BẢN TIN THANH NIÊN DÂN CHỦ

Thưa các bạn để đáp ứng với nguyện vọng khao khát tự do ngôn luận trong một đất nước không công nhận các quyền căn bản làm người. Weblogs của www.thanhniendanchu.net là một nơi để các bạn gửi gấm những nguyện vọng cho đất nước.  

Trong số này: Lẽ Sống - Đằng Phương-Những giọt nước mắt- Đổi mới và bảo thủ trong Đảng Cộng Sản Việt Nam-Xuất cảng Dân Chủ-Lư thuyết Dân Chủ  

Chúng tôi rất mong các bạn ghé qua trang web và tận dụng phương tiện "viết tùy bút"(blogs).

Website của chúng tôi đi đầu trong việc dùng Blogs để người Việt chúng ta xa gần trong cũng như ngoài nước có thể đăng tải các bài vở của quí vị một cách rất tiện lợi trên trang nhà của chúng tôi về những suy nghĩ, ưu tư, ư kiến và nguyện vọng đối với đất nước. 

Để dùng Blogs đăng bài của ḿnh, xin quí vị làm như sau:

  1.  Vào trang nhà www.thanhniendanchu.net

  2.  Nháy mouse vào create new account ( thuộc mục User Login)

  3.  Điền các thông tin vào chổ trống, UserId(tên riêng) và địa chỉ email, sau khi đă điền các thông tin, nháy mouse vào "create new account"

  4. Mở email đuợc gởi từ THANH NIÊN DÂN CHỦ, và làm theo các chỉ dẫn trong điện thư

  5. Sau khi đă login, nháy mouse vào "my blogs" (thuộc mục navigation)

  6. Các bạn nháy mouse vào "Post new blog entry"


LẼ SỐNG

Có những ḷng trai sóng rạt rào,
Ḍng đời cuồn cuô.n mạnh dâng cao.
Bao nhiêu sinh lực trong cơ thể
Náo nức gieo vang giữa máu đào.
Hăng hái xông ra giữa trận đời,
Họ theo những mô.ng ảo xa xôi
Để t́m một cảnh đời sinh sống
Trong sáng, tươi, vui, hợp đạo người.
Nhưng giữa mênh mông chẳng bến bờ,
Môt ḿnh đi lạc lỏng, bơ vơ.
Bao người không biết đường lui tới
Đă chịu vô t́nh phí tuổi thơ.
Rồi măi đi sâu giữa lỗi lầm,
Hay là quên cả tiếng lương tâm,
Họ sinh chán nản đành quay lại
Kiếp sống ươn hèn giữa tối tăm.
Hơi kẻ băn khoăn măi lạc loài
Đi t́m Lẽ Sống giữa trần ai,
Đi t́m những cănh trời cao rô.ng
Hợp chí tung hoành của tuổi trai!
Lẽ Sống đời ta chẳng phải là
Ở trong kiếp sống của riêng ta,
Ai đành tự vạch riêng đường sống
Giữa lúc chung quanh máu lệ ḥa?
Lẽ Sống đời ta quyết cũng không
Phải là tàn hại cả non sông,
Bắt toàn dân tộc đi theo những
Lư thuyết mơ hồ quá viễn vông.
Tranh đấu cho dân tộc sống c̣n
Liều ḿnh để phụng sự giang sơn.
Đó là Lẽ Sống người trai Việt.
Muôn thuở không sờn dạ sắt son.


Những Giọt Nước Mắt ?





Nguyễn H.

3 tháng 11, 2005

Bạn,

Cám ơn bạn đă gởi cho tôi tấm h́nh tượng Đức Mẹ trước Nhà Thờ Đức Bà ở Saigon khóc vào những ngày cuối tuần rồi. Tôi cũng đă thấy tin này trên mạng mới đây, loan báo tượng Đức Mẹ chảy nước mắt, dân chúng các nơi đổ dồn về để xem, khiến mọi giao thông tại Saigon bị tắt nghẹn. Không biết hư thực ra sao, tôi cũng đang định email hỏi bạn.

Nghĩ đến tượng Đức Mẹ tại khuôn viên sân cỏ Nhà Thờ Đức Bà, trước cửa Ṭa Bưu Điện, tôi c̣n nhớ ngày xưa vào những năm trước 1975, hai đứa ḿnh thường cùng với những đứa bé tiểu học vô tư cùng lớp mà bây giờ tôi không c̣n nhớ rơ tên, mỗi ngày sau giờ tan học ở Taberd, đều ra đó chia phe đá banh nhựa trên mănh sân cỏ xinh xắn ấy… Mới đây mà đă hơn 30 năm!

Tôi không phải là người Công giáo, nên cũng không biết rành những hiện tượng huyền bí về Đức Mẹ. Nhưng nếu tôi nhớ không lầm, người ta đă từng nói đến những câu chuyện Đức Mẹ hiện ra hoặc tượng Đức Mẹ chảy nước mắt xảy ra từ trước tại Mỹ, Pháp, Ư, Bồ Đào Nha, Rwanda, v.v… và cả Việt Nam nữa phải không bạn ?

Riêng về sự kiện tuần rồi tại Saigon, không biết trắng đen ra sao, và có lẽ sẽ không bao giờ ḿnh biết rơ sự thật như thế nào. Có thể v́ tượng Đức Mẹ Ḥa B́nh đă được đặt ở ngoài trời gần 50 năm nay, trải qua biết bao gió sương, mưa nắng, nên có những vệt bụi bặm, và ngẫu nhiên tạo nên những vết nước ở chỗ khóe mắt chảy dài xuống, khiến nhiều người chúng ta ngộ nhận. Hay là có người nào đó đă cố t́nh âm thầm xếp đặt, dàn dựng ra sự kiện này chỉ để tạo ra một “x́ căng đan” hoặc với những mục đích nào đó mà ḿnh không biết.

Mà cũng có thể đây chính là một hiện tượng huyền bí vượt ra ngoài những lời giải thích b́nh thường. Đức Mẹ thật sự đă nhỏ lệ ngay giữa thành phố Saigon vào những ngày cuối của tháng Mân Côi vừa qua.

Nếu đúng như vậy, th́ cũng không có ǵ là lạ ! Được khởi công xây đắp từ những ngày cuối năm 1958 và được Đức Hồng Y Agagiania làm phép lành vào tháng 2 năm 1959, bức tượng Đức Mẹ Ḥa B́nh đă đứng giữa ḷng thành phố Saigon, cùng với những người con dân Việt Nam chứng kiến biết bao đổi thay, thăng trầm của lịch sử, chứng kiến biết bao nhiêu những nỗi bất hạnh của đất nước ḿnh, nên ngày nay đă không c̣n cầm được nữa những giọt lệ xót thương.

Nào là những năm tháng biến động của thời Đệ Nhất Cộng Ḥa đưa đến cái chết của cố Tổng Thống Diệm, sự sụp đổ của chế độ Đệ Nhất Cộng Ḥa, và những hỗn loạn về chính trị, xă hội và tinh thần sau đó.

Rồi những ngày Tết Mậu Thân 1968, khi những người cộng sản Việt Nam, sau những tổn thất nặng nề qua những trận đánh lớn, lợi dụng thời gian hưu chiến vào dịp Tết, phát động những cuộc tấn công lén lút và pháo kích vào hầu hết các thành phố lớn, tạo nên biết bao nhiêu cảnh nhà tan cửa nát cho người dân vô tội, mà điển h́nh nhất có lẽ là nỗi oan khiên của trên dưới năm ngàn người bị thảm sát tại Huế.

Sau đó, vào năm 1972, khi đoàn quân Cộng Sản bắn xả vào những người thường dân, đàn bà, người già và trẻ thơ đang di tản lánh nạn bom đạn trên đoạn đường số 1 từ Mỹ Chánh ra Quảng Trị vào những ngày của “Mùa Hè đỏ lửa”. Kể từ đó, cụm từ “Đại Lộ Kinh Hoàng” trở thành quen thuộc, bi thương với người dân Việt chúng ta.

Và rồi những ngày chiến sự nóng bỏng trong tháng tư đen. 30 tháng tư 1975, Saigon thất thủ. Cuộc chiến tranh súng đạn kết thúc, nhưng cả nước lại rơi vào tay những người Cộng Sản. Toàn dân Việt Nam bắt đầu bước vào một cuộc sống thiếu vắng những giá trị lớn nhất của con người: tự do và dân chủ.

Những nhà tù “cải tạo” được dựng lên khắp nơi để trả thù những người trong chế độ cũ. Chắc bạn cũng c̣n nhớ như tôi, lúc đó trong Saigon ḿnh, có được mấy gia đ́nh không có một người thân phải đi “học tập” ?

Lại c̣n những lần cướp tài sản trắng trợn của dân chúng qua những cuộc đổi tiền. “Đánh tư bản” ra sao lúc đó không rơ, tôi chỉ nhớ cả khu phố nhà hai đứa ḿnh đă nghèo sẵn, lại càng nghèo thêm nữa. Đó là chưa nói tới xiết hộ khẩu, tổ dân phố, công an khu vực, bán gạo theo khẩu phần, đẩy dân đi kinh tế mới, con cháu ba đời liên hệ với “Ngụy” bị xua đuổi ra khỏi trường. Đúng là những người cộng sản khi tràn vào miền Nam đă dùng đủ phương thức để đánh cho kiệt quệ tiềm lực người dân.

Ai ai cũng nh́n nhau ngờ vực, nhà nhà soi mói lẫn nhau. Bản đồ địa lư của đất nước th́ thống nhất, nhưng ḷng dân ly tán. Cả nước trở thành một nhà tù khổng lồ. Chỉ có những người cầm quyền được sống trong ấm no, sung sướng.

Cũng từ đó, lịch sử thuyền nhân đă bắt đầu. Biết bao người, trong đó có tôi, thà liều thân ngoài biển cả, để t́m một con đường sống mong manh. Không biết được chính xác bao nhiêu người đă không may mắn đến được bến bờ tự do.

Sự cởi mở về kinh tế từ năm 1986 do ông Nguyễn Văn Linh chủ xướng cũng chính là để cứu văn sự sụp đổ khó tránh của Đảng và Nhà Nước. Hành động phá nước hại dân của ông Lê Khả Phiêu và những người trong Đảng đă lén lút kư nhượng một phần lănh thổ trên bộ và hải phận của nước ḿnh cho Trung Cộng bị khám phá cách đây không lâu chính là món quà dâng lên Đảng Cộng Sản Trung Quốc để đổi lại sự ủng hộ, ngơ hầu có thể duy tŕ và củng cố quyền lực của họ.

Như bạn đă từng nói với tôi, xă hội Việt Nam ngày nay hầu như hoàn toàn băng hoại về đạo đức, tham nhũng trở thành một quốc nạn, giáo dục gian trá, xă hội bất công, chính trị độc tài, kinh tế tụt hậu, tự do báo chí không có, tự do tín ngưỡng bị ngăn cấm. Tất cả đều do nền chính trị độc tài, bản chất lừa dối của nhà cầm quyền và Đảng ở trên luật pháp là nguyên nhân tạo nên. Cũng chính v́ vậy, bao lâu nay, các nhà lănh đạo tôn giáo chân chính của Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Ḥa Hảo trong nước đều đă phải lên tiếng đấu tranh binh vực cho tự do, nhân bản, chân lư và công b́nh.

Sau 30 năm cai trị của Đảng, ngoại trừ một số nhỏ được thụ hưởng, hơn 80 triệu người Việt Nam đều nhận rơ bản chất của những người cầm quyền vẫn là đặt quyền lợi của họ, của Đảng, của nhóm lănh đạo lên trên quyền lợi của người dân, của đất nước.

Bạn,

Những ǵ tôi nói năy giờ chỉ là những mảnh nhỏ trong nỗi bất hạnh lớn của đất nước Việt Nam ḿnh, nhưng có lẽ cũng đủ để tượng Đức Mẹ Ḥa B́nh không ngăn được những gịng nước mắt đă cố nén lại từ ngày thành phố Saigon bị đổi tên phải không bạn ?

Và bạn với tôi, chúng ta đều mong rằng những nỗi bất hạnh sẽ không c̣n đến với quê hương ḿnh để từ nay tượng Đức Mẹ trước Nhà Thờ Đức Bà sẽ không bao giờ phải rơi lệ nữa !


Đổi mới và Bảo thủ trong Đảng Cộng sản Việt Nam


Đổi mới – Bảo thủ là ư niệm mà phương Tây và Hoa Kỳ chỉ thái độ chánh trị của cá nhân hay nhóm người trong Đảng CSVN trước t́nh trạng Liên Xô sụp đổ vào thập niên cuối của thế kỷ XX vừa qua. Đổi mới – Bảo thủ cũng nhằm chỉ hai khuynh hướng chánh trị: Cấp tiến (tiến bộ) – Thủ cựu (lạc hậu) trong sanh hoạt chánh trị của các nước thuộc chế độ cộng sản.

Người Việt ở hải ngoại tùy theo sự hiểu biết và nhận thức chánh trị mà gán cho Đổi mới – Bảo thủ một định nghĩa theo chủ quan để thỏa măn cảm tính chánh trị của ḿnh, hay ư đồ chánh trị của phe nhóm. Gần đây, những vận động nội bộ trong Đảng giữa Đổi mới - Bảo thủ khiến nổi lên những khiếu tố, tranh luận công khai trên báo Đảng, qua “thông tin đen, truyền thông xám”… tạo ra nhiều vấn đề thời sự chánh trị đầy tánh “biểu kiến”.

1. Đổi mới từ lư luận đến thực tiễn tại Việt Nam

Khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, kéo theo sự tan ră, quay lưng từ giă quá khứ của các nước Đông Âu, kể cả Đông Đức, th́ nhiều người Việt và những tổ chức chống cộng ở hải ngoại đoán già đoán non rằng Đảng CSVN sụp đổ tới nơi rồi. Rồi sự thể không xảy ra như vậy. Tại sao?

Bởi lẽ, Đảng CSVN ra đời từ nhu cầu của lịch sử Việt Nam, hợp với trào lưu giải thực của thế giới (và cũng là sách lược của phong trào cộng sản thế giới thời ấy). Người Mỹ không học thuộc câu “tri hành hợp nhứt”, biết thực dân là xấu nhưng vẫn tiếp tay Pháp trong những năm cuối cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam; rồi bèn “điền vào chỗ trống” không hợp lư chút nào (thay chân Pháp ở miền Nam), nên phải “rút lui trong danh dự” năm 1975. Trong cách nh́n của Đảng CSVN và người dân b́nh thường th́ cuộc chiến 1954-1975 ở miền Nam chỉ là tiếp nối cuộc kháng chiến dang dở mà thôi. Nh́n như vậy, Đảng CSVN là Đảng Cách mạng, gắn liền với công cuộc kháng chiến và thống nhứt đất nước (dầu nhiều người không đồng ư), trong khi Đảng Cộng sản ở các nước Liên Xô cũ chỉ là những đảng bị áp đặt hay xa hơn là “tay sai” của Liên Xô. V́ vậy, nói Đảng CSVN ra đời là do nhu cầu lịch sử và giờ đây đổi mới cũng do đ̣i hỏi của thời cuộc.

Trở lại thời kỳ chuẩn bị Đại hội VIII mới thấy được ư nghĩa của Đổi mới trong Đảng CSVN. Bấy giờ vào tháng 6 năm 1995, Bộ Chánh trị bị phân hóa, chưa có kết luận về một số vấn đề mang tánh “lư luận Đổi mới”. Bởi lẽ từ 1986, sự thành công “tự phát” trong nông nghiệp ở miền Nam đưa đến đổi mới kinh tế. Nhưng đó mới chỉ là thực tiễn, chưa mang tánh lư luận. Thực tiễn Đổi mới đó phải được trang bị bằng lư luận, bằng nghị quyết, bằng chủ trương, đường lối… (cách của những người cộng sản).

Đến tháng 9 năm 1995, ông Vơ Văn Kiệt bấy giờ là Thủ tướng (theo dư luận Hà Nội th́ “Kiệt” mà không “kiệt”), mạnh dạn, đảm lược, đưa ra một bức thư gởi Bộ Chánh trị, nội dung vừa mang tánh lư luận vừa lấy thực tiễn biện minh cho công cuộc Đổi mới. Và do vậy Đại hội VIII là đại hội mang nhiều dấu ấn của Vơ Văn Kiệt, là đại hội Đổi mới.

Bức thư này nói ǵ?

Trước hết đánh giá t́nh h́nh thế giới: “Trong thế giới ngày nay không phải mâu thuẫn đối kháng giữa chủ nghĩa xă hội và chủ nghĩa đế quốc, mà trước hết là tính đa dạng đa cực trở thành nhân tố nổi trội nhất, chi phối những mâu thuẫn…” Và từ đó quan hệ Việt Nam & Trung Quốc “có tánh cách quốc gia lấn át tánh chất XHCN”, trong đó c̣n tồn tại “không ít những điểm nóng”.

Bức thư nêu lên mấy nội dung chánh của Đổi mới như sau:

* Dân giàu nước mạnh, xă hội công bằng văn minh (sau này thêm từ dân chủ)

* Phát triển gắn liền với giữ ǵn độc lập, chủ quyền và bản sắc văn hóa dân tộc

* Xây dựng được nhà nước của dân, do dân và v́ dân có hiệu lực (phần này ít được nhắc lại)

* Đảng CSVN lănh đạo toàn diện (phần này được người bảo thủ đưa lên hàng đầu)

Tài liệu cũng nhận rằng Đảng nay là đảng cầm quyền (không c̣n là đảng Cách mạng) nên phải nêu cao “ngọn cờ dân tộc và dân chủ”, như vậy Đảng “bao gồm cả toàn thể cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đang hướng về Tổ Quốc”. (Điều này đến nay mới được nói đến như là một chủ trương lớn).

Trên cơ sở đó, đại hội VIII và IX, tùy lúc, tùy người mà diễn dịch Đổi mới, khi nghiêng về Bảo thủ, khi nghiêng về Đổi mới. Nh́n chung dư luận phương Tây và Hoa Kỳ cũng như các tổ chức quốc tế đều xác nhận Việt Nam có tiến bộ về nhiều mặt, từ khi Đổi mới.

2. Bước vào Đại hội X, thử t́m hiểu thế - lực của Đổi mới và Bảo thủ trong Đảng

Trước tiên là phải nh́n vào quyền hạn của các thành viên trong Bộ Chánh trị khóa IX:

Nông Đức Mạnh: sanh 11.9.1940, quê quán Bắc Cạn, dân tộc Tày, vào Đảng 5.7.1963, hiện là Tổng Bí thư, đứng đầu Bộ Chánh trị, xuất thân trường Trung cấp Nông lâm Hà Nội rồi Học viện Lâm nghiệp Liên Xô. Lập trường: trung dung, hy vọng ngồi lại chức Tổng Bí thư.

Trần Đức Lương: sanh ngày 5.5.1937, quê quán Quảng Ngăi, vào Đảng 29.12.1959, xếp thứ 2 trong Bộ Chánh trị, hiện là Chủ tịch nước. Xuất thân học sinh miền Nam tập kết ra Bắc, làm nhân viên kỹ thuật đội t́m kiếm địa chất, rồi đi học Liên Xô về quản lư kinh tế quốc dân. Trong chánh trị may mắn nhiều hơn là khả năng. Lập trường: trung dung, nghiêng về Đổi mới trong kỳ đại hội IX.

Phan Văn Khải: sanh 25.12.1933, quê quán Củ Chi, Sài G̣n, vào Đảng 15.7.1959, xếp thứ 3, hiện là Thủ tướng. Xuất thân cử nhân kinh tế tại Liên Xô. Lập trường: Đổi mới, thực dụng, thân phương Tây nhưng không phải là người cách mạng.

Nguyễn Minh Triết: sanh 8.10.1942, quê B́nh Dương, xếp thứ 4, hiện là Bí thư TP HCM. Xuất thân cử nhân toán, nguyên Bí thư B́nh Dương, thành công trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, làm điển h́nh cho cả nước. Trước đây có dư luận cho ông là ứng viên thủ tướng nhưng nay ít được nhắc lại, do sức khỏe kém. Lập trường: đổi mới (triệt để), tiêu biểu cho các tỉnh phía Nam.

Nguyễn Tấn Dũng: sanh 17.11.1949, quê quán Cà Mau, vào Đảng 1967. Xuất thân cử nhân luật, xếp thứ 5, hiện là Phó Thủ tướng Thường trực, được phân công: trực tiếp phụ trách công nghiệp, bưu chánh, nông lâm thủy sản, kinh tế hợp tác, tiêu thụ sản phẩm, xây dựng cơ bản, đổi mới doanh nghiệp quốc doanh, thanh tra xét khiếu tố, và các lănh vực quốc pḥng an ninh; theo dơi chỉ đạo các bộ Xây dựng, Công nghiệp, Bưu chánh, Giao thông, Nông nghiệp, Thủy sản, Tài nguyên, Quốc pḥng, Công an, Cơ quan Thanh tra Nhà nước và Văn pḥng Chánh phủ. Lập trường: đổi mới (triệt để), cung cách dễ dăi, không ưa lư luận. Được dư luận phương Tây, Hoa Kỳ đánh giá cao, và là ứng viên Thủ tướng số 1.

Lê Minh Hương (đă qua đời)

Nguyễn Phú Trọng: sanh ngày 14.4.1944, quê quán Hà Nội, vào Đảng năm 1967, xếp thứ 7 trong Bộ Chánh trị. Tŕnh độ Phó Tiến sĩ ở Liên Xô. Hiện giữ chức Chủ tịch Hội đồng Lư luận Trung ương, nhưng chuyên “nói theo” Trung Quốc. Lập trường: Bảo thủ.

Phan Diễn: sanh năm 1937, quê quán Quảng Nam, vào Đảng năm 1962, xếp thứ 8, hiện là Thường trực Ban Bí thư Trung ương. Xuất thân cán bộ văn pḥng, đầu óc thư lại. Trong điều hành việc Bộ Chánh trị tỏ ra “lấn lướt” TBT Nông Đức Mạnh nên bị sa lầy thảm bại trong vụ khiếu tố của tướng Vơ Nguyên Giáp. Lập trường: Bảo thủ (dư luận cho rằng thân thiện với Bắc Kinh).

Lê Hồng Anh: sanh 12.11.1949, quê quán Kiên Giang, vào Đảng tháng 3.1968, xếp thứ 9, hiện là Bộ trưởng Bộ Công an, hàm Đại tướng, nhiều quyền lực. Xuất thân cán bộ Đoàn cơ sở, ngoại h́nh đẹp, dễ gây thiện cảm với người xung quanh. Hiện nay thay Phan Diễn trong nhiệm vụ giải quyết khiếu tố của tướng Vơ Nguyên Giáp. Lập trường: Đổi mới.

Trương Tấn Sang: sanh 21.01.1949, quê quán Đức Ḥa, Long An, vào Đảng 20.12.1969, xếp thứ 10, hiện là Trưởng ban Kinh tế Trung ương Đảng. Xuất thân từ phong trào Thanh niên T́nh nguyện, rồi Bí thư Thành đoàn, Bí thư Thành ủy Sài G̣n. Hiện nay chỉ đạo trực tiếp các tỉnh chuẩn bị vào WTO. Lập trường: Đổi mới không quyết liệt (?)

Phạm Văn Trà: sanh năm 1935, quê quán Bắc Ninh, vào Đảng 25.5.1956, xếp thứ 11, hiện là Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng. Tướng dở trong binh nghiệp, nhưng nhờ trung thành với Lê Đức Anh nên được làm Bộ trưởng Quốc pḥng. Bị tai tiếng trong vụ Tổng cục 2. Lập trường: Bảo thủ, dư luận cho rằng đây là con bài thiệp (?)

Nguyễn Văn An: sanh 1.10.1937, quê quán Nam Định, vào Đảng 14.8.1959, xếp thứ 12, hiện là Chủ tịch Quốc hội. Tánh t́nh cởi mở trong giao tiếp. Lập trường: trung dung, gần với Đổi mới.

Trương Quang Được: sanh 10.2.1940, quê quán Quảng Nam,vào Đảng tháng 5.1965, xếp thứ 13, là Trưởng ban Dân vận Trung ương, Phó Chủ tịch Quốc hội. Không có khả năng đặc biệt. Lập trường: trung dung (ba phải).

Trần Đ́nh Hoan: sanh 20.10.1939, quê quán Hưng Yên, vào Đảng 28.4.1962, xếp thứ 14, Chánh Văn pḥng Trung ương Đảng. Trước bị mất chức Bộ trưởng Lao động Thương binh & Xă hội, nhờ có công hạ Lê Khả Phiêu nên được Lê Đức Anh thưởng chức Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng. Bị nhiều tai tiếng trong việc bố trí nhân sự. Trong quan hệ tỏ ra cởi mở. Lập trường: trung dung (?)

Nguyễn Khoa Điềm: sanh năm 15.4.1943, quê quán Thừa Thiên Huế, vào Đảng 28.3.1966, xếp thứ 15 cuối bảng, hiện là Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, là tay chân của Đỗ Mười, gốc con nhà Nguyễn Khoa, tỏ ra “mệ” với báo chí nên bị ông Vơ Văn Kiệt “sát thủ” và Đại hội kỳ 8 Hội Nhà báo tại Hà Nội vừa qua hạ uy thế thảm hại. Bị dân Huế căm ghét v́ đă cho phá Đàn Nam Giao. Lập trường: Bảo thủ nặng.

3. Hải ngoại nghĩ ǵ? Làm ǵ?

Nh́n vào thành phần Đổi mới – Bảo thủ trong Bộ Chánh trị, ta thấy Đổi mới có 5 ủy viên vẫn c̣n đầy đủ phong độ, sau Phan Văn Khải c̣n có Nguyễn Tấn Dũng thậm chí c̣n Trương Tấn Sang nữa. Bảo thủ có 4 ủy viên. Sau khi Nguyễn Khoa Điềm bị phế vơ công, Phan Diễn dẫn đầu bảng này, nhưng dư luận quan ngại v́ Diễn quá gần với Bắc Kinh. Như vậy Bảo thủ hiện nay đang co cụm lại. Nhóm đứng giữa trung dung có 5 ủy viên trong đó Nông Đức Mạnh đứng đầu bảng, là người mà dư luận cho là có đạo đức. Trung dung hiện nay có chiều hướng ngả về Đổi mới trừ trường hợp Trần Đ́nh Hoan (?)

Những người bảo thủ Việt Nam xưa nay luôn luôn bị dư luận coi là cái bóng nhỏ của Bắc Kinh; giờ đây trong thời buổi kinh tế thị trường đă bị người dân ruồng bỏ v́ giao thương Việt – Hoa càng ngày càng bị nhập siêu (có lợi cho Trung Quốc), trong khi giao thương Việt - Mỹ th́ xuất siêu (có lợi cho Việt Nam). Gần đây Bắc Kinh cố t́nh đưa hàng giả, hàng lậu vào Việt Nam, thậm chí bạc giả nữa. Những vụ lấn chiếm biên giới, bắt giết dân đánh cá, vụ “tai nạn” rớt máy bay ở Vịnh Bắc Bộ... khiến cho bộ mặt của những người Bảo thủ đă xấu nay càng xấu xí thêm. Nên những luận điệu “diễn biến ḥa b́nh”, „thế lực thù địch”, “định hướng xă hội chủ nghĩa”... mà những người bảo thủ thường rêu rao nay trở thành trơ trẽn, lố bịch!

Đời sống người dân càng ngày càng cao hơn th́ Sài G̣n càng khẳng định ḿnh là cái nôi của đổi mới v́ đă đóng góp hơn 1/3 vào ngân sách của nhà nước, thu hút nguồn đầu tư nước ngoài và kiều hối nhiều nhứt nước.

Đó không phải là thành tựu của đổi mới th́ là ǵ?

Những người bảo thủ qua cách này cách khác vu cho người đổi mới là thân phương Tây, thậm chí là làm tay chân cho CIA; nhưng oái oăm thay người dân từ Nam ra Bắc đâu đâu cũng chuộng phương Tây, chuộng Mỹ – (ít nhất là v́ lư do kinh tế).

Người Việt hải ngoại tự hào cho rằng ḿnh là “tập thể chánh trị” nên chỉ lo “làm chánh trị”. Hết chủ trương kháng chiến, lật đổ, chống gởi tiền về Việt Nam, chống về Việt Nam làm ăn..., đến ủng hộ Đảng Cộng ḥa, mong ông Bush đắc cử để giúp họ lật đổ CSVN, hồ hởi thấy Tổng thống Bush đưa quân sang Iraq với mơ ước hăo huyền một ngày nào đó theo Mỹ mà về lấy lại Thăng Long! Nay sự thể đă không chiều ḷng „tập thể chánh trị“ này, nên có người quay ra chống Tổng thống Bush, thậm chí chống cảnh sát Mỹ.

Nói cho cùng, người Việt bỏ nước ra đi sau năm 1975 là do bị bức xúc về tâm lư và t́nh cảm, trước thái độ của một số cán bộ miền Bắc vào cai trị miền Nam, cư xử với người miền Nam như ông “quan thái thú”. Trừ những quan chức VNCH, và những người chủ trương “Bắc tiến”, chủ trương Đài Mẹ Việt Nam (cha Mỹ đưa tiền), c̣n lại đa số người dân miền Nam ra đi v́ lư do họ bị tước đoạt nhiều thứ mà quan trọng nhứt là Danh Dự Con Người. Chủ trương của chánh phủ Việt Nam với người hải ngoại có nhiều thay đổi từ ngày đổi mới, biểu thị một sự sám hối (?) Nay có hàng triệu lượt người đi về thăm lại quê hương, trong đó có nhiều người ở lại và muốn sau khi chết được nằm trong ḷng đất mẹ. Lựa chọn trở về mang ư nghĩa tâm lư - t́nh cảm của người Việt: gắn bó nặng ḷng với tổ tiên hơn là ư nghĩa chánh trị.

Đảng Cộng sản đang “lănh đạo” Việt Nam có nhiều phần làm cho người Việt hải ngoại không thích, không chấp nhận. Điều đó ai cũng thấy. Nhưng đối kháng, chống cộng có nhất thiết phải “loại trừ”, “tiêu diệt”, “ai thắng ai” trong hoàn cảnh hiện nay không? Hay là tới lúc phải chấp nhận, nh́n nhận nhau, như đó là một thực tế chánh trị?

Việt Nam hiện tại với một Đảng Cộng sản duy nhất, nhưng bước đầu có một bên là Bảo thủ và một bên là Đổi mới, là một dấu hiệu tốt mà đến lúc chúng ta phải thừa nhận. Đó chưa phải như Cộng ḥa - Dân chủ ở Hoa Kỳ, nhưng đây là bước đầu của tiến tŕnh dân chủ theo cách Việt Nam. Làm chánh trị (không phải làm cách mạng) là chọn lựa cái thực thể đó, hoặc Đổi mới, hoặc Bảo thủ. Đó cũng là cách chia xẻ quyền lực, v́ bản chất làm chánh trị là quyền lực.

Ngày nay ở Việt Nam cũng như hải ngoại, dưới cái nh́n của người dân b́nh thường th́ Đổi mới hàm ư tốt và Bảo thủ hàm ư xấu. Hải ngoại nghĩ ǵ và làm ǵ sao cho “tri hành hợp nhứt”? Biết mà không làm cũng như không biết đều có tội với quốc dân.

Trần Văn Chi

Los Angeles Hoa Kỳ ngày 23.8.2005

Trích Talawas


Xuất Cảng Dân Chủ


Hà Tam Anh
Maryland, 07.11.2005

Hoa Kỳ đă đưa ra ba nguyên nhân để giải thích cho sự xâm chiếm Iraq: thứ nhất, để t́m và diệt vũ khí có khả năng sát hại tập thể [1] (WMD); thứ nh́, để chấm dứt liên hệ và ủng hộ của chính quyền Saddam Hussein với các phần tử khủng bố; và thứ ba, để xây dựng một chế độ dân chủ, tự do tại Trung Đông.

Sau hai năm Hoa Kỳ rốt cuộc phải công nhận là không t́m được WMD. Nếu có nhiều người nghĩ nguyên nhân thứ nhất bắt đầu từ những sai lầm, thiếu sót của t́nh báo Hoa Kỳ th́ cũng không ít người cho nguyên nhân thứ hai là một luận điệu giả dối v́ cho đến bây giờ chính quyền Hoa Kỳ vẫn chưa chứng minh được sự liên hệ giữa Saddam Hussein và tập đoàn Osama Bin Laden.

C̣n nguyên nhân thứ ba? Hoa Kỳ có xâm chiếm Iraq để “xuất cảng” và áp đặt nền dân chủ của Hoa Kỳ tại Trung Đông hay không? Hoa Kỳ sẽ thành công hay không? Hay đây cũng chỉ là một lư do gượng ép và một hy vọng hăo huyền?

Bài viết này không nhằm trả lời các câu hỏi trên. Nó cũng không có mục tiêu giải thích hoặc biện minh cho chính sách của Hoa Kỳ tại Iraq. Người viết chỉ mong góp một phần suy luận nhỏ cho câu hỏi: “Dân Chủ có cần, có thể, hoặc có nên, được xuất cảng hoặc áp đặt hay không?”

Trong khi nhân quyền được chấp nhận như một giá trị toàn cầu, dân chủ thường không được công nhận như là một h́nh thức chính phủ thích hợp nhất cho mọi người trên thế giới. Dân chủ không phải chỉ có trong lịch sử Tây Âu, nó không xa lạ với Á Châu và Phi Châu. Tại Ấn Độ, Nhật Bản và các nước tại châu Phi, nền dân chủ đă có qua nhiều thế kỹ. Tuy nhiên, văn hóa, tín ngưỡng cổ truyền, và dân trí không nhiều th́ ít đều có ảnh hưởng đến việc thiết lập một nền dân chủ thích hợp cho một quốc gia. Nên chọn nền dân chủ nào? dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp (dân chủ đại diện), dân chủ tham gia? v.v..

Dù bất cứ h́nh thức nào, dân chủ có thể được đâm chồi và phát triển mà không nhất thiết cần có sự tác động trực tiếp từ phía ngoài. Nam Hàn tự chuyển từ chế độ độc tài sang dân chủ mà không cần sự thúc đẩy đáng kể nào của ngoại bang (mặc dù có sự hiện diện của lính Hoa Kỳ trên lănh thổ) Nền dân chủ tại Thái Lan và Indonesia tuy không hoàn hảo nhưng có thể xem là khá vững chải mà không có sự áp đặt của Hoa Kỳ. Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Hy Lạp tuy có hậu thuẩn từ môi trường Âu Châu nhưng nh́n chung th́ các quốc gia này đă tự t́m cho ḿnh một chế độ dân chủ. Tuy Nam Phi chọn chế độ dân chủ dưới sức ép của cộng đồng thương măi và chính sách cấm vận của các quốc gia tự do, nhưng ngược lại, tại Trung và Đông Âu, nhờ vào sự không can thiệp của Nga Sô mà nền dân chủ có thể phát sinh và tồn tại.

Thế th́ cộng đồng quốc tế có nên áp dụng chính sách “đèn nhà ai nấy sáng”, tránh can thiệp vào nội bộ của các quốc gia độc tài, tránh xung đột, mâu thuẫn chăng?

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ đă áp dụng chính sách “ḥa hoăn” [2] để đạt và giữ vững quan hệ bang giao với các nước cộng sản. Thậm chí chính sách này c̣n được đa số chính trị gia Hoa Kỳ ưa chuộng, xem như là thượng sách. Cổ động mạnh nhất cho chính sách này là Henry Kissinger, một người theo thuyết “thực tiễn” [3] từ thời Nixon. Việc đầu tiên của các “thực tiễn gia” là tách rời chánh sách bảo vệ quyền lợi quốc gia ra khỏi phạm trù đạo lư. V́ vậy, Kissinger đă không ngần ngại phản bội đồng minh Việt Nam sau khi bắt tay được với kẻ thù Trung Quốc. Để bảo đảm cho quyền lợi quốc gia, Hoa Kỳ sẵn sàng gầy dựng và ủng hộ các chính phủ độc tài. Điển h́nh là Hoa Kỳ đă từng ủng hộ chính quyền của Augusto Pinochet, Omar Khadafi, Ferdinand Marcos. Ngay chính Saddam Hussein cũng do Hoa Kỳ dựng lên.

Chính sách “ḥa hoăn” này đă và đang được áp dụng trong suốt hơn 20 năm qua. Triết lư “độc tài cũng được, miễn sao chúng theo ta và làm lợi cho ta” xem ra khá hữu hiệu. Cách sắp xếp này xem ra khá êm đẹp, ít nhất là cho đến ngày 11 tháng 9 năm 2001!

Trong số 19 tên khủng bố, 15 tên có quốc tịch A Rập. Nhiều thành viên Al-Qaeda và chính Osama Bin Laden là người Á Rập. Tuy vậy, giả thuyết cho rằng Hoa Kỳ đă nhắm mắt làm ngơ cho các chế độ độc tài tại A Rập, Pakistan, Afghanistan, tạo môi trường sinh sản và nuôi dưỡng quân khủng bố vẫn chưa được chấp nhận rộng răi – ít nhất là tại nước Mỹ. V́ vậy, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ vẫn đầy dẫy những mâu thuẩn. Tuy tổng thống Bush viện dẫn lư do xây dựng nền dân chủ tại Trung Đông là một mục đích xâm chiếm Iraq, bộ ngoại giao Hoa Kỳ thường tránh trừng phạt A Rập mặc dù đă liệt kê nước này vào danh sách các quốc gia cần quan tâm v́ vi phạm tự do tôn giáo. Trong lúc tổng thống Bush tuyên bố: “xây dựng một Iraq tự do là một cơ hội lịch sử để thay đổi thế giới” [4] th́ tờ New York Times xem việc xây dựng một chế độ dân chủ tại Iraq là một “mơ ước trẻ con”. Một thượng nghị sĩ tại Kansas c̣n nói: “Tự do không thể được đặt xuống như trải thảm được.” [5]

Thật ra, Hoa Kỳ không cần phải xuất cảng dân chủ. Hoa Kỳ càng không cần phải áp đặt dân chủ bằng máy bay, xe tăng hay súng đạn. Hoa Kỳ chỉ cần ủng hộ cho tự do và tạo điều kiện cho nền dân chủ được tự phát triển. Nói một cách khác, Hoa Kỳ chỉ cần bảo vệ, giúp đở các chiến sĩ tranh đấu cho tự do, nhân quyền trên khắp thế giới để chính những người ấy tự xây dựng cho dân của họ một nền dân chủ thích hợp.

Đa số dân chúng Mỹ định nghĩa dân chủ với tự do bầu cử. Nhưng trên thực tế, bầu cử tự do phải là mục đích cuối cùng thay v́ là bước đầu tiên của công cuộc xây dựng một nền dân chủ. Hấp tấp đ̣i hỏi tự do bầu cử tại các quốc gia quen sống dưới chế độ độc tài chẳng khác ǵ muốn đặt một cái nóc nặng nề trên một cái sườn nhà lỏng lẻo. Để có một nền nhà vững chắc, ngoài vấn đề phát triển kinh tế, Việt Nam cần một hệ thống lập pháp, hành pháp rơ ràng, bảo đảm cho người dân quyền tự do thông tin và phát biểu. Xă hội dân chủ phải được xây dựng bằng cách thay thế sự sợ hăi bằng không khí tự do, nơi mà các quyền tự do căn bản của người dân được bảo vệ. Trong mọi hoàn cảnh, khi con người có được sự lựa chọn, lúc nào họ cũng chọn tự do thay cho chuyên chế, dân chủ thay cho độc tài, pháp quyền thay cho pháp trị.

Trước đe dọa của khủng bố, các quốc gia tự do đều nhận thấy rằng sự khác biệt giữa thế giới tự do và thế giới sợ hăi quan trọng nhiều hơn là sự khác biệt của các chính sách ngoại giao của các quốc gia. V́ vậy, mặt trận đối lập giữa tư bản và cộng sản đang được thay thế bằng mặt trận đối lập giữa dân chủ và độc tài. Thay v́ trực tiếp áp đặt nền dân chủ, Hoa Kỳ và các chính phủ tự do trên thế giới phải ràng buộc chính sách ngoại giao của quốc gia họ với tiến tŕnh dân chủ của các nước độc tài. Các yếu tố phát triển dân chủ (quyền tự do ngôn luận, báo chí, quyền tự do xuất ngoại, quyền tự do lập hội, v.v..) cần phải được gắn liền với quyền lợi mà các quốc gia độc tài muốn hưởng.

Bài học Helsinki cho thấy rằng khi sự đ̣i hỏi tôn trọng nhân quyền được hổ trợ bằng các chính sách hữu hiệu, tự do và ḥa b́nh sẽ được phát triển. Sô Viết đă phải lựa chọn một là tôn trọng nhân quyền, hai là mất cơ hội và quyền lợi làm ăn với thế giới tự do. V́ vậy, các thỏa thuận tại Helsinki, tuy lúc đầu bị xem là những lời hứa xuông, lại trở thành những quyết định tối quan trọng trong chiến tranh lạnh. [6]

Chính quyền Hoa Kỳ biết rằng họ không thể chờ đợi các chính quyền độc tài tự nguyện từ bỏ quyền lực cai trị. Tuy không thể dựa vào sự đồng t́nh của mọi quốc gia trên thế giới, Hoa Kỳ cũng không nên dùng bạo lực để áp đặt nền dân chủ của ḿnh . Ngược lại, để chứng minh rằng cuộc chiến Iraq không bắt nguồn từ quyền lợi vị kỷ của quốc gia, Hoa Kỳ cần có một chính sách ủng hộ dân chủ và nhân quyền toàn cầu trước sau như một.

[1] Weapon of mass destruction
[2] détente
[3] realist
[4] “An historic opportunity to change the world.” – Primetime Press Conference, 13 tháng 4 2004
[5] The Case for Democracy – The Power of Freedom to Overcome Tyranny and Terror - Natan
[6] “An historic opportunity to change the world.” – Primetime Press Conference, 13 tháng 4 2004


Thưa các bạn, nhằm t́m một hướng đi để thoát khỏi những bế tắc và sự băng hoại của hệ tư tưởng và xă hội Cộng sản Việt Nam ngày nay, chúng tôi đă cố công sưu tầm những tài liệu về  lư thuyết chính trị do những người con ưu tú của dân tộc đúc kết. Chúng tôi sẽ lần lượt gởi đến qúi vị các tài liệu về các học thuyết chính trị qúi báu đó.

Trong số này chúng tôi gởi đến các bạn một phần chương 2 của quyển nhứt của "Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn", tác giả Hùng Nguyên đă viết ra ở tuổi 30 của những thập niên 50. Sách dày 755 trang đă được ấn bản lần đầu tiên năm 1964 tại Sàig̣n.

Bằng kiến thức uyên bác, thâm hiểu Đông Tây kim cổ; với lối phân tích, quy nạp, luận cứ khoa học; dựa trên thực chứng của các xă hội đương hữu; với cái nh́n xuyên suốt lịch sử Việt và lịch sử thế giới, tác giả đă tóm thâu lại và tập đại thành một hệ tư tưởng cho dân Việt. Ông đă viễn kiến vạch ra cái nguy hại, hiểm họa, không tưởng của chủ nghĩa Cộng sản cách đây trên 50 năm mà giờ đây vẫn c̣n đang hiện tiền trong vận rủi đầy họa hại kéo dài triền miên cho dân tộc!

Qua các phần tŕnh bày của tác giả, cho thấy những người con ưu tú của dân tộc lúc nào cũng canh cánh hoài bảo hay nung nấu tinh thần quật khởi đưa đến một tương lai sáng lạn cho đất nước. Họ hiện diện âm thầm hay công khai bằng đủ mọi phương tiện, trong mọi cơ hội, trong mọi trạng huống ảnh hưởng hành tŕnh, lèo lái con thuyền dân tộc đi vào chính đạo nhân bản, dân tộc, mức tiến bộ văn minh của thế giới. Họ hy sinh tận tụy, yêu quê hương nồng nàn, những mong dẫn dắt đất nước đi đúng nẻo đường sanh tồn, hướng thượng, phát triển, thái b́nh an lạc.

Trân trọng,
Bản Tin Thanh Niên Dân Chủ

 

 LƯ THUYẾT DÂN CHỦ


I- NHỮNG MẦM MỐNG CỦA TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ TRONG XĂ-HỘI CỔ THỜI.

Trong xă hội cổ thời, tư tưởng chánh trị đặt nền tảng trên lư thuyết thần quyền. Theo lư thuyết này, vơ trụ do Thượng Đế là một đứng toàn thiện, toàn năng tạo nên. Người do Thượng Đế sanh ra, lại được Thượng Đế ban cho một linh hồn tinh túy nên đứng đầu vạn vật. Nhưng được hưởng đặc ân, tất phải có nhiệm vụ. Muốn xứng đáng với địa vị tôn quí của ḿnh, người phải luôn luôn sống theo lề luật Thượng Đế.

Lề luật này khác nhau vô cùng theo các dân tộc, nhưng ḷng tin tưởng của họ có một điểm chung là những kẻ không chịu khép ḿnh vào những quy tắc mà Thượng Đế nêu ra cho người không sao tránh khỏi sự trừng phạt. Mà trong sự trừng phạt, Thượng Đế không phải chỉ nhắm vào kẻ phạm tội mà thôi. Nhiều khi, cả xă hội trong đó kẻ phạm tội sống cũng phải chịu vạ lây. Với một quan niệm như thế, người cổ thời tất nhiên có một thái độ khắc nghiệt, cố chấp không những đối với những vấn đề công cộng mà c̣n đối với những hành động hoàn toàn cá nhơn nữa.

Một mặt khác, những người cầm quyền thường được cho là những kẻ đại diện Thượng Đế ở trần gian. Đối với người, Thượng Đế có oai quyền tuyệt đối như thế nào th́ những kẻ đại diện Ngài để thi hành mạng lịnh Ngài cũng phải có oai quyền tuyệt đối như thế ấy đối với dân chúng.

V́ những lư lẽ trên này, xă hội cổ thời thường có tánh cách chuyên chế. Nếu các phần tử khác nhau trong quốc gia có hưởng được một phần tự do nào th́ đó chỉ là v́ nhà cầm quyền bên trên không đủ phương tiện chế ngự họ như ư muốn mà thôi. Bởi đó, xă hội ngày trước có xu hướng tiến về h́nh thể độc tài.

Những chế độ quân chủ tuyển cử mà người Trung Hoa gọi một cách văn vẻ là chế độ truyền hiền lần lần biến thành những chế độ quân chủ truyền tử, những chế độ phong kiến th́ trở nên chế độ quân chủ tập trung. Có nhiều nước khi mới được thành lập th́ theo chế độ cộng ḥa mà về sau lại hóa ra đế quốc.

Do đó, chế độ chánh trị thạnh hành nhứt trong xă hội cổ thời là chế độ quân chủ chuyên chánh. Trong chế độ này, tất cả quyền chánh trong một nước đều nằm trong tay một nhà vua - quốc vương hay hoàng đế - vâng mạng Trời mà cai trị dân. Nhà vua đă nhận được thiên mạng rồi th́ trọn quyền điều khiển việc nước theo ư ḿnh. Oai quyền của vua có thể bảo là vô hạn vậy.

Nhưng muốn nắm giữ được quyền chánh, nhà vua phải có lực lượng trong tay. Lực lượng này do đâu mà ra? Trước hết, nó dựa vào những bộ hạ của nhà vua, tức là đám quan lại và quân sĩ trung thành với cá nhơn, với ḍng họ nhà vua.

Tuy thế, thiếu sự ủng hộ của dân chúng, không chánh quyền nào có thể đứng vững được lâu dài, nhứt là khi có sự xâm lược từ ngoài đưa đến. Ngay bên trong nước, nếu dân chúng cùng đứng lên chống lại nhà vua, nhà vua củng khó ḷng đàn áp. Vua Kiệt nhà Hạ cho rằng ḿnh là mặt trời cần cho sự sống của muôn dân. Nhưng ông bạo ngược quá, khiến cho dân hết sức cơ cực. Họ thán oán, hát lên rằng: ‘’Mặt trời kia, bao giờ th́ mày tắt, để chúng tao cùng chết với mày?’' Dân đă thù hằn đến mực đó th́ không c̣n oai lực nào trên thế giới có thể giữ được ngai vàng cho nhà vua nữa.

Bởi đó, các chánh khách sáng suốt đời xưa đều nhận rằng sự ủng hộ của dân chúng rất cần. Và muốn cho chánh quyền ḿnh vững chắc, nhà vua phải thỏa măn dân chúng một phần nào, hay ít nhứt cũng không xử tệ ngược với họ đến nỗi họ bất b́nh mà chống chọi lại ḿnh. Ngoài sự khôn ngoan chánh trị trên này, lại c̣n một xu hướng đạo đức thêm vào khiến cho các chánh khách nêu ra nhiều ư tưởng binh vực dân chúng và chủ trương bảo vệ quyền lợi những kẻ bị bạc đăi, xem mọi người như nhau.

Người Do thái ngày xưa rất tin tưởng nơi sức mạnh của dư luận, và cho rằng dư luận có thể ảnh hưởng đến nền quân chủ. Những tư tưởng gia của họ không ngần ngại mà công kích những nhà cầm quyền. Các nhà tiên tri của họ thường nhiệt liệt bài xích các hành vi bạo ngược của vua họ.
Ở đô thị Nhă điển (Athènes) thuộc đất Hy lạp, ban đầu quyền chánh trị nằm trọn trong tay những nhà quí tộc. Đến thế kỷ thứ 7 trước công nguyên, hai bên quí tộc và thường dân xung đột lẫn nhau, ông Solon phải cải lương chế độ chánh trị, cho phép những người dân có tiền của tham dự việc công. Chế độ này lần lần mở rộng ra cho tất cả dân đô thị, khi Thượng và Hạ Nghị Viện được chánh thức thiết lập. Đến thế kỷ thứ 5 trước công nguyên th́ chế độ dân chủ Nhă điển đă phát triển đến mực cao nhứt của nó.

Đô thị La mă trước kia cũng phải trải qua những cuộc xung đột nhau giữa quí tộc và thường dân. Đầu thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, thường dân được quyền giữ mọi chức vụ trong nước y như quí tộc. Điều này đưa La mă đến một thể chế cộng ḥa trong đó, theo một câu ngạn ngữ, tiếng dân được xem là tiếng của Trời.
Người Trung Hoa vốn đă có tư tưởng dân bản từ lâu. Đời thượng cổ đă phát sanh thuyết cho rằng nhà vua cai trị dân là do mạng Trời, song nếu nhà vua làm quấy th́ mạng Trời ấy có thể mất đi được. Thêm nữa, Nho giáo dạy rằng Trời với người đồng một thể cho nên hễ dân muốn thế nào th́ Trời cũng muốn thế ấy. Thiên Thái thệ trong Kinh Thư có chép rằng: ‘’ Trời thương dân, dân muốn điều ǵ, Trời cũng theo’’ (Thiên căng vu dân, dân chi sở dục, thiên tất tùng chi), lại chép: ‘’Trời trông thấy do dân ta trông thấy, Trời nghe thấy do dân ta nghe thấy’’ (Thiên thị tự ngă dân thị, thiên thính tự ngă dân thính).

Nhưng có lẽ đến đời Chiến quốc, tư tưởng dân chủ Trung Hoa mới năy nở một cách mạnh mẽ. Thầy Mạnh tử đă táo bạo nêu ra nguyên tắc: ‘’Dân là quí, xă tắc kế đó, vua là khinh’’ (Dân vi quí xă tắc thứ chi, quân vi khinh). Và gạt bỏ chủ trương tôn Châu của Khổng tử, thầy dạy rằng trong thiên hạ, ai có đức th́ có thể nhận thiên mạng mà làm vua; trái lại, nhà vua hôn bạo th́ mất mạng Trời, ai cũng có quyền chống lại. Quan niệm cho rằng vua Vơ nhà Châu giết một tên thất phu tên là Trụ chớ không phải giết vua Trụ đă bày tỏ một cách rơ ràng chánh sách tôn trọng dân ư của thầy.

Những xă hội Âu châu đời Trung cổ cũng có nhiều chế độ bảo vệ sự tự do của dân chúng một phần nào. Các pháp viện, các Nghị hội, các Quốc dân đại hội, các đặc quyền mà một số đô thị được hưởng là những thành lũy của tư tưởng dân chủ trong những xă hội chuyên chế. Về phương diện tôn giáo, Giêsu đă dạy rằng mọi người đều là con Thượng Đế và được xem bằng nhau trước mặt Thượng Đế.

Ở nước Việt Nam ta, trước kia tư tưởng dân chủ được biểu thị trong chế độ tuyển cử những vị hương chức lập nên ban hội tề. Câu tục ngữ: ‘’Phép vua thua lệ làng’’ lại chỉ tỏ rằng xă thôn có một quyền tự trị rất lớn đối với chánh quyền trung ương.

Những gương trên này cho phép chúng ta quả quyết rằng trong những xă hội chuyên chế cổ thời, đă có những mầm mống của tư tưởng dân chủ. Tuy vậy, những tư tưởng dân chủ trên đây thường có tính cách đạo đức hơn là có tánh cách luật pháp. Một số những tư tưởng tốt đẹp này đă được dùng để giáo hóa những nhà vua, những ông hoàng, những người có địa vị tôn quí trong xă hội. Nếu họ biết nghe theo và thi hành được những nguyên tắc đó th́ dân chúng được sung sướng. Trái lại, gặp những nhà vua, những ông hoàng hôn ám, không biết sống một cuộc đời đạo lư - trường hợp này lại thường xảy ra hơn - th́ dân chúng phải chịu khổ sở lầm than. Những chế độ đặt ra để hạn chế quyền tuyệt đối của nhà vua thường không đủ hiệu lực để binh vực dân chúng và cứ luôn luôn hao ṃn khi quyền chánh nhà vua lớn lên.

Thêm nữa, những ư niệm về dân chủ, về b́nh đẳng, về tự do của người xưa không phải giống những ư niệm tương ứng của chúng ta hiện giờ. Ngay đến những xă hội gọi là cộng ḥa ngày trước cũng không đạt được lư tưởng b́nh đẳng và tự do mà chúng ta nói đến ngày nay. Trong những xă hội cộng ḥa ấy, có một số rất đông nô lệ bị xem như là súc vật và cố nhiên chẳng có chút quyền ǵ. Đàn bà thời ấy cũng ờ vào một địa vị rất ti tiện. Việc tham dự chánh sự chỉ dành riêng cho một số người được gọi là công dân mà thôi.

Nhưng công dân cũng chưa phải được tự do như ta tưởng. Mỗi ư kiến, mỗi tư tưởng của họ đều phải phù hợp với ư thức hệ lưu hành; một câu nói phạm vào thần thánh hay vào chế độ đương hữu, một chủ trương chánh trị không hợp với xu hướng của số đông có thể đưa người công dân đến cái chết hay sự lưu đày.
Như vậy, ư niệm về nhơn quyền, về giá trị của con người với tư cách là người chưa xuất hiện trong xă hội cổ và lư thuyết dân chủ với những nguyên tắc căn bản hiện thời của nó chỉ mới phát sanh ở Âu Châu vào thế kỷ 17 và 18 mà thôi.

II- XA HOI ÂU CHÂU C N KIM VA S PHÔI THAI RA NH NG LƯ THUYẾT DÂN CHỦ HI N LƯU HANH

A- So Sánh Xă Hội Quân Chủ Trung Hoa Và Xă Hội Quân Chủ Âu Châu.

1- Xă Hội Trung Hoa

Trong tất cả những chủ trương quân chủ ngày xưa, chỉ có chủ trương Nho giáo là có tánh cách trọng dân hơn cả. Nhà vua, theo Nho giáo, vẫn được xem là bực thay mạng Trời mà trị dân. Nhưng ông ta phải hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với dân. Dân phải nhận chịu quyền vua cai trị, nhưng bù lại, họ có quyền bắt vua làm điều lành. Khi vua tàn bạo, dân chúng có thể lấy cớ vua không c̣n xứng đáng thay mạng Trời mà trị v́ nữa, và có quyền đánh đổ vua, đem người khác lên thay. Vậy, cái quyền khởi loạn chỉ được nói đến ở Âu châu sau thời Trung cổ đă được nhà Nho công nhận mấy thế kỷ trước công nguyên rồi.
Từ đời Hán trở về sau, Nho giáo chiếm được địa vị độc tôn trong xă hội Trung Hoa, và các nhà chánh khách không ít th́ nhiều đều là môn đồ của nó. Lẽ cố nhiên là họ cố gắng thực hiện lư tưởng nó nêu ra. Nhưng họ không thể hoàn toàn thành công trong dự định họ. Xă hội Trung Hoa cũng như hầu hết mọi xă hội thời cổ, là một xă hội chuyên chế. Những nhà vua có đức hạnh, cũng như những viên quan mẫn cán thanh liêm chỉ là số ít, c̣n số vua hôn ám bạo ngược và số quan lại tham lam nhũng nhiễu là số đông.

Tuy thế, ảnh hưởng Nho giáo không phải là không có kết quả tốt. Từ đời Hán trở đi, xă hội Trung Hoa lần lần đi xa chế độ phong kiến. Ngoài vua ra, không c̣n chức vụ nào thế tập nữa. Con cháu những người được phong tước vị chỉ có thể tập ấm những chức nhỏ hơn, và sau vài đời, nếu không lập nên công trạng ǵ đặc biệt nữa, họ lăi trở thành bạch đinh. Ngay đến những nhơn viên hoàng tộc cũng có thể lọt vào trong đám dân chúng tầm thường khi thế phổ đă xa nhà vua đang tại vị. Các quan trong triều phần lớn đều xuất thân trong đám dân chúng, nhờ những cuộc thi cử hay những công trạng đặc biệt đối với quốc gia.

Người trong xă hội tuy chia ra làm bốn hạng sĩ, nông, công, thương, nhưng sự phân biệt này không phải có tánh cách đẳng cấp như ở trong xă hội phong kiến. Người nào cũng có quyền đổi nghề theo ư muốn, và những kẻ sĩ có thể nhờ sự học hành mà tham dự quyền chánh được. Lịch sử Trung Hoa ngày xưa đầy dẫy gương những người nghèo hèn chỉ nhờ cố công đèn sách hay gắng sức luyện tập vơ nghệ mà ngày sau chiếm được những địa vị rất cao quí trên nấc thang xă hội. Như vậy, đại khái, ai cũng có hy vọng nhờ nơi tài lực, đức tánh cá nhơn mà cải thiện đời sống của ḿnh.

Bộ máy chánh quyền tự nhiên là hết sức khắc nghiệt như mọi bộ máy chánh quyền chuyên chế khác. Nhưng các vua quan Trung Hoa ngày trước chỉ để ư trừng phạt những kẻ mà họ nghi là có ư khuynh đảo triều đ́nh. Nếu sự kiểm soát có khi lan rộng đến thái độ con người đối với gia đ́nh ḿnh th́ đó là v́ theo Nho giáo, chỉ những người con hiếu mới có thể làm người tôi trung đối với triều đ́nh.

Về những phương diện khác, nhà cầm quyền Trung Hoa ngày xưa thường tỏ ra rất khoan dung. Người dân được đi lại thong thả khắp nơi trong nước và có thể tôn thờ một mối đạo theo ư thích của ḿnh. Nho giáo được trọng vọng hơn cả, nhưng những tôn giáo khác vẫn c̣n được dung nạp dầu nó trái với chủ trương của Nho giáo cũng vậy. Lẽ cố nhiên là trong hàng ngũ những môn đồ của Khổng tử, vẫn có những người nhiệt liệt bài xích đạo Phật hay đạo Lăo, nhưng sự bài xích này chưa bao giờ đưa đến sự cấm đoán bạo tàn, những cuộc giết hại đẫm máu.

Vậy, cứ công bằng mà nói, xă hội Trung Hoa ngày trước có tánh cách b́nh đẳng và tự do hơn xă hội Âu châu đồng thời.

2- Xă Hội Âu Châu

Sau khi đế quốc La mă sụp đổ, xă hội Âu châu lọt vào trong sự hỗn loan. Đời Trung cổ, vua Charlemagne đă cố gắng tạo nên một đế quốc theo đạo Thiên chúa. Nhưng đế quốc này không đứng vững được lâu dài, và khi nó tan ră, đất Tây Âu chia ra thành nhiều lănh vực. Các quốc gia bắt đầu thành lập khi những nhà vua mở rộng được quyền hành ḿnh và chế ngự được các nhà quí tộc phong kiến.

Đến thế kỷ thứ 15, 16 sau công nguyên, phần lớn các quốc gia Âu châu đă có những nền tảng vững chắc rồi. Trừ ra một số đô thị ở đất Ư mà chánh thể cứ thay đổi măi, những tiểu bang Thụy sĩ được hưởng một chế độ tự do đặc biệt, nước Ba lan tổ chức theo lối quân chủ tuyển cử, và những đất trực thuộc Giáo hoàng, những nước lớn ở Âu châu lúc bấy giờ đều tổ chức theo chế độ quân chủ chuyên chánh.

Về phương diện lư thuyết, những nhà giáo sĩ của đạo Thiên chúa đă nhiều lần nêu lên ư kiến rằng nền tảng quân quyền phải dựa vào quyền lợi công cộng, và khi một nhà vua làm sai nhiệm vụ, hoặc vượt ra khỏi giới hạn chỉ định cho ḿnh, dân chúng có thể xem ông ta như là đă mất hết đặc quyền và đứng lên chống lại. Tuy vậy, những ư tưởng này không được phổ cập ra trong dân chúng bằng những lư thuyết binh vực quyền tuyệt đối của vua. Theo những lư thuyết đó, nhà vua là người trực tiếp nhận mạng Trời mà cai trị dân, và chỉ phải chịu trách nhiệm về những hành vi của ḿnh đối với Trời mà thôi. Để có thể thi hành nhiệm vụ ḿnh, nhà vua phải nắm cả chủ quyền của quốc gia trong tay, và đứng trên cả Giáo hội. Câu ‘’ Quốc gia là ta, ta là quốc gia’’ mà người ta bảo là của vua Louis thứ 14 nước Pháp thật ra có thể xem là lư tưởng thầm kín của tất cả các nhà vua Âu châu thời bấy giờ.

Ngoài nhà vua ra, trong nước lại c̣n có một giai cấp quí tộc thế tập. Những nhà quí tộc này hoặc là tước chủ của những thái ấp rộng minh mông, hoặc lănh những chức vụ tôn quí ở triều đ́nh, trong quân đội, hay trong ngạch tư pháp. Họ nắm giữ phần lớn nguồn tài lợi trong nước và chiếm hầu hết các địa vị trọng yếu trong bộ máy cai trị.
Kế bên giai cấp quí tộc là giai cấp tăng lữ gồm những tử đệ nhà quí tộc không được kế tước. Giáo hội vốn có nhiều đất đai, lại được hưởng nhiều đặc quyền về thuế vụ nên giai cấp tăng lữ cũng rất giàu sang.

Phần dân chúng c̣n lại gồm những nông nô, thợ thuyền và một thiểu số trưởng giả.

Nông nô là những người làm ruộng rẫy. Họ thuộc quyền sở hữu của vị quí tộc địa chủ và phải trọn đời phục vụ vị địa chủ này. Ngoài ra, họ c̣n phải nộp các thứ sưu thuế cho nhà vua và thuế thập phân cho giáo hội. V́ đó, họ hết sức cơ cực. Và trừ ra một số rất ít người nhờ dua nịnh, bợ đỡ vị quí tộc địa chủ mà được no ấm, đại đa số nông nô sống một cuộc đời tối tăm, không có cách nào để tiến thân.

Những người thợ thuyền sống ở các đô thị th́ họp lại thành phường, họ không được đổi nghề, mà muốn lên chức trùm phường th́ phải trải qua nhiều cuộc thi khó khăn và tốn kém. V́ đó, hầu hết đều phải giữ một địa vị ti tiện đời này sang đời khác.

Thiểu số trưởng giả th́ sung sướng hơn hai hạng nông nô và thợ thuyền đôi chút, v́ họ nhờ những cuộc kinh dinh về thương mại và kỹ nghệ mà thâu góp được ít nhiều tư sản. Hơn nữa, một vài người nhờ học rộng hoặc có tài cao mà được nhà vua giao cho trọng trách ở triều đ́nh. Tuy thế, phần lớn vẫn bị gạt ra ngoài chánh quyền, và thường bị hai giai cấp tăng lữ và quí tộc khinh thị và t́m cách bóc lột.

Thời ấy, nhơn dân toàn quốc phải theo quốc giáo là tôn giáo của nhà vua. Những kẻ thờ chủ nghĩa vô thần hay theo một tôn giáo khác th́ bị đàn áp giết hại một cách tàn bạo.

(c̣n tiếp)