Nói Chuyện Với Nhau Về Ṭan Cầu Hóa (Globalization)
Giáo Sư Trần Đức Thanh Phong
Lời mở đầu
Trước đây trong một câu chuyện với bạn trẻ tôi có đả động đến “Globalization” mà người Việt chúng ḿnh h́nh như đă thỏa thuận ngầm với nhau phiên dịch là “Toàn Cầu Hóa”. Tôi cũng có gợi ư về tính chất nghiêm trọng của “Globalization”, ảnh hưởng của nó đối với tương lai đất nước ta và mời bạn trẻ chú trọng đến nó với một suy ngẫm.
“Globalization” là kế hoạch kinh tế của G-7 (group of seven) Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ư, Canada, Nhật Bản, nhưng v́ Mỹ thường chủ động về đề tài này cho nên thiên hạ có cảm tưởng đây là chủ trương riêng của Mỹ. Ngay cái thương ước Mỹ-Việt th́ tất cả các nước kia cũng đang chờ ngày khai sanh nó để họ cùng được hưởng những quyền lợi mà Mỹ sẽ đ̣i được. Thương ước này mở màn cho giai đoạn “pháp trị” (rule of law) để có thể tránh được những bất trắc gây ra bởi luật rừng rất thịnh hành ở Việt Nam.Xin nhấn mạnh việc tôi chọn từ Anh ngữ “Globalization” thay v́ sử dụng từ Việt ngữ “Toàn Cầu Hóa”, không biết có phải do thành kiến mà tôi cảm thấy có cái ǵ đó không ổn, v́ đối với tôi cái chữ “Globalization” nhắc nhở những khó khắn dân tộc ta đă phải chịu đựng trong quá khứ, mà có thể sẽ tái hiện mạnh mẽ hơn cho đất nước và dân tộc ta. Tôi cảm thấy Anh ngữ “Globalization” gây lo âu cho tôi hơn là khi nghe Việt ngữ “Toàn Cầu Hóa”, có lẽ cái tiếng Việt quá hiền lành nhẹ nhàng không chứa đựng nổi h́nh ảnh đe dọa của nguyên từ Anh ngữ với tất cả ư nghĩa của những mưu mô thầm kín của nó.
Cũng có lẽ khi nghe “Globalization” th́ thấy bóng dáng ngoại bang. C̣n “Toàn Cầu Hóa” th́ có vẻ nội hóa, chỉ thấy ḿnh với nhau mà thôi chăng?
Hơn nữa tôi cũng chưa kết luận được “Globalization” là một chương tŕnh vị tha hỗ tương phát triển kinh tế thương mại hay là một kế hoạch bành trướng kinh tế tài chánh mở rộng phạm vi ảnh hưởng của thế lực tư bản (whether it is a mutual altruistic economic & trade development program or an economic & financial expansionist plan for capitalism to enlarge its sphere of influence.)
Lần trước, khi nhắc tới “Globalization” tôi chưa vào chi tiết, nay có bạn muốn biết ư kiến của tôi về “Globalization”, âu cũng là cơ hội cho tôi tŕnh bày lối nghĩ của tôi. Tôi cũng lo không thể tŕnh bày hết nghĩa nổi. V́ “Globalization” thật là đa diện. Tùy chỗ đứng mà có thể nh́n thấy những khía cạnh khác nhau. Mà chỗ đứng của một người Việt nặng t́nh dân tộc như tôi th́ đương nhiên vấn đề quyền lợi của Việt Nam trở thành trọng điểm.
Khối Giầu Vs. Khối Nghèo
Phớt qua th́ “Globalization” có hai mặt như hai mặt của đồng tiền vậy. Nghĩa là có hai khối quốc gia, không giống nhau, một bên là khối các quốc gia giầu có chủ động thực hiện toàn cầu hóa, và một bên là khối các quốc gia nghèo bị động, v́ không có lựa chọn, mà phải chịu kẹt vào kế hoạch toàn cầu hóa. Có nước bị động như trường hợp Việt Nam xă hội chủ nghĩa th́ các lănh tụ cộng sản lại coi đây là cứu cánh cho vấn đề sinh tồn của Đảng Cộng Sản, cho nên v́ nhu cầu trước mắt mà họ phải nhắm mắt làm ngơ hậu quả tai hại cho tương lai đất nước.
Về quan hệ giữa nước giầu và nước nghèo, nói theo lối b́nh dân nhà nghèo th́ cũng như cái người cần tiền phải đi vay của anh làm nghề cho vay với những điều kiện nghe thật là êm tai. Sau một thời gian th́ người vay biến thành con nợ kinh niên không bao giờ trả nổi nợ, không bao giờ thoát ra khỏi được cái “giây trói” vô h́nh là tiền nợ gốc, mà giỏi lắm th́ cũng chỉ trả nổi tiền lời cho đúng hạn kỳ, thế cũng là may lắm rồi.
Trong cái thế của “Globalization” rơ ràng có hai đơn vị khác nhau, đối chọi nhau, quyền lợi mâu thuẫn với nhau. Một bên là nhóm tư bản giầu tiền đầu tư đóng vai chủ nhân ông. Và một bên là đám nghèo lấy mồ hôi nước mắt làm vốn cung cấp lao động với lương rẻ mạt được gọi là hợp tác để cùng hưởng. Vấn đề là có cùng hưởng ngang nhau hay không. Hay là theo tỷ lệ 95 đối 5. Bên nào hưởng 95, bên nào được 5 ?
“Globalization” mà tôi muốn nói tới không chỉ thuần túy là kế hoạch kinh tế thương mại của khối tư bản. Tuy căn bản là kinh tế, nhưng nó bao gồm cả chính trị và chiến lược của các nước chủ trương.
Từ địa vị muốn thấy đất nước ḿnh được phát triển đúng mức, tôi thấy yếu tố xây dựng đất nước mới là quan trọng, mới làm cho tôi lo âu. Tôi lo âu v́ nhận thấy Việt Nam hiện tại, một Việt Nam bị cưỡng ép định hướng xă hội chủ nghĩa, thiếu nhân tài lănh đạo chân thật với đất nước để có thể đối phó với những kế hoạch xâm nhập, h́nh thức ngọt ngào, có thể gây tai họa cho đất nước.
Chúng ta chưa quên những mỹ từ êm tai. Thời thực dân Pháp th́ có “mission civilisatrice” (sứ mạng truyền bá văn minh). Thời cộng sản th́ có “giải phóng”, “tự do”, “dân chủ”, “độc lập”, “hạnh phúc”, mà hậu quả ra sao chúng ta đều biết cả rồi, khỏi phải giảng giải.
Th́ “Globalization” cũng có nhiều mỹ từ như “gia nhập thế giới tiến bộ”, “thêm công ăn việc làm”, “nâng cao đời sống”, vân vân. Nhưng có một yếu tố quan trọng không được công bố đó là cái lợi bổng cho nhóm lănh tụ nắm quyền hành ở nước nghèo, nước bị “Globalization”. Ở Việt Nam, đảng cộng sản nắm độc quyền cai trị, các xí nghiệp ngoại quốc muốn đầu tư đều phải đối phó với một hệ thống quan lại trông gai được tạo ra nhằm giúp cho đảng viên thụ hưởng những phần thưởng về tiền bạc, thường được diễn tả nôm na là tham nhũng.
Hoa Kỳ Vs. Việt Nam
Chúng ta hiểu tại sao tập đoàn cầm quyền Hà Nội vừa đả đảo Mỹ vừa kính mời Mỹ vào Việt Nam “bóc lột lao động” với sự hợp tác của đảng.
Cần phải nhấn mạnh rằng Mỹ đă vào làm ăn ở Việt Nam từ lâu rồi, chứ không phải chờ thương ước Việt-Mỹ được phê chuẩn th́ Mỹ mới đầu tư vào Việt Nam. Thương ước không phải là ch́a khóa mở đường đầu tư mà là cái bẫy pháp lư (judicial trap) ép nhà cầm quyền Hà Nội phải phục tùng theo những điều kiện được ghi trong thương ước đó, bắt họ phải trọng “luật pháp”, mà luật pháp đây là những điều được ghi trong thương ước Việt-Mỹ.
Mỹ đă có mặt ở Việt Nam từ nhiều năm nay. Có mặt trực tiếp như hăng Coca-Cola, và gián tiếp như qua những công ty thế vị (surrogate companies), công ty con của Mỹ từ Nam Hàn và Đài Loan. Tỉ dụ như xí nghiệp Nam Hàn đầu tư vào kỹ nghệ giày Nike, và xí nghiệp Đài Loan đầu tư vào ngành may mặc. Sản phẩm của những công ty này là để cung cấp cho thị trường tiêu thụ Âu Mỹ. Những xí nghiệp này đă được di chuyển qua Việt Nam nhằm khai thác nhân công rẻ không c̣n t́m thấy ở Nam Hàn và Đài Loan nữa.
Nhưng điểm quan trọng là nhờ sử dụng những công ty thế vị này mà tư bản Mỹ mới thực hiện được kế hoạch giăng lưới lùa nhóm cầm quyền vào bẫy. Cái bẫy đây là bẫy tham nhũng đến nay đă lên đến hàng tỷ đô-la. Các công ty ngoại quốc nhất là của Nam Hàn và Đài Loan đă phải bỏ tiền mua chuộc từ cấp cao Ủy viên Bộ Chinh Trị đến cấp thấp Ủy Viên Xă Phường để được yên ổn. Các lănh tụ cộng sản cao cấp đều tuyên bố “tham nhũng là quốc nạn” nhưng chính họ lại là thành phần tham nhũng cho nên tham nhũng tiếp tục lan rộng toàn diện, trên dưới, ngang dọc.
Thế tại sao tham nhũng phát triển mạnh ở Việt Nam mà lại vắng mặt ở Singapore. Câu trả lời nằm ở phẩm chất nhân sự lănh đạo. Lănh đạo chân chính th́ không có chỗ cho tham nhũng. C̣n nếu lănh đạo là cường hào ác bá th́ Việt Nam là điển h́nh.
Mới bước đầu thí nghiệm thôi mà đă như thế, thử hỏi khi “Globalization” thực sự phát triển ở Việt Nam th́ sẽ như thế nào.
Bạn nào có chút thời giờ hăy t́m hiểu lịch sử hoành hành ở Trung Mỹ của công ty chuối United Fruit Company như thế nào th́ bạn sẽ đỡ nghi ngờ tại sao tôi lại lo âu về “Globalization.” Các quốc gia Trung Mỹ c̣n bị châm biếm đặt tên là Banana Republics v́ những ông tướng được làm tổng thống các nước ở Trung Mỹ là do cái công ty United Fruit Company (nhăn hiệu Chiquita, Bonita, . . ) yểm trợ chỉ định. Đủ rơ nếu những người cầm quyền chỉ lo cho ḿnh cho bè đảng của ḿnh th́ đất nước sẽ bị ngoại bang chi phối dưới h́nh thức hợp tác kinh tế với sự đóng góp vui vẻ và khúm núm của nhóm lănh đạo lo giữ trương mục đô-la giấu ở ngoại quốc.
“Globalization”: Tốt Hay Xấu
Câu chuyện về “Globalization” của tôi nó c̣n liên hệ tới những cái “ization” khác đă chết, sắp chết, hay ngụy trang để tiếp tục sống có tên như là: (1) “colonialization” thường được gọi là “colonialism” – chủ nghĩa thực dân; (2) “communization” thường được gọi là “communism” – chủ nghĩa cộng sản; chưa kể (3) “collectivism” – chủ nghĩa tập trung tài sản, hay (4) “socialism” – chủ nghĩa xă hội. Tất cả những thứ này đă và đang gây tai họa nhiều hay ít cho đất nước ta như thế nào th́ hậu quả c̣n sờ sờ đó.
“Globalization” là một bước tiến làm ăn mới, một giai đoạn phát triển mới của “Capitalism”. Tự nó không có ư đồ xấu. Mục tiêu của nó là khuếch trương thêm thị trường. Mục tiêu của nó là kiếm thêm lợi nhuận. Nhưng việc thực hiện nó tạo ra “tham nhũng” tại các nước hậu tiến với thể chế độc tài chuyên chính.
Các nước nghèo cũng được lợi tuy cái lợi trước mắt không tương xứng với cái hại lâu dài. Nếu người lănh đạo, dù có ḷng với đất nước đến đâu, mà không đủ bản lănh th́ cũng không thể đối phó nổi với những xâm nhập bất lợi qua những giao kèo cột chân không lối thoát.
Những nước giầu chủ trương “Globalization” đều có chương tŕnh ngoại viện. Đây là một điểm son đáng khen ngợi của các nước tư bản, tuy hành động của họ không hẳn là vị tha nhân đạo nhưng cũng là một sự đóng góp có lợi ích cho phía nhận, và người dân bản xứ có dịp làm quen với người tư bản.
Sự có mặt của tư bản tại các nước nghèo thường thường bắt đầu bằng những xí nghiệp sản xuất đ̣i hỏi nhiều nhân công không chuyên môn. Điểm này Karl Max buộc tội tư bản là “người bóc lột người”. Vả lại, dù có bị bóc lột, những công nhân đó vẫn nhận được số lương bổng mà họ chưa dám mơ tưởng tới bao giờ. Họ lại c̣n dư chút tiền để tiêu pha nếm chất thơm ngọt của Coca Cola.
Tôi c̣n nhớ một chuyện cũ từ hơn nửa thế kỷ trước, hồi năm 1950, tại một Hội Nghị Sinh Viên Quốc Tế ở Tokyo, trong buổi hội luận về chính sách đế quốc của Hoa Kỳ, một anh sinh viên Phi Luật Tân đă nói: “Chúng tôi biết Hoa Kỳ từ năm 1899 khi Phi Luật Tân trở thành thuộc địa của Hoa Kỳ, các anh chị hăy ghi nhận lời của tôi nhé, đó là ‘Coca Cola Imperialism’, nước nào đă treo cái bảng hiệu Coca Cola từ thành thị đến nông thôn là nước đó đang đi vào con đường trông gai, lănh đạo phải tài ba và trong sạch mới đối phó nổi , mà nếu đối phó nổi th́ có lợi cho nước đó”.
Đến nay câu nói này vẫn nhắc nhở tôi phải lo âu mỗi khi thấy con ruồi ḅ trên miệng ly rồi rớt vào ly coca-cola. Phải chăng mật ngọt chết ruồi.
Chủ Nghĩa Tư Bản
“Capitalism” chủ nghĩa tư bản rất thích hợp với bản chất con người ở điểm con người muốn sống sung sướng hơn, đày đủ hơn, mà lại thích challenging, muốn được thử thách khả năng kiên tŕ phấn đấu, thật là hấp dẫn cho những người có đời sống tự do tại một nước dân chủ, cho những người muốn tiến lên, tiến lên nữa. Hoa Kỳ là một quốc gia biểu tượng cho “Capitalism” nơi mà người dân muốn tiến lên đều có cơ hội hợp với khả năng ḿnh. Cố nhiên người đó cũng phải sẵn sang chấp nhận ḿnh là thành phần của một guồng máy vĩ đại, sẵn sàng tiêu thụ những món hàng như xe hơi, điện thoại, bảo hiểm, và vui vẻ tham gia vào việc vay tiền ngân hàng để mua nhà mua xe, vân vân. Quen được với nó rồi th́ quả thật là cái “thiên đàng” mà xă hội chủ nghĩa chỉ dám hứa hẹn và tuyên truyền mà thôi.
Đặc điểm của “Capitalism” là nó phải song song với tự do dân chủ. Nó chỉ phát triển được ở những nước mà con người không bị kềm chế một cách vô lư như dưới các thể chế độc tài. “Capitalism” phải đi đôi với “Democracy” th́ mới đua nở được.
Nếu đem áp dụng “Capitalism” vào những nước có chế độ độc tài chuyên chế, mà đời sống xă hội, kinh tế thương mại đều bị kềm chế, hoặc khó hiểu như “định hướng xă hội chủ nghĩa” th́ “Capitalism” sẽ trở thành vũ khí bóc lột mà kẻ giúp thực hiện sự bóc lột chính là nhóm nắm quyền hành, và nhóm nắm quyền hành lại cũng là ổ tham nhũng.
“Globalization”
Tỉ dụ như đối với người Mỹ hay người Nhật th́ quan tâm của họ về “Globalization” không giống của chúng ta. Họ là công dân của những nước chủ động, khi biểu t́nh chống đối, họ chỉ là một nhóm người thực hiện quyền tự do ngôn luận để công khai phát biểu ư kiến của ḿnh. Mục tiêu chống đối của họ khác hẳn với khát vọng của chúng ta. Họ tranh đấu nhưng ít khi họ đạt được lư tưởng v́ lư do chống đối của họ thường thường có vẻ không hợp lư. Chẳng hạn họ nêu vấn đề môi sinh bị ô nhiễm là do các nhà máy của bọn tư bản gây ra, hoặc họ nêu vấn đề thất nghiệp là hậu quả của việc di chuyển xí nghiệp sản xuất tới các nước có nhân công rẻ. Nhưng v́ người mất việc th́ quá ít mà số người thuộc giới tiêu thụ được mua đồ rẻ th́ lại đông cho nên sự chống đối của họ không được ủng hộ quảng đại, nó như lửa rơm, bùng cháy rồi chóng tắt.
Người Nhật cũng như người Mỹ, họ có thể làm những chuyện đó trong phạm vi nước họ. Nhiều khi họ bạo động để gây tiếng vang cho phong trào chống đối của họ. Và sau ít lâu th́ cũng êm dần để một thời gian sau đó lại tái xuất hiện dưới một h́nh thức khác. Tất cả những hoạt động này đều do thể chế dân chủ sinh ra. Nó là những chỗ x́ hơi của xă hội.
Chắc chắn những người Mỹ và những người Nhật này sẽ không bao giờ qua Việt Nam biểu t́nh chống đối đ̣i hỏi các xí nghiệp ngoại quốc phải rộng lượng hơn trong việc trả tiền lương công nhân.
Một điểm cần ghi nhận là tại Seattle, hay Genoa, hay Washington DC đám người biểu t́nh chống đối phần đông lại là công dân của các nước G-7 là các quốc gia chủ trương “Globalization.” Thế cái lư tưởng đằng sau hành động của họ là cái ǵ? Thật khó hiểu. Ta không phải họ cho nên không có được câu trả lời đích xác. Vả lại nó không cùng với ước vọng của chúng ta.
Là công dân của nước bị động, lư tưởng của ta là lư tưởng của kẻ “tự vệ”, ta lo cho tiền đồ đất nước, sự lo âu của ta là làm thế nào tránh được những thiệt tḥi mà “Globalization” thường chỉ cho thấy cái lợi trước mắt, mà cái lợi trước mắt lại thường thường hợp với nhu cầu thụ hưởng của tập thể lănh đạo nước, và nhu cầu đó như ta nhận thấy ở Việt Nam hiện tại là cứu đảng, cứu chế độ và tạo điều kiện làm giầu (tham nhũng) cho những người có quyền.
Chúng Ta Phải Làm Ǵ?
Nêu ra những khó khăn mà “Globalization” có thể gây ra cho một quốc gia nghèo cần mở cửa đón nhận tư bản ngoại quốc để theo kịp với trào lưu phát triển toàn cầu, là để t́m giải pháp ngăn ngừa tai hại đất nước rơi vào t́nh trạng bị quốc tế điều khiển qua những món nợ chồng chất càng ngày càng lớn. Nhóm cầm quyền v́ tham nhũng mà quên quyền lợi quốc gia.
Hơn nữa, nạn tham nhũng là bằng chứng kẻ cầm quyền bị mua chuộc và sai khiến bởi đồng đô-la. Sự thực hiển nhiền là các tổ chức tài chánh quốc tế như World Bank, IMF, ADB càng cho Việt Nam vay tiền th́ nạn tham nhũng càng gia tăng. Những tổ chức quốc tế này thường xuyên dọa không cho vay nữa nếu không có cải thiện, nhưng họ vẫn tiếp tục cho vay dù không có sự cải thiện.
Giải pháp là ở vấn đề nhân sự. Singapore là một bằng chứng thành công nhờ nhân sự thanh liêm, luật pháp nghiêm chỉnh, thể chế dân chủ. Không có vấn đề tham nhũng.
Nếu cần nghiên cứu để học hỏi nhằm áp dụng cho Việt Nam th́ có hai nước đáng cho ta chú ư tới, đó là Nhật Bản và Đài Loan. Hai nước này đă nỗ lực tái thiết từ hai đống tro tàn do sự tàn phá của Đại Chiến 2.
Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện vào ngày 15 tháng 8 năm 1945, và bị chiếm đóng bởi quân đội Đồng Minh, Mỹ-Anh-Pháp-Úc-Hoa, mà chủ lực là quân đội Mỹ, dưới sự cai trị quân chính của Đại Tướng MacArthur. Một nước Nhật thua trận phải chịu đựng tất cả những tủi nhục mà Đồng Minh thắng trận áp đặt. Nhưng chỉ sau 4 năm (1949) Nhật Bản đă được giao trả gần hết trách nhiệm cai trị. Và 2 năm sau (1951) với Hiệp Ước Ḥa B́nh San Francisco Nhật Bản trở thành độc lập hoàn toàn với đầy đủ chủ quyền quốc gia. Và từ đó nước Nhật tiến mạnh để trở thành đại quốc kinh tế thứ hai sau Hoa Kỳ. Từ những năm tháng nghèo nàn nhất sau đại chiến cho đến ngày nay, Nhật Bản đă khéo léo hợp tác với Hoa Kỳ để tự tạo cho ḿnh một địa vị kinh tế kỹ thuật hùng mạnh mà không phải nợ nần một mỹ kim nào. Ngược lại, c̣n thặng dư ngoại tệ.
Nhật Bản thất trận, thuộc địa Đài Loan trở lại lănh thổ Trung Quốc, khi chính quyền Tưởng Giới Thạch (Chiang Kai-shek) tiếp nhận ḥn đảo này họ thấy Đài Loan tiến bộ hơn Hoa lục, nhưng thay v́ khai thác ưu điểm này th́ họ lại cai trị một cách tàn bạo gây ra cảnh hận thù giữa người Hoa Lục và người Đài Loan. Đă có những cảnh tàn sát người Đài Loan hồi năm 1948 xác nổi đầy sông. Hơn 30.000 đàn ông Đài Loan bị đầy ra mấy đảo nhỏ Pescadores lấy lư do bảo vệ an ninh quốc gia. (Cảnh này có vẻ quen quen giống như sau khi quân cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm được Miền Nam).
Đến khi mất Hoa Lục vào cuối năm 1949 vào tay cộng sản Mao Trạch Đông, Tưởng Giới Thạch và hơn hai triệu binh lính cùng gia đ́nh phải chạy ra Đài Loan. Tuy muộn c̣n hơn không, ông Tưởng Giới Thạch đă giác ngộ việc mất Hoa lục là do nhân sự tham nhũng và bất xứng trong hàng ngũ chính quyền của ông. Ông Tưởng liền áp dụng một chính sách cứng rắn bài trừ tham nhũng, và từ đó đă xây dựng Đài Loan trở thành cường thịnh như ta thấy hiện nay. Đài Loan là một Nhật Bản nhỏ với kỹ nghệ tân tiến, riêng ngành điện tử là nguồn cung cấp quan trọng cho toàn thế giới. Đài Loan không vay một mỹ kim nào từ các tổ chức tiền tệ quốc tế. Hiện nay, Đài Loan dư dật ngoại tệ phải khuyến khích người dân du lịch tiêu bớt đô-la để tránh bị chỉ trích là tích trữ ngoại tệ.
Sự thành công của Nhật Bản và Đài Loan do nhiều yếu tố, nhưng yếu tố căn bản chính là nhân sự. Nhật Bản đă nhẫn nại chịu đựng học hỏi kẻ thắng là Hoa Kỳ tất cả kiến thức về kinh tế thị trường, quản trị xí nghiệp, áp dụng kỹ thuật tân tiến vào đời sống hằng ngày. Đài Loan phải dựa vào Hoa Kỳ để bảo vệ đất nước và đă gởi sinh viên hàng loạt đi du học Mỹ, kết quả là hiện nay khoảng 80 phần trăm nhân sự chỉ huy trong chính phủ cũng như ngoài dân sự là những người tốt nghiệp đại học Hoa Kỳ. Họ đă biến một ḥn đảo nhỏ thành một nhà máy khổng lồ ảnh hưởng sâu rộng toàn thể thế giới, nhất là trong ngành điện tử.
“Globalization” thu nhỏ đă phát triển ở Nhật Bản và Đài Loan từ nhiều thập niên rồi, nhưng cả hai nước này đều có nhiều nhân tài thông hiểu guồng máy phức tạp của kinh tế thị trường và siêu điểm của chủ nghĩa tư bản cho nên hai nước này sát cánh với Mỹ, cùng Mỹ trở thành cường thịnh, mà không bị Mỹ chỉ huy như trường hợp một số quốc gia khác.
Quay lại địa vị của Việt Nam hiện nay th́ khó có thể mơ tưởng trở thành một đơn vị kinh tế quan trọng ngang hàng với các nước Đông Nam Á khác . Đại Hội 9 của đảng cộng sản hồi tháng 4 vừa qua đưa ra mục tiêu tăng lợi tức đầu người (per capita income) hằng năm từ 350 mỹ kim (2000) hiện nay lên gấp đôi vào năm 2011, nghĩa là 700 mỹ kim trong kế hoạch 10 năm (2011). Thử so với con số 22.000 mỹ kim (2001) hiện nay của Singapore, và 16.000 mỹ kim (2001) của Đài Loan, mà nếu họ cũng chỉ gấp đôi lợi tức đầu người vào năm 2011 th́ đảng cộng sản Việt Nam nếu c̣n sống sót th́ sẽ phô trương thành quả xă hội chủ nghĩa như thế nào khi đem so sánh con số 700 bên cạnh những con số 44.000 và 32.000.
Lấy cái Thương Ước Việt-Mỹ ra mà nói chuyện th́ chưa bao giờ trong lịch sử ngoại thương của Mỹ mà một cái thương ước lại trở thành đề tài quốc tế như cái vụ làm ăn với CSVN này. Lư do nó thành đề tài sôi nổi không phải v́ những điệu lệ nội dung có ǵ đặc biệt v́ cũng chẳng khác ǵ mấy những thương ước khác. Nhưng nó đă trở thành sôi nổi v́ nó có h́nh thức như một bản văn pháp lư được đem áp đặt cho một nước cộng sản mà luật rừng là tiêu chuẩn. Đưa từ t́nh trạng luật rừng tới t́nh trạng “pháp trị” là một biến cố. Biến cố này sẽ sảy ra hay không c̣n phải chờ xem. Kinh nghiệm quá khứ về tôn trọng hiệp ước có chữ kư của cộng sản Việt Nam là một con số không. Hiệp Định Ngưng Chiến Paris ngày 27.1.1973 có chữ kư của cộng sản Bắc Việt là điển h́nh.
Liệu chúng ta ở hải ngoại, trẻ cũng như già, sẽ làm được ǵ để tránh hậu họa cho tương lai Việt Nam. Giới già th́ lo âu v́ đang nh́n thấy lịch sử tái diễn. C̣n giới trẻ th́ không chỉ đă hấp thụ kiến thức tư bản Âu Mỹ, mà c̣n hiểu biết con người tư bản Âu Mỹ tận xương tận tủy. Giới trẻ Việt hải ngoại không thua ǵ khối nhân sự đầy khả năng của Nhật Bản và Đài Loan. Giới trẻ Việt hải ngoại chắc chắn có đủ khả năng bảo vệ quyền lợi của đất nước một cách đắc lực và hiệu nghiệm. Vai tṛ của giới trẻ Việt hải ngoại trong công tác xây dựng một nước Việt Nam theo mẫu Nhật Bản và Đài Loan là một sứ mệnh phải được thực hiện.
Tới đây, thấy cũng tạm đủ để hiểu “Globalization” và tất cả những lấn cấn xung quanh vấn đề này. Trẻ già chúng ta cùng ngẫm nghĩ để vào một dịp sau sẽ cùng nhau bàn luận kế hoạch lâu dài làm sao cho quyền lợi của Việt Nam được cân bằng với các nước tư bản đang thúc đẩy phát triển “Globalization”.
Trần Đức Thanh-Phong
Little Saigon, Tiết Vu Lan 2001