Phát biểu của Phương Nam - Đỗ Nam Hải về chương tŕnh “Mơ về châu Á” – tháng 10/2006.
 
Việt Nam Sydney Radio – Australia: xin kính chào anh Phương Nam.
 
Hôm nay là buổi sáng ngày chủ nhật, 27/8/2006. Chúng tôi được biết là vào 2 ngày 28 và 29/10/2006 sắp tới, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam sẽ tổ chức một Đại nhạc hội Ca nhạc – Hài - Thời trang mang tên  “Mơ Về Châu Á” tại Sydney và Melbourne. Đoàn gồm hàng chục nghệ sỹ, người mẫu từ Việt Nam sang. Cộng đồng người Việt tại Úc Châu đang bàn kế hoạch để phản đối mưu đồ chính trị ẩn chứa đằng sau chương tŕnh  nghệ thuật này. Xin anh cho biết quan điểm của ḿnh về vấn đề này.
 
Trả lời: Khi đưa những đoàn nghệ thuật đó ra nước ngoài th́ những người tổ chức ra nó cũng tự hiểu rằng là không thể đem những bài ca, điệu múa ca ngợi theo cái kiểu thường thấy ở trong nước, đại loại như : “Đảng kính yêu, bác Hồ vĩ đại, chủ nghĩa Mác – Lênin vô địch muôn năm” sang mà tŕnh diễn được. Bởi v́, chỉ có những người điên mới đi làm cái chuyện dồ dại ấy.
 
Ngược lại, họ sẽ đem những điệu múa, bài ca mang đậm nét t́nh tự quê hương, dân tộc và phi chính trị đi. Theo tôi được biết là trong khoảng 5 năm trở lại đây th́ những đoàn nghệ thuật như vậy vẫn thỉnh thoảng được tổ chức và đưa ra nước ngoài biểu diễn. Chẳng hạn như đoàn Duyên dáng Việt Nam  cũng đă được đưa sang Úc vào năm 2004; với một đội ngũ nghệ sỹ rất hùng hậu, đầu tư rất tốn kém. Thế nhưng đă bị bà con ta ở đây phản đối rất quyết liệt, số lượng vé bán ra thấp. Rơ ràng là ở đây, nếu xét đến mục đích thương mại trên b́nh diện quốc gia th́ là lỗ. Như vậy th́ 1 câu hỏi đặt ra là: nếu biết chắc chắn là lỗ th́ tại sao những người tổ chức ra nó vẫn cứ làm theo kiểu “chịu đấm ăn xôi” như vậy?
 Câu trả lời là: chắc chắn họ muốn đạt được một  mục đích chính trị nào đó. Nhưng là mục đích chính trị ǵ?
 
Theo tôi, mục đích là họ muốn cho những người Úc và những người nước ngoài khác hiểu rằng: “Đó các quư vị thấy chưa, rơ ràng là chúng tôi chỉ thuần tuư muốn đem nghệ thuật Việt Nam sang giới thiệu cho quư vị và cộng đồng người Việt Nam ở đây thưởng thức. Thế mà những người kia họ cũng chống đối là nghĩa làm sao? Như vậy th́ họ là ai, nếu như không phải là những người cực đoan, không biết xóa bỏ quá khứ mà hướng tới tương lai? như quan điểm hoàn toàn đúng đắn và sáng suốt của ĐCSVN quang vinh của chúng tôi, được thể hiện cụ thể trong việc tổ chức chuyến đi này”   
 
Nhiều người nước ngoài hoặc là do dễ tin người hoặc là do thiếu suy luận sâu sắc nên rất dễ bị đánh lừa bởi mưu mô thâm độc này. Với cách suy nghĩ thường thấy của họ th́ có thể nói là rất khó nhận ra được những tṛ láu cá, khôn vặt này của cái gọi là “các nhà chính trị Việt Nam”. Hậu quả là những chuyến đi biểu diễn ấy sẽ tạo ra một bức tranh xấu, một cái nh́n tiêu cực về cộng đồng người Việt Nam chúng ta dưới con mắt của người nước ngoài và nguy hiểm hơn điều này cũng rất dễ gây chia rẽ trong nội bộ dân tộc.
 
Đứng trước một t́nh h́nh như vậy th́ theo tôi, chúng ta cần phải có những bài viết, bài phát biểu, v.v… thật b́nh tĩnh, khách quan trên các phương tiện thông tin đại chúng (kể cả tiếng Việt, tiếng Anh hay tiếng Pháp, v.v…).
Đồng thời, có những buổi gặp gỡ, nói chuyện với người nước ngoài và với cả các anh, chị em diễn viên trong các đoàn nghệ thuật Việt Nam sang biểu diễn đó. (bởi v́, nhiều bà con ta cũng có những mối quan hệ ruột thịt hoặc  bạn bè với các diễn viên, các thành viên trong đoàn nghệ thuật ấy.). Mọi người, nhất là lớp trẻ cần phải tham gia vào những hoạt động như vậy để vạch rơ những tṛ láu cá, khôn vặt, gây chia rẽ trên.
 
Tôi tin rằng, nếu theo tinh thần ấy th́ chúng ta sẽ sáng tạo ra được nhiều cách làm thích hợp để cho bạn bè quốc tế, các du học sinh, những người Việt Nam khác ra nước ngoài du lịch, công tác, chữa bệnh và đồng bào ta ở trong nước ngày càng hiểu rơ hơn về sự nghiệp chính nghĩa của chúng ta. Đó là sự nghiệp đấu tranh cho một nước Việt Nam mới thực sự có tự do, dân chủ, đa nguyên, đa đảng và pháp trị. Chứ không phải là thứ dân chủ độc đảng “một triệu lần dân chủ hơn dân chủ tư sản” đầy dối trá và bịp bợm như ở Việt Nam hiện nay.
 
(Phương Nam tháng 8/2006)