TỘI ÁC CỦA VIET GIAN CỘNG SẢN HÀ NỘI
Nguyễn văn Trần
1/Về tội ác của Viet gian cộng sản Hà nội:
Phải nói không sợ sai lầm là lịch sử đảng Viet gian cộng sản Hànội là lịch sử của tọi ác, không phải đối với ngoại bang mà đối với nhơn dân Việt Nam. Hànội vẫn thoả hiệp, hợp tác với thực dân Pháp trước kia và với Hoa kỳ sau này, nhưng vẫn triệt để với nhơn dân và nhứt là những nhà ái quốc chơn chánh không cộng sản. Điển h́nh, Hồ chí Minh đă đàn áp, trù dập, tiêu diệt những trí thức ái quốc ở miền Nam, như Tạ Thu Thâu, Hồ văn Ngà, Nguyễn văn Sâm, ?(Ở Bangkok năm 1946, trên đường đi Hànội, Trần văn Giàu thú nhận với Ông Trịnh Hưng Ngẫu, đă giết 2500 trí thức trong kháng chiến miền Nam, để chỉ c̣n đảng cộng sản là lực lương duy nhứt lănh đạo kháng chiến), những trí thức Bắc hà trong vụ Nhơn Văn Giai Phẩm, ?
Riêng trong vụ Cải Cách Ruộng đất ở miền Bắc từ 1953-1956, Hồ chí Minh đă giết hại tại chỗ, và dần dà về sau, ít nhứt 500 ngàn người. Tất cả đều là nông dân, lực lượng sản xuất của xă hội Việt Nam. Trong số nạn nhơn, không ít là đảng viên đảng công sản, những người tham gia kháng chiến chống Pháp, đóng góp của cải ủng hộ kháng chiến ngay từ những ngày đầu. Nhưng những người này trở thành kẻ thù mà Hồ chí Minh phải tiêu diệt để nông thôn chỉ c̣n lại một thành phần duy nhứt là bần cố nông. Bởi theo lư thuyết của Mao trạch Đông đă áp dụng ở Tàu sau khi thiết lập chế độ cộng sản, th́ chỉ có giai cấp bần cố nông mới là lực lượng nồng cốt xây dựng chế độ vô sản. Mao trạch Đông chủ trương trong CCRĐ phải "đào tận gốc, bốc tận rể" v́ thực hiện CCRĐ càng tàn bạo bao nhiêu th́ thành công bấy nhiêu.
Năm 1950, Hồ chí Minh gặp Mao trạch Đông và Staline đă nhận lịnh về tiến hành CCRĐ ở miền Bắc rập khuôn theo Tàu, không ư thức đến thực tế xă hội của Việt Nam hoàn toàn khác với xă hội Tàu. Ở Việt Nam không có chế độ phong kiến, v́ ở thời quân chủ từ đời nhà Lư, tuy trên lư thuyết, ruộng đất là sở hữu tối thượng của nhà vua, nhưng nhà vua ban hành chánh sách cấp phát ruộng đất cho dân, để mỗi người, dù nghèo, cũng có được vài công đất cấy cày sanh sống. Bởi đạo lư Việt Nam nhắm ưu tiên bảo vệ quyền sống của mọi người, để mọi người đều có điều kiện thờ cúng Ông Bà, tức quyền tự do tinh thần. Ở Tàu, thật sự có chế độ phong kiến. Dưới chế độ Trung hoa Dân quốc, những quan quyền, địa chủ, phú nông, phú thương, đều là người thuộc Trung hoa Quốc dân đảng. Những lănh chúa có binh quyền riêng, có luật lệ riêng áp dụng trong lănh địa của họ. Dân chúng Tàu ở thời ấy sống cực kỳ bi thảm, nên CCRĐ đối với họ, ở một phương diện nào đó, là một cuộc cách mạng xă hội nông thôn. Mao trạch Đông làm CCRĐ ở Tàu là nhằm "bốc tận rể" lực lượng Quốc dân đảng để có thể yên tâm mà thiết lập chế độ vô sản.
Hồ chí Minh ngoan ngoản áp dụng "lư thuyết Mao trạch Đông" làm cuộc CCRĐ ở Việt Nam cũng chỉ nhằm áp đặt chế độ vô sản lên xă hội Việt Nam để nắm quyền, giữ quyền.
Hồ chí Minh trở thành tội phạm chống nhơn loại !
Đến vụ thảm sát Mậu Thân ở Huế, Hồ chí Minh và đảng cộng sản đă giết 5.000 người dân về Huế ăn Tết. Khi Hànội mở cuộc tổng tấn công Mậu Thân 1968, Hồ chí Minh và đảng cộng sản đă ngang nhiên vi phạm thỏa ước ngưng bắn dịp Tết nguyên đán mà họ đă cam kết. Đến 30/4/1975, Hànội chiếm miền Nam, vi phạm Hiệp định Paris bằng Nghị quyết 26 của Chánh trị bộ kư ngay khi Hiệp ước Paris chưa ráo mực.
Hàng triệu người bỏ nước ra đi t́m tự do, tránh họa cộng sản. Hàng trăm ngàn người chết trên đường chạy trốn cộng sản.
Sau khi thiết lập chánh quyền ở miền Nam xong, Hànội tiến hành, theo lư thuyết Mao trạch Đông, đánh tư sản mại bản, hợp tác hoá nông nghiệp, đuổi dân thành phố đi kinh tế mới để chiếm nhà đất của họ làm của riêng. Đồng thời, nhà cầm quyền cộng sản tập trung tất cả quân nhơn, công chức của Chánh phủ miền Nam giam cầm trong những điều kiện để tù nhơn sống c̣n nếu không bị tự tiêu diệt.
Trong thảm trạng cải tạo tập trung này, những vụ hành hạ thân thể hoặc tinh thần, bị công an trại giam giết, mất tích, đều là những trường hợp vi phạm Nhơn quyền và Công ước Genève.
2./ về nghị quyết 36 và thái độ ứng xử của Người Việt hải ngoại :
Trước sức mạnh của 3 triệu người Việt hải ngoại (sự hiểu biết và sự giàu có) sanh sống trên 90 quốc gia, tập trung đông đảo ở Bắc Mỹ, Âu châu và Úc châu, đảng công sản Hànội đă tự thấy phải kịp thay đổi thái độ đối xử. Trước kia họ không tiếc lời mắng nhiếc, nhục mạ Người Việt tỵ nạn ở hải ngoại, th́ nay họ tỏ ra trân trọng. Sự thay đổi của họ thật vô cùng biện chứng.
Nghị quyết 36 cũng như bao nhiêu thứ nghị quyết khác không có ǵ mới lạ hơn nếu không làm gia tăng t́nh trạng lạm phát nghị quyết của đảng cộng sản. Chỉ có điều đáng chú ư một chút là NQ36 do Bộ chánh trị ban hành. Họ đă rầm rộ cho cán bộ học tập để thi hành nhằm vào 3 triệu Người Việt hải ngoại, mà mục tiêu không ǵ khác hơn là kêu gọi Người Việt hải ngoại đem tiền của và sự hiểu biết về Việt Nam phục vụ quyền lợi của đảng cộng sản.
Trong Nghị quyết 36, chúng ta không thấy đảng Viet gian cộng sản Hànội có một lời xin lỗi, hối hận về những tội ác tày trời mà họ đă gây ra cho nhơn dân Việt Nam từ những ngày đầu họ xuất hiện. Phải chăng họ vẫn cho rằng họ có đủ lư lẽ chánh đáng để gây ra tội ác ? Chúng ta nên hiểu 3 triệu Người Việt hải ngoại là mục tiêu cuối cùng mà Hànội đang nỗ lực chiếm cho được, bởi có như thế th́ họ mới chiếm trọn vẹn Việt Nam. Vậy, cuộc chiến hôm nay của Người Việt là ở hải ngoại. Sự thành bại cũng ở tại hải ngoại. Nếu chúng ta bảo vệ được Người Việt hải ngoại trước chiến dịch "chiếm người, chiếm của" của Hànội ngày nay, th́ chúng ta sẽ có khả năng mở rộng điều kiện để giúp đỡ gia đ́nh, thân nhơn, bạn bè của chúng ta ở Việt Nam. Nếu chúng ta thất bại th́ chúng ta sẽ trở thành những kẻ phục vụ cho đảng cộng sản mà đời sống của bà con chúng ta sẽ không khả quan hơn.
Trong hướng nh́n đó, NQ36 không ǵ khác hơn là một thứ "đường ṃn Hồ chí Minh" xâm nhập vào Người Việt hải ngoại như đă xâm nhập miền Nam trong cuộc chiến vừa qua (đưa người, đưa vơ khí, tức văn nghệ, văn hoá phẩm, thông tin nhằm phân hoá, khuynh đảo, chinh phục đối phương).
Trước sự tấn công của Hànội theo chiến thuật "du kích mới" ấy, chúng ta ngày nay thừa sức phản công, mà không cần đồng minh Huê kỳ. Chúng ta chỉ cần tự lực là giành phần thắng về ta một cách chắc chắn. Thật thế, chúng ta chỉ cần xác nhận dứt khoát là chúng ta không chấp nhận chế độ độc tài Hànội hiện tại. Về phần chúng ta, chúng ta khẳng định rơ ḿnh là Người Việt hải ngoại, không phải Việt kiều. Về nguồn gốc, chúng ta không cùng nguồn gốc với cộng sản Hànội, bởi khi cộng sản tới, là chúng ta đă phải liều thân bỏ nước ra đi. Từ giữa thế kỷ qua, chúng ta đă bỏ nhà cửa, ruộng vườn, tài sản để thoát khỏi vùng cộng sản tạm chiếm. Năm 1954, chúng ta đă rời bỏ miền Bắc vào Nam. Năm 1975, chúng ta bỏ cả đất nước để bảo vệ cái "không chung nguồn gốc với cộng sản" một lần nữa. Khai triển "cái không chung nguồn gốc" này, tức ư muốn nói đến cái văn hoá Việt Nam mà chúng ta c̣n giữ được đến ngày nay, đó là văn hoá chánh trị dân chủ tự do nối tiếp ḍng lịch sử dân tộc. Mầm văn hoá này được cấy lại trên mảnh đất tự do giúp cho 3 triệu người Việt chúng ta đă phát triển với những thành quả rực rỡ về nhiều mặt. Hằng năm, Người Việt hải ngoại gởi về Việt Nam trên 3 tỷ Mỹ kim để Hànội tổng kết lợi tức quốc gia là 29 tỷ Mỹ kim. Với một dân số 3 triệu người, với sự giàu có, sự hiểu biết, với nền văn hoá nguyên vẹn Việt Nam, với thực tế sanh sống trên nhiều vùng đất với cờ vàng là biểu tượng tự do, chúng ta có thể tự xác định chúng ta là một Việt Nam hải ngoại. Khi tự xác định như vậy, chúng ta đă long trọng tuyên bố một nước Việt Nam hải ngoại của chúng ta. Như Đài Loan đối với Trung cộng về mặt kinh tế, văn hoá, xă hội. Hơn nữa, về mặt pháp lư quốc tế, chúng ta c̣n có quyền dân tộc tự quyết được ghi rơ ràng trong các Hiệp định quốc tế về Việt Nam trong vừa qua. Sự xác định này sẽ cho chúng ta một thái độ ứng xử mới, hợp t́nh, hợp lư. Đó là dứt khoát từ bỏ tâm lư cố hữu xin/ cho giữa chúng ta và nhà cầm quyền Hànội. Mà quan hệ giữa chúng ta và Hànội là quan hệ của hai bên cùng nghiêm chỉnh chấp hành luật pháp song phương. Sự chấp hành luật pháp có tốt đẹp sẽ làm cho mật thiết hơn, gắn bó hơn, sự đối đăi của chúng ta với đồng bào ta trong nước. Bởi chúng ta là người ngoại quốc nhưng có con tim Việt Nam. Nếu Hànội hiểu được ư nghĩa đạo lư chánh trị này th́ không cần thứ NQ36 ấy, bởi Việt Nam sẽ mở rộng ra hải ngoại v́ sự đối đăi giữa người Việt với nhau không c̣n biên giới nữa.
Nếu như chúng ta, cho tới ngày nay, luôn luôn vẫn là kẻ cho. Mà cho, tại sao chúng ta tự biến ḿnh thành kẻ xin, như mong đợi một ân huệ (ở kẻ mà chúng ta vừa cho), sau khi chúng ta đă làm xong nhiệm vụ của ḿnh ? Chúng ta có thay đổi được tâm lư xin/cho th́ sẽ làm cho mối quan hệ Việt Nam và hải ngoại trở nên tốt đẹp hơn, bền vững hơn, chớ không thể làm tổn thương đến quyền lợi của chúng ta và của cả thân nhơn của chúng ta ở trong nước.
Đây là một cách ứng xử có đạo lư. Hànội sẽ hiểu khi họ thật t́nh từ bỏ thái độ gia trưởng, trịch thương cố hữu của họ. Mà muốn hiểu đạo lư, trước hết, Hànội phải bắt đầu nh́n thấy tội ác của ḿnh đă liên tục gây ra cho nhơn dân một cách có hệ thống. Chỉ có thành khẩn nh́n nhận tội ác, thành khẩn sám hối, th́ tức khắc ḥa giải và đoàn kết toàn dân sẽ đến ngay !
3./- về những việc có thể làm chung :
Ngày nay, ở những quốc gia đa văn hoá mà Huê kỳ đứng đầu, Người Việt hải ngoại đă thành công vận động chánh quyền sở tại công nhận cờ vàng như cờ của cộng đồng người Việt. Ở Huê kỳ, hiện có gần 80 thị xă, thành phố, tiểu bang công nhận cờ vàng. Đó là nhờ sự bền bĩ tranh đấu liên tục, chúng ta mới thủ đắc. Việc bảo vệ và mở rộng cờ vàng ra các vùng khác là công tác mà chúng ta có thể làm chung với nhau. Nên nhớ cộng sản Hànội cho rằng chúng ta vẫn thù dai v́ vẫn giữ cờ vàng trong lúc đảng và nhà nước Hànội đă chủ trương xoá bỏ hận thù, quên quá khứ. Không quên điều này là lư do, là sức mạnh khiến chúng ta phải bảo vệ cờ vàng là cờ của Việt Nam hải ngoại.
Những tội ác trong CCRĐ, Mậu Thân ở Huế, cải tạo tập trung, đuổi dân đi kinh tế mới, công an tổ chức vượt biên thu vàng,?chắc ǵ chúng ta không quên ? Mà nhớ vẫn chưa đủ. C̣n quên là chúng ta đă thỏa hiệp với cộng sản, thừa nhận thủ phạm có chánh nghĩa, và c̣n tỏ ra vô cùng bất nghĩa với nạn nhơn. Nhưng nhớ không phải để chúng ta tự đứng lên trả thù. Dứt khoát không trả thù, mà phải xoá bỏ hận thù. Mà xóa bỏ hận thù thật sự cho nạn nhơn và gia đ́nh của họ không cách nào khác hơn là lập hồ sơ tội ác, yêu cầu Liên hiệp quốc cho mở cuộc điều tra và một khi có đầy đủ yếu tố pháp lư th́ đưa nội vụ ra trước toà án quốc tế công lư (Tribunal international de justice).
Có như thế, người chết mới yên ḷng siêu thoát theo tín ngưỡng của ḿnh. Người sống mới được thanh thỏa. Dân tộc sẽ tự nhiên ḥa hợp như trước khi có cộng sản tới.
Trong hướng xoá bỏ hận thù, quên đi quá khứ, ngày nay nhà cầm quyền Hànội có thể tiến hành một việc nhỏ, cụ thể bởi có tính cách địa phương, đó là để cho thân nhon, bạn bè của những người nằm ở Nghĩa Trang Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa cũ ở Biên Ḥa thành lập một Ủy ban hổn hợp trùng tu lại Nghĩa Trang, bởi sau thời gian dài, có nhiều mồ mả xiêu đổ, hư nát do Nhà cầm quyền cộng sản và Quân khu Vll chiếm đóng, ngăn cấm mọi viếng thăm. Trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội VNCH là một việc làm vô cùng nhơn ái, phù hợp với đạo lư dân tộc. Ngày xưa, sau khi thắng quân Tàu, vua Quang Trung ra lịnh cấp phát lương thực cho tàn quân của Tàu về xứ an toàn. Nhà vua c̣n cho lập đàn trai cầu siêu cho quân Tàu tử trận tại VN.
Tấm gương nhơn ái lịch sử hăy c̣n đó ! Chúng tôi được biết Bộ chánh trị đă nhận đơn xin trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội VNCH của một số người Việt tại vùng Hoa Thịnh Đốn, Hoa kỳ, và trả lời là đang "đề xuất cứu xét".
Trong lúc người xin chờ trả lời cụ thể th́ có nguồn tin từ phía Hànội, đề nghị nên sửa "Nghĩa Trang Quân Đội VNCH" thành Nghĩa trang Nhơn dân để "dễ nghe hơn" !
Giữ nguyên tên cũ cũng chỉ là giữ cho những người nằm dưới ḷng đất. Giữ tên cũ chẳng những không làm xúc phạm đến uy tín, danh dự của Nhà nước Hànôi, mà trái lại c̣n làm tỏ tơ tư cách ứng xử của Nhà nước Hànội là chấp nhận sự thật lịch sử để vĩnh viễn trả về cho lịch sử.
Một cách "quên quá khứ" bằng nh́n nhận thực tế. Rất nhơn bản ! Tuy ở một mặt khác, đổi từ "Nghĩa TrangQuân Đội VNCH" thành "Nghĩa Trang Nhơn dân" đă ghi nhận một sự thay đổi quan trọng ở Nhà nước Hànội trong cung cách đối xử : từ "ngụy quân" thành "nhơn dân". Đối với chế độ, "nhơn dân" là cao quí bực nhứt. Huy chương nhơn dân, nhà giáo, nhà văn nhơn dân, nghệ sĩ nhơn dân ? !
Nhưng cái ư nghĩa ḥa giải, quên quá khứ vẫn chưa được thể hiện rơ nét !
NGUYỄN VĂN TRẦN