này có thể trở thành một nước đối đầu quyết liệt, ngang ngửa với Hoa Kỳ, nhưng tương lai này là một tương lai khó thể dự liệu bao nhiêu năm, bao nhiêu thập niên nữa. Hiện tại, từ năm 1972 đến nay, liên hệ Hoa Kỳ - Trung Cộng lúc lạnh, lúc nóng, nhưng tất cả là sự liên tục cải thiện. Giao thương giữa hai nước càng ngày càng tăng, hiện đă lên mức cả trăm tỷ mỹ kim hàng năm. Thời Tổng Thống Bill Clinton, Trung Cộng được hành pháp Hoa Kỳ xem là "strategic partner" (có thể tạm dịch là bạn chiến lược).

Khi Tổng Thống Bush đắc cử, hành pháp Hoa Kỳ đả kích kịch liệt quan điểm strategic partner của Bill Clinton, coi Trung Cộng là kẻ thù chiến lược, nhưng rồi sau đó họ liên tiếp đính chính lại quan điểm. Colin Powell: "We will treat China as she merits. A trategic partner is not, but neither is China our inevitable or impacable foe"! Chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Cộng được thể hiện rơ rệt hơn qua bài diễn văn trước Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viên của đại sứ Clark Randt: "As the president has said, we have different values, yet common interests in the world..I will always stand squarely for American interests and American values. And, these will, no doubt, sometimes cause disagreements with China. Yet, I will approach our differences in a spirit of respect. We will engage and coorporate with China where we can and compete with or oppose China where we must.."

Qua những ǵ mà Đại Sứ Clark Randt tuyên bố trước khi đi nhậm chức, sự liên hệ của Trung Cộng và Hoa Kỳ trong thời gian gần đây cho chúng ta thấy, những sự chống đối hay cộng tác giữa hai nước cũng đă và đang diễn ra trên mức độ "b́nh thường" của quyền lợi hai nước, và việc hy vọng ông Bush có chính sách "chống Trung Cộng" coi Trung Cộng là kẻ thù hay cạnh tranh chiến lược để cố gắng biến Việt Nam thành "tiền đồn" bao vây Trung Cộng có lẽ cũng chỉ là những mơ mộng từng kéo dài trước đây! Một điều có lẽ người Việt Nam đấu tranh cho tự do và dân chủ cũng nên tự hỏi, nếu Việt Nam của chúng ta v́ nhu cầu nào đó của Hoa Kỳ có cần làm một "tiền đồn" hay không? Một Việt Nam tự do dân chủ, nhưng lại phải hay trở thành một tiền đồn, cho dù tiền đồn cho một giá trị nào đó, chúng tôi nghĩ rằng dân tộc của chúng ta cũng sẽ phải trả những cái giá quá đắt. Thời chiến tranh lạnh, một nước bị CS đe

dọa đều tùy thuộc vào quân viện và kinh viện của Hoa Kỳ để sống c̣n. Thế hệ lănh đạo công cuộc đấu tranh của người Việt hải ngoại trong thời gian qua.. h́nh như cái tinh thần ỷ lại ấy vẫn tiếp tục ảnh hưởng họ. Một số ngồi yên rung đùi chờ Hoa Kỳ bật đèn xanh, đèn đỏ, một số tranh đấu nhưng vẫn trông mong ở Hoa Kỳ, ở quốc tế hơn là trông chờ vào sức mạnh dân tộc. Họ trông mong những ǵ họ làm, tổ chức vào đoàn thể của họ được Hoa Kỳ chú ư hơn là tạo được khả năng tranh đấu, thực lực của tổ chức.

III - CHỈ C̉N HY VỌNG Ở THẾ HỆ TRẺ VIỆT NAM.

Đă trên 30 năm trôi qua, ngày hôm nay những người ở tuổi trên dưới 30 vào năm 1975 đă bước vào tuổi lục tuần, nhưng thế hệ đi trước đă lần lượt theo luật đào thải của tự nhiên. Thế hệ trẻ nhất sau năm 75 hiện giờ cũng đă già cơi, có đấu tranh th́ cũng chỉ là những kẻ đem sức tàn mong tiếp tục đóng góp cho cuộc đấu tranh chung, thế hệ này không thể đưa cuộc đấu tranh cho dân chủ tại Việt Nam đến thành công. Tương lai dân chủ Việt Nam phải trông chờ vào thế hệ con em. Theo thống kê dân số Việt Nam hiện nay khoảng trên 83 triệu người. Thành phần trên 65 tuổi chỉ chiếm 5.8% dân số, thế hệ chưa từng cầm súng trong cuộc chiến tranh Quốc-Cộng chiếm 65% dân số. Thành phần trẻ tuổi ở Việt Nam hiện nay chưa dấn thân để tranh đấu cho tự do và dân chủ, nhưng họ là những thành phần đă nh́n rơ được t́nh h́nh của thế giới, nh́n thấy được các giá trị dân chủ tự do cũng như t́nh trạng tham ô, bất công trong xă hội.

Trong số này hàng chục ngàn sinh viên đă đi du học đến các nước tây phương,ỳ nh́n thấy sự tiến bộ, nh́n thấy các giá trị dân chủ tự do, nhân quyền và dân quyền được tôn trọng như thế nào ở các nước văn minh. Ít nhất cũng phải có một số sinh viên du học nào đó cũng phải nh́n lại t́nh trạng đất nước và ấp ủ hoài vọng có sự thay đổi trên quê hương của chính ḿnh. Trong cuối tháng 7 vừa qua chúng tôi được dịp tiếp xúc với hai thành viên của Tập Hợp Thanh Niên Dân Chủ là anh Nguyễn Tiến Trung và cô Hoàng Lan là những du sinh Việt Nam. Qua hai sinh viên này, và một số du sinh tôi từng gặp nhưng chưa có can đảm khẳng khái công khai chỉ trích chế độ và phát động phong trào thanh niên đấu tranh cho dân chủ cho Việt Nam như hai cô cậu Tiến Trung và Hoàng Lan, chúng tôi tin rằng tương lai Việt Nam sẽ ở trong những bàn tay bé nhỏ nhưng can trường này. Những người trẻ này có nhiều cơ hội để có thể cùng với lớp trẻ thanh niên trong nước đứng lên.

Hàng ngũ tuổi trẻ ở hải ngoại, trong thời gian cha anh đấu tranh, th́ anh chị em lo ăn học, Thế hệ 30-40 hay trẻ hơn hiện được hấp thụ tinh thần dân chủ thực sự trong đời sống xă hội và chính trị của những quốc gia truyền thống dân chủ lâu đời, đủ điều kiện vừa học vấn, vừa kinh tế, vừa hoàn cảnh của cộng đồng Việt Nam hải ngoại, mà nếu anh em khẳng khái đứng lên qui tụ thành sức mạnh chung sẽ thay đổi được cục diện tranh đấu cho dân chủ và tự do cho Việt Nam. Thế hệ tuổi trẻ ở hải ngoại và trong nước cũng có những điều kiện để quá khứ của cha anh ở sau lưng cùng hướng về phía trước, bắt tay nhau tranh đấu cho một đất nước tự do văn minh và tiến bộ. Những anh chị sinh viên, tuổi trên dưới 20 của trường Đại học UTA (University of Texas at Arlington) trong năm nay đă mănh liệt tranh đấu bảo vệ lá cờ vàng. Phản ứng của tuổi trẻ, lớp con cháu trong vụ trường UTA không phải chỉ là hănh diện của lớp cha ông, mà là hy vọng của công cuộc đấu tranh hiện nay, hy vọng cho ngày mai Việt Nam. Từ ư thức bảo vệ lá cờ vàng thế hệ tuổi trẻ UTA, trong số anh chị em sẽ có người có cái nh́n xa hơn, có cái tâm xa hơn để đóng góp hữu hiệu hơn, quan trọng hơn cho sự nghiệp đem cho Việt Nam, quê hương gốc của các anh chị em một chế độ văn minh, tự do và dân chủ thực sự.

Những con người làm nên sự nghiệp lớn lao, không thể là những người bắt đầu ở tuổi sáu bảy chục. Thế hệ tranh đấu ở hải ngoại trong thời gian 30 năm qua đă chứng tỏ không thành công. Công cuộc thủ tiêu chế độ Cộng sản lỗi thời tiếp tục cản trở bước tiến của dân tộc chỉ c̣n trông chờ ở thế hệ trẻ. Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa năm trên 30 tuổi, Nguyễn Huệ đánh tam 20 vạn quân Xiêm chỉ mới 24 tuổi. Trương Tử Anh thành lập đảng Đại Việt năm 24 tuổi.. thế hệ 20 - 30 là thế hệ có thể đem lại thành công, thực hiện những sự nghiệp vi đại. Hy vọng trong số thanh niên thiếu nữ trẻ trong thế hệ này sẽ xuất hiện những vị anh hùng, những người anh hùng có thể lật đổ chế độ CS, đem lại tự do cho đất nước. Hy vọng giới trẻ Việt Nam trong nước cũng như hải ngoại trong đấu tranh có thể tránh được những khuyết điểm của đàn anh đi trước, giương cao cờ tranh đấu cho dân chủ nhưng không chứng tỏ tn trọng dân chủ trong nội bộ, thể hiện con người dân chủ, và cũng hy vọng rằng thế hệ trẻ Việt Nam cũng không có tinh thần nô lệ Nga Tàu hay ỷ lại Mỹ, Tây như nhưng người đi trước.

Huệ Vũ