Đổi mới và
Bảo thủ trong Đảng Cộng sản Việt Nam
Đổi mới – Bảo thủ là ư niệm mà phương Tây và Hoa Kỳ chỉ thái độ chánh trị
của cá nhân hay nhóm người trong Đảng CSVN trước t́nh trạng Liên Xô sụp đổ
vào thập niên cuối của thế kỷ XX vừa qua. Đổi mới – Bảo thủ cũng nhằm chỉ
hai khuynh hướng chánh trị: Cấp tiến (tiến bộ) – Thủ cựu (lạc hậu) trong
sanh hoạt chánh trị của các nước thuộc chế độ cộng sản.
Người Việt ở hải ngoại tùy
theo sự hiểu biết và nhận thức chánh trị mà gán cho Đổi mới – Bảo thủ một
định nghĩa theo chủ quan để thỏa măn cảm tính chánh trị của ḿnh, hay ư đồ
chánh trị của phe nhóm. Gần đây, những vận động nội bộ trong Đảng giữa Đổi
mới - Bảo thủ khiến nổi lên những khiếu tố, tranh luận công khai trên báo
Đảng, qua “thông tin đen, truyền thông xám”… tạo ra nhiều vấn đề thời sự
chánh trị đầy tánh “biểu kiến”.
1. Đổi mới từ lư luận đến thực tiễn tại
Việt Nam
Khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, kéo theo
sự tan ră, quay lưng từ giă quá khứ của các nước Đông Âu, kể cả Đông Đức,
th́ nhiều người Việt và những tổ chức chống cộng ở hải ngoại đoán già đoán
non rằng Đảng CSVN sụp đổ tới nơi rồi. Rồi sự thể không xảy ra như vậy. Tại
sao?
Bởi lẽ, Đảng CSVN ra đời từ nhu cầu của
lịch sử Việt Nam, hợp với trào lưu giải thực của thế giới (và cũng là sách
lược của phong trào cộng sản thế giới thời ấy). Người Mỹ không học thuộc câu
“tri hành hợp nhứt”, biết thực dân là xấu nhưng vẫn tiếp tay Pháp trong
những năm cuối cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam; rồi bèn “điền vào chỗ
trống” không hợp lư chút nào (thay chân Pháp ở miền Nam), nên phải “rút lui
trong danh dự” năm 1975. Trong cách nh́n của Đảng CSVN và người dân b́nh
thường th́ cuộc chiến 1954-1975 ở miền Nam chỉ là tiếp nối cuộc kháng chiến
dang dở mà thôi. Nh́n như vậy, Đảng CSVN là Đảng Cách mạng, gắn liền với
công cuộc kháng chiến và thống nhứt đất nước (dầu nhiều người không đồng ư),
trong khi Đảng Cộng sản ở các nước Liên Xô cũ chỉ là những đảng bị áp đặt
hay xa hơn là “tay sai” của Liên Xô. V́ vậy, nói Đảng CSVN ra đời là do nhu
cầu lịch sử và giờ đây đổi mới cũng do đ̣i hỏi của thời cuộc.
Trở lại thời kỳ chuẩn bị Đại hội VIII mới
thấy được ư nghĩa của Đổi mới trong Đảng CSVN. Bấy giờ vào tháng 6 năm 1995,
Bộ Chánh trị bị phân hóa, chưa có kết luận về một số vấn đề mang tánh “lư
luận Đổi mới”. Bởi lẽ từ 1986, sự thành công “tự phát” trong nông nghiệp ở
miền Nam đưa đến đổi mới kinh tế. Nhưng đó mới chỉ là thực tiễn, chưa mang
tánh lư luận. Thực tiễn Đổi mới đó phải được trang bị bằng lư luận, bằng
nghị quyết, bằng chủ trương, đường lối… (cách của những người cộng sản).
Đến tháng 9 năm 1995, ông Vơ Văn Kiệt bấy
giờ là Thủ tướng (theo dư luận Hà Nội th́ “Kiệt” mà không “kiệt”), mạnh dạn,
đảm lược, đưa ra một bức thư gởi Bộ Chánh trị, nội dung vừa mang tánh lư
luận vừa lấy thực tiễn biện minh cho công cuộc Đổi mới. Và do vậy Đại hội
VIII là đại hội mang nhiều dấu ấn của Vơ Văn Kiệt, là đại hội Đổi mới.
Bức thư này nói ǵ?
Trước hết đánh giá t́nh h́nh thế giới:
“Trong thế giới ngày nay không phải mâu thuẫn đối kháng giữa chủ nghĩa xă
hội và chủ nghĩa đế quốc, mà trước hết là tính đa dạng đa cực trở thành nhân
tố nổi trội nhất, chi phối những mâu thuẫn…” Và từ đó quan hệ Việt Nam &
Trung Quốc “có tánh cách quốc gia lấn át tánh chất XHCN”, trong đó c̣n tồn
tại “không ít những điểm nóng”.
Bức thư nêu lên mấy nội dung chánh của Đổi
mới như sau:
* Dân giàu nước mạnh, xă hội công bằng văn
minh (sau này thêm từ dân chủ)
* Phát triển gắn liền với giữ ǵn độc lập,
chủ quyền và bản sắc văn hóa dân tộc
* Xây dựng được nhà nước của dân, do dân
và v́ dân có hiệu lực (phần này ít được nhắc lại)
* Đảng CSVN lănh đạo toàn diện (phần này
được người bảo thủ đưa lên hàng đầu)
Tài liệu cũng nhận rằng Đảng nay là đảng
cầm quyền (không c̣n là đảng Cách mạng) nên phải nêu cao “ngọn cờ dân tộc và
dân chủ”, như vậy Đảng “bao gồm cả toàn thể cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài đang hướng về Tổ Quốc”. (Điều này đến nay mới được nói đến như là một
chủ trương lớn).
Trên cơ sở đó, đại hội VIII và IX, tùy
lúc, tùy người mà diễn dịch Đổi mới, khi nghiêng về Bảo thủ, khi nghiêng về
Đổi mới. Nh́n chung dư luận phương Tây và Hoa Kỳ cũng như các tổ chức quốc
tế đều xác nhận Việt Nam có tiến bộ về nhiều mặt, từ khi Đổi mới.
2. Bước vào Đại hội X, thử t́m hiểu thế -
lực của Đổi mới và Bảo thủ trong Đảng
Trước tiên là phải nh́n vào quyền hạn của
các thành viên trong Bộ Chánh trị khóa IX:
Nông Đức Mạnh: sanh 11.9.1940, quê quán
Bắc Cạn, dân tộc Tày, vào Đảng 5.7.1963, hiện là Tổng Bí thư, đứng đầu Bộ
Chánh trị, xuất thân trường Trung cấp Nông lâm Hà Nội rồi Học viện Lâm
nghiệp Liên Xô. Lập trường: trung dung, hy vọng ngồi lại chức Tổng Bí thư.
Trần Đức Lương: sanh ngày 5.5.1937, quê
quán Quảng Ngăi, vào Đảng 29.12.1959, xếp thứ 2 trong Bộ Chánh trị, hiện là
Chủ tịch nước. Xuất thân học sinh miền Nam tập kết ra Bắc, làm nhân viên kỹ
thuật đội t́m kiếm địa chất, rồi đi học Liên Xô về quản lư kinh tế quốc dân.
Trong chánh trị may mắn nhiều hơn là khả năng. Lập trường: trung dung,
nghiêng về Đổi mới trong kỳ đại hội IX.
Phan Văn Khải: sanh 25.12.1933, quê quán
Củ Chi, Sài G̣n, vào Đảng 15.7.1959, xếp thứ 3, hiện là Thủ tướng. Xuất thân
cử nhân kinh tế tại Liên Xô. Lập trường: Đổi mới, thực dụng, thân phương Tây
nhưng không phải là người cách mạng.
Nguyễn Minh Triết: sanh 8.10.1942, quê
B́nh Dương, xếp thứ 4, hiện là Bí thư TP HCM. Xuất thân cử nhân toán, nguyên
Bí thư B́nh Dương, thành công trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, làm điển
h́nh cho cả nước. Trước đây có dư luận cho ông là ứng viên thủ tướng nhưng
nay ít được nhắc lại, do sức khỏe kém. Lập trường: đổi mới (triệt để), tiêu
biểu cho các tỉnh phía Nam.
Nguyễn Tấn Dũng: sanh 17.11.1949, quê quán
Cà Mau, vào Đảng 1967. Xuất thân cử nhân luật, xếp thứ 5, hiện là Phó Thủ
tướng Thường trực, được phân công: trực tiếp phụ trách công nghiệp, bưu
chánh, nông lâm thủy sản, kinh tế hợp tác, tiêu thụ sản phẩm, xây dựng cơ
bản, đổi mới doanh nghiệp quốc doanh, thanh tra xét khiếu tố, và các lănh
vực quốc pḥng an ninh; theo dơi chỉ đạo các bộ Xây dựng, Công nghiệp, Bưu
chánh, Giao thông, Nông nghiệp, Thủy sản, Tài nguyên, Quốc pḥng, Công an,
Cơ quan Thanh tra Nhà nước và Văn pḥng Chánh phủ. Lập trường: đổi mới
(triệt để), cung cách dễ dăi, không ưa lư luận. Được dư luận phương Tây, Hoa
Kỳ đánh giá cao, và là ứng viên Thủ tướng số 1.
Lê Minh Hương (đă qua đời)
Nguyễn Phú Trọng: sanh ngày 14.4.1944, quê
quán Hà Nội, vào Đảng năm 1967, xếp thứ 7 trong Bộ Chánh trị. Tŕnh độ Phó
Tiến sĩ ở Liên Xô. Hiện giữ chức Chủ tịch Hội đồng Lư luận Trung ương, nhưng
chuyên “nói theo” Trung Quốc. Lập trường: Bảo thủ.
Phan Diễn: sanh năm 1937, quê quán Quảng
Nam, vào Đảng năm 1962, xếp thứ 8, hiện là Thường trực Ban Bí thư Trung
ương. Xuất thân cán bộ văn pḥng, đầu óc thư lại. Trong điều hành việc Bộ
Chánh trị tỏ ra “lấn lướt” TBT Nông Đức Mạnh nên bị sa lầy thảm bại trong vụ
khiếu tố của tướng Vơ Nguyên Giáp. Lập trường: Bảo thủ (dư luận cho rằng
thân thiện với Bắc Kinh).
Lê Hồng Anh: sanh 12.11.1949, quê quán
Kiên Giang, vào Đảng tháng 3.1968, xếp thứ 9, hiện là Bộ trưởng Bộ Công an,
hàm Đại tướng, nhiều quyền lực. Xuất thân cán bộ Đoàn cơ sở, ngoại h́nh đẹp,
dễ gây thiện cảm với người xung quanh. Hiện nay thay Phan Diễn trong nhiệm
vụ giải quyết khiếu tố của tướng Vơ Nguyên Giáp. Lập trường: Đổi mới.
Trương Tấn Sang: sanh 21.01.1949, quê quán
Đức Ḥa, Long An, vào Đảng 20.12.1969, xếp thứ 10, hiện là Trưởng ban Kinh
tế Trung ương Đảng. Xuất thân từ phong trào Thanh niên T́nh nguyện, rồi Bí
thư Thành đoàn, Bí thư Thành ủy Sài G̣n. Hiện nay chỉ đạo trực tiếp các tỉnh
chuẩn bị vào WTO. Lập trường: Đổi mới không quyết liệt (?)
Phạm Văn Trà: sanh năm 1935, quê quán Bắc
Ninh, vào Đảng 25.5.1956, xếp thứ 11, hiện là Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng. Tướng
dở trong binh nghiệp, nhưng nhờ trung thành với Lê Đức Anh nên được làm Bộ
trưởng Quốc pḥng. Bị tai tiếng trong vụ Tổng cục 2. Lập trường: Bảo thủ, dư
luận cho rằng đây là con bài thiệp (?)
Nguyễn Văn An: sanh 1.10.1937, quê quán
Nam Định, vào Đảng 14.8.1959, xếp thứ 12, hiện là Chủ tịch Quốc hội. Tánh
t́nh cởi mở trong giao tiếp. Lập trường: trung dung, gần với Đổi mới.
Trương Quang Được: sanh 10.2.1940, quê
quán Quảng Nam,vào Đảng tháng 5.1965, xếp thứ 13, là Trưởng ban Dân vận
Trung ương, Phó Chủ tịch Quốc hội. Không có khả năng đặc biệt. Lập trường:
trung dung (ba phải).
Trần Đ́nh Hoan: sanh 20.10.1939, quê quán
Hưng Yên, vào Đảng 28.4.1962, xếp thứ 14, Chánh Văn pḥng Trung ương Đảng.
Trước bị mất chức Bộ trưởng Lao động Thương binh & Xă hội, nhờ có công hạ Lê
Khả Phiêu nên được Lê Đức Anh thưởng chức Trưởng ban Tổ chức Trung ương
Đảng. Bị nhiều tai tiếng trong việc bố trí nhân sự. Trong quan hệ tỏ ra cởi
mở. Lập trường: trung dung (?)
Nguyễn Khoa Điềm: sanh năm 15.4.1943, quê
quán Thừa Thiên Huế, vào Đảng 28.3.1966, xếp thứ 15 cuối bảng, hiện là
Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, là tay chân của Đỗ Mười, gốc con nhà
Nguyễn Khoa, tỏ ra “mệ” với báo chí nên bị ông Vơ Văn Kiệt “sát thủ” và Đại
hội kỳ 8 Hội Nhà báo tại Hà Nội vừa qua hạ uy thế thảm hại. Bị dân Huế căm
ghét v́ đă cho phá Đàn Nam Giao. Lập trường: Bảo thủ nặng.
3. Hải ngoại nghĩ ǵ? Làm ǵ?
Nh́n vào thành phần Đổi mới – Bảo thủ
trong Bộ Chánh trị, ta thấy Đổi mới có 5 ủy viên vẫn c̣n đầy đủ phong độ,
sau Phan Văn Khải c̣n có Nguyễn Tấn Dũng thậm chí c̣n Trương Tấn Sang nữa.
Bảo thủ có 4 ủy viên. Sau khi Nguyễn Khoa Điềm bị phế vơ công, Phan Diễn dẫn
đầu bảng này, nhưng dư luận quan ngại v́ Diễn quá gần với Bắc Kinh. Như vậy
Bảo thủ hiện nay đang co cụm lại. Nhóm đứng giữa trung dung có 5 ủy viên
trong đó Nông Đức Mạnh đứng đầu bảng, là người mà dư luận cho là có đạo đức.
Trung dung hiện nay có chiều hướng ngả về Đổi mới trừ trường hợp Trần Đ́nh
Hoan (?)
Những người bảo thủ Việt Nam xưa nay luôn
luôn bị dư luận coi là cái bóng nhỏ của Bắc Kinh; giờ đây trong thời buổi
kinh tế thị trường đă bị người dân ruồng bỏ v́ giao thương Việt – Hoa càng
ngày càng bị nhập siêu (có lợi cho Trung Quốc), trong khi giao thương Việt -
Mỹ th́ xuất siêu (có lợi cho Việt Nam). Gần đây Bắc Kinh cố t́nh đưa hàng
giả, hàng lậu vào Việt Nam, thậm chí bạc giả nữa. Những vụ lấn chiếm biên
giới, bắt giết dân đánh cá, vụ “tai nạn” rớt máy bay ở Vịnh Bắc Bộ... khiến
cho bộ mặt của những người Bảo thủ đă xấu nay càng xấu xí thêm. Nên những
luận điệu “diễn biến ḥa b́nh”, „thế lực thù địch”, “định hướng xă hội chủ
nghĩa”... mà những người bảo thủ thường rêu rao nay trở thành trơ trẽn, lố
bịch!
Đời sống người dân càng ngày càng cao hơn
th́ Sài G̣n càng khẳng định ḿnh là cái nôi của đổi mới v́ đă đóng góp hơn
1/3 vào ngân sách của nhà nước, thu hút nguồn đầu tư nước ngoài và kiều hối
nhiều nhứt nước.
Đó không phải là thành tựu của đổi mới th́
là ǵ?
Những người bảo thủ qua cách này cách khác
vu cho người đổi mới là thân phương Tây, thậm chí là làm tay chân cho CIA;
nhưng oái oăm thay người dân từ Nam ra Bắc đâu đâu cũng chuộng phương Tây,
chuộng Mỹ – (ít nhất là v́ lư do kinh tế).
Người Việt hải ngoại tự hào cho rằng ḿnh
là “tập thể chánh trị” nên chỉ lo “làm chánh trị”. Hết chủ trương kháng
chiến, lật đổ, chống gởi tiền về Việt Nam, chống về Việt Nam làm ăn..., đến
ủng hộ Đảng Cộng ḥa, mong ông Bush đắc cử để giúp họ lật đổ CSVN, hồ hởi
thấy Tổng thống Bush đưa quân sang Iraq với mơ ước hăo huyền một ngày nào đó
theo Mỹ mà về lấy lại Thăng Long! Nay sự thể đă không chiều ḷng „tập thể
chánh trị“ này, nên có người quay ra chống Tổng thống Bush, thậm chí chống
cảnh sát Mỹ.
Nói cho cùng, người Việt bỏ nước ra đi sau
năm 1975 là do bị bức xúc về tâm lư và t́nh cảm, trước thái độ của một số
cán bộ miền Bắc vào cai trị miền Nam, cư xử với người miền Nam như ông “quan
thái thú”. Trừ những quan chức VNCH, và những người chủ trương “Bắc tiến”,
chủ trương Đài Mẹ Việt Nam (cha Mỹ đưa tiền), c̣n lại đa số người dân miền
Nam ra đi v́ lư do họ bị tước đoạt nhiều thứ mà quan trọng nhứt là Danh Dự
Con Người. Chủ trương của chánh phủ Việt Nam với người hải ngoại có nhiều
thay đổi từ ngày đổi mới, biểu thị một sự sám hối (?) Nay có hàng triệu lượt
người đi về thăm lại quê hương, trong đó có nhiều người ở lại và muốn sau
khi chết được nằm trong ḷng đất mẹ. Lựa chọn trở về mang ư nghĩa tâm lư -
t́nh cảm của người Việt: gắn bó nặng ḷng với tổ tiên hơn là ư nghĩa chánh
trị.
Đảng Cộng sản đang “lănh đạo” Việt Nam có
nhiều phần làm cho người Việt hải ngoại không thích, không chấp nhận. Điều
đó ai cũng thấy. Nhưng đối kháng, chống cộng có nhất thiết phải “loại trừ”,
“tiêu diệt”, “ai thắng ai” trong hoàn cảnh hiện nay không? Hay là tới lúc
phải chấp nhận, nh́n nhận nhau, như đó là một thực tế chánh trị?
Việt Nam hiện tại với một Đảng Cộng sản
duy nhất, nhưng bước đầu có một bên là Bảo thủ và một bên là Đổi mới, là một
dấu hiệu tốt mà đến lúc chúng ta phải thừa nhận. Đó chưa phải như Cộng ḥa -
Dân chủ ở Hoa Kỳ, nhưng đây là bước đầu của tiến tŕnh dân chủ theo cách
Việt Nam. Làm chánh trị (không phải làm cách mạng) là chọn lựa cái thực thể
đó, hoặc Đổi mới, hoặc Bảo thủ. Đó cũng là cách chia xẻ quyền lực, v́ bản
chất làm chánh trị là quyền lực.
Ngày nay ở Việt Nam cũng như hải ngoại,
dưới cái nh́n của người dân b́nh thường th́ Đổi mới hàm ư tốt và Bảo thủ hàm
ư xấu. Hải ngoại nghĩ ǵ và làm ǵ sao cho “tri hành hợp nhứt”? Biết mà
không làm cũng như không biết đều có tội với quốc dân.
Trần Văn Chi
Los Angeles Hoa Kỳ ngày 23.8.2005
Trích Talawas