VẤN
ĐỀ DÂN CHỦ TẠI VIỆT-NAM
Hoài-Sơn
Tại nước nhà cũng như trên toàn thế giới,
không lúc nào vấn đề dân chủ được đề
cập đến nhiều bằng lúc này: nào dân chủ tự
do, dân chủ xă hội, dân chủ nhơn dân, liên minh dân chủ
v.v…V́ đó tôi cũng xin lạm bàn đến và bài viết
của tôi gồm có 5 phần sau đây:
1)- Dân chủ là ǵ?
2)- Có mấy loại dân chủ?
3)- So sánh các loại dân chủ đă lưu hành.
4)- Làm thế nào để biết một nước
thật sự có dân chủ?
5)- Làm thế nào để thực hiện dân chủ
thật sự tại Việt-Nam?
I.- Dân chủ là ǵ?
Dân
chủ là chế độ trong đó người dân làm chủ
đất nước, trái hẳn lại quân chủ là chế
độ do nhà vua cầm quyền.
Tư
tưởng dân chủ phát khởi ở các nước Tây Âu
vào thế kỷ thứ 17. Vào lúc đó, tổ chức xă hội
tại các nước Tây Âu c̣n quá khắc nghiệt, thiếu
hẳn công b́nh.
Trong nước, ngoài nhà vua ra, có 3 hạng là quí
tộc, tăng lữ và thứ dân. Quí
tộc và tăng lữ là hai hạng được
hoàn toàn ưu đải. Quí tộc đả được giữ hết các
chức vụ lớn nhỏ trong triều đ́nh, cón tăng
lữ hưởng rất nhiều đặc ơn, đặc
lợi của nhà nước. Người thứ dân, dầu
có tài cao, học rộng cũng không được quyền
tham gia chánh sự. Đă vậy, triều đ́nh lại can
thiệp quá nhiều vào đời sống của dân. Nông
dân bị hoàn toàn lệ thuộc vào các nhà quí tộc địa
chủ nên không được đổi chỗ ở, cũng
không được đổi nghề v.v… Họ là nông nô nên
suốt đời bị cột chặt vào những mảnh
đất của địa chủ. Thợ thuyền
ở đô thị th́ tương đối đở khổ
hơn nhưng lại bị lệ thuộc quá nhiều vào
các luật lệ khắc nghiệt của các phường
công nghiệp nên đời sống của họ cũng không
sáng sủa ǵ hơn. Ngoài ra, cả nông nô lẩn thợ thuyền
đều bị bắt buộc phải theo đạo của
nhà vua. Người nào theo đạo khác th́ bị khủng
bố, giết hại, khó ḷng sống yên ổn được.
Họ không có được chút nào về tự do cư trú,
tự do đi lại, tự do nghề nghiệp, tự do
tôn giáo… Triều đ́nh lại ăn tiêu xa xỉ, thuế
khóa càng ngày càng nặng mà các hạng quí tộc, tăng lữ
lại được miển thuế, không phải đóng,
nên tất cả gánh nặng thuế khóa dân chúng phải gánh
đủ.
Đời
sống của dân chúng bấy giờ thật vô cùng khổ
sở. Nhơn thấy sự cùng cực của họ là do
sự bất công của chế độ xă hội đương
thời nên một số học giả như John Locke ở
Anh, Jean Jacques Rousseau ở Pháp, nêu ra thuyết Dân Chủ,
lấy Tự Do và B́nh Đẳng làm nền tảng.
Theo lư thuyết Dân Chủ, mọi người sinh ra tánh
vốn tốt, và đều được Tự Do
và B́nh Đẳng. Chỉ v́ xă hội hủ bại
cho nên họ trở nên xấu, mất hết tự do và phải
chịu nhiều sự bất công, thành ra khổ sở vô
cùng. Muốn cho mọi người được hạnh
phúc, th́ phải cải tổ xă hội cho tốt trở
lại, đồng thời phải bảo
đảm cho mọi người được tự do
và b́nh đẳng với nhau.
Dân
chúng tại các nước Tây Âu đang khao khát tự do
và b́nh đẳng nên nhiệt liệt hoan nghênh lư thuyết
Dân chủ. Họ lần lượt nổi lên đánh đổ
những nhà vua chuyên chế và thiết lập chế
độ Dân Chủ. Trong chế độ này, người
dân được quyền tham gia chánh sự bằng cách bầu
cử người thay ḿnh vào Quốc Hội làm ra luật
pháp, ban bố mọi quyền tự do căn bản, đồng
thời công nhận mọi người đều b́nh đẳng
với nhau trước pháp luật.
- 2 -
II.- Có mấy loại Dân
Chủ:
Trong lư thuyết Dân Chủ của John Locke và J.J.
Rousseau, có hai yếu tố quan trọng là tự do và b́nh
đẳng. Có đủ hai yếu tố này mới gọi
là dân chủ. Thiếu một chưa phải là dân chủ.
Nhưng tự do và b́nh đẳng thường chống chọi
nhau, ít đi đôi với nhau được.
Con người sinh ra vốn mạnh yếu, khôn dại,
giỏi dở khác nhau. Nếu cho họ hoàn toàn tự do hoạt
động th́ người mạnh hơn kẻ yếu, người
giỏi hơn kẻ dở, nên sự b́nh đẳng không
thể có được. Bằng trái lại, muốn cho mọi
người đồng đều như nhau, tức b́nh đẳng
với nhau, th́ phải hạn chế sự hoạt động
của người mạnh, người khôn, người
giỏi, mà làm như vậy là hạn chế sự tự
do hoạt động của họ rồi.
Vậy
hai lư tưởng tự do và b́nh đẳng thường
chống chọi nhau, không thể đi chung với nhau , cho
nên một xă hội tự do b́nh đẳng thật
sự khó thực hiện được. V́ đó, trong
hai yếu tố chỉ chọn một, hoặc tự
do, hoặc b́nh đẳng, rồi khắc phục
yếu tố kia, được nhiều chừng nào tốt
chừng ấy, chớ không thể thực hiện cùng một
lúc cả tự do lẩn b́nh đẳng được.
1)- Tại các nước Tây Phương, người
ta rất chuộng tự do. Đối với họ, tự
do hay là chết. V́ đó, trong hai yếu tố tự do và b́nh
đẳng của dân chủ, họ chọn yếu tố
tự do, rồi cố gắng khắc phục cho được
phần nào b́nh đẳng, như b́nh đẳng trước
pháp luật, b́nh đằng trước bổn phận và
quyền lợi công dân v.v… V́ đó, người ta gọi dân
chủ tại các nước Tây Phương là nền Dân
Chủ Tự Do.
2)- Các nước Xă Hội Chủ Nghĩa, trái lại,
cho rằng tự do là mờ ảo, trừu tượng,
không có thực. Nếu có, là đối với người
giàu có, quyền thế. C̣n đối với người
nghèo, yếu thế th́ không thể nào có tự do được.
Như quyền tự do du lịch, tự do mở nhà in, xuất
bản báo chí, tự do kinh doanh, mở ngân hàng v.v… Những
quyền tự do đó, chỉ những người giàu có,
quyền thế hưởng mà thôi, c̣n người nghèo khó
th́ chỉ biết ngồi nh́n và mơ ước. V́ đó,
người Cộng Sản gạt qua một bên một bên
yếu tố tự do, chỉ nhằm chủ trương
thực hiện b́nh đẳng mà thôi.
Để
thực hiện b́nh đẳng, CS chủ trương tập
trung mọi tài sản trong nước làm của chung, giao
cho nhà nước quản lư, không ai c̣n có của riêng, không c̣n
kẻ giàu, nguời nghèo nên b́nh đẳng với nhau. Nhà nước
sẽ thực hiện chế độ Cộng Sản, không
giai cấp, trong đó, nhơn loại sẽ sống thân ái
với nhau trong cảnh hoan lạc của thế giới đại
đồng. V́ đó, dân chủ tại các nước CS được
gọi là Dân Chủ B́nh Đẳng (hay Dân Chủ B́nh Dân, nhưng
sau này được gọi thông dụng nhứt là Dân
Chủ Nhơn Dân như CHDCND Trung Quốc, CHDCND Triều
Tiên v.v…)
3)- Ngoài hai loại Dân Chủ Tự Do và Dân Chủ B́nh
Đẳng kể trên, c̣n có loại dân chủ thứ ba là
Dân Chủ Hướng Dẩn (Démocratie Dirigée)
Số
là vào đầu thập niên 60 của thế kỷ trước,
Ông Soekarno (TT Nam Dương) và Thái Tử Sihanouk (QT CamBốt)
thấy rằng theo DCTD là làm tay sai cho Tư Bản, c̣n theo
DCBĐ là làm đàn em của CS, nên hai Ông cùng đề ra một
loại dân chủ mới là Dân Chủ Hướng
Dẩn.
Theo hai ông này, dân chủ cao siêu và ảo diệu
lắm, chỉ những người học cao, dày dặn
trong chính trường th́ mới hiểu được và
áp dụng tốt, c̣n dân chúng v́ dốt nát hoặc ít học
th́ không sao hiểu được. Vậy cần phải
nghe lời dạy bảo, chỉ dẫn của nhà cầm
quyền. V́ đó, dân chủ được hai ông Soekarno và
Sihanouk đề xướng được gọi là Dân
Chủ Hướng Dẩn.
- 3 -
Nhưng
v́ nền dân chủ này vừa mới được manh
nha vào đầu thập niên 60 th́ đến năm 1965, TT
Soekarno bị CS Nam Dương lật đồ (sau đó, đám
loạn quân CS này bị tướng Suharto tàn sát nên trật
tự mới được văn hồi), rồi đến
năm 1970, QT Cambốt Sihanouk bị tướng Lon Nol đảo
chánh phải lưu vong ra ngoại quốc. V́ đó , thuyết
Dân Chủ Hướng Dẩn bị chết trong trứng
nước.
Rốt
cuộc, trên thế giới chỉ c̣n có hai loại dân chủ
là Dân Chủ Tự Do (hay Dân Chủ Tư Sản theo lối
nói của người CS) và Dân Chủ B́nh Đẳng (hay
DCBD hoặc DCND theo lối nói của người tự
do).
III.- So sánh Dân Chủ Tự Do và Dân Chủ B́nh
Đẳng:
Dân
Chủ gồm có hai yếu tố cấu thành là Tự Do và
B́nh Đẳng. Có đủ hai yếu tố mới được
gọi là dân chủ (thiếu một cũng không được).
Nếu cụ thể hóa dân chủ bằng con số để
làm một cuộc so sánh thô thiển th́ dân chủ ví với
con số 100, cón tự do là 50 và b́nh đẳng cũng 50.
Dân chủ 100 = Tự Do 50 + B́nh Đẳng 50
Dựa vào phương tŕnh trên đây, ta thử làm một
cuộc so sánh giữa DCTD và DCBĐ.
1)- Dân Chủ Tự Do: Người Tây Phương
chuộng tự do nên trong hai yếu tố của dân
chủ họ chọn yếu tố tự do. V́ đó, nền
dân chủ của họ được gọi là Dân Chủ
Tự Do. Trong nền dân chủ này, họ áp dụng đủ
mọi thứ tự do như tự do cư trú, tự do đi
lại, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự
do tín ngưỡng, tự do lập hội, tự do hội
họp v.v… Vậy trong 50% tự
do, họ đạt ít nhút cũng 40%.
Thiếu b́nh đẳng, họ cố gắng khắc
phục bằng b́nh đẳng trước pháp luật, trước
bổn phận và quyền lợi công dân. Trước luật
pháp, cùng phạm một tội, người có chức quyền và
người thứ dân đều bị xử y như
nhau, nếu bị kết tội th́ cùng bị kết tội
như nhau, nếu được tha bổng th́ cùng được
tha như nhau. Đó là b́nh đẳng trước pháp luật.
C̣n trước bổn phận và quyền lợi công dân, th́
nếu phải thi hành quân dịch, phải đóng thuế
hay được hưởng một quyền lợi ǵ th́
đều cùng được đối xử hoặc thi
hành như nhau. Tóm lại, nhờ biết áp dụng nhiểu
biện pháp khắc phục nên họ cũng đạt ít
lắm cũng là 30% trong 50% của b́nh đẳng.
Kể
chung, trong 100% của dân chủ, nền Dân Chủ Tự
Do của Tây Phương cũng đạt đến 70%
(40% của yếu tố tự do và 30% của yếu tố
b́nh đẳng).
2)- Dân Chủ B́nh Đẳng (hay DCND) : Người
Cộng Sản phủ nhận hoản toản yếu tố
tự do. Họ cho rằng tự do chỉ là ảo vọng,
chỉ có bọn giàu có, có nhiều phương tiện mới
hưởng được, c̣n bọn nghèo khó chẳng hưởng
được ǵ, nên họ gạt tự do ra khỏi dân
chủ. V́ đó, trong dân chủ của họ chẳng có tự
do ǵ cả, từ các tự do lớn như tự do hội
họp, tự do lập hội, tự do tư tưởng,
tự do báo chí v.v… cho đến các tự do nhỏ như
tự do đi lại, tự do cư trú mà cũng không có nửa.
Tất cả đều phải xin phép. Việc cư trú là
một vấn đề rất b́nh thường tại các
nước tự do, muốn ở đâu th́ ở, không cần
phải xin phép, vậy mà ở VN, cư trú là một vấn
đề trọng đại, phải mất nhiều công
sức, lắm khi rất nhiều tiền bạc mới được
cấp hộ khẩu. Vậy trong dân chủ b́nh đẳng
của CS, chưa đạt 10% trong 50% của yếu tố
tự do.
Về
b́nh đẳng, tuy mang danh là Dân Chủ B́nh Đẳng, nhưng
trên thực tế, đâu đâu cũng đều thể
hiện rỏ ràng sự bất b́nh đẳng: trong bầu
cử, chỉ có đảng viên (3 triệu) là được
quyền ứng cử, c̣n toàn thể dân chúng (80 triệu) v́
phải trải qua sự sàng lọc của MTTQ,
- 4 -
nên đều bị loại . Nhập
bệnh viện, vào học đường, nhận học
bổng, xuất ngoại cũng đều như vậy
hết. Tóm lại, họ chưa đạt được
20% trong 50% của yếu tố b́nh đẳng.
Kể
chung, trong 100% của dân chủ, th́ nền Dân chủ B́nh
Đằng tức Dân Chủ Nhơn Dân chỉ đạt
được tối đa là 30% (10% của yếu tố tự do
và 20% của yếu tố b́nh đẳng.
Nếu
làm một cuộc so sánh cụ thể, ta có thể ví nền
dân chủ hoàn toàn vớ́ 2 yếu tố Tự Do và B́nh Đẳng
(100%) với bầu trời xanh trong, nền Dân Chủ Tự
Do (70%) với Vườn nhà và nền Dân Chủ B́nh Đẳng
(30%) với lồng chim trong vườn th́ ta mới h́nh dung hết sự
khác biệt của các nền dân chủ này. Chim trong lồng
cũng như trong vườn đều được tự
do, không bị trói buộc ǵ cả. Chúng được tự
do bay nhảy. Có điều, lồng hẹp lại làm bằng
gổ cứng ,chắc nên chúng bị va đầu nhiều,
đau đớn, tù túng. C̣n chim trong vườn th́ nhờ
vườn rộng, rào thưa nên thoải mái, tung tăng
bay nhảy. Con người trong hai chế độ cũng
vậy: đều được tự do cả. Có khác biệt
là do phạm vi rộng hẹp mà thôi. V́ đó, chim trong lồng
bao giờ cũng muốn được sổ lồng ra
vườn, c̣n chim trong vườn không bao giờ muốn
bị vào lồng.
IV.-Làm thế nào để biết một
nước thật sự có dân chủ ?:
Muốn
biết một nước thật sự có dân chủ hay
không ta phải dựa vào 4 tiêu chuẩn sau đây:
-
Có bầu
cử thật sự tự do và trong sạch không?
-
Có tam
quyền phân lập không?
-
Có đối
lập chánh trị không?
-
Có
thay đổi nhà cầm quyền không?
Nếu có đủ cả 4 tiêu
chuẩn là có dân chủ thật sự, bằng không có hoặc
có mà chưa đủ là không
có dân chủ hoặc dân chủ chưa hoàn toàn. Sau đây là
các chi tiết:
1)- Có bầu cử thật sự tự do và trong
sạch không? Nói đến
bầu cử tự do là nói đến bầu cử trong đó
mọi người dân, mọi xu hướng, tổ chức
chánh trị đều được quyền tham dự.
Vậy trong nước đă có đa nguyên, đa đảng
rồi. C̣n bầu cử trong sạch là bầu cử ngay thẳng,
không có gian lận. Vậy câu bầu cử thật sự tự
do và trong sạch ám tàng trong nước đă có tự do chánh
trị, mọi người bất luận thuộc tổ
chức, đảng phái nào cũng được quyền
ứng cử và cuộc bầu cử được tổ
chức ngay thẳng, không gian lận.
2)- Có tam quyền phân lập không? Ba quyền Lập
Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp phải hoàn toàn phân biệt nhau và độc
lập với nhau. Có như vậy luật pháp mới được
minh định rỏ ràng và công lư mới được bảo
đảm.
3)- Có đối lập chánh trị không? Đối
lập chánh trị rất cần thiết trong sinh hoạt
chánh trị. Nó rất cần cho chế độ, giống
như thuốc uống đối với con người và
cái thắng đối với chiếc xe. Con người,
lúc mạnh không cần đến thuốc nhưng lúc ốm
đau phải uống thuốc. Vậy trong nhà phải có tủ
thuốc để pḥng hờ. Chiếc xe, lúc chạy không
cần thắng nhưng khi quẹo cua phải rà thắng,
hay khi tai nạn xảy ra phải thắng gấp để
tránh tai nạn. Chánh quyền cũng vậy, lúc b́nh thường
(mạnh khỏe) không cần đến đối lập,
nhưng khi gặp khó khăn, khủng hoảng (tức đau
yếu, bịnh hoạn) cần có đối lập để
sửa chữa kịp thời.
Đối
lập chánh trị phải tập thể, công khai, hợp
pháp , bất bạo động và xây dựng. Cá nhơn, dầu
tài giỏi thế mấy cũng không được nhận
là đối lập. Phải là một chánh đảng mạnh,
một tổ chức lớn mới được chấp
nhận là đối lập chính trị. Và đối lập là để xây dựng, xây dựng
cho tốt đẹp hơn, lương hảo hơn, cho
nên cần phải phân biệt đối lập xây dựng
với đả phá, chống đối.
- 5 -
4)- Nhà
cầm quyền có luôn thay đổi không? Người cầm quyền chỉ
giử chức vụ theo nhiệm kỳ, thông thường
là 2 nhiệm kỳ, sau đó phải rút lui, nhường chổ
cho người sau. Bởi v́ cầm quyền lâu ngày sẽ đưa
đến tệ trạng quan liêu, hách dịch, bè phái, lạm
quyền, lộng quyền, là nguyên nhân cùa tham nhũng, thối
nát, độc tài. Lư Thừa Vản ở Nam Hàn, Marcos ở
Phi Luật Tân, Suharto ở Nam Dương v.v…là những bằng
chứng điển h́nh.
Tóm
lại, nước nào có bầu cử thật sự tự
do và trong sạch, có tam quyền phân lập, có chấp nhận
đối lập chánh trị và có thay đổi nhà cầm
quyền th́ nước đó có dân chủ thật sự. Bằng
chưa có hoặc có mà chưa đủ th́ chưa có dân chủ.
Dựa
vào 4 tiêu chuẩn trên đây, ta thử xét nước Hoa Kỳ
(tiêu biểu cho nền Dân Chủ Tự Do) và Cộng Ḥa
XHCN Việt
A.- Tại Hoa Kỳ:
a)-
Về bầu cử: nếu không phạm tội theo
luật pháp qui định, người nào cũng đều
được ứng cử, bầu cử, không bị hạn
chế v́ bất cứ lư do ǵ. Vậy tại Hoa Kỳ, có
bầu cử tự do và cũng trong sạch, không gian lận
nữa. Điển h́nh, trong cuộc bầu cử năm
1992, TT đương nhiệm là ông Bush cha bị thất cử
khi tái ứng cử th́ không thể bảo rằng có bầu
cử gian lận được.
b)- Về tam quyền phân lập: tại Hoa Kỳ,
các quyền Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp được phân
chia và biệt lập rất rỏ ràng, không quyền nào lấn
quyền nào. Khi Hành Pháp và Lập Pháp có mâu thuẩn không giải
quyết được th́ đưa ra cho Tối Cao Pháp Viện
phán xét và phán quyết của TCPV là chung thẩm, Hành Pháp và Lập
Pháp phải chấp hành. Như trường hợp Cựu
TT Clinton lạng quạng với cô Monica Lewinsky bị Quốc
Hội làm to chuyện, định truất phế ông
Clinton. Vụ việc không giăi quyết được phải
đưa ra TCPV và chính nhờ có phán quyết của TCPV mà nội vụ mới êm được.
Vậy, tại Hoa Kỳ, tam quyền có phân lập rơ ràng.
c)- Về đối lập chánh trị: Sau các cuộc bầu cử, đảng
nào thắng cử th́ đảng đó cầm quyền, đảng
thất cử đóng vai tṛ đối lập. Rồi cứ
thế tiếp diển, đảng nào giử vai tṛ của
đảng nấy, hoặc cầm quyền hoặc đối
lập và thi hành đúng nhiệm vụ của ḿnh nên việc
chánh trị rất điều hoà, nước nhà ổn định
và phát triển. Đặc biệt là đối lập thường
chú trọng vào các vấn đề an sinh, nội trị, c̣n
những vấn đề liên quan đến vận mạng
của nước nhà th́ đối lập thường hợp
tác với chánh quyền để giải quyết như
việc chống khủng bố, A Phú Hản, Irag v.v… Đó
là đối lập xây dựng và đối lập tại
HK đă chứng tỏ được sự trưởng
thành chánh trị của ḿnh.
d)- Về nhà cầm quyền phải thay đổi:
Nhà cầm quyền luôn thay đổi. Hiến pháp đă qui
định mổi TT chỉ cầm quyền tối đa
là 2 nhiệm kỳ. chỉ có Tổng Thống Franklin Rooswelt
là làm đến 4 nhiệm kỳ. Đó là trường hợp
đặc biệt và hi hữu. Số là vào năm 1932, HK trải
qua cuộc khủng hoảng kinh tế nặng nề. Ông
Roosewelt đưa ra chánh sách giải quyết kinh tế thích
hợp nên được dân chúng ủng hộ và ông đắc
cử. Biện pháp của ông tỏ ra hửu hiệu. Nạn
khủng hoảng được giải quyết, nên đến
cuộc bầu cử năm 1936, ông được tái đắc
cử vẻ vang. Đến cuộc bầu cử năm
1940, đáng lẻ ông không c̣n được quyền tái ứng
cử nữa, nhưng v́ lúc bấy giờ, Đệ II Thế
Chiến đă nổ ra, t́nh h́nh thế giới rất nghiêm
trọng, HK cần có người tài ba, giàu kinh nghiệm lảnh
đạo đất nước, để đối phó
với t́nh thế nên ông Roosewelt được đặc
cách tái ứng cử lần thứ ba và cũng thắng cử
vẻ vang. Đến năm 1944, chiến tranh vẫn chưa
chấm dứt nên ông lại được đặc cách
ứng cử lần thứ tư để đưa chiến
- 6 -
tranh đến thắng lợi.
Và đến năm sau(1945), HK đang bước chân đến
chiến thắng th́ ông mất, sau khi làm Tổng Thống 4
nhiệm kỳ. Sau khi ông mất, Hoa Kỳ tu chính Hiến
Pháp, qui định không ai được làm TT quá 2 nhiệm
kỳ. V́ đó, nhà cầm quyền tại HK luôn luôn được
thay đổi.
Tóm
lại, trong 4 tiêu chuẩn về dân chủ, HK hội đủ
cả 4, nên tại HK có dân chủ thật sự.
B.- Tại Cộng Ḥa XHCN Việt-Nam:
a)- Về bầu cử: tại CHXHCNVN không có tự
do và cũng không trong sạch. Không tự do v́ chỉ có những
đảng viên Cộng Sản mới được ứng
cử thông qua sự giới thiệu của tổ chức
ngoại vi là Mặt Trận Tổ Quốc. V́ đó, ứng
cử và đắc cử đều là người Cộng
Sản.
Tại
Hoa Kỳ, các cuộc bầu cử đều tự do, ai
cũng được quyền ứng cử. V́ đó, UCV đều
là người của dân, được đắc cử
là do dân ủng hộ bầu ra, cho nên khi đắc cử,
họ phải v́ dân mà tranh đấu( bằng không, kỳ
sau dân sẽ không bầu lại nữa). V́ đó , chế độ
tại HK là chế độ của Dân, do Dân và v́ Dân.
Đó là chế độ Dân trị.
Tại
CHXHCNVN, qua cuộc sàng lọc của Mặt Trận Tổ
Quốc, các UCV đều là người của Đảng,
được đắc cử là do Đảng xếp
đặt, cho nên, sau khi đắc cử, phải v́
Đảng mà tranh đấu. V́ đó, chế độ
tại CHXHCN Việt
Các cuộc bầu cử đều
được diển ra trước họng súng, do đó cũng không trong sạch. Có những
UCV người miền Bắc, chưa biết ǵ về miền
Vậy
tại Việt-Nam, bầu cử không có tự do và cũng
không trong sạch.
b)-Về tam quyền phân lập: Tại CHXHCNVN không
có tam quyền phân lập. Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp đều
đặt dưới sự lảnh đạo của Đảng
Cộng Sản. Toàn Đảng lại đặt
dưới sự lảnh đạo
tuyệt đối của Bộ Chánh Trị. Bộ Chánh
Trị là cơ quan tối cao, đầy quyền lực.
Mọi mệnh lệnh, mọi thưởng phạt đều
xuất phát từ đây. Nó là tổ chức siêu chánh quyền
tuy vô trách nhiệm nhưng có quyền hành vô hạn, bao trùm
lên cả 3 ngành Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp. V́ đó, tại
CHXHCNVN không có tam quyền phân lập.
c)- Về đối lập chánh trị: Việt
Nam là quốc gia độc đảng đó là Đảng
Cộng Sản. Họ luôn luôn tự cho ḿnh là siêu việt,
không bao giờ sai lầm nên không chấp nhận đối
lập. Mọi ư kiến khác với Đảng CS đều
bị qui chụp là phản động, chống phá cách mạng.
d)- Về nhà cầm quyền phải thay đổi:
Các nhà lảnh đạo CS thường cầm quyền
cho đến khi qua đời như Lénine, Staline tại Liên
Xô, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai tại TQ, Hồ Chí Minh, Lê
Duẩn, Trường Chinh, Phạm Hùng …tại VN, truyền
lại cho thân quyến như
tại Bắc Hàn, Cuba v.v… Việc cầm quyền quá lâu đă
làm nảy sinh việc quan liêu, bè phái, tham nhũng, lộng
quyền…
Tóm
lại, trong 4 tiêu chuẩn qui định về dân chủ,
tại CHXHCNVN không có một tiêu chuẩn nào. Vậy tại
Việt Nam không có dân chủ.
V.- Làm thế nào để thực hiện dân
chủ thật sự tại Việt Nam:
Muốn
thực hiện dân chủ, trước hết phải có tinh
thần dân chủ. Không có tinh thần dân chủ, chớ
nói đến dân chủ v́ có nói đến chỉ là nói dối,
lừa bịp mà thôi. Ngoài ra, phải có thêm tinh thần
khoan dung nữa. Bởi v́ dân chủ vốn đa nguyên, đa
đảng, nếu không có tinh
thần khoan dung để chấp nhận các tư tưởng,
các chánh đảng khác với tư tưởng,
- 7 -
chánh đảng của ḿnh th́ làm
sao có dân chủ được. Vậy tinh thần dân
chủ và tinh thần khoan dung là hai điều kiện
tối cần cho việc thực hiện dân chủ.
Muốn có dân chủ, trước hết trong
nước phải có một hệ thống các chánh
đảng hoạt động điều ḥa. Không có hệ
thống chánh đảng hoạt động điều ḥa
th́ không thể có hoạt động chánh trị ổn định
được. Vậy hệ thống chánh đảng hoạt
động điều ḥa là điều kiện tiên quyết
tối cần cho sự ổn định của đất
nước.
Hăy
nh́n ra thế giới: nước nào có được hệ
thống chánh trị trưởng thành hoạt động điều
ḥa th́ nước đó rất ổn định về chánh
trị và phát triển kinh tế. Đó là các nước Tây
Âu và Bắc Mỹ. Dân chúng tại các nước này được
sống trong an b́nh, ấm no và hạnh phúc.
Trái
lại, tại các nước chưa có hệ thống chánh
đảng, hoặc có mà c̣n ấu trỉ, chưa hoạt động
điều ḥa th́ luôn luôn bị bất ổn về chánh trị
và chậm tiến về kinh tế. Đó là các nước
thuộc Châu Mỹ La Tinh và phần lớn các nước
thuộc Phi Châu. Tại đây, v́ đảo chánh triền
miên nên kinh tế không phát triển được
Hăy
nh́n lại các nước gần ta, tại Á Đông này. Đó
là các nước Nhật, Nam Hàn, Đài Loan, Phi Luật Tân,
Thái Lan, Nam Dương. Tại các nước này, nước
nào cũng có hệ thống chánh đảng cả nhưng
các nước Nhật, Nam Hàn Đài Loan th́ luôn luôn ổn định,
c̣n các nước Phi Luật Tân, Thái Lan, Nam Dương th́ bất
ổn triền miên. V́ sao? V́ tại Nhật, Nam Hàn, Đài
Loan, các chánh đảng đă trưởng thành, hoạt động
điều ḥa, đúng theo luật pháp qui định, nên chánh
trị rất ổn định, không bao giờ có chánh biến.
C̣n tại các nước Phi Luật Tân, Thái Lan, Nam Dương,
v́ các chánh đảng chưa trưởng thành, chưa hoạt
động điều ḥa, nên hể nắm được
trọng quyền th́ họ hay lạm quyền hoặc gây
ra các cuộc chánh biến. Mà phấn đông các cuộc chánh
biến này do quân đội gây ra, cho nên gọi là binh biến
mới đúng.
Tóm
lại, muốn có dân chủ thật sự tại Viêt Nam,
trước hết cần phải có một hệ thống
chánh đảng. Không có hệ thống chánh đảng hay
chỉ có độc đảng như CHXHCN Việt-
Nam hiện nay th́ chớ nói đến
dân chủ. Nhưng có hệ thống chánh đảng chỉ
mới là điều kiện cần chớ chưa đủ.
Muốn có đủ th́ hệ thống chánh đảng đó
phải trưởng thành, hoạt động điều
ḥa th́ mới có dân chủ thật sự được. Vậy,
có hệ thống chánh đảng và các chánh đảng đó
đều phải hoạt động điều ḥa là 2 điều
kiện tối cần để thực hiện dân chủ
taại Việt-Nam.
Nhưng
Cộng Sản Việt-Nam lại rất ngại dân chủ.
Họ sợ dân chủ sẽ bất ổn, sẽ mất
chánh quyền, cho nên họ chỉ đổi mới kinh tế
mà không dám đổi mới chánh trị để thực
hiện dân chủ. Sợ rồi không dám th́ không bao giờ
có dân chủ được.
Thực
hiện dân chủ giống như tập bơi hay đi xe
đạp. Tập bơi phải uống nước vài lần,
nếu sợ uống nước th́ không bao giờ biết
bơi. Tập đi xe đạp cũng vậy, phải
chấp nhận té vài lần và nếu sợ té th́ không bao
giờ biết đi xe đạp. Thực hiện dân chủ
cũng vậy, phải chấp nhận bất ổn vài lần
th́ sẽ thực hiện được. Một thí dụ
diển h́nh là cuộc Cách Mạng Dân Quyền tại Pháp.
Cuộc cách mạng “long trời lỡ đất” xăy ra từ
năm 1789, vậy mà phải đợi đến nền Đệ
Nhứt, Đệ Nhị, Đệ Tam Cộng Ḥa rồi
đến hết Đệ I Thế Chiến chấm dứt
(tức là gần 130 năm sau) mới có dân chủ thật
sự.
Nhật,
Đài Loan, Nam Hàn có được nền chánh trị ổn
định như ngày nay là nhờ họ dám thực hiện
dân chủ, dám chấp nhận bất ổn lúc ban đầu,
rút tỉa kinh nghiệm để lần lần
trưởng thành. Phi L Tân, Thái
Lan, Nam Dương, nếu cứ tiếp tục con đường
dân chủ hóa, điều ḥa các hoạt động của
ḿnh th́ nền chánh trị của họ sẽ lần lần
trưởng thành.
- 8 -
Việt
Nam hiện nay là một nước độc đảng,
độc tài toàn trị. Từ độc đảng, độc
tài chuyển sang đa đảng và tự do, dân chủ,
con đường đó đă nhiêu khê mà c̣n diệu vợi
nữa nên phải quyết tâm, kiên tŕ , có thiện chí mới
thực hiện được. Lại phải có tinh thần
khoan dung để chấp nhận những tư tưởng
và các chánh đảng khác th́ mới mong có được dân
chủ ở Việt Nam. Bằng CS cứ khư khư giáo
điều, bảo thủ, hẹp ḥi, cố chấp, không
chấp nhận đổi mới về chính trị như
hiện nay th́ vấn đề Dân Chủ Hóa thật sự
ở VN vẫn luôn luôn là một giấc mộng không thành.
Nam California, ngày 27 thàng 9 năm
2006