Lời Bạt tác phẩm Hành Tŕnh Người Đi Cứu Nước
ĐỐM LỬA QUÊ NGƯỜI…
Giao Chỉ
San Jose, 7/2006
|
Ghi chú của nhà xuất bản:
Giao Chỉ là bút hiệu của cựu Đại Tá Vũ
Văn Lộc,
hiện là Giám Đốc Trung Tâm Định Cư IRCC, Inc.
tại San Jose, USA.
Bài này đă được phổ biến rộng răi
trước khi phát hành sách, chúng tôi xin phép tác giả in vào
đây như ghi nhận từ một độc giả
thay Lời Bạt.
- - - - -
Bài viết về cuốn hồi
kư của một kháng chiến quân.
“Này em, anh sẽ về
bên kia biên giới.
Đèn nhà ai hay đốm
lửa quê người...”
- - -
Tháng 3/1975, tôi gặp
tướng Hoàng Cơ Minh lần đầu tiên tại Cam
Ranh, một vị Phó Đề Đốc Hải Quân nóng nảy,
bồn chồn vừa nhận toàn bộ trách nhiệm
tư lệnh cuộc triệt thoái từ duyên hải.
Sau lễ chào cờ
lần cuối, hạm đội chở phần c̣n lại
của hai quân đoàn suôi Nam. “Trùng khơi vạn lư, như
chưa vừa ư, lắc lư con tàu đi.” Bài ca vui tươi ngày nào bây giờ
chuyên chở biết bao nhiêu cay đắng.
Tháng 5/1975, gặp lại
ông Hoàng Cơ Minh trong trại Barrigada trên đảo Guam. Gần
30 vị tướng tá của một đạo quân tan
hàng nằm chờ phi vụ vào Mỹ. Ông Nguyễn Cao Kỳ
được đem đi trước, rồi đến
ông Ngô Quang Trưởng. Tôi nằm bên tướng Đồng
Văn Khuyên, mặt dài như chiều đông.
Trung Tướng Nguyễn
Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn III xuống sân đánh
bóng chuyền cho quên ngày tháng. Tướng Không Quân Phan Phụng
Tiên lâu lâu lại buông lời cay đắng. Riêng ông Hoàng
Cơ Minh là người duy nhất nói đến chuyện
trở về.
Những ư kiến rời
rạc, mơ hồ dường như đă bắt đầu
h́nh thành. Con đường trở về sẽ vô cùng khốc
liệt và ư ông Hoàng Cơ Minh nói là phải dùng tất cả
các phương pháp của cộng sản để
đánh cộng sản. Chuyện đó sau này thành sự thật.
Sau cùng, chuyến bay
cuối tháng 5/1975 từ hải đảo đă đưa
vào lục địa Hoa Kỳ một vị tướng
lănh Việt Nam Cộng Ḥa duy nhất quyết tâm trở về
với tấm ḷng hết sức sắt đá. Đó là Phó
Đề Đốc Hải Quân Hoàng Cơ Minh.
Mười hai
năm sau, vào ngày 28/8/1987, vị Phó Đề Đốc một
thời Tư Lệnh hành quân biển của Hải Quân
VNCH đă nằm chết bên bờ suối, giữa rừng
già miền Nam Lào.
Người lănh
đạo Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải
Phóng Việt Nam, Đảng Trưởng đảng Việt
Tân với 110 kháng chiến quân vượt sông Mekong trong chiến
dịch Đông Tiến t́m đường về Việt
Nam. Đến vùng Xalavang trên đất Lào, đạo quân
kháng chiến bị săn đuổi bởi số địch
quân đông đảo nên đă hoàn toàn tan ră. Các kháng chiến
quân bị bắt đă kể lại với nhau trong tù về
những cái chết đau thương và hào hùng. Vị
Tư Lệnh và các cấp chỉ huy Kháng Chiến đều
tử thương hay tự sát sau khi bị thương.
Vào đầu thập
niên 80, cộng sản Hà Nội và thế giới Mác Xít
đang ở trên đỉnh cao của chiến thắng.
Không thể có con đường nào khác gọi là đấu
tranh chính trị. Chỉ c̣n giấc mơ trở về gây
dựng cơ sở chiến đấu trong ḷng địch.
Cả một ước mơ dù đội đá vá trời
nhưng vẫn có người cố thực hiện.
Từ Úc châu, Vơ Đại
Tôn lập Chí Nguyện Đoàn Phục Quốc và t́m
đường về vào năm 1981. Ông đă bị bắt
và xuất hiện trong cuộc họp báo tại Hà Nội
ngày 13/7/1982.
Từ
Paris, Pháp, Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng
Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam thuộc nhóm Lê Quốc
Túy phát động, với Trần Văn Bá, Mai Văn Hạnh,
Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch và hàng chục người…
đă xâm nhập bằng đường biển Cà Mau, bị
bắt và xử ngày 18/12/1984. Trong Chí Ḥa, Trần Văn Bá,
Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch bị xử bắn ngày
8/1/1985, máu đỏ bức tường khám lớn. Mai
Văn Hạnh và Lê Quốc Túy là các cựu sĩ quan Không
Quân VNCH.
Và sau cùng, từ M ỹ,
Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh đă t́m đường về
suốt 10 năm từ 1981 đến 1990 qua 4 giai đoạn.
Tất cả đều lấy đất Thái Lan làm bàn
đạp. Năm 1985, hai nhóm cán bộ chính trị Tiền
Phương Kháng Chiến đă đi xuyên qua Cam Bốt
để về nước nhưng đều bị bắt
tại Nam Vang.
Cũng năm 1985,
Đông Tiến I, vượt sông Mekong, qua Nam Lào do Đại
Tá Dương Văn Tư chỉ huy đến gần biên
giới Việt Nam phía Bắc Kontum th́ bị Pathet Lào và Việt
Cộng đánh đuổi và tan ră, 20 kháng chiến quân hy
sinh.
Năm 1986, Đông tiến
II lần 1 với 130 kháng chiến quân tiến về phía
Đông - Nam nhưng vượt sông Mekong tại Pác Xế bất
thành nên đành phải rút. Trước khi lên đường,
Mặt Trận đă triệt tiêu toàn thể căn cứ
trên đất Thái, nên khi rút về lại phải sống
tạm ngoài trời gần 1 năm chờ tái xuất quân.
Năm 1987, với
110 kháng chiến quân cuộc Đông Tiến II lần 2 khởi
sự, vượt sông Mekong và bị quân địch quá mạnh
đánh tan. Toàn bộ chỉ huy và Tư Lệnh Hoàng Cơ
Minh tự sát, một số lớn tử trận và bị
bắt.
Đặc biệt
là sau khi Đông Tiến II lần 2 hoàn toàn thất bại,
thành phần c̣n lại tại hậu cứ Thái Lan và Tổng
Vụ Hải Ngoại tại San Jose, Cali, Mỹ cũng
không biết rơ tin tức. Nên chiến dịch Đông Tiến
III vẫn tiếp diễn với người chỉ huy hậu
cứ là một sĩ quan Dù, ông Đào Bá Kế đi vào
đất chết muộn màng năm 1990 với số
thành phần khỏe mạnh c̣n lại, những tân kháng chiến
quân mới tuyển từ trại tị nạn... đều
chấp nhận lên đường chuyến chót. Tất cả
xóa xổ căn cứ tại Thái Lan tiếp tục đi
theo con đường Đông Tiến I, vượt sông
Mekong t́m về biên giới Lào - Việt ở phía Bắc
Kontum.
Trong giai đoạn
này thật sự không c̣n sự hiện diện của
Tướng Minh và ṿng đai kỷ luật sắt đá.
Nhưng lạ lùng thay, những phần tử c̣n lại của
Kháng Chiến không tan hàng mà lại đồng ḷng lên
đường. Không ai thật sự biết rơ tâm tư của
anh em, nhưng có thể họ đi t́m “ông thầy”.
Thêm một lần
sau cùng, toán quân này cũng bị chặn đánh, bị giết,
bị bắt. Người chỉ huy Đông Tiến III là
Đào Bá Kế bị án tù chung thân, hiện c̣n bị giam tại
nhà tù miền Bắc.
Tất cả các anh
hùng kháng chiến suốt 10 năm (1981 - 1990), tuy hoàn cảnh
mỗi người một khác và đôi khi việc tuyên truyền
quá cường điệu phóng lên con số hàng ngàn tay súng
nhưng sự gian khổ và khốc liệt hoàn toàn có thật.
Vào những năm
80, bài hát bất hủ được ban hợp ca Thùy
Dương cất lên vừa hùng tráng vừa bi thảm: “Này em, anh sẽ về bên kia biên
giới, đèn nhà ai hay đốm lửa quê người.”.
Hơn 100 kháng chiến
quân đă hy sinh trên đường t́m về bên kia biên giới.
Vượt con sông Mekong, thấy ánh sáng leo lắt đêm
khuya, tưởng là ánh đèn của thôn xóm trên đất
nước thân yêu, ngờ đâu vẫn chỉ là đốm
lửa quê người. Chiến hữu chung quanh Tướng
Hoàng Cơ Minh chẳng c̣n được mấy người,
sức cùng lực kiệt, trải qua bao nhiêu gian khổ và
cô đơn, ông đă tự chọn cái chết, nằm lại
bên bờ suối.
Bên kia bờ đại
dương, cả một Tổng Vụ Hải Ngoại
đang trầm kha xâu xé làm cho ḷng tin tan vỡ! Khi lên như
sóng trào dâng, khi xuống như nước vỡ bờ. Bên
này tiền tuyến chỉ có trên dưới 200 tay súng bị
săn đuổi suốt những năm tháng dài. Thái Lan bắt
đầu đổi thái độ, không c̣n muốn cho
đóng quân, Lào Cộng hợp lực với Việt Cộng
truy kích. Kháng chiến quân bị thương phải tự
sát hoặc đă bị các chiến hữu hạ sát để
khỏi rơi vào tay địch. Không c̣n đường
nào khác.
Con đường giải phóng là con đường
một chiều: “Giải phóng hay là chết”. Những
người thân tín của ông Minh trong hàng ngũ lănh đạo
không c̣n nữa, Đại Tá Dương Văn Tư đă
hy sinh, Trung Tá Lê Hồng đă qua đời. Phó Đề
Đốc Hoàng Cơ Minh với một đời hành quân
biển đă bỏ quân phục đại lễ mầu trắng
và biển cả màu xanh, để t́m về bộ quần
áo đen, khăn rằn Nam Bộ nằm chờ đợi
giây phút cuối cùng ở giữa rừng núi Hạ Lào. Ông
đă dùng chiêu thức của cộng sản để
đánh cộng sản và đường lối này cũng
đă tạo ra bao nhiêu sóng gió. Sau cùng, giải phóng hay là chết,
khi không thành công th́ chết là giải thoát. Và một phát súng
cuối cùng đă nổ, Tướng Hoàng Cơ Minh đă
chết. Nhưng tiếng súng của ông tự sát phải
chờ đến 14 năm sau mới chính thức nghe
được tại San Jose vào tháng 7/2001.
|
Tất cả các câu
chuyện kể trên và c̣n nhiều chi tiết hết sức
đặc biệt, hầu hết đều được
giải bày trong cuốn Hồi Kư của Kháng Chiến Quân
Phạm Hoàng Tùng trong tác phẩm là 1 bộ 2 cuốn tựa
đề “Hành Tŕnh Người
Đi Cứu Nước”.
Tôi hân hạnh
được học giả Đỗ Thông Minh từ
Đông Kinh gửi riêng cho đọc bản in thử từ
máy điện toán. Tập hồ sơ tổng cộng 900
trang là một tài liệu hết sức quan trọng để
các nhà nghiên cứu và toàn thể thế hệ Việt Nam
sau này hiểu rơ câu chuyện t́m đường về của
những năm 80.
Với bản danh
sách khá đầy đủ các kháng chiến quân đă hy
sinh, đă bị tù đày và cả những người hiện
c̣n sống xót đều là nhân chứng của một giai
đoạn anh hùng và cũng hết sức bi thảm.
Riêng câu chuyện về
cuộc đời của tác giả Phạm Hoàng Tùng
năm nay trên dưới 50 tuổi đă trải qua 14
năm (1984 - 1997) đi kháng chiến và chịu rất nhiều
hệ lụy.
Phạm Hoàng Tùng
cũng như hàng trăm ngàn thuyền nhân khác đă lên
đường t́m tự do vào đầu năm 1982, từ
Sài G̣n đi thuyền rồi qua đường bộ
đến Nam Vang lần thứ 1.
Năm 1983, lại
vượt biển vào Thái, được
đưa tới trại tị nạn Sikhiu. Anh trở
thành 1 trong số 964.000 thuyền nhân mà thống kê của
Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc ghi nhận tổng
số 5 đợt trong 20 năm từ 1975 đến 1995.
Phạm Hoàng Tùng đă không chết trên biển Đông, anh
cũng không đi Mỹ định cư. Nếu Phạm
Hoàng Tùng đi Mỹ vào khoảng 1984 - 85, th́ bây giờ
cũng đă thành người Mỹ trên 20 năm ở San
Jose… trong số 100.000 dân Việt tại Thung Lũng Điện
Tử.
Nhưng phần số
con người đă thay đổi khi anh chấp nhận
trả hết giấy tờ tị nạn để
đi theo Kháng Chiến. Vào khu chiến năm 1984, làm việc
trong đài phát thanh. Tháng 9/1986, tham dự Đông tiến II
lần 1, tháng 7/1987, tham dự Đông tiến II lần 2, rồi
bị bắt giải về Sài G̣n. Năm 1990, cải tạo
lao động ở Phú Yên. Năm 1993, trốn trại về
Sài G̣n rồi vượt biên đến Nam Vang lần thứ
2.
Bây giờ Phạm
Hoàng Tùng cô thế, ở lại làm người Việt
lưu vong trên đất Cam Bốt, lập gia đ́nh, có vợ
và đă trải qua hơn 18 năm (1982 - 1987 và từ 1993 tới
nay) trên đất khách quê người. Lấy tin tức từ
chiến hữu kháng chiến khi gặp lại nhau trong trại
giam và từ kinh nghiệm bản thân, tác giả viết lại
hành tŕnh của một người đi cứu nước.
Anh đă dâng hiến
tất cả tương lai, hy vọng và tuổi thanh niên
cho lư tưởng. Anh t́m thấy ở Kháng Chiến cả
mộng lẫn thực. B́nh tĩnh và công b́nh, tác giả ghi
lại những đau thương dằn vặt của từng
chiến binh và người lănh đạo không phải bằng
lời nói mà bằng các hành động.
Đặc biệt
chỉ cần sơ lược về hoàn cảnh hết
sức tuyệt vọng hàng ngày, hết sức khó khăn,
căng thẳng mỗi ngày, ta có thể h́nh dung được
tâm trạng của người lănh tụ Kháng Chiến ra
sao. Tướng Hoàng Cơ Minh dưới ng̣i bút của tác
giả hiện thân của sự quyết đoán, cao ngạo,
không tin người và hết sức tàn nhẫn. Nhưng rơ
ràng là không có đường lối nào khác, ít nhất là vào
thời điểm của các cuộc Đông Tiến.
“Một lần đi là một lần vĩnh biệt,
một lần đi là hết lối quay về.”
Tác giả đă kể
lại những vụ xử tử kháng chiến quân muốn
đào ngũ, những vụ thi hành kỷ luật sắt
đá trong khu chiến. Toán cận vệ trung thành của
lănh đạo xuống tay hết sức lạnh lùng, tàn nhẫn
và dứt khoát không tha thứ bất cứ ai. Ngay cả với
ông Nguyễn Hữu Nhiều, vị bác sĩ duy nhất của
khu chiến.
Xem ra trước sau
chỉ có trên dưới 200 tay súng, đủ mọi thành
phần, có thể nói là một toán quân ô hợp. Với kỷ
luật sắt đá, lănh đạo đă tôi luyện thành
các du kích quân bắt đắc dĩ, ngày đêm học tập.
Người từ hải ngoại về rất ít, đa
số từ trại tỵ nạn.Quân đội VNCH có, mà
bộ đội đào ngũ cũng có. Người v́ lư
tưởng, người căm thù cộng sản và có cả
những thành phần ảo tưởng, chỉ muốn
thoát ra khỏi trại tỵ nạn v́ chờ đợi
ṃn mỏi không thấy tương lai. Tất cả đều
được đưa vào ṿng cương tỏa chặt
chẽ để dứt khoát không thể thoát ra được.
Chỉ cần một người trốn về là tất
cả huyền thoại vỡ lở và những câu chuyện
khắc nghiệt đau thương ở khu chiến sẽ
làm đổ vỡ tổ chức toàn thế giới.
Tác giả kể lại
nhưng không một chút oán hận, đôi khi c̣n có vẻ
phân trần cho hoàn cảnh.
Toàn thể tác phẩm
là một bản liệt kê những cái chết. Bắt
đầu là những vụ lên án và xử tử các âm
mưu đào ngũ... Tiếp theo là những nhu cầu
đôn đốc bừng bừng lửa dậy tại hải
ngoại đ̣i hỏi tiền tuyến phải làm một
cái ǵ.
Cuộc Đông Tiến
bắt đầu mặc dù chỉ có vài trăm tay súng. Chỉ
biết t́m cách vượt sông Mekong đi măi về phía
Đông, không có một lệnh hành quân rơ ràng. Lần đầu
bị thất bại. Lần sau trước khi lên
đường phá sạch trại để hết
đường về, nhưng rồi chưa đi
được, lại phải trở về sống bờ
sống bụi chờ chuyến sau.
Mỗi lần
Đông Tiến là một lần thương vong. Trận
chiến hoàn toàn không cân xứng. Đi vào đất địch
với quân số ít ỏi, không có phương tiện liên
lạc. Địch không đánh quân ta cũng có thể chết
đói, chết khát. Địch tấn công với quân số
gấp 10 lần. Quân ta chết là may mắn, bị
thương là không có phương tiện cứu chữa.
Không thể để lọt vào tay địch, bị tra tấn
lộ tin tức rồi cũng bị giết chết.
V́ vậy quân bạn
ra tay trước, Kháng Chiến giết hết
thương binh của ta, hoặc là thương binh phải
tự sát. Kháng chiến quân tài hoa là nhạc sĩ Trần
Thiện Khải, người sáng tác bài Trăng Khu chiến…
đă tự sát sau khi bị thương trên đường
Đông Tiến lần 2.
Đoàn quân Đông Tiến
như Hốt Tất Liệt ngày xưa dẫn quân Thát
Đát tiến về phía mặt trời. Cứ
phương Đông mà đi cho đến khi ngựa hết
nước, người hết sức, nhưng rồi
quân Mông Cổ c̣n có đường về. Kháng Chiến th́
tan hàng ngay tại Hạ Lào. Đi như thế không bị
địch đánh th́ cũng chết. Dù về đến
đất Kontum th́ cũng không thể mở được
đầu cầu. Cho dù mở được đầu cầu
th́ làm ǵ có đại binh theo sau.
Những cuộc hành
quân gian khổ, điên cuồng như thế mang ư nghĩa
ǵ? Ông Minh rơ ràng chỉ muốn t́m về chết tại quê
hương!
Ba trăm tám tư
năm trước, con tàu Mayflower của Âu Châu nhổ neo
đi về phương Tây với 102 người. Một
nửa là di dân và một nửa là thủy thủ đoàn,
cũng là một hành tŕnh vô vọng. Con tàu tả tơi
đến miền Đông Hoa Kỳ năm 1620, mùa Xuân đầu
tiên chết 52 người v́ đói khát và bệnh tật. C̣n
lại 50 người sống xót và các ḍng họ hậu duệ
của con tàu “Hoa Tháng Năm” ngày xưa trải qua 4 thế
hệ bây giờ đă có đến 35 triệu người
trong số 300 triệu dân Hiệp Chúng Quốc. Một cuốn
sách biên khảo vừa xuất bản đă ghi lại vào
ngày Lễ Độc Lập năm nay.
Trên chuyến khởi
hành đến Mỹ và sau khi sống những năm đầu
đầy thử thách ở Tân Thế Giới, di dân đă
có lúc hung bạo, tàn nhẫn với nhau. Sử sách đều
có ghi lại. Tuy nhiên, Mayflower đă thành công, nhưng con tàu
Đông Tiến của Hoàng Cơ Minh đă không nở hoa
“Kháng Chiến”.
Khi Tướng Minh tổ
chức đại hội tại San Jose để khai trừ
người phụ tá số một là Đại Tá Phạm
Văn Liễu, th́ tại Nam California cũng có đại hội
của ông Trần Minh Công tổ chức để đặt
vấn đề với ông Minh.
Đó là vào ngày
29/12/1984.
Cùng vào thời gian
đó, tiền đồn Hải Vân của Kháng Chiến
trên đất Thái bị địch vượt sông Mekong
qua tấn công. Sau đó, đơn vị Kháng Chiến tiền
tuyến phải triệt thoái.
Sau khi Mặt Trận
bể làm đôi, Tướng Hoàng Cơ Minh trở lại
khu chiến chuẩn bị và đích thân tổ chức, chỉ
huy Đông Tiến II lần 1, rồi lần 2. Ông ra đi
để t́m bằng được ngọn đèn đêm
hiu hắt trong thôn xóm Việt Nam, nhưng khi nằm chết
bên con suối Hạ Lào, ông chỉ thấy xa xa đốm
lửa quê người.
Khi xuất bản
tác phẩm của Phạm Hoàng Tùng, ông Đỗ Thông Minh có
lẽ chỉ muốn cho tác phẩm có cơ hội tŕnh bày
sự thật. Khi người Kháng Chiến viết về
14 năm oan nghiệt, tác giả cũng chỉ đơn
giản kể lại những ǵ đă trải qua.
Độc giả
đọc tác phẩm chắc có thể mang nhiều suy
tư. Kẻ chống đối hận thù Kháng Chiến sẽ
t́m thấy nhiều chứng cớ để buộc tội.
Nhưng riêng phần
tôi, với t́nh cảm dành cho người đi cứu
nước, tôi hết sức đau thương và trân trọng
cái chết của Tướng Hoàng Cơ Minh. Tấm ḷng
thương cảm của tôi không phải chỉ dành cho chủ
tướng mà cho tất cả đoàn viên của ông. Những
người ông tuyên án xử tử, những người
theo ông đi vào chỗ chết, hay những người v́
theo ông mà suốt một đời tù đày cho đến
ngày nay vẫn c̣n chưa được tự do.
Xem ra, tác giả
đi một ṿng tṛn trên 4 xứ Đông Nam Á khoảng thời
gian vừa đúng một con giáp (1982 - 1993), Phạm Hoàng
Tùng lại là người Kháng Chiến hưởng hạnh
phúc sau cùng.
Tướng Hoàng
Cơ Minh với cái chết của chính ông, ông đă làm trọn
lời thề nguyền từ khi xuống tàu bỏ nước
ra đi. Ông đă giữ vẹn lời thề, khi đứng
trên khán đài hô hào kháng chiến phục quốc ở Thủ
Đô Hoa Thịnh Đốn, ở Orange County và ở San
Jose…
Cái chết của
Tướng Hải Quân Hoàng Cơ Minh, của Đại Tá
Bộ Binh Dương Văn Tư, của Trung Tá Nhảy
Dù Lê Hồng… và ngay cả các kháng chiến quân đào ngũ
bị xử tử h́nh đều góp phần cho Kháng Chiến
và Việt Tân tồn tại. Đông Tiến là chuỗi dài
của những thất bại nhưng học được
bài học thất bại là lấy được ch́a khóa
của thành công.
Trong công cuộc
đấu tranh cho Việt Nam bây giờ và sau này, dù bằng
chính trị hay bằng những phương thức khác, dù
giải phóng rồi canh tân hay dù canh tân rồi giải phóng,
dù đúng hướng chính thống hay chệch hướng
ḥa giải th́ điều quan trọng là phải tồn tại.
Bất cứ với giải pháp nào, ta không thể cứu
nước nếu ta không tồn tại và tiếp tục
hoạt động.
Cái chết của một
lănh tụ chỉ có thể mang ư nghĩa để cho thế
hệ đấu tranh tiếp nối tồn tại. Với
ư nghĩa đó, một đóa “Hoa Tháng Năm”, một
Mayflower mới của người Việt sẽ nở hoa
trong cộng đồng của chúng ta.
Đối với những
dư luận về công cuộc kháng chiến phục quốc,
chúng tôi xin có đôi lời hơn thiệt.
Hơn 20 năm
trước, Giao Chỉ đă bày tỏ sự ngưỡng
mộ đối với Vơ Đại Tôn, Trần Văn Bá
và Hoàng Cơ Minh. Thân hữu nói rằng, ông quá cả tin nên
dễ bị lừa. Đă xin thưa rằng, tôi muốn
ngày nào cũng có người đến lừa tôi về
chuyện xây dựng lại non sông.
Hai mươi năm
sau, thân hữu lại nói rằng, ông đă yêu lầm tướng
cướp. Bèn trả lời rằng: “T́nh yêu vốn mù
quáng. Bây giờ đă già rồi, không thể thay đổi
được nữa, đành xin chịu mù ḷa để
giữ lấy t́nh yêu.”.
Đối với
riêng tôi, mọi công cuộc kháng chiến phục quốc từ
Lực Lượng Đặc Biệt Vơ Đại Tôn,
đến Không Quân Lê Quốc Túy, Mai Văn Hạnh và của
Hải Quân Hoàng Cơ Minh đều là những nỗ lực
thần thánh, chúng tôi có tràn đầy đức tin tuyệt
đối.
Ngày xưa, cụ
Nguyễn Bá Trác lưu lạc bên Tàu, mang nặng mối sầu
phục quốc bất thành đă viết nên vần thơ
bất hủ trong bài Hồ Trường:
“Chí ta ta biết, ḷng
ta ta hay.”
Bây giờ ḷng dạ
đó vẫn là tâm can của các đoàn viên cách mạng, chắc
chắn rằng tôi hiểu tấm ḷng các bạn. Khi thiên hạ
sắp ném đá người đàn bà tội lỗi, Chúa nói
rằng, ai không có tội th́ ném trước, tất cả
đều bỏ đi. Ngày nay, người lương thiện
bỏ đi, người tội lỗi đứng lại
lấy chuyện ném đá để mua vui đời luân lạc.
Từ “Vơ Đại Bịp” đến “Kháng Chiến Phở
Ḅ”... c̣n chữ nghĩa nào tàn nhẫn hơn để làm
đau đớn người đi cứu nước.
Đă đọc bộ
Hồi Kư Một Đời Người của cụ Phạm
Ngọc Lũy do nhà xuất bản Tân Văn ở Đông
Kinh, Nhật Bản phát hành nói về cuộc công yểm trợ
của hải ngoại, th́ hăy đọc bộ Hành Tŕnh
Người Đi Cứu Nước cũng của nhà xuất
bản này về khu chiến do kháng chiến quân Phạm
Hoàng Tùng viết để cùng suy nghĩ lại.
* * *
Với tấm ḷng
chân thành muốn t́m hiểu lịch sử trong đời sống
hiện tại, tôi xin có mấy lời về tác phẩm
giá trị này gửi đến quư độc giả.
Giao Chỉ - San Jose, 2006