TƯỜNG TR̀NH HAI PHIÊN T̉A 24/7 và 7/8/2006
Trước khi tường tŕnh về 2 phiên ṭa, tôi cần đề cập vấn đề: Góp ư và Quỹ thăm nuôi trước.
I-Góp ư: Chủ đề chính của các lời góp ư, đại diện đại đa số dư luận quần chúng, là lời khuyên tôi không nên t́nh nguyện bị dẫn độ về Việt Nam và không nên từ bỏ quốc tịch Mỹ! có thân hữu làm tôi xúc động khi nhấn mạnh: “Lư tống không c̣n thuộc về bản thân anh nữa, mà thuộc về quần chúng.” Và loại chiến sĩ như anh, tầm cỡ anh quá hiếm hoi, nên mất anh là một tổn thất lớn cho đại cuộc chống Cộng. Bởi vậy anh cần lắng nghe ư kiến quần chúng và chấp nhận những ư kiến đúng, sáng kiến hay để bảo toàn sinh mạng và vốn quí của Quốc Gia Tôi phải tŕnh bày lại lư do đă viết trong bài phát biểu trước đó và giải thích chi tiết hơn để thân hữu nắm vững lập trường và quyết định của tôi. Nguyên do chính đưa đến quyết định đó là âm mưu của VC và Thái Lan, dùng thủ thuật Tố Tụng H́nh Sự kéo dài các phiên ṭa để giam giữ tôi thêm 5-6 năm nữa tại Thái Lan như từng xảy ra với trường hợp dẫn độ một nghi phạm ám sát Hunsen trước đây. Tôi đă 61 tuổi, nếu ở tù đến 66, 67 tại Thái Lan rồi được trả tự do về Mỹ th́ ở tuổi gần đất xa trời đó, nhất là t́nh trạng tệ hại của nhà tù Bangkok Remand, tôi sẽ trở thành phế nhân nếu may mắn không chết trong ṿng 1, 2 năm đầu v́ bệnh hoạn liên tục. Như vậy ở tù tại Thái Lan vừa vô ích vừa phí th́ giờ quư báu của những năm tháng c̣n lại đời ḿnh, v́ tại nhà tù Thái tôi chẳng làm được ǵ nhiều ngoài việc thỉnh thoảng viết một tiểu luận gởi về phổ biến quan điểm và các biện pháp đấu tranh. Tôi c̣n ở tại Thái Lan, mọi mũi dùi tấn công đều hướng về chính phủ Thái, trong khi thủ phạm chính: VC lại an toàn núp bóng sau lưng kẻ đồng lỏa. Tôi về VN, sẽ trở thành mục tiêu đấu tranh chính và các tổ chức nhân quyền quốc tế, từ trước đến giờ không hề nhắc nhở đến trường hợp tôi, có thể lại gồm chung tên tôi vào danh sách những nhà đấu tranh quốc nội. Về cá nhân tôi đă 2 lần ở tù dưới chế độ CS, đặc biệt lần thứ nh́ về tội: không tặc, và tôi biết VC sẽ “đau khổ chứ chẳng hạnh phúc ǵ” khi giữ tôi trong nhà tù chúng, bởi chúng không thể giết tôi và đồng thời không thể ngăn cản mọi h́nh thức đấu tranh, chống đối của tôi: từ “Diễn Biến Ḥa B́nh,” “Tâm lư chiến,” “Tuyệt thực” đến “lăng nhục cán bộ,” “khích động tinh thần tù nhân” v.v…Như vậy về VN, tôi sẽ không chỉ là “chứng nhân” mà c̣n là “chất xúc tác” đóng góp một phần trong nỗ lực của toàn dân quốc nội giải thể chế độ CSVN. Khi tuyên bố quyết định đó, tôi nhắm vào 4 đối tượng chính: 1- CSVN: Có thể v́ từng bị “đau khổ” trong thời gian giam giữ tôi trước kia, VC sẽ xét lại ư định và hủy bỏ yêu sách dẫn độ v́ dẫn độ hại hơn lợi.
2- Thái Lan: Thái Lan, để tránh bị “lật tẩy” công khai về hệ thống pháp lư thối nát, tham nhũng; tránh có thể bị cộng đồng VN hải ngoại tẩy chay hàng hóa… có thể quyết định từ khước yêu sách của VC ngay mà không cần đưa vụ dẫn độ ra ṭa.
3- Hoa Kỳ: Do sợ bị cử tri gốc Việt tại Hoa Kỳ chống đối, trừng trị; sợ bị dư luận thế giới chê trách, chỉ trích về tinh thần vô trách nhiệm đối với công dân Mỹ, sợ mất uy tín, đánh mất niềm tin ở các dân tộc khác…sẽ quan tâm tích cực can thiệp giải quyết bế tắc. 4-Đồng bào hải ngoại: Sẽ tích cực đấu tranh hơn trong vụ án dẫn độ để đem tôi trở về Mỹ sớm. Ngoài ra tôi c̣n có suy nghĩ: VC (và có thể cả Tàu Cộng rất tích cực và sẵn sàng dùng mọi biện pháp (nhất là biện pháp mua chuộc, áp lực) để dẫn độ tôi; Thái Lan rất dễ bị mua chuộc, v́ bản chất tham nhũng và chính phủ Thaksin lại nghiêng về TC và VC hơn Mỹ do quyền lợi của bản thân ông Thủ Tướng; trong khi Hoa Kỳ, ngoài bản chất “chạy làng cố hữu sẵn sàng phản bội v́ quyền lợi Mỹ,” lại kẹt vào t́nh trạng “double standard” (chống khủng bố lại ủng hộ không tặc) nên chắc chắn tôi sẽ bị dẫn độ hoặc sẽ bị giữ thêm tại nhà tù Thái Lan 5-6 năm nữa, do đó chỉ c̣n một giải pháp duy nhất: T́nh nguyện dẫn độ, đi nước cờ trước, thay v́ chờ đến bại trận trên mặt trận pháp lư (thối nát) rồi bị kẻ chiến thắng dẫn độ một cách hợp pháp, ngang nhiên, như một bại tướng. Nhiều thân hữu thường nghĩ rằng, tôi không bao giờ nghe ư kiến người khác, cố chấp theo ư kiến ḿnh dù sai nhầm! Điều đó hoàn toàn không đúng. Tôi rất linh động trong mọi đấu pháp nhưng luôn giữ nguyên tắc. Tôi không thuộc loại như “Ông Nổ Tượng,” kẻ bị một Đại Úy phi công VC đồng tù châm biếm: “Địt mẹ! Ông chẳng biết mẹ ǵ về CS mà cũng đặt bày về nước chống Cộng!” Tôi cũng không giống “Nhà Nhẫn Quyền” người có trí nhớ phi thường, nên nghiêng về kiến thức “kinh viện,” học vẹt, nói vẹt những lời, tư tưởng của thiên hạ, chẳng hề có sáng kiến, sáng tạo. Tôi chiến đấu có thành tích nhưng nhiều chiến sĩ QLVNCH c̣n có chiến tích, công trạng lớn hơn ḿnh. Tôi ở tù 20 năm, nhưng có những tù nhân đạt thời gian kỷ lục, lâu hơn ḿnh. Tôi học đến cấp tiến sĩ, nhưng trong Cộng Đồng VN hải ngoại không thiếu ǵ kẻ có học vị Tiến sĩ, học hàm giáo sư. Nhưng tôi chắc không ai vượt qua tôi về “quỹ thời gian” dành cho việc đầu tư trí tuệ vào vụ án Không tặc, Dẫn độ, dù đó là những chủ tịch ủy ban PHTTLT, ngay cả LN, bởi tôi 24/7 (24 giờ trong ngày, 7 ngày trong tuần, kể cả lúc ăn, ngồi trong pḥng vệ sinh, cả trong giấc ngủ (có nhiều vấn đề không giải quyết được trong lúc tỉnh thức lại t́m thấy giải đáp trong giấc mơ), lúc nào cũng kè kè tập note, viết, để ghi ngay những sáng kiến nảy ra bất chợt kẻo quên, lúc nào cũng suy tính, xét đoán xem phải làm ǵ, đối phó thế nào với những t́nh huống mới, rắc rối và nhất là không ai hiểu rơ tường tận chi tiết và những bí ẩn, khúc mắc của vụ án không tặc hơn tôi. Tuy vậy tôi vẫn lắng nghe ư kiến và sẵn sàng chấp nhận những ư kiến nào phù hợp và đặc sắc hơn ư kiến ḿnh bởi tư duy tập thể vẫn hơn tư duy cá nhân. Nhưng nói chung, do thân hữu không nắm vững vấn đề của tôi, giải pháp tôi áp dụng nên thường khuyên trái lại quyết định của ḿnh. Bởi vậy trong vấn đề t́nh nguyện về VN tôi dứt khoát bảo: “Nếu Ṭa Án dẫn độ cam đoan giải quyết vụ án trong ṿng vài tháng, tôi sẽ tham dự các phiên ṭa chờ phán quyết (dù không tin rằng nền Tư Pháp Thái công b́nh và công chính). C̣n nếu vụ án kéo dài hàng năm, tôi không c̣n lựa chọn nào khác ngoài kư giấy t́nh nguyện dẫn độ ngay trong phiên ṭa đầu tiên.
Riêng lời khuyên về thái độ sống trong tù, thật t́nh mà nói, ít khi tôi hào hứng nghe hoặc chấp nhận. Tôi ghét nhất nghe khuyên: “Anh nên theo gương Hàn Tín nhẫn nhục qua thời điểm khó khăn.” Chế độ CSVN vẫn tồn tại đến nay nhờ dân ta bị tẩy năo “bằng gương Hàn Tín trong quá tŕnh dựng nước và giữ nước. C̣n lời khuyên: “Anh nên luôn luôn giữ thái độ hiên ngang, bất khuất” th́ lại có tính “lăng nhục,” bởi như vậy thân hữu chưa đủ vững tin về nguyên tắc “Chết vinh, hơn sống nhục” của tôi? Có bao nhiêu tù dám ngồi trước mặt Phó Giám Đốc Trại tù, sếp số 1 Building 5 mà tuyên bố như tôi: “Luật Thái Lan cho phép những người già từ 55 tuổi trở lên khỏi làm việc, hưởng chế độ tắm giặt đặc biệt. Vậy mà ’Mafia Boss’ này (sếp Dan 5) dám bắt kẻ đă 61 tuổi như tôi phải lao động, phải tắm 2 phút như các tù trẻ khác!” Hoặc là “Luật lệ nhà tù này là “luật rừng,” “luật Mafia.” Cai tù trại này phần lớn là Mafia Boss. Nếu các ông không muốn yên thân lại muốn trouble, tôi sẽ gây trouble cho các ông. Nếu các ông muốn ở tù, tôi đủ khả năng đưa các ông vào tù. Nếu các ông muốn chết tôi cũng đủ sức giúp các ông “tài” (chết) sớm. Chỉ những thân hữu biết tính tôi mới khuyên tôi nên ráng “calm down,” “tự kềm chế” để hạn chế bớt những rắc rối, căng thẳng trong ngày tháng tù c̣n lại. Tôi bực ḿnh nhất là các thân hữu “tiền hậu bất nhất.” Vừa khuyên “anh nên nhẫn nhục theo gương Hàn Tín,” ngay sau đó lại gợi ư: “Ra Ṭa nên tỏ ra khí phách, bất khuất!” Hoặc vừa khuyên “anh nên gắng giữ ǵn sức khỏe v́ cuộc chiến đấu c̣n lâu dài,” nhưng khi nghe tôi diễn tả cảnh: trên quạt máy vù vù, dưới nền nhà không mền, không chiếu, vậy mà SP không chịu mua các thứ căn bản cần thiết để tôi phải bệnh hoạn suốt mấy ngày qua, thân hữu lại khuyên: “Với anh em chúng tôi anh có thể nói chuyện đó. Nhưng với những người khác, không nên, v́ họ sẽ nghĩ anh, không đủ can trường chịu đựng gian khổ!” Có người lại góp ư: Nên dùng Ṭa Án như diễn đàn để lên án CSVN! Thứ nhất Ṭa Án Thái đâu cho phép TV, báo chí hành nghề trong pḥng xử án công khai. Thứ nh́: th́ giờ để tŕnh bày đầy đủ các luận chứng biện hộ c̣n không có, lấy đâu ra thời gian làm chuyện vô bổ đó, chưa kể nói không đúng trọng tâm câu hỏi đă bị ra lệnh ngưng phát biểu. (Chắc thân hữu này có theo dơi các phiên ṭa xử Saddam Hussein tại Iraq? Thái Lan 100 năm nữa chưa chắc đă có tập quán dân chủ, tự do kiểu Iraq hiện nay về ngành Tư Pháp!). Có những việc trong nhà tù không giải quyết được, tôi cần nhờ các thân hữu đến thăm tiếp tay giúp, (như DB Văn và vụ bệnh hoạn suốt 2 tháng qua sẽ tường tŕnh rơ ở đoạn sau), nhưng thực tế thường có ảnh hưởng ngược, bởi thân hữu chỉ bận “khuyên” trong lúc thời gian thăm hạn chế 15-30’, tuần 2 lần (Klong Prem) và khi có thân hữu đến, bà Saijit ưu tiên dành toàn bộ quỹ thời gian thăm gặp cho thân hữu, nên nhiều việc cần giải quyết ngay phải hoăn lại sau khi thân hữu ra về, và c̣n phải chờ tới ngày bà Saijit đi thăm theo lịch tŕnh ( 1 lần 1 tuần vào 1 ngày nhất định). Chưa kể có thân hữu lại chỉ muốn nghe tôi tán dương công lao của họ đến thăm ḿnh hơn là nghe nhờ giúp các việc đang bế tắc…
II- Vấn Đề Quỹ Thăm Nuôi: Vừa rồi có 2 ư kiến, một của MH, tuyên bố sau chuyến đi Thái Lan: “Lư Tống có nhiều tiền đâu cần đồng bào phải đóng góp thêm; và một của thân hữu LH, sau khi đọc bài: “Chuyện cười ra nước mắt” : “Anh thật thà quá không có lợi…LT phóng khoáng, tay vung tiền không tiếc nhất là trong hoàn cảnh hiện tại…rộng răi quá vô t́nh làm bạn tù kém may mắn tủi thân, mặc cảm, tự ti, sinh hố ngăn cách, ganh tị…dù LT là người từ tâm, muốn chia sẻ mọi người cùng hưởng sự giúp đỡ của bạn bè bốn phương” và về vấn đề: deposit số tiền yểm trợ trong đợt phiên ṭa 24/7 vào bank account LT: “dễ mất ḷng nhau lắm…làm LN buồn và đồng bào phân vân…nợ tiền học, họ có thể rút tiền trong bank LT để trừ nợ…” (Thời đi học, các bạn học cứ bảo: “Tiền loan, grant là tiền “chùa” sau này không trả lại cũng chả sao. Tại sao anh không mượn. Dù anh không cần th́ lấy thêm tiền đó phụ vào tiền donation anh thường tặng các Hội đoàn, các vụ gây quỹ từ thiện, băo lụt…” Tôi cũng không rành nên nghe theo lời họ. Số tiền mượn tổng cộng trong 9 năm đại học là 19,013.59 MK. Giờ này tính cả tiền lăi, tiền phạt, công ty đ̣i nợ CCA tính thành 46,362.58 MK (tức gấp 2,4 lần số tiền mượn.) Thời ở tù vụ không tặc 1 trở về năm 1998, tôi đến pḥng “Loan” trường UNO đưa bằng chứng ḿnh bị nằm tù trong thời gian qua và có thể tiếp tục ở tù trong thời gian sắp đến nên đề nghị họ cho trả số tiền vốn mượn không tính lời, nếu không có thể mất cả vốn lẫn lời; Họ không chịu. Và quả nhiên tôi lại tiếp tục nằm nhà đá! Cách đây khoảng 7,8 tháng, công ty đ̣i nợ CCA gởi giấy về địa chỉ Trần Quốc Công. Tôi đă viết thư kèm bằng chứng đang ở tù và có thể bị dẫn độ về VN ở tù mút mùa. Nếu họ đồng ư cho trả chỉ số tiền vốn đă mượn, xem như “bỏ quên số tiền 19,013.59 MK trong két sắt,” không tính lời, hơn là mất hết, như tỉ lệ phần trăm “thất thu” của các nhà băng, thân hữu tôi sẽ gây quỹ yểm trợ trả trong ṿng vài tháng. Vừa qua, CCA lại tiếp tục gởi giấy đ̣i nợ, không đề cập ǵ đến đề nghị trên. Không biết họ có quyền rút tiền từ account của tôi như lời LH bảo?!
1-Deposit tiền yểm trợ phiên ṭa 24/7 vào bank account của Lư Tống.
Điều lạ là LN và LH được tôi nhờ phụ trách 2 việc về bank: 1- Order bank One (nay đổi thành Chase bank) in dùm một cuốn check bởi những tập check cũ tại New Orleans không biết thất lạc đi đâu trước cơn băo Katrina. 2- Check dùm nhà băng Mỹ nào có chi nhánh ở Hà Nội hoặc Sài G̣n và xin họ mẫu, mở băng account gởi cho tôi. (Việc đầu nghe báo cáo đă thực hiện, việc sau không nghe đề cập trong bức thư mới nhất.) “Tôi không lạc quan tếu” như các thân hữu (một website cam đoan dẹp tiệm nếu tháng 8/06 tôi không được phóng thích. L/S Worasit cam đoan tôi được phóng thích tháng 8. Và Đoan Trang cũng tin chắc từ nguồn thông tin “thẩm quyền” về tin tôi sẽ về Mỹ tháng 8/06 và điều này L/S Văn biết rơ! Nhưng chính trong lần gặp 3/8 tại Trại tù Bangkok Remand vừa qua, L/S Văn xác nhận không rơ về kết quả các cuộc vận động vừa qua, cũng không biết vụ án tôi có đến tai Bush hay Rice, dù L/S Văn đă liên lạc với cấp trên của bà Shoe Marker! Điều chắc chắn là thời điểm tháng 8 đă sai v́ phiên ṭa chót vào ngày 7/9/06! c̣n việc thắng, bại lại càng khó đoán. Tôi không thích đoán ṃ, không thích lạc quan thiếu cơ sở nên chuẩn bị sẵn trường hợp “worst-case seeranio.” Bởi nếu bị dẫn độ về VN, việc chắc chắn là không thân hữu nào được phép ghé thăm, trừ thân nhân theo quy định trại tù VC. Việc liên lạc, thư tín sẽ bị hạn chế, chỉ các thư viết đúng nguyên tắc trại tù: “Học tập tốt, lao động tốt, chấp hành tốt nội qui trại và mong cách mạng khoan hồng để trở thành công dân tốt…” mới được chuyển và nhận. Như vậy thư từ đi Mỹ hay từ Mỹ về đều hoàn toàn bế tắc. Lúc đó sẽ không giải quyết được các trở ngại dịch vụ nhà băng và tôi sẽ không thể rút tiền để chi phí cho các nhu cầu cần thiết trong nhà tù, nhất là Bank One, cách nay hơn nửa năm, cũng đă gởi thư thắc mắc tại sao account của tôi đ́nh động trong nhiều năm nay, và họ có thể đóng account theo qui định nếu trong ṿng 6 tháng không có bất cứ hoạt động rút tiền, deposit tiền! Cái việc đơn giản là thỉnh thoảng có thân hữu yểm trợ bằng check và tôi đă kư gởi về, LN chỉ gởi các check đó vào account của tôi thay v́ của LN là xong. Hoặc cứ 6 tháng, LN lại viết 1 check 50-100MK và kư thay tôi deposit vào Bank One là xong chuyện. Nhưng LN không giải quyết theo cách đó nên tôi phải viết thư cho Bank One, gởi bằng chứng tôi ở tù suốt từ tháng 11-2000 đến nay nhà băng mới thôi đóng account. Như vậy ư định chuyển tất cả tiền c̣n lại vào một nhà băng Mỹ có chi nhánh tại VN cả LN và LH đều rơ, chỉ “tăng tốc” hoặc “nhảy vọt” giai đoạn chuyển tiền vào account thôi, tại sao LN lại giận, ngưng viết thư và LH bảo “dễ mất ḷng nhau” và “đồng bào phân vân?” Chỉ có một thay đổi nhỏ vào phút chót là thay v́ sau khi mở xong bank account mới, tôi sẽ chuyển mấy ngàn c̣n lại trong Bank One và yêu cầu LN chuyển tiền quỹ thăm nuôi c̣n lại vào account ở VN, tôi lại bảo thân hữu chuyển sồ tiền đóng góp trong phiên ṭa 24/7 vào Bank One’s account, một hôm sau khi bảo thân hữu chuyển về cho LN, do 2 lư do phụ:
1- Việc LN giải quyết vụ 10,740 MK: Tôi nhắc đi nhắc lại: SP về Mỹ phải giao ngay số tiền đó cho LN. Vậy mà hơn cả tháng sau lại được LN bảo: SP thông báo sau khi đi Thái Lan dự phiên ṭa 24/7 sẽ trả lại tiền.” Tôi một mặt nhờ bà Saijit telephone, fax, e-mail cho LN, một mặt viết 2 thư nhờ 2 thân hữu liên lạc LN gấp, ngoài bức thư gởi trực tiếp cho LN nhờ bà Saijit chuyển, yêu cầu LN khẩn cấp đ̣i lại tiền, vậy mà sau đó lại được LN thông báo “h́nh như SP không đi Thái Lan” và cuối cùng “SP bảo sẽ qua Cali thanh toán tiền (!) sau hơn 3 tháng giữ tiền.
2- Tin LN vừa chi một số tiền lớn mà không hỏi ư kiến tôi trước. Khi nhờ LN phụ trách quỹ thăm nuôi, cũng như trước đó nhờ TQC phụ trách quỹ pháp lư (Hai người đều là bạn tù cùng Trại A.30 Phú Khánh, trước khi tôi vượt ngục) tôi tuyệt đối tin tưởng vào LN. Bởi vậy dù thực t́nh trong 6 năm qua, LN chỉ gởi tôi kết tóan chi-thu hai (2) lần vào năm 2003 , và 2 lần hỏi ư kiến tôi khi chi cho phái đoàn đi Thái Lan và Washington D.C khoảng 13,000 MK. Chỉ có vậy, tôi thật t́nh chẳng biết tổng số chi-thu, số c̣n lại từ sau 2 báo cáo năm 2003 và một lần “kinh hoàng” vào năm 2005 khi nghe Vinh bảo: LN thông báo quỹ chỉ c̣n vài chục MK, do đó Vinh phải vận động yểm trợ bên Úc khẩn cấp. Ngay cả trong trường hợp đó, tôi cũng không thắc mắc hỏi LN thật sự quỹ chỉ c̣n vài chục thôi sao? Và đă chi vào những việc ǵ? Trước kia mỗi lần LN gởi danh sách yểm trợ, tôi thường viết “Đă nhận đủ,” cám ơn và kư tên. Nhưng từ hồi có nhiều thân hữu thắc mắc: “LN đă giao tiền yểm trợ đầy đủ cho anh cả rồi sao?” và tôi bảo: “LN giữ toàn bộ tiền yểm trợ, chỉ khi nào cần, tôi nhắn bằng thư hoặc fax, LN lại chuyển qua một số theo yêu cầu.” Các thân hữu bảo tôi viết “nhận đủ” là sai nguyên tắc, v́ thế về sau tôi sửa lại “đă được thông báo.” V́ chẳng hề biết quỹ c̣n bao nhiêu tiền, lại sắp có thể về VN, lại do 2 vụ phụ vừa xảy ra, tôi bèn yêu cầu quư thân hữu đem tiền qua Thái Lan deposit vào bank account để ít nhất cũng có chắc vài ngàn phụ thêm vào mấy ngàn tiền cũ trong băng và để “activate” (phục hóa) account cho hợp lệ trước khi rút hết tiền chuyển qua account ở VN. (Thực ra mỗi lần các thân hữu đem tiền yểm trợ qua Thái Lan, hầu hết đều muốn tôi nhận trực tiếp thay v́ chuyển cho một người khác giữ. Nhưng kẹt là tiền bỏ vào book nhà tù là “tiền chết” không rút ra được khi cần đến và chỉ rút tối đa 200 baht/ngày. Ngoài ra nhờ người giúp việc giữ (như Thông dịch viên, (TDV) sếp tù) th́ không bảo đảm, bởi dân Thái có tiền trong túi là tiêu ngay, bất kể tiền của ai, chưa kể đă bị lường gạt như một tay TDV vừa giúp việc đúng 1 tháng, “chôm” luôn 3,000 MK và lặn luôn, mà chẳng cách nào đ̣i lại được dù đă nhờ Lănh Sự, Luật Sư và Thẩm Phán. Bởi vậy tôi chỉ nhận vừa đủ số tiền đang cần, giao sếp tù giữ, c̣n bao nhiêu đều chuyển về LN. Tôi chưa hề có ư “check” LN hoặc “trách” LN về vấn đề quản lư quỹ thăm nuôi. Nếu có “trách” th́ như tôi đă trách việc LN giải quyết tà tà giải pháp Suthathif trong suốt tháng đầu tuyệt thực. Tôi chi hết gần 500 MK cho các phi vụ “chui” về fax, e-mail, express mail v́ t́nh trạng khẩn trương, nhưng cả tháng sau vẫn không nghe đài QH nhắc ǵ các bức thư khẩn gởi về; Vinh qua thăm bảo: “Không hề nhận tài liệu nào từ LN,” và bà Saijit: “Không thể liên lạc được LN v́ ông ấy không chịu trả lời…” V́ thế tôi đă phải liên lạc Chủ Tịch cộng đồng tại San Jose và thân hữu bên Đức để nhờ phụ giải quyết gấp vụ giải pháp Suthathif. Điều trách thứ nh́ là đă nhắn LN trong suốt mấy năm, nhờ liên lạc LĐ, John bên New Orleans để nhận lại các Luận Án tiến sĩ các cấp bằng Đại học, cuốn Ó Đen đă dịch sang Anh ngữ và các tài liệu quan trọng khác, nhưng không hề thấy kết quả dù nhắc đi nhắc lại nhiều lần, và cuối cùng th́ John qua đời và New Orleans bị băo Katrina tàn phá tôi trở thành kẻ “đánh mất quá khứ!” Điều thứ 3 là bản thảo cuốn sách tương lai. Tôi đă tốn hơn 2 năm ở Rayong để viết và mấy tháng ở Klong Prem để check, bổ túc, sửa lại và rất khó khăn để gởi một tài liệu dày cả gang tay, tốn hết 100 MK tiền cước phí. Vậy mà sau khi đánh máy được mười mấy trang phần “giới thiệu” LN không đánh máy tiếp hoặc thuê người đánh máy dùm. Đến khi chị TN bên Pháp qua Thái, hứa sẽ phụ trách đánh máy dùm, tôi nhắn LN trao thử 1 chương và một thân hữu khác t́nh nguyện phụ trách một phần. Chị TN th́ không nghe tin tức, nhưng thân hữu kia vừa viết thư bảo: “chữ bị ráp nối, nḥe nhoẹt mực, không thấy chữ nữa!” Quư vị biết “liquid” để tẩy sau một thời gian sẽ bốc hơi và chữ cũ, chữ sửa mới nằm chồng lên nhau, ngay tác giả c̣n chưa đọc được. Chưa kể có thứ liquid lại nhăo nhẹt, dính tờ trên với tờ dưới, lột mất cả chữ! Tôi nhớ gởi bản thảo cho LN vào thời gian chụp h́nh ở “office Lư Tống” đă hơn 2 năm, vậy mà công tác đánh máy hoàn toàn đ́nh động, dù tôi vẫn hỏi: “Đă tới đâu” một cách nôn nóng. Nói “trách” là nói cho vui chứ anh chị ḿnh c̣n không làm giúp th́ bạn tù giúp được như vậy là đă quá quư. Nếu không có vợ chồng LN không biết công việc tôi nhờ, và cần phụ trách bên Mỹ sẽ tới đâu nữa bởi mọi người đều quay cuồng trong cơn lốc mưu sinh để tồn tại và để thăng tiến, ai c̣n th́ giờ làm việc “công quả” việc “chùa” chưa kể thường bị tôi “càm ràm,” “cự nự.” Nhưng anh chị LN rất “thông cảm” không hề giận khi đọc thư trách cứ của tôi, kể cả lần chị LN nhắn: “Anh yên chí! Chúng tôi sẽ làm mọi cách về tài chánh để “có lợi” cho anh,” và tôi “quạt” lại : “Chị nghĩ tôi là loại người thế nào mà nói như vậy? Tôi lên đường, sẵn sàng chết, sẵn sàng ở tù để được “lợi” vài trăm, vài ngàn, vài chục ngàn Mỹ kim hả?” Nhưng lần này th́ LN giận thật nên từ sau phiên ṭa 7/8 ngưng gởi thư và tin tức cho tôi như thường lệ. Th́ ra LN bị “dị ứng” chuyện tiền bạc, nói ǵ cũng được, làm ǵ cũng được nhưng chuyển tiền vào Bank account ḿnh (dù có lư do chính đáng) thay v́ về LN là thật sự “mất ḷng nhau.” Tôi chỉ sợ LN giận đến nỗi không c̣n lo đ̣i tiền SP giữ hơn 10,000MK. Không gởi các hồ sơ cần thiết cho Ṭa Án, tôi và Luật Sư theo yêu cầu trong fax khẩn cấp vừa rồi, chấm dứt luôn vụ nhận tiền yểm trợ, không bàn giao các tài liệu, tiểu luận, tường tŕnh các phiên ṭa đă đánh máy và lưu trữ trong diskettes, và tất cả “những ǵ thuộc về Caesar” đều được LN xem như là những “thực thể không hề tồn tại,” tự dộng chấm dứt mọi sự như dấu “point final.” Th́ thật vỡ nợ, đại họa cho gă không tặc c̣n trầm trọng hơn tai nạn “đánh mất quá khứ” do cơn băo Katrina.
Tôi tŕnh bày cặn kẽ vậy để quư thân hữu, đặc biệt Quư Mạnh Thường Quân, xem thử quyết định chuyển số tiền yểm trợ vào bank account của LT có đáng “làm LN buồn” và làm “đồng bào phân vân” không? Và có bao nhiêu người tín cẩn bạn bè đến độ để họ nhận hàng ngàn, có tháng trên 20 ngàn Mỹ kim mà không hề hỏi, không hề biết quỹ c̣n bao nhiêu tiền như tôi?
2- Tay Vung Tiền Không Tiếc:
a. Tiền trong book nhà tù: Số tiền 200,000 baht (# 5,000MK) mà phóng viên yêu cầu tôi cầm cho họ chụp h́nh là số tiền nhà tù Klong Prem trả lại ngày tôi được phóng thích (17/5/06). Tiền này là tiền tôi đem theo trong phi vụ ngày 17/11/2000, sau khi chi trả mọi chi phí c̣n lại. Khi tôi được chuyển đến trại tù Rayong, sếp tài chánh nhà tù đổi dollar sang baht và bỏ vào book của tôi. Số tiền này có đặc điểm: Mỗi ngày chỉ được rút tối đa 200 baht, và chỉ trả số tiền c̣n lại vào ngày phóng thích. Nếu hôm nay không mua hoặc chỉ mua vài chục baht, hôm sau vẫn chỉ được rút 200 baht, không được rút bù. V́ vậy Trại Klong Prem có cách giải quyết “sáng tạo”: Tù có thể rút luôn 5 ngày một lần bỏ vào sổ coffee shop, nhưng bị “chặt mất 10%, nghĩa là thay v́ 5 ngày x 200 = 1000 baht, họ chỉ ghi sổ 900 baht và trong một ngày tù có thể mua 1 lần cả 900 baht (thay v́ tối đa 200 baht) và đợi 5 ngày sau rút tiếp. Như vậy dù LT có vài triệu baht, mỗi ngày cũng chỉ được phép xài chưa tới 5 MK, và nếu đồng bào không đóng góp th́ tiền đâu trả Luật Sư, trả công người phụ việc (bên ngoài như cô Malee, Saijit, Ngọc An…) và bên trong là các sếp tù? Nhất là không có sự thông đồng của một sếp tù nào đó, trong một building có vài chục sếp, th́ không có thư bằng tiếng Việt, không có thư bằng tiếng Anh dài trên 2 trang đề cập đến vụ án, các tin tức cập nhật về LT, chưa kể giá cả trong nhà tù là giá cắt cổ, do tù bị cấm nhận thuốc men và hầu hết các thứ cần thiết khác. Thí dụ: 1 vĩ Tiffy thuốc đau đầu 4 viên giá chính thức 6 baht, Trại Remand bán lậu bằng cách đổi 1 gói thuốc krongthip 42 baht (gấp 7 lần!) Bệnh viện Klong Prem cấm hút thuốc, tù ghiền thuốc, phải đổi 1 gói thuốc rê (giá bằng 1 gói ḿ ăn liền = 5 baht) bằng 6 gói ḿ (tức gấp 6 lần!). Như vậy ư kiến MH đề nghị không nên đóng góp tiền yểm trợ chỉ “đúng” một nửa. Nghĩa là: đồng bào không nên đóng góp tiền yểm trợ qua tay những người như MH và SP, v́ trong chuyến qua Thái Lan nhân dịp LT măn án tù không tặc, MH và SP không hề thông báo cho LT số tiền đồng bào đóng góp nhờ chuyển và MH cũng không chuyển số tiền đó cho LT hoặc cho LN. Chưa kể về phần MH, c̣n có nguồn tin thông báo: MH thuộc nhóm khác, nhưng được “cấy” vào “tiềm phục” ủy ban PHTTLT một thời gian dài, chờ cơ hội thuận tiện (như vụ án dẫn độ), trỗi dậy, quậy phá, công kích nhiều người để phân hóa, ly gián, làm suy yếu lực lượng yểm trợ LT?!
b.Tiền Chi Tặng Quà Sinh Nhật, Năm Mới:
Bót Cảnh Sát Bangchang: Vừa bị tạm giam, hy vọng sẽ được giải quyết sớm v́ bản thân không “không tặc” lại được quyền giữ tiền trong người và toàn tiền giấy 100MK, nên suốt 1 tháng ở Banchang, thực t́nh tôi tiêu hoang phí giống thời ở Hoa Kỳ. Mỗi sáng rút tờ 1 trăm đưa cảnh sát nhờ mua thức ăn cho ḿnh, cho 7-8 tù tạm giam khác, và cho 5 cảnh sát phụ trách trực tiếp. Khi mua đồ về, CS thường đưa lại 2,000 baht, tức mua hết 50 MK. (Sau này quen giá cả ở Thái, tôi mới nhận ra CS phụ trách thường tính gía gấp đôi để đút túi.) Tù tạm giam được thả xin tiền về xe tôi thường cho từ 500-1,000 baht. Ngoài tật quen “đốt tiền” c̣n có lư do chính đáng khác: Sếp Nai Pôn (học cùng lớp với tôi tại Hoa Kỳ gần 40 năm về trước, tức năm 1966) từ Bộ Tư Lệnh CS ở Rayong đến gặp tôi 3 lần, ra lệnh dành pḥng giam nữ cho tôi và cho tù nữ nằm ngoài hành lang (1,2 người tối đa), c̣n cho thay toàn bộ hệ thống lưới muỗi của 2 pḥng tạm giam nhỏ (chứa tối đa 10 người) theo yêu cầu của tôi và cô thiếu uư CS trẻ mỗi lần nhận quà lại cúi gập ḿnh cảm ơn rất trân trọng.
Nhà tù Rayong: Nhưng khi chuyển về nhà tù Rayong, do tất cả tiền ḿnh có đều phải gởi vào book nhà tù và tiêu chuẩn mỗi ngày chỉ được rút 200 baht (5MK), th́ dù muốn “chơi đẹp,” muốn giúp đỡ bạn tù, tôi cũng chi tiêu tối đa bằng 1/10 thời bót CS Banchang. Do ở pḥng biệt giam, ít người, tối đa từ 5 đến 10 người, nên việc chia sẻ cũng thực hiện được, dù nhỏ bé, trừ trường hợp có thăm nuôi và thân hữu mua nhiều quà. Ở nhà tù Rayong suốt 3 năm, tôi chỉ tặng mấy cặp rackets đánh bóng bàn, vợt đánh vũ cầu khi được cho phép chơi thể thao vài giờ mỗi ngày (không mua th́ phải chơi bằng vợt cũ vá nối, lột vơ hoặc banh bể, cầu te tua.) Một lần góp 2,000 baht để phụ Trại chi cho đội văn nghệ vào tŕnh diễn nhân dịp Tết, và một lần mua 1 Tivi lớn mới v́ Tivi pḥng tôi xem ké vừa nhỏ, vừa hư v́ quá cũ, để có thể xem phim ngoại quốc băng CD hàng đêm. Ngoài ra thỉnh thoảng tặng tù pḥng kỷ luật (6 pḥng, tổng số từ 20-30 người) thuốc hút…
Nhà tù Klong Prem: Trại Rayong chỉ có tù Thái, ḿnh tôi VN quốc tịch Mỹ, 2 lần có một người Đức bị nhốt vài tuần rồi chuyển đi Trại khác, nhưng nhà tù Klong Prem th́ đủ hạng, loại quốc tịch từ dân Châu Âu, Châu Phi, Trung Đông đến Úc Châu, Á Châu. Cái lạ là dân nước ngoài không bị bắt buộc lao động, cắt tóc ngắn, nhưng có 4 dân nước ngoài không được hưởng 4 biệt đăi này: Miến Điện, Lào, Miên và Việt Nam. Ngoài việc 4 nước này “lạc hậu” hơn Thái Lan, số dân tị nạn từ Miên, Lào và số dân Miên nhập lậu vào Thái t́m việc quá đông. Dân VN ít hơn nhưng toàn làm những nghề “mất mặt” như ăn cắp, ăn mày và làm điếm. Đúng là sản phẩm và thành quả lớn nhất của Bác và Đảng trong sự nghiệp thống nhất VN. Khi nghe tôi gốc VN, những tù chưa biết ǵ về tôi đều biểu lộ một thái độ khinh thị. Sau khi biết được nguyên do, tôi bèn giải thích cho họ về 2 loại VN khác nhau: 1VN CS và 1 VN Tự Do, và 1 miền Nam cũ và 1 miền Nam mới. Tôi nghĩ lời nói không tác dụng bằng việc làm nên mỗi tuần tôi tổ chức bốc thăm 1 lần cho số tù nghèo ăn cơm phạn xá. Giúp hết 600 tù không đủ sức, nhưng tặng anh chàng may mắn 500 baht (1 MK = 40 baht) là chuyện có thể thực hiện được (việc này sau vài tháng chấm dứt v́ nhà tù cấm). Trại Klong Prem mỗi năm thường tổ chức tranh giải thể thao 3-4 lần. Thể thao vừa giúp tù giữ sức khỏe, quên ngày tháng tù tội và giúp sếp tù kiếm tiền bởi nhà tù cấm người nhà gởi vào nhiều thứ và những thứ này chỉ do sếp tù đem vào. Do đo giá mỗi thứ có thể tăng giá gấp nhiều lần. Tôi thể thao môn nào cũng thích chơi, nhưng môn nào cũng chơi tệ nên không vào được đội nào chính thức từ: Bóng đá, cầu Thái, bóng bàn…) V́ vậy chỉ c̣n cách làm “Captain” “thủ quân” các đội trên h́nh thức, tức Sponsor để có thể đi từ Dan (Building) này đến Dan khác để xem xét t́nh h́nh, và để được “chụp h́nh.” Chụp h́nh trong nhà tù là một việc hiếm hoi. Chỉ có những dịp đặc biệt như tranh giải thể thao, lễ ra trường của Blue Shirt (đám Trật Tự), ngày Giáng Sinh cho đám Thiên Chúa giáo) và Tết Thái (nếu không thuộc các nhóm trên, chụp h́nh ké rất khó khăn.) Tôi biết thân hữu bên ngoài, nhất là báo chí, muốn ḿnh thỉnh thoảng gởi h́nh ra để phổ biến nên việc làm Sponsor chính (Dan 1 có vài chục Sponsors người Thái, họ cũng thường đóng góp cho các dịp lễ, hoạt động này, nhưng làm Captain phải donate nhiều hơn để chi vào các việc mua bóng lưới, vợt, đồng phục, nước giải khát, dầu nóng và party. Chức “Captian” cũng kéo dài được 2 mùa tranh giải, và sau khi sếp số 3 (kiêm phụ trách thể thao) chuyển qua Dan khác lên cấp sếp 2, th́ hai tay cai tù phụ trách mới do không ưa tôi nên tôi tự ư rút lui. (Tay sếp thiếu úy, người duy nhất cấm tù tắm ở truồng. Khi y kêu tôi vào tŕnh diện, tôi sạt thẳng vào mặt: “Chuyện ông thích hay không thích tôi không ‘care.’ Nếu ông muốn thấy cảnh tắm lịch sự, ông chỉ cần đề nghị nhà tù làm tường hoặc bức mành thấp, che từ đầu gối đến rốn là xong.” C̣n tay hạ sĩ th́ bị tôi thưa với sếp building v́ y nhận mấy ngàn baht mua các linh kiện sửa Tivi pḥng ăn bị hư nhưng định quỵt luôn. Riêng tay thiếu úy, sau này khi chứng kiến cảnh tôi tuyệt thực mất 15 kg và hào phóng mua vật liệu lát gạch bồn tắm, cầu tiêu…tự nhiên đổi thái độ, gặp mặt đâu cũng chào hỏi với vẻ mến phục. Ngoài ra chỉ thỉnh thoảng tặng các tù nghèo quen thân xà pḥng, bột giặt hoặc thuốc rê, chẳng ǵ quá đáng. Mọi sự “huy hoàng” chỉ bắt đầu từ khi ĐQ Vinh cùng phái đoàn Úc ghé thăm tôi.
Khoảng năm 2004, khi nghe tin về vụ án dẫn độ. Thời Rayong, Vinh trên đường về Nhật, quê vợ, có dẫn vợ đến thăm tôi 1 lần. Lần đó chỉ đem theo tiền thân hữu góp khỏang 1,000 Úc kim. Lần này Vinh trở lại sau chuyến vận động yểm trợ trên một Đài Phát Thanh tại Úc nên số tiền khá lớn, hơn mười mấy ngàn Úc kim. Nhân dịp sinh nhật, do thấy tù hay “chôm” số tô nhựa tôi mua đặt tại nhà cầu nên tôi quyết định tặng mỗi tù 1 cái và 1 điếu thuốc (1 tô: 15 baht, và 1 điếu thuốc: 2 baht); tổng cộng khoảng 10,000 baht cho gần 600 tù Dan 1). Nhưng Vinh vừa muốn giúp tù vừa muốn tăng uy tín ông anh không tặc nên tự ư mua thêm đủ mọi thứ quà, từ bánh kẹo, cà phê, sữa…mọi thứ được bán tại căng tin bên ngoài đủ tặng cho gần 200 tù, ngoài số thức ăn do tôi đề nghị cho party sinh nhật đủ cho khoảng 30 bạn thân tín, tổng cộng có thể lên tới 4-50,000 baht. Số quà mua thêm phải cho bốc thăm, v́ quà có giá trị khác nhau, và số tù đông gấp 3 lần số quà. Những lần ghé thăm sau đó Vinh đều tự động mua đủ loại thức ăn, và mỗi lần thăm nuôi tôi đều phải dùng xe chở hoặc nhờ tù khiêng dùm nên Vinh được tù đặt danh hiệu “Ông Australia chơi đẹp,” và khi nghe pḥng trực gọi tên tôi thăm nuôi, tù bạn thường hỏi “Ai thăm vậy? Ông Australia hả? để biết sẽ “huy hoàng” hay “điêu tàn”.
Việc Vinh bị cảnh sát Thái áp giải trục xuất về Australia khi vừa xuống phi tường Don Muong một ḿnh cũng chính v́ Vinh đă “mua” được đám cai tù phụ trách để có giờ thăm nuôi “double” thăm nuôi hằng ngày thay v́ 2 lần / tuần và có thể dấu theo “đồ nghề” để ghi âm phỏng vấn, chụp h́nh v.v… Mà có thể hoặc bà Saijit hay Ngọc An báo cho an ninh theo order của Ṭa Đại Sứ VC tại Bangkok, không phải v́ dính líu vụ bị “Sakorn Hong thong” lường gạt 5,000 Úc Kim như lời giải thích của L/S Worasit. điều đó c̣n may mắn! Nếu cảnh sát Thái kiếm cớ, bịa cớ ǵ đó giam Vinh và VC đ̣i dẫn độ th́ c̣n tai họa lớn hơn. Có vài lần tôi đề nghị Vinh nên giảm bớt, hạn chế bớt, nhưng Vinh với tính hào phóng nhân đạo giúp người bảo tôi: “Anh đừng ngại. Ḿnh cứ làm việc thiện Trời, Phật, Chúa sẽ giúp ḿnh. Dù tôi đă nhắc lại câu tù ngoại quốc nhận xét về bản chất tù Thái: “Tụi Thái mà cho ngón tay, nó muốn chặt luôn cánh tay ḿnh! Khi giúp người Thái, ta tự tạo ra kẻ thù. Bởi v́ đă giúp là phải giúp thường xuyên, ngày càng nhiều hơn, nếu ngưng giúp v́ bất cứ lư do ǵ, họ sẽ xem ḿnh là kẻ thù!” (Cái đặc tính này, theo nhận xét của bản thân trong hơn 3 năm sống tại nhà tù Klong Prem và nay Bangkok Remand, có thể áp dụng cho mọi dân tộc trên thế giới chứ không riêng ǵ dân Thái, và những kẻ thích nhắc đi nhắc lại nhận xét này h́nh như c̣n tệ hơn cả những người bị ḿnh chỉ trích. Nếu có “bản sắc dân tộc đặc biệt th́ phải nói đến thói quen, theo phong tục, xem việc qú, hoặc vái lạy cai tù, cấp cao là một thái độ lịch sự, lễ phép thay v́ nhục nhă, đáng xấu hổ. Ngay chính Thủ Tướng, Bộ Trưởng diện kiến Vua, con cái Vua cũng đều qú phủ phục. Dân Thái từ khi sinh ra đă bị hành hạ, lăng nhục như nô lệ (trừ giai cấp quí tộc) nên khi có một chút quyền hành, như làm cai tù chẳng hạn và đặc biệt giới cai tù, họ tự xem ḿnh và cư xử như một loại “Vua con.” Việc hầu hết các cai tù làm trong ngày là nằm dài trên ghế cho tù đấm bóp, được tù cung cấp đủ các thứ nhu cầu từ ăn uống, thuốc hút…Ngoài ra là đi dạo ḷng ṿng với dáng khệnh khạng, tay cặp kè dùi cui để được tù chấp tay, cúi gập ḿnh vái lạy. Trong cuộc vượt biên tránh nạn CS của dân Việt, các dân tộc khác như Mă Lai, Singapore, Nam Dương, Phi Luật Tân, Tàu không làm hải tặc. Chỉ có “hải tặc Thái.” Làm hải tặc có thể là một cách “xả xú bắp” như trên, khi dân đánh cá Thái tự thấy ḿnh có toàn quyền trên biển cả, và sẵn sàng hà hiếp, bóc lột đám dân khốn khổ, yếu đuối.
Nhưng khi nghe Vinh định gởi tiền giúp cô con gái mẹ người Phi th́ tôi nhất quyết từ chối. “Trước đây cháu nó nghe tin anh ở tù tại Thái Lan, mượn tiền dẫn cả gia đ́nh sang thăm. Ngoại cháu không có tiền trả nợ đi thăm bố, tôi đă nhắn LN cho cháu mấy ngàn MK rồi. Em đừng nên trích tiền đồng bào đóng góp cho cháu, tránh tiếng thị phi. Giúp thiên hạ nghèo th́ được. Giúp con cháu ḿnh có thể mang tiếng lạm dụng. Không nên.” Nhưng Vinh một mực bảo: “Anh lo việc nước, ở tù, không ‘take care’ con cái được. Tụi em phải có bổn phận phụ tay cùng anh. Anh cứ để chuyện đó cho em, yên tâm lo việc lớn và vụ án dẫn độ sắp đến.” Vinh bảo “nghe LN báo quỹ chỉ c̣n mấy chục Mỹ kim, vậy để em vận động bên Úc phụ vào.” Và từ đó mọi chi phí đều từ bên Úc đóng góp. Sau khi c̣n lại đều chuyển qua LN giữ. Và cũng nhờ Vinh đóng thêm vào book nhà tù, nên sau gần 6 năm tù, tiền trong sổ tù tôi vẫn c̣n 200,000 baht để lỡ bị dẫn độ có sẵn tiền mặt đem theo chi phí cho các giai đoạn đầu. Tiền mua chuối tặng tù nhân dịp Tết Dương Lịch cũng do tiền Vinh để lại tại bà Saijit v́ 6 năm qua quên ăn Tết. Và khi sắp phóng thích, do các tù bạn khẩn khoản, và nhất là do tôi từng tự nguyện phụ trách chùi nhà cầu, bể nước tắm, một h́nh thức phục vụ quần chúng và tôi biết việc lát gạch men sẽ giúp tù phụ trách đỡ nhọc nhằn khi chùi, rửa và nước tắm sẽ sạch sẽ thay v́ nước cáu bẩn, đóng cặn do rêu và các chất dơ đóng trên mặt xi măng nham nhở, mục rửa lâu ngày. Tôi cũng một phần hy vọng ḿnh sẽ về Mỹ nên cố để lại một chút quà kỷ niệm, và cũng nên rút hết tiền từ bà Saijit do Vinh để lại và một số bên Pháp yểm trợ chuyển qua c̣n lại sau khi đă thanh toán các chi phí cần thiết khác.
Tôi có 2 lần không dám tự nhận ḿnh người VN, lần đầu khi du học Hoa Kỳ năm 1966. Thời đó sinh viên và các tổ chừc chống Mỹ (phần lớn do VC nằm vùng giật dây) biểu t́nh tấn công lính Mỹ, đốt phá xe, nhà, công sở Mỹ…rất rầm rộ. Người Mỹ tại một số bang do đó rất ghét và khinh thường người Việt, xem người Việt là giống dân “ăn cháo đá bát,” “bất hảo, bất nhân, vô ân…” Do đó khi ra đường, ai hỏi, chúng tôi, phần lớn đều phải nói dối là “người Nhật,” v́ người Mỹ thời đó nể nang người Nhật hơn cả trong các dân Châu Á. Lần thứ nh́ là khi chuyển về Trại Klong Prem, nghe thành tích ăn cắp, ăn mày, đỉ điếm của người Việt thời VC. Bởi vậy khi tù Thái (lạ) hỏi, tôi thường bảo ḿnh người Mỹ. Sau khi đă hóa giải h́nh ảnh VN bằng các h́nh thức “chơi đẹp” đặc biệt với sự quà cáp thăm nuôi hào phóng của Vinh và thân hữu Úc Châu, khi có tù nào hỏi tôi: “Anh người Mỹ” tôi thường bổ túc “gốc Việt.” Tuy vậy nếu so với sự hào phóng của tù ngoại quốc khác, sự “vung tay quá trán” của tôi chẳng đáng vào đâu. Có một người Úc tặng Dan 1 toàn bộ mấy chục máy computer đời mới đủ để trang bị một Computer center. Một tù người Mỹ cho tù bạn tiền, mỗi người từ 10,000-40,000 baht, và mỗi lần ghi danh sách tên 30-40 người gởi cho người giúp việc tại Bangkok deposit vào book của họ. Nhưng người này giúp người không v́ động cơ trong sáng, nhân đạo! Y bị bệnh “ấu dâm” nên chi bạo để dụ các tù trẻ, đẹp trai, thỏa măn tṛ dâm dục bệnh hoạn. Thời ở Mỹ tôi yểm trợ các Hội Đoàn, Tổ chức thiện nguyện bằng tiền túi của ḿnh c̣n bị một số người phê phán là “thích chơi nổi, chơi trội” v́ chỉ tặng bằng giấy trăm Mỹ kim có h́nh ông Franklin, từ 100 đến vài ngàn MK ( và ngay cả khi ở tù, LN có lần bảo: “Tôi vừa đóng góp mấy nơi, mỗi nơi 50 MK, ghi tên Lư Tống” và tưởng tôi khen “có sáng kiến hay” không ngờ bị tôi quạt: “Tôi có danh hiệu ông Franklin. Bác không nên dùng giấy bạc nào có mệnh giá nhỏ hơn 100MK làm mất tiếng của tôi.” V́ vậy việc dùng tiền đóng góp giúp bạn tù nghèo không thể nào tránh khỏi có kẻ phê b́nh. Tôi chỉ tŕnh bày mọi khía cạnh của vấn đề để thân hữu và Mạnh Thường Quân thông cảm. Nhất là với các tù có quốc tịch VN, thông thường mỗi tù VN ở cùng building hay building khác nhưng cùng trại tù và viết thư cho tôi, tôi thường giúp họ 2,000 baht/người. Chỉ có 2 trường hợp tôi giúp nhiều hơn là PNT Hiền Sĩ, người đặt bom phân urê và ng̣i nổ cell phone tại Ṭa Đại Sứ VC tại Bangkok, năm 2001. Nghe Hiền Sĩ cần tiền trả Luật Sư, tôi gởi 10,000 baht và nhắn HS xin qua ở Dan 1 chung chỗ để tôi có dịp giúp thường xuyên hơn. Nhưng sau này khám phá ra HS chỉ là một tay “bố láo,” bị bệnh hoang tưởng, chẳng hạn HS thuộc loại “tép riu” nhưng kư tên lại vẽ thành h́nh “rồng lộn, và khoác lác về kế hoạch “giật sập chế độ CSVN “trong ṿng 24 giờ” bằng sáng kiến: Bố trí dăm bảy chiếc xe bồn chở dầu rải rác trên quốc lộ 1 và cho đốt cháy như đă tŕnh bày trong một bài khá lâu trước kia, tôi chấm dứt liên lạc. Tới nhà tù Bangkok Remand, tôi cũng cho Niệm 2,000 baht, một người Thái mạo nhận VN và qua Thái từ nhỏ, nói tiếng Việt sành sơi nhờ lấy vợ VN và có khiếu về ngôn ngữ nên nói được cả tiếng Miên, Anh, ngoài tiếng Thái dù không học hành bao nhiêu. Riêng Nguyễn văn Minh, do được phóng thích nhưng không có tiền mua vé máy bay có thể bị giữ tại Immigration Detention Center lâu dài, nên tôi cho 5,000 baht giá tiền vé máy bay Bangkok- VN. Minh được phóng thích cả 3 tháng nhưng không hề thấy viết thư cám ơn. Tuần rồi đi thăm nuôi, tôi ở điện thoại số 33, và điện thoại 32 bên cạnh là một người bạn Minh ghé thăm. Th́ ra anh chàng này đă qua Thái Lan lại và chỉ đi thăm bạn ḿnh, không hề thăm tôi một lần, dù người đi thăm có quyền gặp 2, 3 tù một lúc. Trời bất dung gian, chỉ một tuần sau có tù Thái kêu tôi lại bảo: “Cái thằng con VN mà anh cho nó 5,000 baht đă bị bắt lại v́ tôi ‘ăn cắp’ và đưa vào Dan 1 chiều hôm qua!” Tôi vẫn tiếp tục giúp đỡ dù không thiếu ǵ kẻ ḿnh giúp “phụ” ḿnh. “Thi ân bất cầu báo” là một châm ngôn có tính nhân đạo cao cả. Cũng như tại Trại tù mới này, sau khi đối đầu với sếp tù, tôi đă được “tắm đặc biệt” theo “tiêu chuẩn người già, tật nguyền.” Nhưng hầu hết các tù khác vẫn tắm theo tiêu chuẩn 2 phút. Mỗi cai tù phụ trách một bộ phận đều có cách làm ra tiền. Sếp “nước” th́ hạn chế giờ tắm để tù nào muốn tắm đặc biệt phải chi. Do không đủ nước giặt, tù khá giả thuê tù chuyên phụ trách giặt giũ. Tù này lại chi cho sếp để có thể lấy nước tự do giặt đồ v…v. Muốn tù được tắm giặt thoải mái trong giờ qui định nhất là tù phụ trách nhà cầu phải làm vệ sinh đúng tiêu chuẩn (nhiều ngày cầu bị nghẹt, ngập tràn phân mà không ai thông ống thoát, chùi rửa), hoặc nước nhà cầu thường xuyên cạn hết, trong lúc khu vực bồn chứa nước lại khóa, cấm lấy nước, thật điên gà. (Tù mỗi ngày bị bóc lột sức lao động làm giàu cho Trại, cho sếp vậy mà ngoài việc ăn cơm đen, đồ ăn chẳng ra ǵ, c̣n không được tắm giặt đầy đủ, đi vệ sinh thoải mái th́ thật là chuyện vô lư. Tôi deal với sếp nước, cho ông ta 4 tút thuốc/1tháng, hai bên cùng có lợi (sếp và tù, c̣n tôi mỗi tháng tốn khoảng 50 MK nhưng thấy hạnh phúc khi tù bạn, sau khi ngủ dậy, sau khi nhọc nhằn làm việc suốt ngày dơ dáy, mệt mỏi, được tà tà hưởng thú tắm giặt: một nhu cầu thiết thân.) Tôi nghĩ ḿnh không để dành tiền đồng bào yểm trợ sau này mua nhà cửa và các tài sản v́ lợi ích bản thân là được rồi. Tiêu tiền vào những lợi ích chung, đặc biệt đem lại chút hạnh phúc cho người cùng khổ, th́ dù có bị chỉ trích cũng chẳng có ǵ đáng buồn cả. Riêng phần người tù, tôi không nghĩ sự giúp đỡ thay v́ đem lại hạnh phúc, lại gây mặc cảm tự ti, tủi thân. Bởi 3 cấp đẳng ăn trong tù, tôi chỉ thuộc cấp 3. Cấp 1 là những tù Thái giàu có, c̣n lại là các đệ tử ruột của các sếp tù, mỗi ngày họ chi tiêu để sếp mua thức ăn tươi: heo, ḅ, gà, vịt…từ ngoài chợ vào nấu ăn cho họ và cho sếp. Tôi th́ mua thức ăn căng tin tù nhưng thuộc khu vực thăm nuôi nhờ có người mua giúp. C̣n tù b́nh thường mua thức ăn tại căng tin của building. Nếu có kẻ “ganh tị” th́ chỉ những tù như tên Allen John, người Anh gốc Do Thái. Có tiền nhưng bủn xỉn keo kiệt, phè phỡn cho bản thân, không hề quan tâm kẻ khốn khó. Y cảm thấy “nhột” cộng với mặc cảm tự tôn da trắng, nên thấy một tay da vàng hào phóng, được nhiều tù tôn trọng có cảm t́nh nên cảm thấy ghen tức. Ngoài ra lỡ phóng thích mà bà Saijit “quỵt” luôn không trả th́ cũng phí của Trời, nhất là sau khi cha Oliver quyết định không giữ tiền dùm tôi nữa.
III- Tường Tŕnh Hai Phiên Ṭa 24/ và 7/8/06:
1- Phiên Ṭa 24/7: Tuy không đông bằng các phiên ṭa trước kia trong vụ án không tặc tại Rayong, nhưng lực lượng thân hữu từ Úc khá hùng hậu: 8 người và 2 thân hữu từ Mỹ. Tôi hứa chỉ bỏ ư định t́nh nguyện dẫn độ (và kết quả tối hậu là từ bỏ quốc tịch Mỹ) nếu Thẩm Phán bảo đăm phiên ṭa Dẫn Độ chỉ kéo dài tối đa vài tháng. Khi xe bus đến Ṭa, không thấy báo chí, truyền h́nh và thân hữu chờ đón như thời Rayong. Do phiên ṭa bắt đầu lúc 1:30pm, thân hữu gần trưa mới đến. Với khoảng cách gần 5 mét giữa 2 lưới sắt và nhiều tù và thân nhân đang nói chuyện với âm lượng tối đa, tôi hoàn toàn không nghe rơ lời nói của các thân hữu khác, ngoại trừ thân hữu có giọng lớn nhất. V́ phải la hét quá lớn, lại đang bệnh, thân hữu sợ tôi mất giọng không thể phát biểu được tại pḥng xử án nên bảo ngồi nghỉ. Sau chừng nửa giờ sử dụng “Hàm Mô Công Tạ Tốn.” Vị đại úy cảnh sát giải giao hôm đó thuộc nhóm “mở kọng” phiên ṭa 18/5 và được tôi tặng 1,000 baht nên để phe ta quay phim, phỏng vấn thoải mái, chứng tỏ chi phí “giao tế” có hiệu lực. (Trước kia có vài thân hữu đề nghị tôi nên chi từ 50,000-100,000 Mỹ kim để đăng bài trên New York Time để gây ảnh hưởng, tôi đă từ chối v́ không muốn vận động đóng góp đợt mới, hay xài phí số tiền c̣n trong quỹ pháp lư với lư do: bài đăng báo có trả tiền ít người quan tâm đọc, trong khi các tờ “Reader’s Digest,” “The Wall Street Journal” danh tiếng không kém c̣n phải trả tiền ”nhuận bút” khi đăng bài về tôi. Không chỉ quay phim tôi trên đường đến pḥng xử án, phỏng vấn trong pḥng xử án, v́ cảnh sát c̣n cho phe ta đứng chung quay Video với tôi, bắt tay cảnh sát, bắt tay Luật sư… nói chung được tự do 100% (cũng như hôm 17/5 tại Crime Suppression Divison, chỉ ‘chơi đẹp’ chi 2,000 baht mua thức ăn , nước uống cho ḿnh và cảnh sát và sau đó 2,000 baht mua nước đăi báo chí (tổng cộng 100MK) mà sếp pḥng gọi dùm báo chí đến, gọi dùm phe ta đến, cho phe ta ngồi suốt buổi để ghi âm, c̣n cho mượn điện thoại, và báo chí tường thuật rầm rộ về vụ án LT, th́ thực ra chẳng “hoang phí” tí nào (nhất là tin tức phổ biến khắp Thái Lan, nơi chính quyết định số phận ḿnh) với số 50,000 – 100,000 MK đăng New York Time theo ư vài thân hữu. (Chỉ tiếc là SP đă không làm copy CD và báo James Bond theo yêu cầu để tặng họ nên nhiều tin tức h́nh ảnh sống động, thuận lợi mất dịp tiếp cận đến dư luận Thái Lan.)
Ngoài phe ta, c̣n có báo The Nation và Đài Á Châu Tự Do do Pimuk phụ trách. Trong phiên ṭa này, một nữ nhân viên thuộc Bộ ngoại giao Thái đứng ra làm nhân chứng Công Tố đại diện CSVN. L/S Worasit đưa giấy cho tôi kư để chính thức xác nhận trao quyền “power of attorney” cho ông ta. Tôi bảo: “Ông phải đề nghị và được Thẩm Phán bảo đảm là vụ xét xử chỉ kéo dài trong ṿng vài tháng trước. Nếu không thành công, tôi sẽ t́nh nguyện bị dẫn độ, và nhiệm vụ ông chấm dứt. Vậy kư giấy trước làm ǵ?” Luật sư tŕnh bày ư kiến đó và được Thẩm Phán chấp thuận bằng cách tuyên bố phiên ṭa kế tiếp chỉ cách 2 tuần vào ngày 7/8. Nhân chứng Công tố tŕnh bày trường hợp tôi bay vào VN bất hợp pháp, và nhà nước VC đề nghị sẽ truy tố tôi 2 tội thuộc Điều 81: Xâm phạm an ninh lănh thổ quốc gia và Điều 88 : Tuyên truyền chống nhà nước VC. Khi Thẩm Phán tuyên bố Điều 88 thuộc phạm vi chính trị, bà ta đồng ư hủy bỏ truy tố điều này. Do L/S Worasit, theo yêu cầu của tôi, đă chấp nhận việc tôi bay vào không phận VN để loại bỏ bớt 2 nhân chứng công tố để rút ngắn các phiên ṭa. Ṭa có chỉ định một Thông Dịch Viên “chùa” cho tôi. L/S Worasit thực sự quá “biết” như tôi tiên đoán sau một thời gian tiếp xúc với ông ta. Năm 2001, cô Malee có đưa ông ta đến giới thiệu, do tôi nhất định không sử dụng Luật Sư sau khi L/S Matthew và L/S Puttri “chém” hết 25,000 Mỹ Kim dù chưa làm ǵ cả, nhất là khả năng Anh ngữ L/S Worasit kém, và ăn nói dông dài, chẳng xoáy vào trọng tâm. Khi về nhà tù Klong Prem, tay Benny khen ngợi tổ hợp Luật Sư của ḿnh, bảo : “Khá nhất tại Thái Lan,” tôi yêu cầu giới thiệu, hóa ra lại gặp L/S Worasit! Cái khôi hài là L/S Worasit c̣n không biết luật Thái Lan có điều khoản cho phép “mở lại các vụ án đă đóng” và chính Benny, nhờ biết tiếng Thái và nghiên cứu các sách luật Thái đă t́m ra, và L/S Worasit đă khen : “Chính Benny là Luật Sư, chứ không phải ông ta !” Trong những buổi L/S Worasit gặp tôi, dù tôi và L/S Thống đă soạn sẵn cho ông một Biện Minh Trạng trên 10 luận điểm để bác bỏ yêu sách dẫn độ, nhưng ông chỉ quan tâm 1 điều duy nhất: Tội danh chính Trị và không hề đề cập đến các luận điểm quan trọng khác. Ông c̣n có những ư kiến làm tôi nghi ngờ ông đă bị VC “mua đứt.”
Chẳng hạn tôi muốn sử dụng phương tiện báo chí, truyền thông tối đa để gây ảnh hưởng và áp lực th́ ông từ chối, bảo không phải nhiệm vụ ḿnh (có lẽ ông sợ do ảnh hưởng của báo chí mà chính phủ Thái khước từ yêu sách dẫn độ cuả VC ngay, không đưa ra ṭa, và ông sẽ mất dịp kiếm tiền và danh tiếng ?). Nhưng sau đó ông lại đề nghị : “Tôi nên yêu cầu nhiều Chủ Tịch ủy ban PHTTLT sang Thái Lan làm chứng bị cáo, khai rằng họ thuộc tổ chức của tôi, yểm trợ tài chánh trong phi vụ “không tặc 2” và sẽ dùng báo chí khuấy động lớn vụ án! Trước hết ông tự mâu thuẫn về vụ báo chí. Thứ nh́, các tội phạm thi hành bởi cá nhân nhẹ tội hơn các tội phạm “có tổ chức.” Nếu chấp thuận sáng kiến “điên rồ” đó tôi sẽ bị kết án nặng hơn và các thân hữu làm nhân chứng sẽ bị kết tội đồng lơa, có thể bị Thái Lan bắt giam, và bị VC đ̣i dẫn độ ! chưa kể càng nhiều nhân chứng, càng kéo dài phiên ṭa, và không thân hữu nào “rỗi rảnh” hoặc “dại dột” qua Thái Lan làm việc đó. L/S Worasit ḥan ṭan không chấp nhận việc sử dụng bà Suthathif làm nhân chứng bị cáo và bảo tôi “Forget her,” và không nên nhắc ǵ về vụ án không tặc cũ, dù sự kết án sai nhầm, bất công. Sau khi nhân chứng Công Tố tŕnh bày xong L/S Worasit đặt câu hỏi. Ông hỏi bà: VN có Warning khi tôi xâm phạm không? Bà trả lời: Không rơ. Rồi : Lư Tống đă ở tù 20 năm. Quan ṭa bác bỏ v́ không liên quan. Rồi Lư Tống là người mở máy phi cơ, Taxi, cất cánh, và bay, th́ bà bác bỏ, bảo chính HLV, Thira thực hiện các động tác đó. L/S Worasit có vẻ “lụp chụp” và “lúng túng” khi lật các tập hồ sơ để dẫn chứng mà không t́m ra. Nh́n Thẩm Phán gạt bỏ hầu hết các câu hỏi của L/S Worasit tôi thấy thất vọng. Tôi nằng nặc yêu cầu Thẩm Phán cho gọi bà Suthathif làm nhân chứng phiên ṭa kế, v́ nếu tôi được chứng minh “không phạm tội không tặc” th́ chính HLV Thira, trưởng phi cơ phải chịu trách nhiệm về mọi vi phạm nếu anh ta t́nh nguyện hợp tác để lănh thưởng hơn 800,000 Baht. L/S Worasit bảo : “Anh muốn rút ngắn phiên ṭa và anh có “control” được bà Suthathif không mà cho gọi bà ấy làm nhân chứng ? ” tôi bảo “Rút ngắn để thắng, chứ rút ngắn để bại th́ tôi mất công ra ṭa và mất tiền trả cho ông làm ǵ ? Thà t́nh nguyện dẫn độ c̣n hơn. C̣n bà Suthathif, tôi chỉ cần hỏi bà xác nhận lại các lời bà đă khai tại Ṭa Rayong, phần lớn đều có ghi trong biên bản ṭa, th́ bà “phản” tôi thế nào được ?” V́ thấy tôi cứ nhắc đi nhắc lại nhân chứng Suthathif L/S Worasit phải tŕnh với Thẩm Phán, và ông trả lời: “Tôi không quan tâm và không xem anh là không tặc” phe ta chỉ nghe vậy, chưa hiểu hết ư nghĩa xác định nầy nên đồng lọat vỗ tay hoan hô. Do cặp kính trắng và kính khác bị giữ lại bên ngoài trong chuyến chuyển trại, tôi chỉ c̣n cặp kính đen mà LH có nhận xét “trông có vẻ Mafia” khi chụp h́nh đăng trên báo Bangkok Post nên tôi, để tránh gây thành kiến với quan ṭa, không mang kính vào pḥng xử án. Do đó không thấy rơ mặt 2 Thẩm Phán, chỉ lờ mờ biết một ông tuổi khá cao, v́ mắt cận thị. (Tôi nhắn bà Saijit đem theo kính trắng trong phiên ṭa 7/8, nhưng bà bảo: MH và SP đă đem hết về Mỹ, nên hiện giờ không biết 2 kính đó, do thân hữu tặng trong dịp Sinh Nhật, tổng giá đến 20,000 baht giờ nằm ở đâu?) Một điều đáng phấn khởi là vị Công Tố trông dáng dấp hiền lành, thân hữu, không “ngầu và bặm trợn” như tay Công Tố ở Rayong, và khi phiên ṭa kết thúc, ông c̣n bảo tôi bằng tiếng Anh lưu loát : “Mr. Ly Tong. Don’t worry. I am neutral,” và chào lại khi tôi chào từ giă. Phiên ṭa nầy gây một ấn tượng hy vọng, nhất là trong thời gian vừa qua, 3 sếp lớn trong ban giám sát của Chính Phủ Thủ Tướng Thaksin bị bắt về tội tham nhũng, và Đài Thái tần số 3 đang chiếu phim “Bao Công xử án.” Do đă đồng ư tham dự phiên ṭa, nên hôm sau khi gặp thân hữu, tôi điều chỉnh và quyết định: 1- Đề nghị số tiền yểm trợ của 3 nhóm dồn cho anh Long giữ, để anh Long phụ trách chi cho L/S Worasit 100,000 baht, đưa bà Saijit một số, số c̣n lại gởi cho bank account của tôi. Không hiểu sao hôm thăm nuôi đầu, thân hữu đều bảo: “Chúng tôi không biết ǵ về vụ 7,000 Úc kim đóng góp, chúng tôi chỉ gom tiền túi mua quà tặng anh thôi,” nhưng hôm gặp thứ nh́ sau phiên ṭa th́ thân hữu lại báo cáo bên Úc đă chi tiền cho L/S Worasit. Do trước đó có đọc e-mail L/S Worasit đ̣i 130,000 baht, tôi bèn bảo: “Tôi chỉ c̣n nợ 100,000 baht, sao lại chi cho ông ta 130,000 baht mà không đợi ư kiến của tôi?” Tôi nhờ thân hữu nhắn L/S Worasit phải gặp tôi 4-5 lần trước phiên ṭa 7/8 để thảo luận những điều cần phát biểu tại ṭa và gởi lời cám ơn tất cả đồng bào tại Úc, Mỹ, đặc biệt các mạnh thường quân tích cực yểm trợ.
2- Phiên Ṭa 7/8. Trong thời gian chờ ra Ṭa, Thầy Thích Quảng Ba (Úc Châu), nhân dịp ghé dự Đại Hội Phật Giáo Toàn Cầu tổ chức tại Thái Lan, có ghé thăm tôi. Trông thầy vẫn không thay đổi kể từ dạo tôi đi Úc Châu (1999?), và đă gặp Thầy nhân dịp Họp mặt của tổ chức Sinh Viên Thế Giới tại Melbourne. Thầy c̣n gởi 2 bộ Kinh Phật đến nhà tù tặng cho tôi. Có điều lạ là khi ra về, h́nh như tôi thấy Thầy ngồi trên xe lăn (không biết có chính xác không), v́ trong thời gian đó, tôi bệnh liên tục, nên mắt hơi mờ, có lúc nhầm người nầy với người khác tôi hỏi: “Thầy có thể gặp được Vua Săi không? ” “Ông nào?” “ông số 1 Phật Giáo Thái Lan, và nhờ ông can thiệp vụ án tôi?” (v́ trước kia nghe có một số thầy từ Úc định qua Thái biểu t́nh). Thầy giải thích: “Phật Giáo Thái không được phép dính líu vào chính trị. Và cũng chưa chắc có cơ hội gặp mặt, tiếp xúc riêng với Vua Săi!” Tôi bèn nhắc lại đề nghị trước kia: “Tôi có nhờ anh em nhắn đồng bào bên Úc biểu t́nh tại Dinh Thủ Tướng Howard, Bộ Trưởng Ngoại Giao Downer, gây áp lực, yêu cầu 2 vị nầy liên lạc với Bush và Rice, không biết có ai tổ chức không? Nghe đài có tin Howard trực tiếp gọi điện thoại cho Tổng Thống Singapore 6 lần, đề nghị giảm án treo cổ cho một phạm nhân Úc gốc Việt can tội ma túy. C̣n Quốc Hội Úc cũng tích cực lên án VC khi đồng bào biểu t́nh tŕnh bày vụ Thầy Thích Quảng Độ bị công an VC làm phiền nhiễu, gây khó khăn…” Thầy bảo: “Chủ Tịch cộng đồng Úc Châu có liên lạc nhưng không kết quả. Họ không quan tâm v́ anh không phải là công dân Úc.” Tôi tâm sự: “Nói thật với Thầy, lắm lúc tôi muốn “buông trôi” mọi chuyện, không hào hứng đưa đề nghị nầy, sáng kiến kia, hoặc đấu tranh để tự minh oan, tự biện hộ cho ḿnh, v́ thấy kết quả rồi chẳng đến đâu. Ḿnh chỉ là, hạt cát và guồng máy cứ lạnh lùng, tàn nhẫn vận hành, nghiền nát bất kể kẻ tốt người xấu.” Thầy hân hoan bảo: “Anh nghĩ như vậy là tốt. Không nên quá hy vọng hăo huyền hay hoang tưởng.” Riêng về L/S Worasit, tuy nhắc đi nhắc lại với các thân hữu bảo ông gặp tôi, nhưng hơn cả tuần vẫn không thấy ông đến, từ hôm 24/7. Ngày 2/8 nghe gọi có Luật Sư gặp. Mấy hôm trước tôi đem trực tiếp một số giấy tờ cần đem theo ra Ṭa giao trực tiếp cho sếp phụ trách trên pḥng Tham mưu, và ông này lại giao trả về Dan 5 v́ không đúng thủ tục, tức tôi phải nộp giấy tờ tại Dan 5, Tù Thái sẽ dịch một số tiếng Anh sang Thái, đặc biệt các notes tôi viết tay, rồi Dan 5 chuyển lên cấp trên, cấp trên xét duyệt và nếu OK sẽ giao cho tôi đúng ngày ra Ṭa, do lần trước tôi đem theo bị từ chối giữ lại. Sếp Dan 1 cho rằng tôi “qua mặt sếp,” lén đem tài liệu lên thẳng cấp trên, dù thực tế tôi đă báo cho tù gác cổng, và thường không có ǵ trở ngại. Cái note này cũng là copy của note đă dịch, đă tŕnh, nên tôi nghĩ chẳng có vấn đề, v́ nói chuyện và tŕnh bày cho Luật Sư 16 luận điểm mà không có note, tôi không nhớ hết, hoặc không nói đúng theo thứ tự. Tù gác cổng được sếp ra lệnh mật, đặc biệt xét kỹ tôi, thay v́ chỉ sờ soạn đại khái như thông lệ. Do note bỏ trong túi quần nên tay gác t́m ra ngay, đưa cho sếp trực. Sếp trực tŕnh sếp số 1. Sếp số 1 gọi tay tù Thông Dịch. Tay này xác nhận note này chỉ là copy (ngắn hơn) của note đă dịch, đă tŕnh, nhưng sếp cương quyết không cho đem theo. để trừng trị L/S Worasit cả tuần không đến, và v́ biết ngày hôm sau DB Văn và Lănh Sự sẽ ghé thăm tôi áp dụng kế sách: “bất xuất, bất nhập,” tuyên bố từ đây về sau, tôi sẽ không đi gặp bất cứ ai, kể cả ra Ṭa phiên xử 7/8. Tôi trở vào thư viện ngồi, và sếp cũng lờ luôn. Ngày hôm sau pḥng trực gọi tôi có Lănh Sự ghé. Tôi lên pḥng xác nhận chắc nịch: “không gặp Lănh Sự, không đi Ṭa.” Au parleur trại gọi lần nh́ tôi vẫn b́nh chân như vại, ngồi đọc sách. Có lẽ sếp pḥng thăm nuôi đă báo cáo việc tôi không gặp Lănh Sự, cho Phó Giám Đốc Trại và ông này đă gọi sếp Dan 1 khiển trách ǵ đó, ông phái tù trực xuống mời tôi lên pḥng cùng tay thông dịch. Ông tŕnh bày: “Tôi muốn quan hệ giữa anh và tôi thân hữu trong thời gian anh ở Dan 5. Hôm qua do anh nóng quá, bỏ về trong lúc tôi đang xét xem cách giải quyết sự việc, anh biết ai ghé thăm anh hôm nay không?” “Biết chứ! Một sếp lớn bên Mỹ qua và Lănh Sự. Tôi có tật đăng trí dù đi thăm nuôi cũng phải đem theo note, huống ǵ gặp Luật Sư tŕnh bày nhiều vấn đề. Nếu từ nay về sau ông không cấm tôi đem note theo, tôi mới gặp Lănh Sự. C̣n nếu không, phiên Ṭa 7/8 ông cũng đừng gọi tên tôi mất công. Tôi cấm cung luôn.” Trưởng Dan 5 xuống giọng: “Nhưng anh phải cho tù thông dịch đọc check trước anh viết ǵ trước khi ra cổng! chuyện đó không trở ngại. Nói thật ông nếu tôi muốn hại ông, tôi có trăm cách, cần ǵ phải cầm note đi theo. Tôi có thể bảo các thân hữu hay Luật Sư để họ liên lạc Tổng Cục Trại giam…” Ông ta cầm miếng giấy note kư tên vào để ai hỏi tôi đưa họ xem tính hợp lệ của note. DB Văn chắc đợi tôi cả giờ. Khi tôi ra pḥng thăm đă thấy DB Văn và nhà báo Vi Anh lui tới bồn chồn. DB Văn hỏi: “Có ǵ trở ngại lâu vậy anh?” Tôi bảo: “Anh phải làm căng với tên Trưởng Dan để hắn không cấm anh đem theo note. Hôm qua anh không tiếp Luật Sư nó không care. Nhưng không tiếp “Sếp” từ Mỹ qua và Lănh Sự th́ hắn phải chịu thua.” L/S Văn hỏi: “Anh có cho phép Lănh Sự vào pḥng gặp anh không?” (Đây là lần thứ nh́, lần nhất ở Rayong, Lănh Sự phải nhờ người hội ư kiến cho phép của tôi, bởi bị tôi “đuổi get out of here, never come back” mấy lần.) Tôi bảo: “Cứ mời ông ta vào, không ǵ trở ngại.” Lănh Sự cùng phụ tá Thái vào, sau khi chào hỏi, ngồi tiếp chuyện với sếp pḥng thăm nuôi, để tôi và phái đoàn nói chuyện riêng.
Phái đoàn DB Văn đi Thái Lan lần đầu được nhà tù Klong Prem tiếp đăi long trọng: Dành 1 pḥng riêng, có quay video, chụp h́nh trong buổi tiếp xúc tôi. Nhà tù Bangkok Remand, do cơ sở lạc hậu, lại bản chất rừng rú, Mafia, nên để L/S Văn gặp tôi cùng chỗ tù gặp Lănh Sự thông thường, người bên này, kẻ bên kia lưới sắt, và lưới sắt lại gồ ghề, nham nhở do quấn thêm dây thép cho chắc ăn! Thấy 2 người đứng lổm chổm tôi bảo: “Ngồi cho khoẻ. Đứng ǵ cho mỏi chân.” L/S Văn trả lời: “Tụi em ngồi từ năy giờ ê lưng rồi, đứng một chốc giăn gân cốt.” Tôi tŕnh bày lư do tại sao ra trễ và nói về vụ bệnh hoạn: “Suốt 2 tháng qua anh bị bệnh liên tục. Đi bệnh viện Bác Sĩ cho đúng 6 viên Paracetamols. Trại Remand sử dụng Para trị bá bệnh như trước kia VC dùng xuyên tâm liên. Vừa rồi có tù Dan 1 chết v́ không được cấp thuốc cần để trị bệnh. Nghe có người báo lên trên và nhân viên LHQ có đến điều tra t́nh trạng bóc lột lao động, chỉ tiêu ăn uống, tắm, giặt… V́ LHQ có phụ cấp về ẩm thực, thuốc men cho các Trại Tù Thái, trong khi bác sĩ trại tù lại lấy thuốc tốt đem bán cho các pharmacy lấy tiền bỏ túi. Lần khám ghé xin Prescription mua thuốc bên ngoài, ông cho mua khá nhiều thuốc. Tại nơi Pharmacy do ông chỉ định (ăn tiền Commission), nhưng uống thuốc cả tuần không ép phê ǵ. Anh lên gặp yêu cầu Bác sĩ cho thuốc, ông từ chối, bảo thuốc đă tốt rồi. Anh có nhờ bà Saijit nói nhờ với Pharmacy, deal với ông ta cho anh nằm lại bệnh xá trại và chi tiền, nhưng không kết quả. Bệnh hoạn mà nằm trong pḥng chật chội, Tivi mở volume maximum như tra tấn thần kinh, anh thật t́nh chịu hết nổi. Bị VC tra tấn không ép-phê, vậy mà mỗi lần bệnh nặng, nói thật, anh chỉ muốn tự tử cho xong. (Tuy bảo nói thật, như thật ra có phần dỏm để trầm trọng hoá vấn đề). Trong suốt đời tù 20 năm tôi chỉ có 3 lần bệnh nặng, 1 lần sốt rét tại Lam Sơn, 1 lần sốt rét tại Trại 53 và lần bị bệnh suốt 2 tháng nầy, tôi thật sự cảm thấy cuộc đời thật vô nghĩa, nhất là những ngày xem Tivi, chứng kiến những tên bất tài, vô tướng, múa may trên chính trường, những ông hoàng, bà chúa những tên mù chột, những mợ vịt bầu, heo nái, mồm ống nhổ… nhi nhô, vô tích sự, lạm dụng truyền h́nh tự quảng cáo, tẩy năo, bắt dân ngu, khu đen phải thờ phượng, thần phục, ghi ơn ḿnh. Những tên lănh đạo chỉ quan tâm cho bản thân, đảng ḿnh và kỳ bầu cử tới. Có những tên nét mặt tàn độc, táo bón, không nhận tính gian ác, dị hợm, vô tâm biểu lộ rơ ràng mà dân chúng vẫn mù ḷa không thấy, hay sợ quá không dám thấy. Các đám bất nhân, bất trí, bất nghĩa, vô t́nh nầy cứ ngồi chồm hổm trên bộ máy tự động, lạnh lùng nghiền nát đại đa số quần chúng cùng khổ, bất hạnh, chẳng chút thương tâm. Những loài người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm lũ Jerk, “chó nhảy bàn độc” lại nắm toàn quyền sinh sát vận mệnh mọi người và ḿnh hoàn toàn bất lực, không làm ǵ đuợc, không cứu được ai, không cứu được cả bản thân ḿnh, cứ măi chứng kiến cảnh nhố nhăng, tởm lợm tái diễn hằng ngày. Ngay chính khi loại bỏ được lũ lănh tụ ăn hại, đái nát trên thế giới, đặc biệt tại VN, để ṭan thế giới có Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền, th́ loài người cũng chẳng hoàn toàn hạnh phúc v́ c̣n bao nhiêu nguyên nhân khác để bất hạnh như sự bất b́nh đẳng bẩm sinh hay do hoàn cảnh xă hội của mỗi người. (Ngay chính những mợ vịt bầu, heo nái, mồm ống nhổ… dù sinh ra trong chốn quyền quí cao sang, không bận tâm về sinh kế, bị ức hiếp, nhưng chắc chắn họ cũng chẳng hoàn toàn hạnh phúc khi “chiêm ngưỡng” h́nh dạng dị hỡm, xấu xí của ḿnh trong gương, trên báo chí, truyền h́nh hàng ngày.) Nhiều lúc nghe bọn tù ngọai quốc thuộc các tôn giáo nghịch nhau, bàn tiếu lâm về các tôn giáo khác bằng lối lẩm cẩm suy diễn về thuyết “Diệt Dục” của Đức Phật qua tính chất thụ động, tiêu cực của lời Ngài dạy, bởi cứ không “ham giàu, ham đẹp, ham khoẻ mạnh, ham hoàn hảo, ham địa vị…” th́ không khổ v́ nghèo, v́ xấu, v́ bịnh hoạn, tàn tật, thấp hèn. C̣n sống th́ c̣n tu, c̣n diệt dục, chết đi lên Niết Bàn cũng chỉ “ăn chay, đánh cờ, xem tiên múa và ngồi nghe lời Phật dạy…” Cũng chẳng có ǵ hào hứng, dù trên tiên cảnh mọi thứ đều bằng vàng bạc, kim cương, ngọc thạch, châu báu từ con đường đi, nhà ở, ao hồ, cây cối chưa kể suốt ngày uống rượu tiên, xem tiên nữ múa mà cứ “chay tịnh,” không sex th́ nếu không điên (và nhất là không chết được nữa) trước sau cũng trở thành những kẻ “refoulé bất tử” (ấm ức t́nh dục) hay bàn về “Thiên Đàng” của Thiên Chúa Giáo, những người được lên Thiên đàng “suốt ngày bay lượn quanh Thiên Chúa để ca ngợi Thiên Chúa” cũng chẳng có ǵ hấp dẫn dù được sống đời đời chưa kể chỉ cần tưởng tượng cảnh bay lượn đă chóng mặt, huống ǵ phải bay lượn đời đời để trở thành những “kẻ vertigo vĩnh hằng” như phi công bay ngoại quan trong mây mù. Duy chỉ Hồi Giáo cụ thể hứa hẹn các “thánh tử đạo” (hay suicide bombers) sẽ được hưởng 72 trinh nữ đẹp tuyệt trần, mỗi người có 74 gian pḥng riêng, mỗi bữa ăn có 74 món (72 trinh nữ + thánh tử đạo + vợ trần thế = 74 ? ), cây cối th́ sai quả và sà xuống tận tay, chim chóc bay ngang nếu muốn ăn, chỉ cần lên tiếng, chim sẽ rơi xuống tận tay, tự động nướng chín và sau đó, lông, xương cũ hoá thành chim mới bay đi… mỗi thánh tử đạo đều trẻ măi ở tuổi 30, thân h́nh đồ sộ, vĩ đại như những người khổng lồ… Sống theo chủ nghĩa hedonism, (khoái lạc) như những “sex master” là hấp dẫn nhất đủ thỏa măn ẩn ức t́nh dục và sự thèm khát của đám tín đồ nghèo khổ không đủ khả năng tài chánh để lấy vợ, phải giải quyết sinh lư qua đường đồng t́nh luyến ái hay thủ dâm, trong khi đám quyền quư có quyền lấy 4 vợ, và thay vợ như thay áo, bằng cách gởi message li dị qua cell phone. Nhưng thiên đàng Hồi Giáo so với “thế giới tân Plato” c̣n kém xa về phần hấp dẫn. Dân tân Plato, ngoài nhan sắc, thể h́nh, sức khoẻ… toàn hảo, đều sống độc thân, và những người khác phái đều là t́nh nhân của nhau, mỗi ngày cũng làm lễ 5 lần như HG nhưng theo nghi thức: làm t́nh, mỗi lần với 1 đối tượng khác nhau, với số tuổi thọ trung b́nh 100 tuổi, và khả năng làm t́nh kéo dài 80 năm, nên con số 72 trinh nữ thật chẳng đáng kể đối với 146,000 người t́nh (5 người x 365 ngày x 80 năm), nhất là nữ giới không c̣n là vật sở hữu, vật phụ thuộc, phục vụ t́nh dục cho nam giới kiểu HG, mà b́nh đẳng tuyệt đối trên mọi phương diện. Kẻ vô thần th́ lư luận: Nếu vũ trụ và mọi sinh vật trên trái đất là tác phẩm toàn mỹ không thể tự sinh mà phải có bàn tay của đấng tạo hóa tạo ra, dựng nên, vậy tạo hóa hay thượng đế, toàn hảo gấp ngàn vạn lần các vật tạo sinh, được ai sinh ra hay tự sinh? Nếu tạo vật tự sinh vô lư, th́ Thượng Đế tự sinh càng vô lư hơn. Chưa kể Thượng đế tạo ra con người theo “h́nh ảnh của ḿnh.” Con người xấu xa, độc ác, đầy tội lỗi lại là “h́nh ảnh” của Thượng Đế, vậy Thượng Đế cũng xấu xa, độc ác, đầy tội lỗi?! Trong những cơn vật vă v́ bệnh nặng, tôi chỉ mong trời sập, đạn lạc, hay một tên quản giáo khùng, lên cơn điên “bụp” ḿnh môt phát cho xong, chấm dứt mọi đau khổ. Trong những giờ phút đó, tôi cảm thấy ư nghĩa đích thực của “Ngày Tận Thế,” và đồng cảm với tác giả đầu tiên đă sáng kiến giải pháp nầy. Loài người không thể cải tạo được, và không thể buid up một thế giới mới tốt đẹp mà không phải tận diệt hết mọi kẻ xấu. Và v́ mấy ngàn năm trước, khoa học, kỹ thuật chưa đủ tiến bộ để tạo sinh một giống người mới toàn hảo từ thể chất đến tinh thần sống hạnh phúc trên đại cầu nên niềm mơ ước đó chỉ được thực hiện trên Thiên đàng. Nhưng trong tương lai, nếu các lănh đạo thế giới có tầm nh́n, biết khai thác các công nghệ mới về gien, sinh sản vô tính, thụ tinh ống nghiệm. tử cung, nhân tạo… theo thuyết “Neo-Republic” (Tân Plato), th́ điạ dàng trần thế sẽ trở thành hiện thực, đem lại hạnh phúc toàn vẹn cho nhân loại. Cũng nhờ “nói thật - dỏm” về ư nghĩ “tự tử” mà đúng 1 tuần sau, tôi được Bác sĩ Trại tù mời lên gặp. Ông đưa tôi xem bức thư (tiếng Thái) và giải thích: “Trong dip gặp một ‘sếp lớn’ từ Hoa Kỳ sang, anh có tŕnh bày về vấn đề bệnh hoạn và Ṭa Đại Sứ Mỹ gởi thư cho Cục Trưởng Cục Trại giam báo anh có tư tưởng “tự tử,” do đó ông (Bác sĩ Phó Bệnh Xá) được lệnh “take care” tôi. Ông sẽ cho thuốc (của Trại, th́ ra Trại Tù cũng có thuốc tốt, đâu chỉ “para trị bá bệnh”) trong 7 ngày. Nếu chưa khỏi, ông sẽ cấp thêm 7 ngày thuốc khác. Sau 2 tuần, nếu không thuyên giảm, tôi sẽ được chuyển đi Bệnh Viện bên ngoài điều trị!
Vấn đề chính tôi đề nghị DB Văn và anh Vi Anh, (báo Người Việt) là “giải quyết vụ án Dẫn Độ bằng giải pháp Suthathif - tức phải giải quyết căn nguyên, gốc rễ của vấn đề - bởi nếu không có vụ án không tặc “dỏm” th́ không có vụ án Dẫn Độ. Và một khi HLV Thira t́nh nguyện hợp tác để nhận phần thưởng, chính anh ta chịu trách nhiệm hoàn toàn mọi vi phạm trong chuyến bay đó, và người VC đ̣i dẫn độ chính là Thira, không phải tôi. Việc DB Văn công du Thái Lan 2 chuyến và 1 chuyến đi Washington D.C. rất đáng tôn trọng, cám ơn, nhưng thực tế sẽ không đem lại kết quả ǵ. Bởi với “cấp” 1 dân biểu tiểu bang (Assembler) Toà Đại Sứ Mỹ, Đại Sứ Thái Lan chỉ lịch sự tiếp cho đúng thủ tục, nhưng sau đó họ chẳng làm ǵ, chẳng c̣n bận tâm nữa. cá nhân th́ phải cấp “Speaker of the House, Majority leader của Thượng Viện” họa may mới đủ thực lực buộc các giới liên hệ tích cực giải quyết vụ án. DB Văn bảo: “Em đủ thẩm quyền mời bà Suthathif qua Mỹ để tŕnh bày sự việc.” Tôi đề nghị: “Nên nhờ các Dân Biểu Liên Bang vận động Quốc Hội chấp thuận cho Tiểu Bang Pháp Lư Đặc Biệt của Quốc Hội phụ trách việc điều trần và chính Chủ Tịch Tiểu Bang nầy gởi thư mời mới có thực lực. Nhất là buổi điều trần cần có biên bản, cần có Nghị Quyết để yêu cầu Hành Pháp, đặc biệt Bộ Ngọai Giao Mỹ, can thiệp, chứ không nên đưa bà Suthatif ra nói chuyện tại những buổi điều trần h́nh thức, chung chung như các dip “Ngày Nhân Quyền VN” hay đi nói chuyện tại các Đài VN, các cộng đồng VN tị nạn tại Mỹ. DB Văn hứa sẽ thực hiện yêu cầu nầy khi trở về, không biết có tổ chức kịp trước ngày 7/9/06, phiên ṭa ra phán quyết?! Tôi nhờ Lănh Sự gọi L/S Worasit ghé thăm để thảo luận các điểm phản biện. Ông không đến ngay chiều đó, đợi đến gần trưa hôm sau và thăm luôn 2 thân chủ: Tôi và một thanh niên VN khác qua Pháp từ nhỏ nên không nói được tiếng Việt, sau đó lại trở thành công dân Mỹ. Không biết anh ta phạm tội ǵ mà bị Pháp đ̣i dẫn độ. L/S Worasit nói chuyện với tôi chừng 15 phút, xin lỗi đi gặp thân chủ kia “5 phút,” nhưng đến 20 phút sau ông mới trở lại. Vừa ngồi chưa nóng đít là hết giờ làm việc nên câu chuyện chấm dứt dở dang. Khi tôi đặt vấn đề dịch vụ pháp lư và đ̣i lại số tiền 30,000 baht ông nhận quá lố từ thân hữu Australia v́ tôi đă chi trước ông ta 20,000 baht và 100 MK, ông trả lời: “Anh đă cho tôi thôi việc(?) nên xem như số tiền đặt cọc là tiền làm việc cho anh trong thời gian qua. Bạn anh mướn tôi trở lại và phải trả toàn bộ chi phí mới!” Ông có vẻ không hào hứng khi nghe tôi muốn phát biểu, do đó khi tôi tŕnh bày một số điểm chính, ông cũng không chú ư lắm, chỉ nghe cho có lệ! Điều bức xúc nhất trong phiên ṭa 7/8 sắp đến là tôi cần tài liệu Ṭa Rayong để chứng minh ḿnh không phạm tội không tặc, nhưng không biết MH hay SP đă lấy tất cả mọi thứ về Mỹ - theo bà saijit hai người dồn mọi thứ vào 4 bao, một số vất lại tại pḥng khách sạn, một số đem về nhưng không hề giao lại cho LN. Vấn đề trở ngại một phần do sự làm việc bôi bác vô trách nhiệm của bà Saijit. Tôi yêu cầu bà gởi các tài liệu nầy vào cho tôi đă hơn hai tháng, bà bảo sẽ soạn đồ rồi gởi vào, nhưng bà chẳng làm ǵ cả. Đế khi chỉ c̣n 1 tuần ra Ṭa và tôi nhờ sếp tù gặp bà trực tiếp lúc đó bà mới xác nhận: Không c̣n ǵ cả?! Cái lạ là trong bức thư gởi cho LN nhờ bà Saijit chuyển bằng tiếng Anh, tôi cũng có nhắn LN gởi các tài liệu trực tiếp cho xong, khỏi mất công nhắc đi nhắc lại và chờ bà Saijit gải quyết. Bức thư nầy gởi từ Bệnh Viện, tức đă 2 tháng, cũng chẳng thấy LN gởi hay đề cập đến yêu cầu đó!
Sáng 7/8 tôi đem theo note, lại lận thêm 1 copy trong quần xi líp cho chắc ăn, dù bản chính đă nộp – Hôm nay D5 đi Ṭa chỉ 3 người, toàn nhà tù Remand chỉ hơn 20 nên khi lên xe ngồi rộng răi thoải mái. Nhưng đến khi xe chở tù ghé lại đón thêm tù ở nhà tù Bom-Bat th́ số hành khách quá tải, tôi muốn ngộp thở v́ đang bệnh. Mỗi lần đi Ṭa ở Trại Remand là một kinh hoàng, không như Trại Rayong. Trong tất cả các Trại Tù, Rayong hạng bét về mọi thứ: từ ăn, ngủ, tắm, và kỷ luật, nhưng ngày đi Ṭa là ngày hội. Bởi chỉ Rayong cho phép tù đem đồ ăn riêng theo, ra đến pḥng đợi của Ṭa lại được nhận quà, tiền bạc và mọi thứ cần dùng, sách báo thoải mái. Tù nói chuyện qua điện thoại nhưng vẫn thấy mặt thân nhân cách nhau 7-8 thước. Thân nhân “điệu nghệ” c̣n được vào tận pḥng tạm giam như HDH đă từng vào chụp h́nh và đưa cell phone cho tôi trả lời phỏng vấn Đài QH. Nếu chịu chi 200 baht tù sẽ được ra ngồi ở pḥng ngoài, chỉ cách thân nhân một dăy chấn song sắt, có thể “tiếp cận” tay chân mồm miệng với vợ, người t́nh! Chưa kể nếu vợ chồng, bồ bịch cùng chung vụ án, cùng ở tù tại Rayong, kẻ khu nam, người khu nữ, th́ khi ra Ṭa, 2 người có thể ngồi cạnh nhau, v́ 2 pḥng nam nữ chỉ cách nhau bằng song sắt (chứ không phải lưới sắt). Lần ra Ṭa 24/7 bệnh tôi càng trầm trọng v́ suốt ngày nhịn đói, không uống thuốc, và khi vào pḥng xử án, thân hữu mang theo 2 bịch trái nhăn lớn lại không được phép nhận nên đành cho tay cảnh sát điệu nghệ. Lại gặp Ṭa phiên chiều, về xe chuyến thứ hai, trễ, nên không được về pḥng ḿnh mà phải ngủ tạm tại Dan 1, không nệm, mền, nằm co ro chen chúc trên sàn nhà dưới quạt máy vần vũ. (Tù Thái c̣n có tật “mê” quạt trần. Dù vào mùa lạnh, họ vẫn mở quạt máy tối đa và trùm mền kín toàn bộ người! Có nơi quạt trần dùng để đuổi muỗi, nhưng tại Remand, không có muỗi – không hiểu tại sao Klong Prem cách Remand chỉ 300 mét đường chim bay mà Klong Prem th́ muỗi rất bạo, buổi sáng đứng tập thể dục, 2 cẳng chân ít nhất cũng có vài chục con muỗi to như ruồi hút máu dù muỗi Thái không gây ngứa ngáy, sưng tấy nhiều như muỗi VN, c̣n Remand th́ pḥng ngủ hiếm khi thấy muỗi, quá lắm chỉ vài con nhờ hệ thống lưỡi muỗi c̣n tốt, và buổi sáng xuống sân cũng không hề bị muỗi (và cả ruồi) quấy nhiễu dù Dan nào ở đây cũng có ao nước làm nhà thuỷ tạ. Người Thái theo Đạo Phật “cấm sát sinh” nên không giết ruồi, muỗi, ngay cả kiến – tôi muốn nổi điên v́ bị kiến cắn trong khi tay tù Thái nằm cạnh cửa cứ cuốn giấy “xúc” kiến và búng ra ng̣ai cửa! Vừa mấy hôm trước, Trại cho xịt thuốc DDT vào các hố nước thải, gián bay, ḅ tán loạn cả ngàn con. Tôi tả xung hữu đột “đánh dẹp” muốn đứt hơi trong pḥng thư viện, vậy mà tay tù Thái bạn lại yêu cầu tôi ra sân trước tiếp tục “tàn sát” v́ dân Thái không giết gián! Tù Việt Nam “con ǵ nhúc nhích đều ăn được,” nhà tù Thái bồ câu, chim sẻ, chim cu, mèo, chó thỏ, rắn, ếch… nhởn nhơ khắp nơi một cách thân thiện và an toàn! Có vài tay v́ quá đói, không có thăm nuôi, lén bắt bồ câu, ếch rồi nướng bán lại cho tôi. Tôi trả mèo giá cao nhưng không đứa nào dám, sợ sếp biết được nhốt pḥng kỷ luật và “đục”! Thực ra tù Thái không “đói” như tù VN, v́ cơm và thức ăn nhà tù phát thường đổ bỏ hết một nửa v́ cơm đen, đồ ăn không ngon (những thứ thừa đổ này cho VN là một bửa yến tiệc!) do người Thái tương đối khá giả, hầu hết đều có thăm nuôi. Vả lại công việc tù Thái làm thuộc dạng “tiểu công nghệ,” đan lưới, in ấn, làm mộc…nhẹ nhàng và chỉ làm từ 5-6 giờ một ngày và rất nhiều lúc không có việc, v́ bên ngoài bán không hết, không order thêm). Nhưng điều lạ, trong khi rất “nhân đạo” với sâu bọ, người Thái lại “bất nhân” với con người. Thảm nạn hải tặc Thái là một thí dụ quá điển h́nh, và chuyện mỗi ngày xảy ra dăm bảy án mạng tại Thái Lan là chuyện b́nh thường. Và ch́nh những tay sát nhân giết người không gớm tay này lại “gớm, gờm tay” không giết sâu bọ, ruồi muỗi!? Suốt đêm tại Dan 1, tôi lên cơn sốt liên tục và kiệt sức luôn 10 ngày sau đó! Phiên Ṭa 7/8 xử vào buổi sáng nên tránh được sự tra tấn của “Đêm Dan 1.” Tôi dự trù chuyến Ṭa về nếu quá mệt, sẽ đóng kịch té, giẫy đành đạch, mồm sủi bọt… để được đưa vào bệnh xá trại. Nhưng do yêu cầu của Thẩm Phán: Phải gởi gấp 16 luận điểm bằng văn bản để cứu xét v́ Ṭa không có đủ th́ giờ để tôi tŕnh bày toàn bộ nên đành bỏ kế hoạch tiểu xảo đó. Tưởng chẳng báo, đài Thái nào quan tâm như phiên ṭa 24/7, tôi không dự tính sẽ đụng độ báo chí. Nhưng khi vừa bước xuống xe, tôi bất ngờ nghe câu phỏng vấn bằng tiếng Anh: “Anh nghĩ thế nào nếu bị dẫn độ về VN” và liếc qua trái thấy lố nhố 3 máy quay phim và vài phóng viên. V́ bất ngờ và bị đẩy tới trước theo nhịp bước của hàng ngũ tù, tôi quên bước tránh ra và dừng lại để nói chuyện lâu hơn, chỉ trả lời vắn gọn vừa tiến vào hành lang: “No way. I will go back America.” Nhưng lại nói thêm: “But there must be a fair and just trial.” Phiên ṭa nầy do chỉ cách phiên ṭa trước 2 tuần, nên không thân hữu nào đủ th́ giờ thu xếp công việc để qua dự. Khoảng 9 giờ sáng đă nghe loa gọi tên Tong Ly, phái Nam, ra pḥng chờ. Dọc theo hành lang đến pḥng xử, các chuyên viên quay video đă chực sẵn, nhưng họ chỉ quay, không hỏi ǵ nên tôi chỉ đưa tay chào, nói cám ơn. Khi ra khỏi pḥng trở về pḥng tạm giam cũng vậy. Vào pḥng xử án đă thấy quan ṭa đang bận bịu với vụ án khác. Tôi ngồi xuống và một thiếu nữ người Thái đến ngồi bên cạnh, trao tôi tấm danh thiếp: Ms. Rungrawee, Associated Press (AP). Cô bắt đầu phỏng vấn dù quan ṭa đang làm việc. Viên Đại úy cảnh sát (không thuộc nhóm được tặng 1,000 baht mở kọng) nên không dành “favor” như lần trước, ra hiệu cô phóng viên ngừng hỏi và chuyển xuống ngồi ghế hàng nh́. Tôi quay lại tiếp tục nói chuyện và viên cảnh sát nầy lại gây trở ngại. Cô bèn bảo tôi cho mượn “note” để ghi chép. Nhưng L/S Worasit lại đứng về phe cảnh sát, bảo cô không nên đề cập đến những ǵ liên quan đến phiên ṭa (?!), nên hỏi các vấn đề khác và đề nghị tôi nên “focus” vào các “plan” của ḿnh về Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền! Ngoài ra ông c̣n cả quyết: “Anh không cần phải trả lời phỏng vấn ở đây. Bên ngoài phóng viên AP, cơ quan thông tấn lớn nhất thế giới đang chờ sẵn, khi xong phiên xử mặc sức tŕnh bày quan điểm.” Nghe chuyện hơi trái tai, tôi vặn lại: “Cô này là phóng viên AP vậy c̣n phóng viên AP nào chờ bên ngoài? Hơn nữa xong phiên ṭa, cảng sát thường dẫn thẳng về pḥng tạm giam, làm sao trả lời phỏng vấn được? (Ṭa h́nh sự ở Bangkok thoáng hơn ṭa ở Rayong, v́ phóng viên có thể phóng vấn trong pḥng xử án nếu quan ṭa chưa đến và nếu tay cảnh sát escort không khó tính (như phiên ṭa 24/7) và việc quay phim bên ngoài cũng tự do, không cấm đoán, tịch thu đồ nghề như ở Rayong trước kia). V́ vậy cô phóng viên AP phải chuyển qua đề tài gia đ́nh, vợ con và động cơ nào khiến tôi cứ tiếp tục thi hành phi vụ để tiếp tục ở tù. Tôi trả lời: Lịch sử dân tộc VN là một lịch sử chiến đấu. Một ngàn năm đánh Tàu, Một trăm năm đánh Tây đô hộ và mấy chục năm chống CS xâm lược. Tôi là một chiến sĩ và có bổn phận phải giải phóng VN, giải phóng dân tôi khỏi ách nô lệ CS. Chừng nào c̣n VC, tôi c̣n phải tiếp tục lên đường nếu c̣n đủ sức khỏe. Nếu già yếu lại chiến đấu trên mặt trận khác. Tôi chưa hề lấy vợ v́ không muốn thấy cảnh “vợ trẻ góa bụa, con thơ mồ côi” như t́nh cảnh các chiến hữu khác đă hy sinh. Nhưng tôi cũng có 3 con gái với 3 cô bồ gốc nước ngoài: Phi, Tàu, Pháp, nên có báo gọi tôi là “international father.” Đang nói chuyện th́ L/S Worasit đến báo: “Phiên ṭa đă kết thúc.” Tôi ngạc nhiên vặn hỏi: “Ông đă phát biểu ǵ đâu?” “Tôi không cần phát biểu. Đó là my style. Tôi chỉ cần nộp các luận chứng và chứng cứ thôi! Riêng việc nộp tài liệu Ṭa cũng đă từng có tranh căi. Tôi bảo: “LN gởi, chứ ông gởi hồi nào?” “Nếu tôi gởi, tôi phải đưa nhân chứng ra ṭa xác nhận. Nhưng tôi ‘áp phe’ ngầm để hồ sơ đến tận tay Thẩm Phán. (Hồ sơ gới đến Ṭa số Blackcase n° th́ ṭa tự động forward cho Thẩm Phán phụ trách, cần ǵ phải chạy chọt?) Tôi đă dịch 3 Điều 81, 88, và 222 từ tiếng Pháp ra tiếng Thái để chứng minh VN đă nói dối, và Điều 81 cũng là tội chính trị (3 Điều tổng cộng 1 trang giấy ông tính 10,000 baht tiền dịch!) kèm với 1 văn bản ngắn.” Đó là tất cả nhữngǵ L/S Worasit đă làm để nhận 13,000 baht từ thân hữu bên Úc! Tôi bảo: “Tôi chưa từng thấy Luật Sư nào lại không hề phát biểu trong phiên ṭa dành cho bị cáo biện hộ. Vậy ông yêu cầu Ṭa cho tôi phát biểu. Tôi không thể không phát biểu, nhất là trong trường hợp Luật Sư không phát biểu.” Thẩm phán hôm nay thay đổi, 1 nam, 1 nữ và trẻ hơn 2 ông già trong phiên ṭa trước. L/S Worasit (W.) cho biết có sự thay đổi v́ Thẩm phán trước bị bệnh! (không biết có sự “power struggle” trong việc thay đổi Thẩm Phán này không, do áp lực từ phía VC hay từ phía ủng hộ, chống đối Thủ Tướng Thaksin?) Nhưng 2 Thẩm Phán này có vẽ dễ chịu hơn, đồng ư cho tôi phát biểu và khi tôi hỏi: “Bao nhiêu phút?” Họ bảo: “Cứ tự nhiên phát biểu,” trái vơi ông ṭa cũ, thường bác bỏ hoặc “overrule” khi L/S W. đặt câu hỏi với nhân chứng đại diện VC. Tôi có “số nữ nhân phù hộ” nên thấy có sự cân đối: 1 nam, 1 nữ Thẩm Phán; 1 nam 1 nữ phe Công Tố; chưa kể hôm nay phóng viên AP phái nữ (thời ṭa Rayong, phái Nam, và dân Âu Châu), và một nhân viên Ṭa Đại Sứ VC (?) ngồi cạnh cô nhân chứng thuộc pḥng ngoại vụ Thái đại diện cho VC cũng phái nữ, trên 30 tuổi.
3-Lư Tống Tự Biện Hộ: Kính thưa Quư Ṭa. Tôi xin tŕnh bày 16 luận điểm chứng minh yêu sách dẫn độ của VC là bất hợp pháp và cần phải bị bác bỏ.
I- Tội Chính Trị:
1- Động cơ chính trị: Tôi đă ở tù 20 năm với tư cách một tù chính trị. Tại sao? Và do bởi động cơ nào? Chủ nghĩa CS có mưu đồ “đỏ hóa” toàn thế giới, và CSVN, tên tay sai, có nhiệm vụ “đỏ hóa Đông Nam Châu Á.” Trong cuộc chiến đấu bảo vệ Miền Nam VN, tiền đồn chống cộng, Thái Lan là đồng minh với chúng tôi và đă từng hy sinh hàng trăm chiến sĩ v́ chính nghĩa cao cả đó. Năm 1975, Bắc Việt ngang nhiên và trắng trợn xâm lăng miền Nam và phi cơ tôi bị bắn hạ khoảng 1 tháng trước khi Sài G̣n thất thủ. Tôi bị cầm tù. Sau nhiều năm vượt ngục. Tôi đă vượt thoát thành công. Sau 6 năm tù, và vượt biên đường bộ xuyên qua 5 quốc gia trong suốt 2 năm, nếm mùi các nhà tù Miên, Thái, Tân Gia Ba. Cuộc vượt biên này được đăng trên các tờ báo, tạp chí danh tiếng như “Reader’s Digest, The wall Street Journal” và nhiều tờ báo khác. Cuối cùng tôi được Liên Hiệp Quốc công nhận là người Tị nạn chính trị và được đi định cư tại Hoa Kỳ năm 1983. Tôi đă bỏ ra 9 năm tại trường Đại Học Mỹ, theo học 3 chương tŕnh cấp cử nhân, Thạc sĩ và Tiến sĩ ngành khoa học chính trị. Với danh tiếng và bằng cấp, địa vị tôi có thể kiếm từ 80,000MK đến 100,000 MK/năm, chưa kể các cuộc thuyết tŕnh thời lượng 2-3 giờ ṿng quanh thế giới, trung b́nh đem lại lợi tức 5,000MK mỗi lần. Tôi dư sức sống cuộc đời giàu sang, sung túc tại Hoa Kỳ. Nhưng tôi vẫn tiếp tục lên đường thi hành các phi vụ rải truyền đơn bởi v́ 80 triệu đồng bào tôi vẫn c̣n quằn quại dưới gông cùm CS, dù phải đối diện với tử thần và ngục tù. Đó là lư do tại sao tôi trở về VN ngày 11/9/1992 để kêu gọi toàn dân VN noi gương người Nga, người Đông Âu đứng dậy chống lại chế độ CS tại VN sau khi Liên Bang Sô Viết và các chư hầu đă sụp đổ. Ngày 1/1/2000, tôi bay qua Havana, thủ đô Cuba, rải truyền đơn kêu gọi dân chúng nổi dậy đ̣i lại quyền Tự Do, Dân chủ, Nhân Quyền. Tôi được nửa triệu người Cuba lưu vong vinh danh là Anh Hùng trong cuộc diễn hành Lễ Ba Vua. (Bạn tôi sẽ gởi CD về các điệp vụ này đến quư vị để chứng minh điều này.) Và ngày 17/11/2000 khi Tổng Thống Bill Clinton viếng thăm VN, tôi đă nắm lấy cơ hội, thuê mướn phi cơ tại phi trường Hua Hin, tỉnh Prachuap, và thuyết phục Huấn Luyện Viên (HLV) Thira hợp tác với phần thưởng 15,000 MK (10,000MK tiền mặt trao trên phi cơ và đă bị cảnh sát Thái tịch thu từ túi Thira, và 5,000 MK sẽ trả sau khi phi vụ hoàn thành) cùng các tặng vật khác trị giá 3,000MK như máy quay video, máy Định vị toàn cầu…Tổng cộng: 810,000 baht, theo giá hối đoái năm 2000 với 1MK = 45 baht. Trong 2 cuộc thẩm vấn đầu tiên tại căn cứ Utapao và bót cảnh sát Banchang, HLV Thira đă khai sự thật, nhưng ngày hôm sau, do VC đe dọa sẽ kiện Thái Lan nếu Thira khai t́nh nguyện hợp tác, sếp Thira buộc anh ta phải phản cung. Đó là lư do tại sao 2 biên bản của 2 cuộc thẩm vấn đầu bị hủy bỏ. Tôi chứng minh sự vô tội bằng các bằng chứng trích từ cáo trạng của Ṭa như: “Bị cáo dùng 10,000 MK, máy quay video, máy định vị toàn cầu…làm phần thưởng dụ dỗ HLV Thira tự nguyện hợp tác và tham gia trong phi vụ này.” hoặc từ lời khai của Thira: “Bị cáo rất lịch sự, nhă nhặn trong suốt phi tŕnh,” hay lời nói của Thira ghi âm trong băng quay trên không phận Sài G̣n: “OK! Anh có thỏa măn với kết quả không? “Bị cáo mở máy, di chuyển, cất cánh và bay đi Utapao (chứng tỏ tôi là người in control từ đầu), bị cáo có thể đáp bất cứ nơi đâu theo ư muốn.” (Nếu tôi không tặc, tôi đă không trở về Utapao, mà đáp nơi vắng vẻ và tẩu thoát.) Quan trọng nhất là các lời khai chứng của bà Suthathif Tuwasi, Thông Dịch Viên của cảnh sát, và nhân chứng Công Tố, người duy nhất khai sự thật trước ṭa Rayong, trong khi tất cả nhân chứng Công Tố khác đều “man khai hữu thệ,” chẳng hạn: “Thira bảo tôi và bị cáo: Lư Tống rất nice. LT không dùng vũ lực, đe dọa, chỉ năn nỉ giúp đỡ. Do sợ bị mất việc, ảnh hưởng gia đ́nh, Thira phải phản cung và rất ân hận. (Do Thẩm Phán ghi thiếu sót các điểm quan trọng như: không đe dọa, dùng vũ lực, phản cung nên tôi yêu cầu ông triệu đ̣i bà Suthathif (S.) trở lại ṭa. Trong phiên khai chứng lần nh́, bà S. đă xác nhận các điểm thiếu sót này tại pḥng ṭa, trước mặt báo chí truyền thông Thái và ngoại quốc và tại bàn Thẩm Phán, nhưng Thẩm phán mới vẫn không bổ túc vào biên bản các điểm thiếu sót này. Vị Công Tố dùng 1 lỗi đánh máy trong bức thư với giới từ off thiếu sót từ động từ plunge để kết án tôi tội không tặc, dù John Cosgrove người “edit” bức thư, đă gởi lời khai có tuyên thệ xác nhận trách nhiệm lầm lỗi này. Thực tế HLV thira không hề đọc bức thư, do đó Đ/U Luechai, Thẩm Vấn Viên khai không hề biết ǵ về bức thư (bằng chứng chính để kết tội), báo cáo cảnh sát không hề nhắc đến bức thư và crash threat, bà S. khẳng định: Không hề nghe HLV Thira đề cập đến vấn đề này tại bót cảnh sát, và khi quan ṭa yêu cầu, bà dịch: “Nếu anh không giúp, tôi sẽ đáp phi cơ xuống đất” (không dịch crash) và bức thư không hề có một ngụ ư đe dọa nào cả, chỉ năn nỉ giúp v́ nền Tự Do, Dân chủ và Nhân quyền của VN. Tôi không chỉ thuê mướn phi cơ, tôi c̣n điều khiển phi cơ ngay từ lúc bắt đầu. Tôi phụ trách bay hơn 6 giờ trong phi vụ kéo dài 7 giờ, HLV Thira chỉ phụ bay khi tôi bận rải truyền đơn tại Sài G̣n, Tây ninh, và khi đáp tại Utapao v́ tôi quá mệt mỏi. Điều này chứng minh tôi không hề phạm tội không tặc, bởi theo các luật về không tặc, cần phải có 2 yếu tố chính để cấu thành tội không tặc: “Cướp quyền điều khiển phi cơ, và sự đe dọa thực sự.” Ngoài việc bị kết án tội không tặc sai trái, c̣n có âm mưu bác bỏ đơn kháng án của tôi. HLV Thira là trưởng phi cơ, ông ta phải chiụ hoàn toàn trách nhiệm về mọi vi phạm nếu t́nh nguyện hợp tác để nhận phần thưởng, không phải tôi, một học viên phi công. Tôi cần tŕnh bày sơ lược vụ án trước, v́ nếu không có vụ án không tặc bịa đặt th́ không có vụ án dẫn độ. Hơn nữa v́ Quí Ṭa đă ra lệnh cho L/S W. liên lạc Ṭa Rayong để nhận 1 copy tài liệu vụ án không tặc để tái cứu xét. Trong các tháng qua, một phái đoàn Lập Pháp từ Mỹ đă qua Thái Lan gặp tôi 2 lần, và có hứa sẽ đưa bà Suthathif (S.) ra trước Quốc Hội Hoa Kỳ điều trần nếu tôi không được xét xử công b́nh và công minh tại Thái Lan.
2-Vi Phạm Chính Trị: Các phi vụ rải truyền đơn của tôi đều không có tính bạo động, hoàn toàn ḥa b́nh và mục đích của tôi là đấu tranh cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền cho người dân bị áp bức, bóc lột tại VN và Cuba. Đó là sự vi phạm chính trị theo Điều 19 của Bản Tuyên Ngôn phổ quát về Nhân Quyền cũng như các Luật Quốc Tế về quyền Chính Trị và Dân Sự.
3-Một Hành Vi: Việc tôi bay về VN rải truyền đơn là hoạt động một hành vi. Hoạt động này không thể phân tách thành 2 hành vi: bay về VN là hành vi tội phạm và rải truyền đơn là hành vi chính trị . Nếu tất cả mọi hoạt động đều được phân tách thành nhiều hành vi, chẳng c̣n hoạt động nào được xem là vi phạm chính trị!
4-Kết Tội dối trá: VC đồng ư kết án tôi tội “Vi phạm không phận” nhưng lại không dùng Điều 222 dành riêng cho vi phạm không phận, lại dùng Điều 81 với án tối đa: Chung thân và đồng ư từ bỏ kết án Điều 88: Tuyên truyền chống chế độ, v́ điều này tính chính trị quá hiển nhiên. Thật sự Điều 81 thuộc vi phạm chính trị. Tại sao? Bắc Việt xâm lăng Miền Nam tháng 4/1975 vi phạm Hiệp Định Geneve và Hiệp Định Paris. CS là lực lượng chiếm đóng. Chế độ CS là một thực thể bất hợp pháp. Hơn nữa, tại VN không có bầu cử tự do, công bằng. Đảng CS chỉ định ứng cử viên và dân chúng phải bầu trong số người đó. Nếu không đi bầu, họ có thể đi tù hoặc gặp nhiều rắc rối. V́ vậy, tôi trở về VN là để cứu VN chứ không để hại VN. Tôi chỉ làm hại nền an ninh của chế độ CS tại VN. Do đó, vi phạm này là vi phạm chính trị, không phải h́nh sự. Trong phi vụ Havana và trong phi vụ cuối cùng tại VN, Hoa Kỳ, Thái Lan và cả Cam Bốt đều không kết án tôi tội gây hại nền an ninh quốc gia khi tôi vi phạm không phận các nước này bởi đó là một tội danh sai trái.
5- Lời Hứa Dối Trá: CSVN hứa chỉ kết tội “Vi phạm không phận” mặc dù chúng định dùng Điều 81 để giam tôi suốt quăng đời c̣n lại với bản án chung thân! VC luôn luôn tuyên bố ở VN: Không có tù chính trị, tôn giáo, chỉ có tù h́nh sự. B/S Nguyễn Đan Quế chỉ phát hành Bản Tuyên Ngôn, Cao Trào Nhân Bản bị kết tội “Âm mưu lật đổ chính quyền” với bản án 20 năm năm 1991. Linh mục Nguyễn Văn Lư gởi lời khai chứng đến Quốc Hội Hoa Kỳ lên án chính sách đàn áp tôn giáo của bạo quyền Hà Nội, bị kết án 15 năm, tội “Phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia” năm 2001 và B/S Phạm Hồng Sơn bị kết tội gián điệp với bản án 5 năm chỉ v́ dịch bài “Dân chủ là ǵ?” từ website của Bộ Ngoại Giao Mỹ năm 2002. Tất cả các vi phạm này được CSVN tuyên bố là tội phạm h́nh sự!
6- Luật Dẫn Độ năm 1929 của Thái Lan Cấm Dẫn Độ Các Phạm Nhân Chính Trị: Tôi vừa dứt phần tội chính trị và định tŕnh bày tiếp về Tội h́nh sự th́ Thẩm Phán do c̣n phải chủ tŕ phiên ṭa kế tiếp, không đủ th́ giờ nghe hết 16 luận điểm nên yêu cầu tôi về nhà và viết lại toàn bộ 16 luận điểm để ṭa nghiên cứu trong thời gian 1 tháng luận tội và sẽ ra phán quyết ngày 7/9/2006 lúc 9 giờ sáng.
Trong phần tŕnh bày, Pimuk, phóng viên Đài Á Châu Tự Do chấp thuận đề nghị làm Thông Dịch Viên cho tôi với phí dịch vụ 5,000 baht. Bà Saijit không đến v́ trong bức thư gởi ra than phiền vụ không báo trước kịp thời vụ MH + SP đem toàn bộ tài sản tôi về Mỹ nên không có tài liệu ṭa để dẫn chứng và “tôi không mướn những người bận việc” (bởi bà luôn than thở “busy” và không làm ǵ ngoài việc đi thăm và dẫn phái đoàn đi thăm), khi thấy tôi quay lại, Ngọc An gọi: Anh với tiếng Anh kéo dài nũng nịu, nửa hờn dỗi v́ không được tôi quan tâm. Phiên ṭa trước NA cũng có tham dự. Khi quay sang phải (sau khi bước vào pḥng xử án) tôi bắt tay vài thân hữu xong th́ thấy NA và những người lạ mặt ngồi trong góc phía đó (có thể VC), nên quay đi như không thấy. Nếu dừng lại tôi đă cự nự cô ta vụ “dỏm” không deposit 1,000 baht theo tôi yêu cầu trong khi book của tôi c̣n kẹt ở nhà thương Klong Prem cả 3 tuần chưa về, dù Vinh đă đưa cho NA 5,000 baht trong lần gặp chót. Lần này thấy cô ta có vẻ phát ph́ hơn, mắt híp hơn, càng lùn hơn, nên tiếng “Anh” nhơng nhẽo càng “xúc phạm” hơn: nhất là sau đó NA không xuống pḥng tạm giam để mua đồ ăn cho tôi dù biết ngày ra ṭa không được đem theo thức ăn, chỉ ăn cơm tù, và sếp tù có thể “chuyển” dùm nếu “tip đẹp.” Tôi lịch sự chào nữ nhân viên Bộ Ngoại Giao Thái đại diện CSVN, Công Tố Viên và họ chào trả lịch sự, thân thiện. L/S W. cứ nhắc đi nhắc lại: Cố viết ngắn, chừng 1 trang thôi và đừng đề cập ǵ đến vụ không tặc! Tôi không quan tâm lời “cố vấn bán độ” bởi kiểu chém 155 ngàn baht mà chỉ dịch 3 Điều 81,88,222 nộp cho ṭa, không hề phát biểu! Mấy hôm sau Trại kêu tôi ra pḥng ngoài kư giấy ủy nhiệm “power of Attoney” cho L/S W. để ông liên lạc ṭa Rayong nhận copy tài liệu án không tặc theo lệnh Thẩm Phán. Ít ra việc lập đi lập lại sự vô tội và yêu cầu bà Suthathif ra ṭa làm nhân chứng đă có kết quả thuận lợi. Thẩm Phán Ṭa Dẫn Độ đồng ư xem xét lại vụ án không tặc. Nếu họ thấy rơ tôi không phạm tội không tặc qua các bằng chứng hiển nhiên, họ phải bác yêu sách dẫn độ v́ HLV Thira là người chịu trách nhiệm vi phạm không phận. Tôi fax ngay thư về Mỹ yêu cầu LN làm copy các tài liệu Ṭa tiếng Thái, tiếng Anh, 2 biện minh trạng đă dịch sang Thái chứng minh tôi không phạm tội không tặc và phản biện chống lại yêu sách dẫn độ của CSVN cho 2 Thẩm Phán, Công Tố Viện, Luật Sư Worasit và tôi v́ tài liệu này có đánh dấu các luận điểm quan trọng để họ lưu ư và nhất là tôi sẽ chỉ cho Luật Sư biết ở các câu, trang nào từ tài liệu của tôi để ông highlight trên copy ông nhận tại Ṭa Rayong trước khi giao nộp cho Ṭa. Cái lạ là hôm đó, Luật Sư cũng chỉ gọi tay VN gốc Pháp để gặp, không gọi tôi, nên khi tôi đi theo anh ta và bất ngờ thấy tôi, ông ta lúng túng, bối rối! Tôi soạn ngay 16 điểm và chuyển lậu ra cho Luật Sư cho nhanh, yêu cầu làm thêm copy gởi cho Bangkok Post, The Nation, AP và LN, và cho dịch sang Thái ngữ gấp để nộp Ṭa. Mấy sếp tù thấy tôi bận bịu liên tục việc viết lách nên thường xuyên theo dơi và hỏi han. Họ cứ sợ tôi viết đơn tố cáo nhà tù để hại họ. May c̣n có một sếp tù chịu chơi dám chuyển lậu, nếu không, chắc đă không gởi được một số bài về Mỹ trong giai đọan vừa qua. Sau đây là phần c̣n lại của 16 luận điểm:
П- Tội H́nh Sự: Ngay cả nếu tôi không rải truyền đơn (tội chính trị) mà lại thả lậu ma túy (tội h́nh sự), yêu sách dẫn độ của CSVN cũng bất hợp pháp và đáng bị bác bỏ v́:
7- Non- Refonlement: Theo các Luật Tập Tục Quốc Tế, nguyên tắc “non-refonlement” bảo vệ người tị nạn chính trị và tù nhân chính trị không bị dẫn độ về quốc gia nguyên quán. Tôi là một người tị nạn chính trị, tù nhân chính trị và VN là nguyên quán của tôi.
8- Qui Ước Chống Tra Tấn 1984 của Liên Hiệp Quốc: Theo Qui Ước này, không quốc gia thành viên nào có thể dẫn độ người đến một quốc gia nơi có cơ sở vững chắc để tin rằng họ sẽ gặp nguy hiểm bị tra tấn. CSVN với thành tích vi phạm nhân quyền tập thể, tàn tệ và hiển nhiên, bị liệt vào danh sách “Các nước cần được quan tâm đặc biệt” (CPC), và thuộc số các nước CS c̣n lại bị Hội Đồng Châu Âu, với Nghị Quyết 1481 ngày 25/1/2006 lên án về các tội: Tội ác chiến tranh; Tội ác chống nhân loại và Tội diệt chủng.
9-Lệnh Dẫn Độ 1991 về An Ninh Hàng Không: Theo luật này, bị cáo phạm tội có dùng vũ khí để thi hành hành động bạo lực phá hủy hoặc làm hư hại phi cơ không bị dẫn độ nếu y không đáp hay cất cánh tại VN. Tôi không có vũ khí, rải truyền đơn là một hành động ḥa b́nh, không bạo lực, và tôi không hề cất cánh hay đáp tại VN.
10-Luật Dẫn Độ: Theo các Luật Quốc Tế, thủ tục dẫn độ chỉ bắt đầu tiến hành khi các quốc gia liên quan đến yêu cầu dẫn độ đă kư các Hiệp Định Dẫn Độ. Không có các Hiệp Ước Dẫn Độ Song Phương giữa VN và Thái Lan, giữa CSVN và Mỹ. Chỉ có Hiệp Ước Dẫn Độ Song Phương giữa Thái Lan và Hoa Kỳ kư năm 1922 và 1983.
11- Có Qua Có Lại: Theo Luật Dẫn Độ 1929 của Thái Lan, Chính Phủ Thái chỉ có thể dẫn độ công dân Thái trên cơ sở “hỗ tương” (có qua có lại –reciprocity) với quốc gia yêu cầu nếu không có Hiệp Định Dẫn Độ. CSVN hứa “lèo” v́ hành động Hỗ tương, nhưng thực tế, không hề có một cam kết chính thức nào về qui tắc này. Chỉ có các nước sau đây chính thức cam kết: Pháp, Ư, Đức, Áo và Norway.
12-Ưu Thế Lịch Đại: Theo Luật Dẫn Độ Thái, Thái Lan chỉ có thể dẫn độ công dân Thái trên cơ sở hỗ tương. Tôi không phải dân Thái, mà là công dân Mỹ. Tôi đă thi hành xong án phạt vào ngày 17/5/2006. Thái Lan nên dẫn độ tôi về Mỹ không chỉ v́ Thái Lan và Hoa Kỳ có Hiệp Ước Dẫn Độ Song Phương mà c̣n v́ ưu thế Lịch Đại của Hoa Kỳ. Tôi mang hộ chiếu Mỹ, đến Thái Lan thực hiện phi vụ, vậy Thái Lan nên để CSVN đệ nạp yêu cầu dẫn độ lên Chính Phủ Mỹ để được giải quyết.
III- Vi Phạm Không Phận: Hàng năm trên thế giới có hơn trăm vụ vi phạm không phận, nhưng chưa hề có nước nào yêu cầu dẫn độ trong lịch sử dẫn độ, v́ vi phạm không phận là một tội nhẹ, một bất tuân dân sự. Chỉ những tội nặng có án trên 3 năm, mới được xét dẫn độ. Vi phạm không phận bị kết án tối đa 1 năm theo Luật Mỹ và tối đa 2 năm theo Luật Thái Lan.
13-Điều 222: Nều CSVN áp dụng Điều 222 để yêu cầu dẫn độ về tội Vi phạm không phận, yêu cầu này bất hợp pháp v́ vi phạm không phận không thuộc tội phạm nặng như tŕnh bày. Do đó CSVN đă tránh dùng Điều 222 và thay thế bằng Điều 81!
14- Công Ước Chicago 1944 về Vi Phạm Không Phận: Theo công ước này, có 4 biện pháp áp dụng về xử lư vi phạm không phận:
a- Báo động: Báo động cho phi cơ vi phạm rời không phận quốc gia bị vi phạm. Đó là biện pháp Nam Hàn thường sử dụng, hàng chục lần mỗi năm, đối với phi cơ Bắc Hàn vi phạm.
b-Buộc hạ cánh: Buộc phi cơ vi phạm đáp tại phi trường của quốc gia bị vi phạm. Đó là biện pháp Trung Cộng, sử dụng khi phi cơ Mỹ vi phạm không phận 4 năm về trước. Chỉ có điều sai duy nhất là phi cơ phản lực của TC tiến quá sát phi cơ Mỹ và đâm vào phi cơ Mỹ. Phi công TC bị chết, máy bay Mỹ phải đáp khẩn cấp ở Đảo Hải Nam. Phi hành đoàn bị tạm giữ 11 ngày trước khi phóng thích.
c-Bắn hạ: Bắn hạ phi cơ vi phạm nếu bị khiêu khích! Năm 1984, Liên Bang Sô Viết bắn hạ một phi cơ dân dụng Nam Hàn khi phi cơ này bay lạc vào không phận họ. Điều sai nhầm trong vụ này là phi cơ Nam Hàn thuộc dạng chở hành khách và không hề khiêu khích. Đó là lư do tại sao thế giới tự do cực lực lên án hành động bất nhân, tàn bạo của Liên Bang Sô Viết khi giết chết gần 300 người vô tội.
d-Khiếu nại: Gởi Công Hàm Ngoại Giao khiếu nại quốc gia có phi cơ vi phạm không phận. CSVN không áp dụng 1 trong 4 biện pháp này trong vụ vi phạm không phận lại yêu cầu dẫn độ một cách phi pháp
15- Tiền Lệ: Trong phi vụ Havana, h́nh phạt duy nhất tôi nhận được là bị tạm giữ bằng lái máy bay trong một thời gian. Ngày 14/1/2000, Hoa Kỳ đă thẳng thừng bác bỏ yêu sách dẫn độ của Fidel Castro. Trong bản án không tặc bịa đặt, Ṭa Rayong phạt tôi 4 tháng tù tội vi phạm không phận. Trong vụ án Nguyễn Hữu Chánh, lănh tụ một tổ chức kháng chiến lưu vong, các thành viên tổ chức đă đặt bom tại Ṭa Đại Sứ VC tại Bangkok năm 2001, cũng như tại Phi Luật Tân, và chuyển lậu vũ khí, nhân lực về VN, ông cũng bị CSVN yêu cầu dẫn độ, nhưng Hoa Kỳ bác bỏ. Tháng vừa qua, ông ta đi qua Nam Hàn và bị bắt giữ do lệnh truy nă của VC. NHC bị đưa ra ṭa án dẫn độ Nam Hàn. Chánh Án bác bỏ yêu sách dẫn độ cũa VC và phóng thích ông về Hoa Kỳ ngày 29/7/06, mặc dù NHC không có quốc tịch Mỹ và hoạt động của nhóm NHC có tính chất bạo lực với các âm mưu đánh bom, không ḥa b́nh, bất bạo động như các phi vụ rải truyền đơn của tôi.
16-Non-Bis In Idem: Theo nguyên tắc này, dẫn độ sẽ không được chấp thuận nếu cá nhân vi phạm tôi bị dẫn độ đă được xử cùng tội trạng tại quốc gia được yêu cầu. Khi tôi bay ra không phận Thái Lan, lẽ tự nhiên tôi phải bay vào không phận nước khác. Nhưng tôi sẵn sàng chấp nhận bị “thiệt hại gấp đôi” (double jeopardy), tức tôi sẽ ở tù thêm 4 tháng kể từ ngày 17/5/2006 (cùng mức độ h́nh phạt 4 tháng ṭa Rayong) đă phạt tôi tội vi phạm không phận, tôi phải được phóng thích ngày 17/9/2006 mà không bị CSVN đ̣i kháng án. Nếu tôi bị dẫn độ về VN, chắc chắn 100% CSVN sẽ trắng trợn kết án tôi về các vi phạm chính trị với bản án chung thân, mà không quan tâm ǵ đến lời hứa với Thái Lan, và sự lên án của thế giới. Vụ bắt giữ 3 công chức cao cấp ngành thanh tra của chính phủ Thaksin gần đây, và cuốn phim “Bao Công xử án” đang được tŕnh chiếu trên Đài số 3 cả tháng nay, đă gây cho tôi một niềm hy vọng nhỏ: Tôi sẽ được xét xử công bằng và công chính trong vụ án dẫn độ.
Trân trọng
8 August 2006
Freedom Fighter Ly Tong