TÍNH CÁCH
NGƯỜI NHẬT
Đỗ
Thông Minh
Là
con người, ai cũng có đủ tính tốt và xấu,
nên thực tế rất khó nhận định về tính
cách của chính ḿnh, của một người khác, huống
chi là nói về tính cách của cả một dân tộc. Tuy vấn
đề phức tạp và đôi khi mâu thuẫn, nhưng
tôi cũng xin cố gắng đưa ra một số nét
tiêu biểu của người Nhật.
NGƯỜI
NHẬT BẢN
Người Nhật
là pha trộn của các dân tộc bản địa với
người Trung Quốc, Mông Cổ, Triều Tiên, Măn Châu,
Eskimo... thuộc giống da vàng. Dáng người lùn mập,
nhưng nay phát triển mạnh về chiều cao cũng
như tuổi tho.. Theo thống kê năm 2000, chiều cao
trung b́nh của phái nam là 171,3 cm và phái nữ là 158,4 cm. Theo thống
kê năm 2003, tuổi thọ trung b́nh phái nam là 78,4 tuổi
và phái nữ là 85,3 tuổi, là dân tộc gia tăng tuổi
thọ nhanh nhất và nay đứng đầu thế giớị
Họ rất khỏe mạnh, dẻo dai, ngay phụ nữ
cũng có thể đứng làm việc cả ngày, nhiều
người 70, 80 tuổi vẫn c̣n hăng hái làm việc,
không phải tham tiền v́ họ rất giàu, nhưng v́
thích làm việc, đến độ thế giới gọi
họ là "labor animal" (con vật lao động).
Đặc biệt
phụ nữ thường ngực nhỏ, có người
chân rất to, nên được gọi là chân
"daikon" (大根, đại
căn: củ cải, chân củ cải đối với
Việt Nam th́ đâu có ǵ gọi là to, nhưng đây là củ
cải Nhật Bản, to gấp 3, 4 lần củ cải
Việt Nam, tuy vậy hiện nay cũng ít người có
loại chân này), cườm tay phụ nữ Nhật có thể
lớn hơn cườm tay thanh niên Việt, đôi khi họ
đeo đồng hồ đàn ông cũng vừạ Làn da
phụ nữ thường láng mịn, người ḿnh gọi
là làn da trứng gà bóc, nhưng người Nhật cho là làn
da "mochihada, bánh dầy" (ỄĩỀỘ, bính
cơ), và đặc biệt bàn tay của đa số các
cô thường nuột nà rất đẹp.
Về khuôn mặt
người Nhật, theo các nghiên cứu y học mới
đây cho thấy, đă có nhiều biến đổi trong
một, hai trăm năm quạ Xem các tranh cổ, nhất
là loại tranh thủ ấn họa nổi tiếng của
Nhật Bản, thường thấy vẽ phụ nữ
Nhật mắt hí một mí, lông mày mỏng, mũi tẹt.
Ngày nay mắt họ khá lớn, lông mày rậm hơn, và
mũi cũng cao hơn. Thêm một điểm nữa là
xưa khuôn mặt vốn tṛn, nay th́ dài v́ cằm của họ
dài rạ Y khoa giải thích là thức ăn ngày xưa phải
nhai nhiều; nhất là thời ba, bốn ngàn năm trước,
số lần nhai gấp từ năm, mười lần
so với các thức ăn mềm ngày naỵ Do v́ nhai ít, bắp
thịt cằm làm việc ít nên cằm bị trễ dần
xuống. Một điểm khác nữa là người Nhật
thường bị thiếu chất vôi (calcium), nên răng
hay bị hư và cũng mọc khấp khểnh, nếu
đi niềng cho đều sẽ tốn khoảng 5.000
đến 8.000 MK.
TÍNH CÁCH
NGƯỜI NHẬT
Bà Ruth Benedict, một
chuyên viên Nhân Chủng Học ở Đại Học
Columbia đă biên khảo về tính cách người Nhật
vào thập niên 40 để làm nền tảng cho chính sách
đối ứng của Hoa Kỳ. Bà đă viết nhiều
bản tường tŕnh và đúc kết thành tác phẩm
"The Chrysanthemun And The Sword" (Kiku To Kitana = Hoa Cúc Và Thanh
Kiếm). Theo bà: "Người Nhật vừa hung bạo
vừa hiền ḥa, vừa nghiêm khắc vừa thơ mộng,
vừa cứng ngắc vừa nhu nhuyễn, vừa trung
thành vừa phản trắc, vừa can đảm vừa
hèn nhát, vừa bảo thủ vừa cấp tiến... và chịu
ảnh hưởng cùng lúc của Thần Đạo và tam
giáo Nho, Phật, Lăo...".
Những điều
ấy thoạt nghe có vẻ chung chung, như có ǵ đó
cũng giống người Việt hay các dân tộc khác,
nhưng để ư kỹ, khi viết như thế, bà
đă nêu bật được tính tích cực, đôi khi dẫn
đến cực đoan ở cả hai thái cực của
người Nhật. Như người Nhật trước
và sau Thế Chiến Thứ 2 đi từ tàn bạo đến
ḥa b́nh, ngày xưa họ sẵn sàng chết th́ ngày nay họ
bảo vệ mạng sống bằng mọi giá, thể hiện
qua chính sách của chính phủ cũng như từng người
dân. Họ hiền tới độ đi ra nước
ngoài thường bị những người không đứng
đắn trấn lột, ăn hiếp. Có khi tôi liên
tưởng đến h́nh ảnh những chú gà "nuôi
giam", những con thỏ "nhà", dù được
thả ra th́ lúc nào cũng chậm chạp, không quen đối
phó với các bất trắc bên ngoài.
Họ có tinh thần
thực dụng và mạo hiểm rất cao, đă tự
đi du học và khéo léo đăi lọc văn minh, văn hóa
Trung Hoa, mà không du nhập từ chương và khoa cử.
Khi thấy những nền văn minh văn hóa rực rỡ
ở Âu-Mỹ, họ cũng đă t́m tới học hỏi,
làm giàu thêm cái vốn đă rất phong phú của họ, thể
hiện song hành tính bảo thủ và cấp tiến. Tất
nhiên khi trào lưu Âu-Mỹ tràn tới đất Phù Tang, th́
ít nhiều họ cũng mất đi phần nào bản sắc
riêng.
TINH THẦN KỶ LUẬT
ĐI ĐÔI VỚI GIÁO DỤC
Người
Nhật nổi tiếng là có kỷ luật, cho dù sự kỷ
luật đó bắt nguồn từ hoàn cảnh sinh sống
khó khăn, từ việc nghĩ tới lợi ích chung hay
từ văn hóa v.v... đă trở thành như tự giác,
nhưng không phải cứ thế th́ 100% con người
trong xă hội này sẽ trở thành kỷ luật. Mà những
người làm luật, những đoàn thể... đều
phải suy tính, ghi ra rất chi tiết các quy luật và phổ
biến rộng răi để mọi người tuân theo.
Những nơi
sinh hoạt công cộng luôn thấy đầy những bảng
hướng dẫn, thông báọ Cứ nh́n mặt
đường của Nhật th́ rơ, đâu đâu cũng
trắng xóa các lằn kẻ phân luồng xe chạỵ Ở
những nơi đông đảo hay dễ gây tai nạn, mặt
đường c̣n được sơn màu cam hay đỏ,
sơn tráng loại đá răm... để xe chạy không
bị trượt. Ngoài ra c̣n lót những tấm nhựa chỉ
đường và loa phát nhạc báo cho người mù. ở
một số chỗ băng ngang đường. Tiền
giấy cũng có dấu hiệu nổi đặc biệt,
ở ga xe điện th́ dán bảng ghi bằng chữ nổi
dành cho người mù để có thể tự mua vé... Quanh
các trường Tiểu Học th́ thường có người
cầm cờ hướng dẫn các em nhỏ qua đường.
Người Nhật
nổi tiếng là dặn ḍ chi tiết nhất so với
các dân tộc khác. Xe điện lúc nào cũng thông báo mở
cửa bên nào, xin lưu ư đừng để quên hành lư,
khi bước ra coi chừng khoảng cách giữa toa xe và
thềm ga...
Tóm lại là sự
tự giác chung vẫn luôn luôn cần sự hướng dẫn,
giáo dục cụ thể để đáp ứng với
hoàn cảnh và sự thay đổi của xă hội theo với
thời đại.
LỄ
NGHĨA - LỊCH SỰ
Ai
cũng thấy là người Nhật rất lễ
nghĩa, chào nhau không phải một lần mà đôi khi
năm lần bẩy lượt. Ăn mặc lịch sự,
nói năng nhỏ nhẹ, không phải lúc nào cũng to tiếng
như chửi nhau như giữa lính Nhật thời Thế
Chiến Thứ 2 với nhau hay với người bị
họ thống tri.. Trừ một số giới trẻ
ăn mặc lố lăng, người đi làm đều
ăn mặc lịch sự, nh́n ngoài đường không
thể nào đoán được họ làm việc ǵ, áo quần
luôn sạch sẽ, khi vào nơi làm mới thay quần áo làm
việc lao động, nên đôi khi chỉ là nhân viên làm vệ
sinh, đổ rác.
Phái nam Nhật hầu
như không có chuyện thấy người đẹp lạ
ngoài đường mà hút gió, ngỏ lời tán tỉnh,
cḥng/chọc ghẹo... Hầu như không có chuyện không
quen mà lẽo đẽo theo nàng về tới nhà rồi trồng
"cây si" luôn. Nhưng bạn với nhau th́ giữa nam
nữ lại có vẻ gần gũi, tự nhiên hơn
người Việt. Đi nhậu chung mà nếu một
bên say th́ bên kia sẵn sàng d́u đị V́ vậy, đôi khi
người Nhật kết hôn trễ, có tới khoảng
50% phải nhờ người giới thiệu, gọi là
"miai" (見合い, kiến
hợp). Phụ nữ được khen đẹp th́ chắc
là ai cũng thích, nhưng phụ nữ Nhật th́ mắc cở,
tỏ thái độ khiêm tốn và thường nói: "Cám
ơn", c̣n phụ nữ Việt "đáo để"
hơn, thường trả lời: "Sạo",
"Đừng có nịnh"... c̣n người lạ mà
khen, có khi bị lườm nguưt cho một phát rồi nói:
"Vô duyên".
Nhật Bản có
Ngày T́nh Yêu (Valentine), là ngày 14 tháng 2. Theo truyền thống Á
Đông, trong truyền thuyết Nhật cũng từng nói
tới chuyện có vị thần phái nữ tỏ t́nh với
vị thần phái nam trước, nhưng cho là chuyện
không nên, nên phái nữ lúc nào cũng ở thế bị
động, khó kiếm chồng. V́ vậy, Ngày T́nh Yêu là
ngày phái nữ tặng quà cho phái nam, thường là chocolate
để phái nữ có cơ hội mạnh dạn lên tiếng.
C̣n khi hai bên quen nhau thân th́ phái nam không những tặng hoa hồng
c̣n tặng quà và phái nữ cũng tặng quà ngược lại
nhưng không tặng hoạ Ở Việt Nam cũng có ngày
này, nhưng phái nam thường tặng phái nữ hoa hồng
để tỏ ư thích.
Ngày Trắng (White
Day), là ngày 14 tháng 3, phái nam tặng quà đáp lễ cho phái nữ,
thường là kẹọ Ở Việt Nam không có ngày này.
Phái nữ Nhật Bản
dường như không bỏ lỡ cơ hội "vùng
lên" để kiếm chồng này, nên họ chờ ngày
14/2 để "mượn quà thay lời" và mong ngày
14/3 để xem phái nam đáp ứng như thế nàọ
Phong trào mới chỉ mươi năm nay mà đă như
một truyền thống lâu đời ăn sâu trong tâm trí
và được hưởng ứng nồng nhiệt. Dịp
này phái nữ ào ào đi mua chocolate như băo táp với sự
tiếp tay kiếm lời rất đắc lực của
các cửa tiệm thương mạị Sở dĩ phái
nữ phải làm như vậy bởi đa số phái nam
Nhật Bản "cù lần", không biết "tán
gái".
Phái nữ Nhật
đâu có e dè kiểu thiếu nữ Việt Nam, như
trường hợp cô Phan Thanh T́nh, 17 tuổi, học sinh
Trung Học cấp 3 ở Sài G̣n, trong chương tŕnh
"Ajia No Junjo" (アジアの純情, Thuần
T́nh Của Á Châu) của đài TV Fuji số 8 ngày 2 và
10/2/2004. Cô T́nh thích một bạn trai cùng trường,
cũng là anh ruột của bạn gái ḿnh. Chuẩn bị
cho ngày hẹn ḥ, cô không dám ngỏ lời nên muốn gởi
gấm tâm tư qua món quà. Cô bèn đi mua đồ thêu, về
cặm cui đêm khuya, thêu trên khăn chữ "I LOVE YOU".
Hôm hẹn ḥ, v́ c̣n mắc cở nên có cả bạn gái
đi theo. Sau cả buổi đi chơi, ngồi cạnh
nhau, cuối cùng sau lúc chia tay, món quà ấp ủ bao nhiều
t́nh cảm, ước mơ... vẫn để trong túi
không dám đưa ra. Ngược lại, vài phụ nữ
Nhật c̣n độc thân thẳng thẳn yêu cầu tôi giới
thiệu bạn trai người Việt, nhưng tôi không
dám v́ sợ phiền phức sau nàỵ
Họ rất điềm
tĩnh trong ứng xử, ít nổi nóng, nhưng khi nổi
nóng th́ cũng khó can lắm, mà cũng chẳng mấy khi họ
can nhaụ Tôi đă chứng kiến sinh hoạt các câu lạc
bộ thể thao ở Đại Học. Đàn anh thường
đ́ đàn em với một thứ kỷ luật huấn
nhục, không phải chỉ trong một tuần mà gần
như suốt thời trẻ, có khi kéo dài cả đời
nhưng ở mức độ nhẹ hơn. Người
Việt dường như rất khéo léo trong việc la mắng,
tuy đôi khi nói bóng gió, nhưng khi la mắng th́ nói thẳng
vào chỗ sai quấy (tất nhiên có khi chỉ là chủ
quan) nhiều hay ít tùy theo lỗi nặng hay nhe.. C̣n với
người Nhật, khi rầy la, nhiều khi không nói thẳng
và cụ thể nên người bị la không hiểu
người la muốn ǵ mà la rất nặng và rất dai,
bất chấp thể diện người đối diện.
Có khi mới sáng ra, ông chủ vào hăng là la toáng lên, mà có khi la
chung chung kiểu nói: "Mọi người làm cái ǵ vậỷ",
"Đồ cà chớn!", "Không ai chịu làm việc!"...
La kiểu này th́ không ai biết là ông ta nói ǵ và muốn ǵ,
nhân viên th́ cứ im lặng nghe rồi giải tán, vẫn
làm việc như thường, nếu ấm ức quá th́
hết giờ làm việc rủ nhau ghé quán nhậu làm vài ly
rượu cho nguôi.
Như thường
thấy những phóng sự trên TV, có những ông thầy
"truyền nghề" nấu ḿ..., đệ tử sau
nghe lời chỉ dẫn, làm xong món ăn đưa lên, ông
chỉ liếc qua không cần thử là nói liền:
"Như vầy mà đem bán à!?". Thế là đổ ụp
vào thùng rác. Ông thầy tiếp tục chửi cho một lúc
như tát nước rồi bắt làm lại, đệ tử
im phăng phắc nghe chửi, lo đi làm lại mà không biết
phải sửa chỗ nào, lâu lâu ông thầy mới chỉ
khuyết điểm và bắt làm đi làm lại cả chục
lần. Và tuy vậy, thường chỉ có độ 30%
là được cấp bằng thôị Ư của ông thầy
là phải tập cho nhuần nhuyễn và chú ư từng chi tiết
nhỏ nhất, từ cách rửa xương, rửa rau,
nhúng ḿ, nêm gia vị, tŕnh bày... Với lối dạy này, tôi
thấy nhiều đệ tử lớn tuổi có khi ở
lớp 50 hay 60, muốn có một nghề làm ăn tự lập
đă phải khóc ṛng! C̣n các trường dạy nghề
b́nh thường th́ thu học phí nên chiều học sinh
hơn, không dám quá nặng lời như vậy.
Các huấn luyện
viên thể thao cũng vậy, luôn miệng la mắng rất
nặng các tuyển thủ (vận động viên). Tuyển
thủ nào cũng phải nói là huấn luyện viên rất
nghiêm khắc, nhưng hầu hết họ chấp nhận,
chỉ biết gật đầu làm theo v́ họ ư thức
rằng muốn tranh đua với người khác hay thế
giới th́ không cách nào khác hơn là nghe sự hướng dẫn
và khổ luyện. Tôi thầm nghĩ chắc chắn
là hiếm có người Việt nào có thể chịu đựng
những sự la mắng như vậỵ Đó là lư do
chính giải thích tại sao chẳng có mấy người
Việt tham gia trong các câu lạc bộ thể thao Nhật.
Trong công sở,
tư sở và các hăng xưởng cũng vậỵ Cấp
trên la mặng cấp dưới rất nặng, bất chấp
thể diện ngươi bị la mắng, làm cho nhiều
khi người ngoài thấy rơ sự khúm núm, sợ sệt
của cấp dướị Và trong nhiều trường
hợp cấp dưới thi hành mệnh lệnh mà không cần
suy nghĩ ǵ cả, như chỉ cốt làm vừa ḷng cấp
trên! Họ cũng rất trọng chủ nghĩa "bái
kim" (quá trọng đồng tiền), nên sống có hai mặt,
với nhân viên th́ gắt gao, mà với khách th́ cởi mở,
ngọt ngàọ Đó là cái giá mà người Nhật đă
phải trả để xă hội ổn định và
phát triển. Mỗi người phải chịu khép bớt
phần đ̣i hỏi tự do của ḿnh.
Tuy nhiên, trong sinh hoạt
b́nh thường như các nhóm bạn hay hội tự
tri.... th́ họ đối xử với nhau thân thiện và
b́nh đẳng hơn. Đặc biệt người Nhật
rất chịu khó hội họp, phát biểu ư kiến và
ghi chép khá cẩn thận. Các buổi họp thường
kéo rất dài, hầu hết mọi người nắm vững
vấn đề rồi mới thi hành.
Khi đánh nhau,
người Nhật ít can gián hơn người Việt.
Tôi đă chứng kiến cảnh đàn anh đánh đàn
em, hay bạn nam sinh đánh nhau rất hung bạo và kéo dài
mà những đồng bạn khác vẫn đứng nói
chuyện tỉnh bơ, có khi có cả con gái trong đó
cũng vậỵ Đầu thập niên 70, đă từng
có lần trong câu lạc bộ vơ Đại Học Takushoku
(ẸùẼB, Thác Thực), khi một đàn em xin ra, đă
phải đấu một ṿng với mọi người
và bị đánh chết. Trường hợp này, pháp luật
không trừng trị nặng, v́ coi đó là một tập
quán trong văn hóạ Các đàn em sợ đàn anh hơn
cha mẹ, với đàn anh th́ bảo sao cũng nghe, không cần
phán đoán đúng sai, c̣n ở nhà th́ hay căi lại cha me.. Hầu
như không có chuyện đàn em đánh lại đàn anh,
cũng không về mách gia đ́nh hay kéo bạn bè tới trả
thù, coi như chuyện trong câu lạc bộ là tự ḿnh
gánh trách nhiệm. Có điều, tuy vậy mà họ ít thù vặt
và thù daị Người Việt mà thấy bạn bè căi
nhau hay đánh nhau thường can gián ngay, c̣n chuyện ai phải
ai trái không quan trọng, tính sau.
Các bà mẹ Nhật
dạy cho con tính tự lập từ khi chúng mới biết
đi. Bà mẹ đi trước, con đi sau, nếu con vấp
ngă, kêu khóc, bà mẹ vẫn đứng phía trước chờ
chứ không chạy lại đỡ như người Việt.
Đứa bé khóc măi không được mẹ lại đỡ
đành đứng dậy đi theọ Cha mẹ chiều
con và trẻ em Nhật được tự do, tự lập
gần như Âu-Mỹ. Chúng tự quyết nhiều, khoảng
13, 15 tuổi là cha mẹ không được xâm phạm vào
đời tư của chúng, không được truy hỏi
thành tích học hành ở trường ra sao... Nhưng
đôi khi v́ chưa đủ trí khôn, chúng làm theo bản
năng và bạn bè rủ rê, hay nhất là bị đứa
lớn ăn hiếp bắt làm bậy, nên cũng gây ra nhiều
tệ trạng, đến khi cha mẹ biết được
th́ đă trễ rồi.
LẠNH
NHẠT - THÂN THIỆN?
Có nhiều người
đă nhận xét là người Nhật "lạnh nhạt",
có lẽ điều đó cũng đúng, nhưng chỉ
đúng một nửa với hầu hết những người
Nhật mới quen. C̣n khi quen lâu th́ họ sẽ vượt
qua được ranh giới e dè, cởi bỏ được
"mặt nạ" và tỏ ra thân thiện hơn.
Giữa thập niên
80, khi tôi lần đầu tiên tự đi thuê pḥng ở một
dăy nhà nhiều pḥng cho thuê gọi là "a-pa-tồ"
(apartment), theo tục lệ người Nhật là nên có chút
quà mọn như một hộp bánh nhỏ hay khăn vải
(người Nhật vốn tính sạch sẽ hay lau chùi
nên họ hay tặng nhau món này)... để ra mắt những
pḥng bên ca.nh. Tôi chuẩn bị quà và gơ cửa, tự giới
thiệu là người Việt mới dọn tới,
nhưng người trong pḥng không mở, chỉ nói vọng
ra "Thôi được rồi", hay "Không cần"
làm tôi cũng hơi áy náỵ Ở Nhật cũng có nhiều
người hay đi từng nhà, gơ cửa quảng cáo giới
thiệu hàng hay chiêu dụ về tôn giáo, nên nhiều nhà phải
gắn cả bảng cự tuyệt để khỏi bị
làm phiền. Người Nhật dù là đang ở nhà,
cũng có thói quen đóng cửa, cài then bên trong để
tránh bất trắc. Có lẽ lúc đầu họ cũng
coi tôi như một kẻ làm phiền và thấy cũng chẳng
có ǵ cần để tiếp xúc.
V́ nhà Nhật vách mỏng
lắm, tôi lo sau này có con nhỏ làm ồn hay ḿnh làm ǵ không
đúng phong tục Nhật sợ bị họ qua kiếm
chuyện. Nên nhân một lần đi làm về, tôi thấy
hai ông ở mấy pḥng bên cạnh đứng nói chuyện
với nhau, tôi vội chào rồi vào nhà lấy quà ra và
đưa tặng. Khi đó, mặt giáp mặt, hai ông có muốn
cũng không thể lánh mặt nữạ Không biết họ
nghĩ thế nào về hành động của tôi, nhưng
thấy họ đổi thái độ, trở nên thật
vui vẻ, cởi mở, và c̣n nói thêm rằng có ǵ cần cứ
nói, họ sẵn sàng giúp. Như một số người
đă nói, tôi nghiệm ra rằng, ḿnh cũng cần kiên nhẫn,
đợi dịp tốt để làm quen th́ họ sẽ
cởi mở hơn.
Tuy nhiên, người
ngoại quốc sẽ rất ngạc nhiên khi thấy lần
trước nhờ th́ họ rất nhiệt t́nh giúp đỡ
mà lần sau họ lạnh nhạt. Vấn đề là
người Nhật sẵn ḷng giúp đỡ, nhưng họ
cũng quen tính tự lập, nên nếu nhờ lần thứ
hai một việc tương tự th́ họ cảm thấy
không vui, không muốn giúp nữa mà muốn người nhờ
vả hăy cố gắng tự lập.
CỨNG
RẮN - HAY KHÓC?
Khi làm việc với
người Nhật, ai cũng thấy là người Nhật
rất trọng nguyên tắc, đến độ như
khó tính và cứng rắn, nhưng mặt khác họ cũng
dễ rung cảm với thiên nhiên và nhân t́nh nên hay khóc lắm,
nhất là phụ nữ. Họ trọng kỷ luật, khi
tham gia một tổ chức nào là họ tuân thủ mọi
điều lệ một cách chặt chẽ. Nơi công cộng,
họ luôn kiên nhẫn xếp hàng chứ không chen lên. H́nh ảnh
thường thấy nhất là các tiệm ăn đông
khách, người Nhật sẵn sàng xếp hàng cả tiếng
đồng hồ. Trong cuộc sống xă hội công nghiệp,
họ thường cố gắng giữ đúng giờ,
nhất là trong giao ước làm ăn.
Ai ở Nhật
hơi lâu chắc cũng đă từng chứng kiến và
thấy người Nhật rất dễ khóc. Như khi họ
đến trọ nhà người ngoại quốc hay
ngược lại có người ngoại quốc đến
chơi vài ngày, khi chia tay thường thấy họ khóc.
Khi người Việt tỵ nạn đến các trại
tạm cư rải rác khắp nước Nhật, người
địa phương thường niềm nở đến
giúp đỡ, tặng quà, quần áo... và khi người tỵ
nạn ra đi, dù có báo tin hay không, họ cũng tự
động đến đưa tiễn và có một số
người khóc. Một trường hợp khác nữa, chẳng
may có người tỵ nạn bị bệnh qua đời,
nếu là thân nhân của ḿnh th́ chắc là người Việt
sẽ khóc, nhưng nếu chỉ là bạn bè th́ cố gắng
giúp đỡ an táng chứ hầu như không khóc, trong khi
đó, nhiều nhân viên người Nhật chỉ mới
quen biết vài tháng mà vẫn khóc, có khi cẩn thận mặc
cả tang phục đến dự.
LÀM VIỆC
CÓ PHƯƠNG PHÁP, CẦN CÙ, CẨN THẬN, KHÔNG GANH TỴ
Người Nhật
chấp nhận khó khăn, phức tạp và rất kiên nhẫn
học hỏi hay chịu đựng, cộng thêm với lối
làm việc có phương pháp là bí quyết thành công của
ho.. Phức tạp như ngôn ngữ của họ, dùng tới
5 loại văn tự khác nhau là chữ Hán, Quốc Tự,
Hiaragana, Katakana và La Tinh và có chữ Hán lên tới 20, 25 cách
đọc. Làm việc phương pháp ở chỗ hội
họp kỹ, nghiên cứu kỹ, phân công kỹ và làm việc
kỹ. Đôi khi người ngoại quốc phải sốt
ruột là sao họ chuẩn bị lâu thế, và rồi ai
cũng phải ngạc nhiên khi bắt tay vào việc, họ
làm nhanh thế và kỹ thế...
Các học sinh Nhật
đều phải tập về lễ nhập học, nhất
là lễ phát bằng tốt nghiệp từ trước.
Ngay cả đối với người tỵ nạn
Đông Dương ở các trung tâm xúc tiến định
cư, khi học Nhật ngữ, Ban Điều Hành bao giờ
cũng nói người đại diện viết diễn
văn trước để dịch ra tiếng Nhật và
tất cả họp tập mọi nghi thức trước
một ngàỵ Khi chụp h́nh, nhiếp ảnh gia luôn sửa
tư thế và chỉ cách để tay cho học sinh, nên
chỗ nào cũng thấy h́nh chụp ngay ngắn, đồng
nhất.
Có lần ở nhà
thương phụ thuộc Đại Học Nichidai (日本大学, Nhật
Bản Đại Học), vợ tôi thấy một bà Nhật
làm công việc vệ sinh, khi đổ rác mà thấy bao rác
đă dơ th́ bà ta thay bao rác mớị Lần đó, sau
khi thay bao rác xong, bà đă đi mấy bước mà vẫn
c̣n quay lại ngó, thấy mép bao chưa được
đẹp, bà ấy quay trở lại vuốt cho thật
thẳng.
Quư bạn đi mua hàng ở Nhật, nhất là vào các
cửa hiệu lớn sẽ thấy đúng "Khách là nhất!".
Họ tiếp đăi rất ân cần, lịch sự, khách
mua th́ cám ơn thật nhiều, dù sau khi giở ra xem đủ
thứ mà không mua th́ cũng vui ḷng cám ơn rồi sắp xếp
lại chứ không có màn cự nư.. Khi khách đưa trả
tiền, nhân viên thường nhận bằng hai tay, rồi
kẹp ở máy tính tiền để pḥng trường hợp
nhầm lẫn giữa tiền giấy 5.000 hay 10.000 Yen...,
khi nhận cũng như khi thối lậi thường
đếm hai lần, đưa tiền thối cũng bằng
hai tay, thối xong mới cất tiền giấy của
khách đi rồi chắp hai tay cúi chào. Trong giao dịch, lúc
trao đổi danh thiếp, đôi khi cũng thấy họ
đưa và nhận bằng hai tay, nhất là người
có địa vị thấp hơn.
Thời sinh viên, thỉnh
thoảng tôi ra "chợ người" ở gần ga
Takadanobaba, quận Shinjuku để kiếm việc làm. Có lần
làm chung với một thanh niên Nhật, anh ta không đi làm
chính thức mà vẫn là thợ phụ như chúng tôi, lang
thang ở khắp các công trường xây dựng, có ǵ làm nấy,
sai ǵ làm nấy, thường là việc dọn dẹp. Một
hôm đám sinh viên chúng tôi cùng anh ta được trao việc
dọn đống ống chống bằng thép dùng đổ
bê tông, mỗi ống nặng khoảng từ 8 đến
10 kg. Chúng tôi thấy đi xa, nên cứ từ từ đem
từng ống một cho khỏi mệt, trong khi anh ta th́ cứ
ba ống một. Khi nhận việc xúc cát từ nguyên một
xe cát chở tới, chúng tôi làm độ 30 phút là mệt lử
mà mới xúc được độ 1/4 xe, anh ta nhào vào nói
để anh ta làm, anh làm liền tay cũng độ 30
phút là hết chỗ c̣n lạị Khi ra về, mọi
người xếp hàng lănh bao thư, trong có 5.000 hay 6.000 Yen
như nhaụ Lần nào gặp anh tôi cũng thấy anh
làm việc cật lực như thế, tay đầy vết
xước mà không bao giờ thấy than mệt hay cằn
nhằn chúng tôi sao tà tà thế.
Người Nhật
làm việc đến xong chứ không lo canh giờ về
và phải xong một cách hoàn mỹ chứ không thấy hết
giờ th́ làm vội qua loa, và họ rất ngạc nhiên khi
thấy khi người Việt làm việc hay than "mệt
rồi", không làm nữạ Hầu như không thấy
người Nhật vừa làm việc vừa nói chuyện,
vừa hút thuốc lá hay uống cà phệ Nói chung họ chủ
trương làm chậm mà chắc, muốn sản phẩm
luôn được hoàn mỹ, vượt hơn những
thứ đă có.
Khi vào làm việc
chung, người Nhật không hỏi lương nhau để
xem việc ḿnh làm và lương có tương xứng không,
không có kiểu thấy nhiều th́ yên lặng, thấy ít
th́ bất măn hay làm tà tà và rất ít khi họ mượn tiền
nhau.
Công chức th́ ở
đâu cũng "lè phè" hơn tư chức. Nhưng
nhân viên hành chánh Nhật nói chung tiếp mọi người
rất tử tế, không khác nhân viên một cơ sở
thương mại là mấy, nói năng rất khiêm tốn,
hầu như không bao giờ thấy họ hách di.ch. Chỉ
họa hoằn lắm mới thấy có căi nhau ở Sở
Ngoại Kiều (Sở Nhập Quốc, 入国管理局 = Nyukoku
Kanrikyoku, Nhập Quốc Quản Lư Cục), thường
người lớn tiếng là người ngoại quốc
chứ không phải người Nhật. Nhân viên bưu
điện làm việc c̣n tận tụy và chăm chỉ
hơn nữa, trong nội bộ cũng luôn có đặt
chỉ tiêu gia tăng hiệu suất, ngành này nay đang
được dân doanh hóa.
NGƯỜI
NGOẠI QUỐC NGHĨ G̀ VỀ NHẬT
Trong chương
tŕnh của CHTV - Tokyo No Sugao (東京の素顔 , Đông Kinh Tố
Nhan, Mặt Thật Của Tokyo), phóng viên đă phỏng
vấn một số người ngoại quốc, yêu cầu
họ cho một lời (一言 =
hitokoto, nhất ngôn) cảm nghĩ về Nhật. Cuộc
phỏng vấn bất chợt và chớp nhoáng, đôi khi
người trả lời nửa đùa, nửa thật,
không thể hiện hết mọi sự kiện, nhưng
cũng cho chúng ta vài nét khái lược.
- Một phụ nữ
Đức: "Người Nhật thân thiện. Ở
đây nhiều đồ điện, kỹ thuật quá,
tôi muốn một cái ǵ tự nhiên, giản dị
hơn.".
- Một phụ
nữ Gia Nă Đại: "Người Nhật rất lễ
nghĩạ Ở đây ít công viên quá.".
- Một phụ
nữ Hoa Kỳ: "Ở đây an toàn. C̣n cái xấu
là ông chồng tôi, ông ta là người Nhật.".
- Một đàn
ông Hoa Kỳ: "Người Nhật không thân thiện với
người ngoại quốc. Ở đây bất tiện
v́ ít bảng chỉ đường bằng tiếng
Anh.".
- Một phụ
nữ Bỉ: "Người đông quá, môi trường
bị ô nhiễm, bị kẹt xẹ".
- Một đàn
ông Trung Quốc: "Thuê nhà khó khăn, đ̣i hỏi người
bảo lănh... Sở Nhập Quốc gây khó khăn.".
- Một đàn
ông Việt
- Một phụ nữ
Miến Điện: "Bị đối xử phân biệt.".
- Một phụ nữ
Lào: "Chỉ thích tiền Nhật."...
NHỮNG
ĐIỀU LẠ ĐỐI VỚI NGƯỜI NGOẠI
QUỐC
Xin liệt kê 7
điều lạ nhất đối với người
ngoại quốc:
1- Cởi giày khi vào
nhà (họ đi dép nhẹ trong nhà v́ ngày xưa pḥng lót chiếu,
nay nhà thường lót thảm, hay nhựa, gỗ...
nhưng thay giày bằng dép riêng th́ giữ cho nhà sạch
hơn).
2- Lập tức cám
ơn, xin lỗi (tiếp xúc với người Nhật ai
cũng thấy họ luôn luôn cám ơn và rất sẵn sàng
nhận lỗi, hơi phiền người khác một chút
là xin lỗi ngay).
3- Ăn thức
ăn sống như cá... (người Nhật ăn cá sống
nhiều thứ nh́ thế giới sau một nước ở
Nam Mỹ).
4- Tặng quà Tết
và Trung Nguyên (các cửa hàng lớn đều chưng các các
hộp quà định sẵn, người mua chỉ việc
trả tiền là quà tới tay người nhận).
5- Ăn ḿ hay soba húp
xùm xụp (người Nhật nổi tiếng lịch sự,
nhưng khi ăn ḿ nước, bún nước... th́ họ
húp kêu rất to, theo họ, ăn như vậy mới
đă).
6- Cầu tiêu kiểu
Nhật (nhiều khi vào không biết ngồi quay hướng
nào, quay vào hay quay ra, thực ra là quay vào).
7- Không phải trả
tiền típ/bo (nếu khách ngoại quốc trả típ sẽ
làm họ bối rối, c̣n nếu tự ư bỏ lại,
họ sẽ vội gọi báo cho khách là "để quên
tiền".
NGƯỜI NHẬT NGÀY NAY
Những điểm
tŕnh bày trên là một số cá tính căn bản của
người Nhật, ngày nay vẫn c̣n và có thể thấy ở
bất cứ người Nhật nàọ Tuy nhiên, khi xă hội
càng phát triển, Âu-Mỹ hóa càng nhiều, tự do càng nhiều
th́ cũng đă có nhiều sự thay đổi, dễ nhất
nhất là ở giới trẻ.
Giới trẻ
sống trong xă hội khá đầy đủ, không có chiến
tranh, không bị luật lệ hay nhu cầu cấp thiết
nào thúc bách, lại quá tự do, nên đôi khi họ sống
theo bản năng, tùy tiện, bừa băi, cá nhân chủ
nghĩa nhiều hơn. Có khi tụ họp đi trộm cắp,
ỷ đông uy hiếp cả người lớn... có khi mới
khoảng 12 tới 15 tuổi đă giết người nữa
mà chẳng có lư do chính đáng nào, khiến cả xă hội
phải lo âu, ngỡ ngàng.
Trong một số trường
hợp, bố mẹ hành hạ con cái, có khi bỏ đói...
làm chết con. Có những kẻ th́ chuyên đâm lén phụ nữ
hay các em gái rồi chạy, đốt nhà, lợi dụng
xe điện sờ mó phụ nữ, móc túi những người
ngủ gật trên những chuyến xe đêm v.v... Dân chúng
phải tổ chức đi tuần, pḥng vệ nhiều
hơn, các em nhỏ đi học phải mang máy báo động.
Tỷ lệ phạm pháp gia tăng một cách đáng ngạị
Trong cuộc sống cũng vậy, có khá nhiều tṛ lừa
gạt qua h́nh thức tôn giáo cũng như thương mại...
cứ có lợi là lắm kẻ nhào vào, bất chấp
đạo đức, luật lệ. Thượng tầng
chính quyền, tài giới, chính giới, quân đội cho tới
cảnh sát cao cấp đều có những vụ
ăn hối lộ lớn một cách hệ thống, trong
khi ở hạ tầng lại tương đối trong
sạch.
Nhật Bản
vươn mạnh trong thập niên 60, 70 rồi qua thời
kỳ đổ vỡ kinh tế bọt đầu thập
niên 90 kéo dài tới khoảng 15 năm đến giữa thập
niên đầu thế kỷ 21 là kết quả của tổng
hợp những điểm mạnh và yếu của ho.. Nhật
Bản đang cần một cuộc cải cách lớn,
sâu rộng về tư duy cũng như về cơ cấụ
LÀM
ĂN VỚI NGƯỜI NHẬT
Nói chung, Nhật
Bản có kỹ nghệ và kinh tế hàng đầu, sản
phẩm cực tốt, được khắp nơi khen
ngợị Giao dịch làm ăn với họ cũng khá
an tâm v́ họ giữ lời, đúng hẹn. Nhưng trong
thế giới giao dịch tài chính, những người nắm
tài chính và làm ăn bạc tỷ, không phải chỉ là
những đầu óc chân thật b́nh thường, mà có rất
nhiều bàn tay "lem luốc" nhúng vào.
Thống kê về
kinh tế Nhật Bản, như càng ngày càng thấy rơ,
không phải chỉ là những con số tăng trưởng
tốt đẹp. Sự tăng trưởng của những
thập niên 70, 80 là có thật, nhưng cũng được
giới tài phiệt như ngân hàng và địa ốc thổi
phồng để đầu cơ và dẫn dụ người
khác, cho đến khi nó xẹp vào đầu thập niên
90. Họ chạy theo "đầu cơ tài chính" (buôn
bán chứng khoán và địa ốc) hơn là "đầu
tư sản xuất" là sở trường vốn có.
Từ đó đến nay, kinh tế Nhật đi xuống
dốc không ḱm hăm nổị Chứng khoán Nikkei trung b́nh
năm 2003 có lúc thấp nhất là 7.752 Yen, chỉ c̣n bằng
chưa tới 1/5 của năm 1983 là 38.915 Yen.
Nói chung, Nhật
Bản phải trả giá rất đắt cho sự giả
tạo này, nhiều công ty và nhiều người bị lỗ
nặng và phá sản, nhưng một số tay tài phiệt
"ma qủy" đă moi được rất nhiều
tiền của người khác và của chính công ty ḿnh,
không cần biết công ty đi về đâu, sẽ phá sản
khi nào... Nhiều người thuộc loại này đă bị
bắt, ngồi tù, những ai cũng biết số bị
phanh phui chỉ là một phần nhỏ của tảng
băng nổi trên mặt nước mà thôi.
Nhật Bản
lại có "truyền thống" là khi các nhân viên cao cấp
thuộc các bộ chính phủ về hưu th́ đi làm
"cố vấn" cho các đại công ty liên hê.. Mục
đích là để kiếm tiền chia chác và dễ móc ngoặc.
Thường những người này lương rất
cao và tiền nghỉ việc ở công ty mới lại
càng cao vô lư, gấp bội người thường, họ
có thể lănh vài chục triệu Yen sau khi "ngồi
chơi" ở công ty vài năm! Các công ty này chỉ có thể
làm ăn theo lối "đi đường tắt"
mới có đủ tiền cung phụng cho các ông cố vấn
như vậỵ Cuối năm 2006, cùng lúc có tới ba Tỉnh
Trưởng bị bắt v́ nhận hối lộ của
các công ty đấu thầụ
Người Nhật b́nh thường vẫn
đôn hậu, tử tế, giữ lời hứa, làm
ăn lương thiện, không đưa hoặc nhận
hối lô.. Nếu đôi khi có những người ngoại
quốc lừa lọc những người Nhật thật
thà, th́ cũng có một số người Nhật lợi
dụng sự được tín nhiệm để lừa
lọc người nước ngoài hay người Nhật
khác. Nhất là dân làm ăn về dịch vụ, môi giới
và người đi chào mời khách gọi là "mizu
shobai" (水商売, thủy
thương mại) th́ chỉ có tiền là trên hết. Họ
được học tập kỹ càng, nắm rơ tâm lư
đối tượng, lừa có bài bản lắm. Nghe họ
nói toàn những lời hay đẹp, nhiều người
xuôi tai tḥ bút kư hay đóng dấu mà không đọc kỹ khế
ước, bởi thực tế khế ước dài
tḥng, chữ li ti không mấy người đọc nổị
Lúc thực thi, không thấy họ làm những điều
đă thỏa thuận, khi ấy mới coi lại khế
ước th́ đă muộn rồị Nhà người Nhật
thường đóng cửa và khóa, trước cửa nhiều
nhà thường phải gắn bảng miễn tiếp loại
người này.
Kẻ lừa lọc
thường nhắm vào người già, v́ vừa chậm
chạp hoặc thiếu hiểu biết vừa có tiền.
Nào là mua cổ phần trồng nấm "linh chi"... có
lời lắm, thực ra th́ cũng y như vụ
"nước hoa Thanh Hương" hồi thập niên
80, "chim cút" đầu thập niên 70 ở Nam Việt
Nam hay "cắc kè khô" ở ngoài Bắc Việt Nam khoảng
thập niên 40.
Như giữa
năm 2005, một công ty sửa chữa nhà cửa nhỏ
chỉ có vài người, chuyên đến nhà người
già nói là giúp kiểm tra miễn phí hộ xem có an toàn khi
động đất không. Họ đánh vào tâm lư người
Nhật là ai mà không lo sợ động đất. Sau khi
xem xong, họ mới nói là nhà cũ rất nguy hiểm, cần
tu bổ... Họ không chịu đi cho đến khi chủ
nhà cả nể đồng ư, thế là làm khế ước
từ 1 triệu đến 5 triệu Yen, trong khi thực tế
có khi không cần sửa và thực chất họ làm chỉ
tốn 1/10 hay 1/20 giá ghị Có một ông già than họ đến
nhà tôi tới 4 lần! Với lối làm ăn ma giáo này,
trong một thời gian ngắn, họ thu vào vài chục tỷ
Yen mới bị phanh phui và bị bắt!
Các công ty về
máy điện toán, nối mạng truyền thông cũng vậy,
thường cho nhân viên đến các cơ sở
thương mại, nói xem giúp miễn phí về việc
trang bị máy móc. Sau đó họ cho biết hệ thống
đang dùng cũ rồi, nếu muốn nâng cấp th́ hăy gắn
thêm các thiết bị mới, sẽ nhanh hơn như cáp
quang tới 100 lần (thực tế thường chỉ
gấp 2, 3, khi hỏi tại sao th́ họ nói tại
đường dây ở đây xa trạm chính...), tiện
lợi hơn, cước nối mạng gọi rẻ
hơn... Thế là họ ra sức thuyết phục, có khi
như ở lỳ không chịu đị Thí dụ, mỗi
tháng thay v́ đang đóng 5.000 Yen, nay chỉ cần đóng
thêm độ 5.000 Yen nữa, hay thuê bao cũ 5 năm,
đă được 4 năm rồi th́ cũng trả trên
mức đó chút thôi, nhưng kư một khế ước
thuê bao 5 năm mớị Khi khách hàng đă xuôi tai đồng
ư, có khi lại ḷi thêm ra những thứ khác... được
tính riêng. Thế là suốt 5 năm trời, khách hàng è cổ
trả tiền thuê bao (lease)!
V́ vậy, nên cảnh
giác ít nhiều đối với giới người nàỵ
Đă có những công ty Việt Nam v́ quá tin tưởng vào
người Nhật sau mấy lần giao dịch, đă
bán thủy sản gối đầu lấy tiền sau... bị
họ quịt mất. Năm 2005, ṭa xử phía Việt Nam
thắng kiện và kẻ gian phải trả tiền,
nhưng phía người Việt cũng đă phải rất
vất vả từ Việt Nam qua theo đuổi kiện
mấy năm trờị Tiền cũng chưa thu về
ngay được, nên người Việt đi kiện tại
Nhật không dám về Việt Nam v́ sợ bị giết,
v́ lấy tiền đâu ra trả các nơi đă bán cá cho
ḿnh, mà rồi không có tư cách ở Nhật, ở quá hạn
nên lại bị Sở Nhập Quốc bắt giam!
Cái tinh ma thâm
độc của họ khác với cách xảo trá ngô nghê
hay dối quanh của người Việt, nên lúc đầu
rất khó nhận ra.