“
QUA
LĂNG KÍNH THỦY HỌC
Hội
Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
Tháng 04/2007
Lời
Mở Đầu
Mekong
Ḍng Sông Nghẽn Mạch (MK:DSNM) là tựa đề một quyển sách của
Nhà văn Bác sĩ Ngô Thế Vinh (NTV) mới vừa
được nhà xuất bản Văn Nghệ Mới phát
hành tại California, Hoa Kỳ trong tháng 1 năm 2007. Qua “Lời Dẫn Nhập” của
tác giả NTV, đây là một “kư
sự” bao gồm “...
những h́nh ảnh và các trang bút kư sống động
của tác giả viết về các chuyến đi... ‘quan
sát thực địa’ từ Vân
MK:DSNM không chỉ bao gồm “những h́nh ảnh và các trang bút
kư” mà dường như c̣n mang cả một “thông điệp
riêng tư của tác giả” để cảnh báo rằng:
“Tiếp theo chuỗi những
con đập thủy điện khổng lồ Vân Nam
đă và đang gây tác hại trên đời sống của
hơn 60 triệu cư dân hạ nguồn, th́ sự cố
nầy [việc vận chuyển 300 tấn dầu từ
Chang Rai lên một giang cảng tỉnh Vân Nam] được
coi như một đ̣n giáng chí tử thứ hai trên sinh mệnh
của con sông Mekong, khi ḍng sông được khai thác sử
dụng như một thủy lộ chiến lược vận
chuyển dầu khí từ Trung Đông tiếp tế cho các tỉnh
vùng kỹ nghệ tây nam Trung Quốc thay v́ phải đi
qua eo biển Malacca.” Với
sự phụ họa của “Nhóm Bạn Cửu Long” (www.vietecology.org),
những dự án thủy điện và thủy vận mà
Trung Hoa đă, đang, và sẽ thực hiện trong lưu
vực sông Mekong được h́nh dung như là một thứ
“chất độc da cam/dioxin dă man” đă, đang, và sẽ
tiếp tục gieo rắc “hậu quả kinh hoàng” trên khắp
ĐBSCL, cũng như chất da cam đă bị cáo buộc là
tác nhân của hầu hết bệnh tật đang xảy
ra trên khắp ba miền của đất nước, từ
ải Nam Quan cho đến mũi Cà Mau. ”Cho dù
chưa có dự án nào tới giai đoạn kết thúc, nhưng
nơi các quốc gia hạ nguồn và nhất là Đồng Bằng
Sông Cửu Long (ĐBSCL) đă bắt đầu chịu những
hậu quả ‘nhăn tiền’: như những cơn lũ bất
thường trong mùa mưa... sông Cửu th́ đang cạn
ḍng, thêm ngập mặn, ngày càng ô nhiễm và nguồn
thủy sản thiên nhiên từ sông vốn rất phong phú
cách đây ba thập niên th́ nay hầu như không c̣n đáng
kể...”
Nếu MK:DSNM cũng được
viết theo dạng “... ‘dữ
kiện tiểu thuyết- faction: facts & fiction’, với
một số ít nhân vật như những h́nh tượng
văn học và phần
dự phóng là hư cấu [nhấn mạnh
của HKHKTVN] để cùng
với người đọc đi tới những vùng
đất, nơi có con sông Mekong hùng vĩ chảy qua...”
(giống như đàn anh của nó là Cửu Long Cạn Ḍng-Biển Đông Dậy Sóng (CLCD-BĐDS)),
chắc chúng ta sẽ cảm nhận được cái “dân
tộc tính” hào hùng của một người dân Việt có
“một ngàn năm đô hộ giặc Tàu” lúc nào cũng
canh cánh bên ḷng những “ưu tư” khi nh́n về phương
Bắc, cái “nhiệt t́nh” nóng bỏng của một nhà hoạt
động môi trường đầy hoài nghi (skeptical
environmentalist) lúc nào cũng canh cánh bên ḷng những “quan tâm” về
hậu quả của các dự án mà không màng đến phúc
lợi của chúng, cái “lăng mạn” cách mạng của một
nhà văn lớn lúc nào cũng canh cánh bên ḷng những “dự
phóng cho tương lai” trong t́nh huống bi thảm nhất
(worst-case scenario), và cái “ḷng nhân đạo” không biên giới của
một “lương y như từ mẫu” lúc nào cũng
canh cánh bên ḷng những “âu lo” cho an nguy không những của
cư dân mà c̣n cho cá Pla Beuk và Irrawaddy Dolphin ở “Lưu Vực Dưới.”
Thế nhưng MK:DSNM, dù không phải
là một “dữ kiện tiểu thuyết,” lại có nhiều
“thông tin” và dữ kiện rất chuyên ngành, để “... qua các thông tin có
được ấy, để thấy rằng sự suy
thoái của con sông Mekong là do những bước ‘khai thác
tự hủy’ như một phản ứng dây chuyền
với tàn phá sinh cảnh, làm cạn kiệt nguồn tài
nguyên, gây ô nhiễm môi trường... tất cả đă
và đang diễn ra nhanh và sớm hơn dự kiến
của nhiều người.”
Liệu các thông tin và dữ kiện chuyên ngành trong MK:DSNM
- mà quan trọng nhất là dữ kiện thủy học - có
đầy đủ, chính xác, và khả tín (adequate, accurate, and
reliable) để “dự phóng” như tác giả NTV đă tŕnh
bày hay không?
Trong phần “Thắt nghẽn mạch
sống – Trung Quốc ngăn sông,” chương “Thay kết
từ câu chuyện của ḍng sông,” tác giả NTV viết: “Chiến lược ngăn sông
Mekong để xây 14 con đập bậc thềm Vân Nam của
Trung Quốc đă có từ thập niên 70, đây có thể
coi là một đ̣n giáng chí tử trên mạch sống
của ḍng sông. Trong ba thập
niên vừa qua, Trung Quốc đă ào ạt khai thác con sông Lan
Thương [tên Trung Quốc của con sông Mekong], bằng
cách xây các đập thủy điện khổng lồ
chắn ngang ḍng chính làm ảnh hưởng tới
nguồn nước, nguồn cá, nguồn phù sa và cả gây
ô nhiễm cho hạ nguồn.
Tuy chỉ mới có 2 con đập hoàn tất
[Mạn Loan 1500 MW, Đại Chiếu Sơn 1350 MW], 2 đang
xây [Tiểu Loan 4200 MW, Cảnh Hồng 1350 MW] trong dự án
Mười Bốn Con Đập Vân Nam, vậy mà chưa bao
giờ trong Mùa Khô, mực nước con sông Mekong lại có
thể xuống thấp đến như vậy. [H́nh
II] Ở một số nơi,
có những khúc sông hầu như cạn ḍng và đă trơ
đáy. Nguồn cá và nông
nghiệp đă trực tiếp bị ảnh hưởng. Không chỉ đơn giản v́
‘thiếu mưa’, sự kiện sông Mekong cạn ḍng năm
1993 mà không vào Mùa Khô, trùng hợp với thời điểm
Trung Quốc bắt đầu lấy nước vào con
đập thủy điện đầu tiên Mạn Loan
ngang ḍng chính sông Mekong trên Vân Nam.
Để có đủ nước vận hành 2 đập
thủy điện Mạn Loan và Đại Chiếu Sơn,
Trung Quốc đă thường xuyên đóng các cửa
đập khiến mực nước sông đă xuống
tới mức thấp nhất.
Tại Lào, trong tháng 3/2004, tổ chức du lịch
đă phải hủy bỏ 10 chuyến du ngoạn trên sông
chỉ v́ những khúc sông quá cạn. Phía bên Thái Lan, Odd Bootha 38 tuổi,
anh lái đ̣ bến Chiang Khong Bắc Thái Lan đă phải
than thở: “Nếu Trung Quốc cứ xây thêm đập
th́ sông Mekong chỉ c̣n là một con lạch.”
Quả thật, khúc sông Mekong ở
ngay phía dưới đập Mạn Loan (Manwan) đă “cạn
ḍng” do việc trữ nước cho hồ chứa vào năm
1993; nhưng đây có lẽ là thời điểm duy nhất
mà sông Mekong bị... “nghẽn mạch.” Thật vậy, năm 2003, Kỹ
sư Nguyễn Minh Quang (NMQ), một chuyên viên thủy lợi
quen thuộc với ĐBSCL và cũng là thành viên của Hội
Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (HKHKTVN), đă dùng mực
nước đo đạc hàng ngày tại trạm Chiang
Saen để nghiên cứu ảnh hưởng thủy học
của các đập thủy điện ở thượng
nguồn. Ông kết luận: “Dữ kiện đo đạc
từ 1961 đến 2000 cho thấy việc xây cất và
điều hành đập Manwan đă có ảnh
hưởng đáng kể đến t́nh trạng thủy
học (mực nước và lưu lượng) ở
trạm quan trắc Chiang Saen, cửa ngỏ của hạ
lưu vực sông Mekong.
Việc đóng đập Manwan có lẽ làm cho mực
nước cao nhất và thấp nhất trong mùa khô tại
trạm nầy hạ thấp đến mức kỷ
lục trong năm 1992 và 1993.
Tuy nhiên, lưu lượng trong mùa khô (từ tháng 11
đến tháng 4) tại trạm nầy tăng đáng
kể sau khi đập Manwan hoàn tất, kể từ năm
1994: lưu lượng cao
nhất trung b́nh tăng từ 979 m3/sec đến
1.490 m3/sec hay 52%, lưu lượng thấp
nhất trung b́nh tăng từ 477 m3/sec đến
807 m3/sec hay 69%, và lưu lượng trung b́nh trung
b́nh tăng từ 654 m3/sec đến 1.055 m3/sec
hay 61%” (Quang M. Nguyen. June 28, 2003. “Hydrologic Impacts of China’s
Upper Mekong Dams on the Lower Mekong River.” www.mekonginfo.org).
Mực nước đo đạc
hàng ngày tại trạm Chiang Saen từ 2001 đến 2006 cũng
không có một dấu hiệu nào cho thấy sông Mekong “cạn
ḍng” trong tháng 3 năm 2004 như lời tác giả NTV. Theo dữ kiện của Ủy hội
sông Mekong (MRC) (www.mrcmekong.org),
mực nước tại trạm nầy đă xuống
đến mức thấp nhất 0,88 m vào ngày 27 tháng 3; thế
nhưng mực nước nầy vẫn c̣n cao hơn mực
nước thấp nhất hàng năm quan sát được
từ năm 1960 đến 1986 khi mà các đập ở
thượng nguồn chưa được xây cất. Trong khoảng thời gian nầy,
mực nước thấp nhất hàng năm tại Chiang
Saen giao động từ 0,22 m đến 0,81 m, cho đến
năm 1987 th́ đạt 0,97 m.
C̣n lời than thở của anh
lái đ̣ Odd Bootha ở bến Chiang Khong? Trên phương diện thủy học,
lời than thở cũng chỉ là... lời than thở!
Những
Cơn Lũ Bất Thường ở ĐBSCL
“Nhóm Bạn Cửu Long” rất
chính xác nhưng tế nhị khi đánh giá những cơn
lũ “bất thường” ở ĐBSCL trong mùa mưa. Đây là những cơn lũ, mà theo
lời Phó giáo sư Đào Công Tiến (ĐCT), nguyên hiệu
trưởng trường Đại học Kinh tế, Thành phố
Hồ Chí Minh, “... vốn hiền lành trở nên hung tợn, tàn
phá nhiều hơn, xói lở sông ng̣i, khu dân cư” (TTCN. “Lũ
ở đồng bằng sông Cửu Long. Đề pḥng tác hại lâu dài của
đê bao.” Báo Tuổi Trẻ ngày 15 tháng 10 năm 2005). Nhưng gán cho “những con đập thủy điện khổng
lồ [của Trung Hoa] chắn ngang ḍng chính sông Mekong” là
thủ phạm của những cơn lũ “bất thường”
ở ĐBSCL th́ hoàn toàn thiếu cơ sở khoa học.
Trên thực tế, không ai có thể
chối căi rằng t́nh h́nh lũ lụt ở ĐBSCL càng ngày càng
trở nên “bất thường” sau tháng 4 năm 1975; nhưng
chưa có một nghiên cứu khoa học nào liên kết “t́nh
trạng bất thường” với việc xây cất và
điều hành các đập thủy điện ở
thượng nguồn sông Mekong.
Ngược lại, kết quả nghiên cứu năm
2003 của NMQ cho thấy: “Ảnh
hưởng của việc xây cất và điều hành
đập thủy điện Manwan đối với t́nh
trạng thủy học ở trạm Chiang Saen th́ chưa
nhận thấy ở trạm Tân Châu và Châu Đốc, là hai
trạm quan trắc cuối cùng của hệ thống
trạm quan trắc trong hạ lưu vực sông Mekong. Nhận xét nầy phù hợp
với sự liên kết rất lỏng lẽo (very weak
correlation) giữa mực nước ở hai trạm Chiang
Saen và Tân Châu. Hệ số liên
kết (correlation coefficient) giữa hai trạm Chiang Saen và
Tân Châu là 0,46 cho mực nước cao nhất hàng năm và
0,12 cho mực nước thấp nhất hàng năm. Sự liên kết được
xem là hoàn hảo nếu hệ số liên kết bằng 1.”
Nhưng có dấu hiệu cho thấy
“t́nh trạng bất thường” của lũ lụt ở
ĐBSCL có liên hệ đến việc xây cất và điều
hành các đập thủy điện trên cao nguyên miền
Trung, Việt Nam như đập Yali và Se San 3. “Thí dụ như việc xả
lũ từ đập thủy điện Yali ở
Việt Nam vào đầu tháng 8 năm 2005. Việc xả lũ nầy đă
gây lũ lụt ở hạ lưu sông Se San trong tỉnh
Ratanakiri của Kampuchia (32) và có lẽ đă làm mực
nước nội đồng ĐTM [Đồng Tháp Mười]
đang tăng nhanh lại càng tăng nhanh hơn trong trung
tuần tháng 8 (33)” (NMQ. Tháng
9 năm 2006. “Những Vấn
đề Thủy lợi ở Đồng bằng sông Cửu
Long.” www.vastvietnam.org).
Một sự kiện “bất
thường” đă đi vào lịch sử lũ lụt ở
ĐBSCL và được tŕnh bày trong bài viết năm 2006 của
NMQ: “Một sự kiện thủy học nổi
bật được quan sát lần đầu tiên trong
lịch sử, đó là, trong 23 trạm của hệ
thống đo đạc thủy học ở hạ
lưu vực sông Mekong, do Ủy hội sông Mekong điều
hành, chỉ có 5 trạm có mực nước vượt
quá mức báo động do Ủy hội ấn
định trong năm 2005. Đó
là các trạm Thakhek và Pakse ở Lào, Mukdahan ở Thái Lan, và
Tân Châu và Châu Đốc ở Việt Nam. Tuy nhiên, sông Mekong vượt quá
mức báo động chỉ có 5 ngày ở Thakhek, 7 ngày
ở Pakse, và 9 ngày ở Mukdahan, nhưng kéo dài đến 30
ngày ở Tân Châu và 60 ngày ở Châu Đốc.” Và trong năm 2006, một lần nữa,
lịch sử thủy học hạ lưu vực sông
Mekong lại ghi thêm một kỷ lục mới: mực
nước tại trạm Tân Châu đă vượt mức
báo động và mực nước tại trạm Châu Đốc
đă vượt mức lụt do Ủy hội sông Mekong ấn
định, trong khi mực nước ở tất cả
các trạm quan trắc c̣n lại ở thượng nguồn
chưa vượt quá mức báo động của chúng. Mực nước tại Tân Châu
cao hơn mức báo động 3,50 m trong suốt 88 ngày (từ
15 tháng 8 cho đến 10 tháng 11) và đạt mức cao nhất
4,17 m (xấp xỉ mức nước lụt 4,20 m) vào ngày
17 tháng 10. Mực nước tại
Châu Đốc cao hơn mức báo động 2,50 m trong suốt
89 ngày (từ 18 tháng 8 đến 14 tháng 11) và cao hơn mức
lụt 3,50 m trong suốt 18 ngày (từ ngày 12 đến 29
tháng 10) và đạt mức cao nhất 3,71 m vào ngày 21 tháng
10.
Nếu những
con đập thủy điện khổng lồ ở Vân
Nam không phải là thủ phạm của các cơn lũ “bất
thường” ở ĐBSCL, th́ ai là thủ phạm? Để bảo đảm tính khách
quan, chúng ta hăy nghe sự đánh giá của các cơ quan và giới
chức có thẩm quyền trong nước. “Trong
hai thập kỷ vừa qua con người đă tác
động mạnh mẽ lên vùng ngập lụt của
châu thổ sông Mekong. Nhiều
kênh mới đă được đào, nhiều kênh cũ
đă được nạo vét, mạng lưới kênh
cấp II ngày càng được đan dày đă làm tăng
khả năng chuyển lũ qua các vùng ngập. Mặc khác các hệ thống giao
thông đường bộ cũng được đan
dày và tôn cao nhưng khẩu độ cầu cống chưa
đủ đă làm ách tắc việc thoát lũ, làm dâng
mực nước lũ một số vùng, trong đó
đáng chú ư ở vùng ĐTM và TGLX [Tứ giác Long Xuyên] của
Việt Nam” (Phân viện Khảo sát Quy hoạch Thủy lợi
Nam bộ. 1999. Đề tài: Nghiên cứu Khoa học cấp Nhà
nước, Xây dựng Cơ sở Dữ liệu
Thống nhất cho Mô h́nh Toán Tính lũ lụt ở
Đồng bằng sông Cửu Long, Báo cáo Tổng kết
Đề tài. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam). Phó giáo sư ĐCT, trong tờ Tuổi Trẻ ngày 15 tháng 10 năm
2005, cho rằng: “Có nhiều
nguyên nhân, song cái chính là sự tác động của con
người vào tự nhiên để kiểm soát lũ
thiếu tuân thủ qui luật.
Các hệ thống kênh mương dẫn lũ về
sớm, rồi hệ thống giao thông, bờ kênh lại
làm lũ rút chậm hơn b́nh thường. Việc phát triển đê bao
cục bộ tràn lan đến mức không c̣n là... cục
bộ làm con lũ vốn hiền lành trở nên hung
tợn, tàn phá nhiều hơn, xói lở sông ng̣i, khu dân
cư.”
Cửu
Long Cạn Ḍng?
Ở nhiều nơi trong MK:DSNM,
tác giả NTV tŕnh bày một số “thông tin” và “dữ kiện”
thủy học để minh chứng rằng những con
đập thủy điện ở Vân Nam chính là nguyên nhân
của t́nh trạng “sông
Cửu cạn ḍng” đang xảy ra ở ĐBSCL. Nhưng những thông tin và dữ
kiện nầy không phù hợp với các dữ kiện thủy
học đo đạc ở các trạm quan trắc hoặc
được công bố trong các tài liệu chuyên môn.
Trong phần “Con đập đầu
tiên, con đập lịch sử,” chương “Tường
tŕnh từ Vân Nam đến với con đập Mạn
Loan,” tác giả viết: “Chỉ
riêng với con đập Manwan mà đă giữ tới 20%
nguồn nước trên ḍng chính khúc sông Mekong chảy qua Vân
Nam.” Nhưng con đập
Manwan, thực sự, giữ được bao nhiêu nước
của sông Mekong? Theo tài liệu
“Downstream Implications of China’s Dams on the Lancang Jiang (Upper Mekong)
and their Potential Significance for Greater Regional Cooperation, Basin-Wide”
(E.C. Chapman and He Daming. 1996), hồ chứa Manwan có dung tích 0,92
tỉ m3 tổng cộng và 0,25 tỉ m3 khả
dụng. Theo tài liệu Overview of the Hydrology of the Mekong
Basin (MRC. November 2005), sông Mekong có lưu lượng trung
b́nh 15.000 m3/sec, trong đó, thượng lưu vực
(tức khúc sông Mekong ở Trung Hoa) chiếm 16%; như vậy,
lưu lượng nước trung b́nh của sông Mekong chảy
qua Vân Nam là 2.400 m3/sec hay khoảng 75,68 tỉ m3/năm. Do đó, hồ chứa Manwan chỉ
có thể giữ khoảng 0,3-1,2% số lượng nước
sông Mekong chảy qua Vân Nam hàng năm. Trong mùa khô, vẫn theo tài liệu
của Chapman và Daming, lưu lượng nước trung b́nh
từ tháng 11 đến tháng 4 của sông Mekong tại đập
Manwan là 689 m3/sec hay 10,86 tỉ m3/mùa khô. Do đó, hồ chứa Manwan chỉ
có thể giữ khoảng 2,3-8,5% số lượng nước
sông Mekong chảy qua Vân Nam trong mùa khô.
Trong phần “Mae Nam Khong – sông Mẹ
cạn ḍng,” chương “Lào PDR.Com đi ra từ lăng quên,”
tác giả viết: “Bây giờ
mới là giữa tháng Chạp [2000] - vừa hết Mùa
Mưa, chưa vào cao điểm Mùa Khô (khoảng tháng 4 tháng
5) vậy mà khúc sông Mekong chảy qua Vạn Tượng
như đă khô cạn với ngổn ngang những cồn
và băi... Ḍng chảy của con
sông Mekong nơi hạ lưu sẽ ra sao khi cả chuỗi
14 con đập bậc thềm Vân Nam (khởi đầu 7
nay 14) được hoàn tất trong hai thập nhiên [niên]
đâu của thế kỷ 21.”
Rất tiếc, v́ thiếu dữ kiện mực
nước tại trạm quan trắc Vientiane (Vạn
Tượng), nên “thông tin” về mực nước của
khúc sông Mekong chảy qua Vạn Tượng vào giữa tháng
12 năm 2000 mà tác giả NTV cung cấp không thể
được kiểm chứng một cách trực tiếp. Tuy nhiên, thông tin nầy có vẻ không
trung thực nếu dựa trên dữ kiện mực nước
tại trạm Chiang Saen, cách trạm Vientiane khoảng 650 km
về phía thượng lưu.
Trong tháng 12 năm 2000, mực nước thấp nhất
tại trạm Chiang Saen là 2,45 m, cao hơn mực nước
thấp nhất trung b́nh từ năm 1960 đến 2000 là
2,25 m. Về phương diện
thủy học, nếu sông Mekong “không cạn ḍng” ở
Chiang Saen th́ nó không thể nào “cạn ḍng” ở Vạn
Tượng!
Trong phần “Ô nhiễm trên những
xa lộ nâu,” chương “Từ cầu Mỹ Thuận 2000
tới cây cầu Cần Thơ 2008,” tác giả viết: “Có một hiện tượng
khách quan là ḍng chảy sông Cửu Long ngày càng yếu đi
ở nhiều khúc sông nhất là vào mùa khô, ḍng chảy
đo được ở Nam Vang chỉ c̣n 1,600 m3/giây thay
v́ 2,000 m3/giây như trước đây, khi xuống tới
ĐBSCL chắc c̣n yếu hơn.”
Tác giả không cho biết dữ kiện nầy
được trích dẫn từ đâu, nhưng theo tài liệu
Report, Analysis of Sub-Area 10V, Basin
Development Plan (Viet Nam National Mekong Committee. November 2003), th́ “Trong mùa khô, lưu lượng
ở ĐBSCL rất thấp.
Lưu lượng trung b́nh hàng tháng tại Nam Vang
từ tháng 2 đến tháng 4 là 2000-4000 m3/s. Trong những năm trung b́nh,
lưu lượng đạt mức thấp nhất 2380 m3/s
vào tháng 4. Trong những năm
hạn, lưu lượng có thể thấp hơn 2000 m3/s.” Ngay trong năm 1998, là một trong
những năm hạn hán gay gắt nhất, lưu lượng
sông Mekong tại Tân Châu và Châu Đốc cũng không xuống dưới
1815 m3/sec.
Có một “sự cố” thủy
học lịch sử khác hiện đang xảy ra ở ĐBSCL
mà có lẽ tác giả NTV chưa được biết: mực
nước trong mùa khô tại Tân Châu và Châu Đốc tụt xuống
thấp một cách “bất thường” kể từ năm
2001 cho đến nay! Dữ kiện
đo đạc của MRC cho thấy mực nước thấp
nhất hàng năm dao động từ 0.00 đến -0.23
m tại Tân Châu (so với mực nước thấp nhất
trung b́nh 0.27 m trong khoảng 1979-2000) và từ -0.11 đến -0.39 m tại Châu
Đốc (so với mực nước thấp nhất trung b́nh
0.18 m trong khoảng 1979-2000). Nhưng
sự kiện nầy th́ không thể cáo buộc là do các
đập thủy điện ở Vân Nam gây ra, v́ mực
nước thấp nhất hàng năm tại Chiang Saen vẫn
duy tŕ từ 0.88 đến 1.30 m, cao hơn mực nước
thấp nhất trung b́nh 0.70 m trong khoảng 1960-2000. HKHKTVN đang tiếp tục theo dơi
và nghiên cứu để t́m hiểu nguyên nhân.
Thay
Lời Kết
Phải khẳng định rằng,
không một ai có thể phủ nhận nhiệt t́nh của
tác giả NTV với ḍng sông Mekong qua MK:DSNM, nhưng những
thông tin và dữ kiện thủy học mà tác giả tŕnh bày
trong quyển sách th́ không đầy đủ, thiếu chính
xác, và không đáng tin cậy. Những
thông tin và dữ kiện khác th́ không được phối
kiểm, nhưng làm thế nào để sử dụng ḍng
sông “... như một thủy
lộ chiến lược vận chuyển dầu khí từ
Trung Đông [chỉ qua lănh thổ Thái Lan] tiếp tế cho các
tỉnh vùng kỹ nghệ tây nam Trung Quốc...” mà không
phải qua eo biển Malacca?
Trong MK:DSNM, chúng ta thấy nhiều
chi tiết và lập luận giống như những chi tiết
và lập luận trong tài liệu River at risk: the Mekong and the water politics of Southeast Asia (RAR)
do Tiến sĩ (TS) Milton Osborne soạn cho Viện Chánh sách
Quốc tế Lowy (Lowy Institute for International Policy) ở
Australia vào năm 2004. Đây không
phải là một ngạc nhiên, v́ quyển CLCD-BĐDS cũng có
một số chi tiết, lập luận, và cách tŕnh bày giống
như quyển The Mekong:
turbulent past, uncertain future cũng của TS Osborne xuất bản năm 2000.
Trong RAR, TS Osborne tŕnh bày “ưu tư”
của ông về t́nh trạng “bất thường” của
mực nước sông Mekong ở Thái Lan và Lào trong tháng 3 năm
2004 dựa trên các “thông tin và dữ kiện” đăng tải
trên báo The Nation (Bangkok), Asia Times Online, News Scientist, The
Bangkok Post, The South China Morning Post, The Economist, và The Guardian. Theo các thông tin và dữ kiện nầy
th́ các con đập thủy điện ở Vân Nam là nguyên
nhân chính của t́nh trạng dao động lạ kỳ (bizarre)
đó. Nhưng theo kết quả
nghiên cứu của MRC dựa trên dữ kiện mực
nước và lượng mưa đo đạc trong nhiều
thập niên, được tŕnh bày trong buổi họp của
Ủy ban Hỗn hợp MRC (MRC’s Joint Committee) tại Thành phố
Hồ Chí Minh ngày 26 tháng 3 năm 2004, th́ “... t́nh h́nh hạn hán hiện nay không có liên hệ
trực tiếp đến đập Manwan hoặc các
đập khác của Trung Hoa” mà do “... thiếu mưa từ năm trước” (MRC
Press Release No. 03/04. 26 March 2004).
Trong một bức thơ đề ngày 9 tháng 1 năm
2007 gởi cho tờ The Bangkok
Post để lên tiếng về bài báo “Kế hoạch xây
đập mới gây báo động (New dam plan sparks warning)”
ngày 25 tháng 12 năm 2006, TS Oliver Cogels, Giám đốc Điều
hành Văn pḥng MRC viết: “Trong
buổi gặp gở với giới truyền thông Thái ngày
19 tháng 12 năm 2006, tôi có nói rằng, trong khi các ảnh
hưởng cục bộ phải luôn được
cứu xét và khắc phục thích đáng, ảnh
hưởng chung ở hạ lưu của các đập
thủy điện trên sông Lan Thương ở Trung Hoa th́
thường bị phóng đại trong dư luận
quần chúng. Thật vậy,
tổng số lượng nước có thể giữ
lại đàng sau hai hồ chứa Manwan và Dachaoshan th́ nhỏ
hơn ít nhất 30 lần lưu lượng sông Mekong
chảy ra khỏi Trung Hoa hàng năm. Và mặc dù dung tích hồ Xiaowan
sẽ quan trọng hơn, nó vẫn nhỏ hơn ít
nhất ¼ tổng số lưu lượng hàng năm. Hơn nữa, nếu các
đập nầy không dùng cho thủy nông mà chỉ dùng cho
thủy điện, chúng không ‘tiêu thụ (consume)’ nước
và có khuynh hướng làm tăng lưu lượng của
sông trong mùa khô và giăm lưu lượng của sông trong mùa
lũ. Chúng tôi có đủ bằng
chứng (evidence) để tin rằng các con đập
của Trung Hoa không có trách nhiệm đối với t́nh
trạng hạn hán mà các quốc gia ở hạ lưu đang
đối mặt trong các năm vừa qua” (www.mrcmekong.org).
MK:DSNM, phương tiện chuyên
chở “thông điệp riêng tư của tác giả” - một
giấc mộng lớn - để cảnh báo với mọi
người rằng các con đập thủy điện
khổng lồ trên sông Lan Thương ở Trung Hoa đă, đang,và
sẽ làm cho sông Mekong “nghẽn mạch” ở Vân Nam và “cạn
ḍng" ở Tân Châu và Châu Đốc.
Qua lăng kính thủy học, giấc mộng lớn
đó có lẽ chỉ là... một giấc mộng lỡ!