BÀI VIẾT GỬI VỀ TRONG NƯỚC

 

VỀ MỤC TIÊU MƯU CẦU HẠNH PHÚC.

 

LS. NGUYỄN HỮU THỐNG

 

 

          Trong hậu bán thế kỷ 20, sự kiện lịch sử nổi bật nhất là Cuộc Cách Mạng Bất Bạo Động năm 1989 tại Đông Âu. Tại các quốc gia bị trị thuộc Đế Quốc Sô Viết như Lithuania, Estonia, Latvia, Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, An Ba Ni, Bun Ga Ri, Ru Ma Ni v.v... hàng triệu thanh niên nam nữ thúc đẩy bởi động lực tinh thần của phong trào giải phóng dân tộc và giải phóng con người đă đồng loạt đứng lên giành lại Quyền Sống, Quyền Tự Do và Quyền Mưu Cầu Hạnh Phúc. Chủ nghĩa Cộng Sản và chế độ Cộng Sản đă bị nhân dân Đông Âu vứt vào thùng rác lịch sử. Các lănh tụ Cộng Sản địa phương, một thời được thần thánh hoá, đă bị đồng bào của họ và các đồng chí của họ lột trần mặt nạ giả nhân giả nghĩa với ngụy trang và dối trá. Bức Tường Bá Linh ô nhục đă đổ vỡ tan tành. Bức Màn Sắt tưởng là tường đồng vách sắt đă bị phá vỡ tan hoang. Hậu quả dây chuyền của cuộc Cách Mạng Bất Bạo Động 1989 là sự giải thể chế độ CS tại Liên Xô năm 1991 và sự tan vỡ của Liên Bang Sô Viết được coi là thành tŕ của Quốc Tế CS trong 3/4 thế kỷ.

          Vậy mà, qua năm sau, năm 1990, tại Paris mệnh danh là kinh đô ánh sáng Tây Phương, Tổ Chức Văn Hoá Liên Hiệp c̣n dự định tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhật Hồ Chí Minh, một cán bộ Quốc Tế Cộng Sản mà nhiều người vẫn c̣n coi là một nhà văn hóa dân tộc, giải phóng dân tộc, giải phóng lao động chủ trương công bằng xă hội. (Sau này do sự phản kháng của người Việt hải ngọai, Tổ Chức Văn Hóa LHQ đă hủy bỏ dự án này. Lễ kỷ niệm được thay thế bởi cuộc tŕnh diễn văn nghệ, trong đó tên Hồ Chí Minh không được nhắc đến).

 

CHIẾN TRANH CHÍNH NGHĨA.

          Sự kiện này chứng minh rằng phe Quốc Tế CS (QTCS) đặc biệt là Đảng Cộng Sản Đông Dương (ĐCSĐD) đă thành công trong việc giành chính nghĩa, chính nghĩa giải phóng dân tộc và giải phóng lao động. Cũng v́ không làm sáng tỏ được chính nghĩa Tự Do Dân Chủ mà Hoa Kỳ và các đồng minh khác của Việt Nam như Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Thái Lan, Đại Hàn v...v... đă thất bại trong việc bảo vệ thành tŕ của Thế Giới Dân Chủ (TGDC) (năm l954 biên thùy của TGDC chạy từ Tây Bá Linh qua Vỹ Tuyến 17 tại Việt Nam).

          Lư do là v́, khác với chiến tranh cổ điển, chiến tranh cộng sản không đơn thuần là chiến tranh kinh tế. Hoa Kỳ có nền kinh tế phát triển và phồn thịnh nhất thế giới, trong khi nền kinh tế của Bắc Việt th́ nghèo nàn sơ sác.

          Chiến tranh CS cũng không đơn thuần là chiến tranh quân sự. Hoa Kỳ có vơ khí tối tân, có khoa học kỹ thuật tân kỳ (để thám hiểm không gian và chinh phục mặt trăng). Vậy mà Hoa Kỳ đă không giữ nổi 10 vỹ tuyến tại Việt Nam (từ Quảng Trị đến Cà Mâu). Đây là một thất bại, không phải trên lănh vực quân sự hay kinh tế, mà trên mặt trận chính trị.

          V́ không biết khai thác chính nghĩa Tự Do Dân Chủ, Hoa Kỳ có vơ khí tối tân mà không dám sử dụng vơ khí, có binh hùng tướng mạnh mà phải bẽ bàng rút lui.

          Phe QTCS, đặc biệt là ĐCS, đă thắng cuộc chiến này. V́ họ đă khôn ngoan và quỷ quyệt giành được chính nghĩa, khiến cho nhân dân thế giới (nhất là nhân dân Hoa Kỳ) đă ngộ nhận rằng, chiến tranh Việt Nam chỉ là một cuộc nội chiến, và những người Cộng Sản V́ệt Nam trước hết là những người yêu nước, giải phóng dân tộc và giải phóng lao động.

          Vũ khí quyết định của ĐCS được rút ra từ câu trong binh pháp ‘’ơViệc Binh Không Nề Dối Trá”. ĐCS đă phát triển ư niệm này từ quân sự qua chính trị, và đă phổ biến ư niệm này trong việc tranh quyền cướp nước.

          Sách lược của CS là: Bằng Nguỵ Trang Dối Trá, dùng Giả Nhân Giả Nghiă để giành Chính Nghĩa và cướp Chính Quyền.

          Để phát động phong trào gii phóng dân tc h đă khai thác ch nghĩa yêu nước ca hàng triu thanh niên nam n,  vi ḷng hào hip qu cm, quyết tâm giành li ch quyn độc lp cho quc gia vi bt c giá nào, vi bt c hy sinh nào. Lịch sử đă chứng minh rằng ĐCS chỉ sử dụng cuộc đấu tranh giành độc lập vào mục tiêu cướp chính quyền. Họ đă phủ nhận nền độc lập do Pháp trao trả cho Việt Nam, Cao Miên và Ai Lao  năm 1949 trong 3 Hiệp Định Elysée. V́ với các Hiệp Định này, ĐCS không được độc quyền lănh đạo quốc gia.

ĐCS không bao giờ đề cập đến Hiệp Định Elysée 1949. Họ dối gạt đồng bào rằng Đế Quốc Pháp vẫn chủ trương tái lập thuộc địa tại Việt Nam. Và họ phải chiến đấu vơ trang chống Pháp để giành độc lập. ĐCS cũng dối gạt đồng bào rằng, từ 1955ø Miền Nam Việt Nam bị Hoa Kỳ thống trị, nên họ phải chiến đấu vơ trang chống Mỹ để giải phóng Miền Nam và thống nhất đất nước.

          Bằng tuyên truyền dối trá họ đă lừa gạt được 3 thế hệ con người, khiến cho hơn 3 triệu thanh niên nam nữ đă phải hy sinh thân sống trong suốt 40 năm (từ 1949 đến 1989), không phải v́ độc lập quốc gia (v́ Quốc Gia Việt Nam đă được độc lập từ tháng 3/1949), mà cũng không phải v́ thống nhất đất nước (v́ Đất Nước đă được thống nhất từ tháng 4/1949), mà chỉ để cho ĐCS cướp chính quyền.

          Đó là nói về các mục tiêu Độc Lập và Thống Nhất.

          Về các mục tiêu Tự Do Hạnh Phúc, ĐCS cũng dùng ngụy trang dối trá và giả nhân giả nghĩa để dối gạt đồng bào.

          Thay v́ thực thi những quyền tự do dân chủ của người dân, ĐCS đă thiết lập một chế độ độc tài toàn trị để tước đoạt tất cả 26 quyền tự do cơ bản của con người.

          Và thay v́ đem lại ấm no hạnh phúc cho đồng bào như họ từng hứa hẹn, ĐCS  đă đưa xă hội đến bất công nghèo đói, lợi tức b́nh quân mỗi đầu người tại Việt Nam chỉ bằng 1/45 tại Tân Gia Ba 1/ 26 tại Đài Loan, 1/25 tại Đại Hàn, 1/8 tại Mă Lai, 1/5 tại Thái Lan, 3/5 tại Nam Dương, 1/2 tại Phi Luật Tân, và chỉ bằng 3/4 tại Congo. Theo Encyclopedia Britannica Book of the Year 2005, lợi tức b́nh quân mỗi đầu người tại Việt Nam năm 2003 là 480 mỹ kim so với 640 mỹ kim tại Congo và 457 mỹ kim tại Bắc Hàn.

 

CẢI CÁCH RUỘÂNG ĐẤT.

          Sách lược nguỵ trang dối trá và giả nhân giả nghĩa đă biểu lộ rơ rệt nhất trong chính sách Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ). ĐCS quảng bá rằng đây là chính sách công bằng xă hội  cho người cày có ruộng. Thực ra đây chỉ là dối trá và lừa bịp. Mục tiêu thực sự của Cải Cách Ruộng Đất không phải là để chia ruộng cho người cày, mà chỉ dùng bần cố nông để đấu tranh giai cấp, tiêu diệt tư sản và tiểu tư sản, vô sản hóa nhân dân nhằm xây dựng và phát triển Đảng.

          Năm 1930, khi mới thành lập, ĐCSĐD đề ra phương châm “Cách Mạng Bạo Động v́ Ruộng Đất và Độc Lập”. Để làm cách mạng bạo động họ phát động chiến dịch Sô Viết Nghệ Tĩnh: “Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”.

          Trước hết ĐCSĐD chủ trương tiêu diệt các trí thức tiểu tư sản là những phần tử tha thiết với độc lập quốc gia. Theo quan đim ca người trí thc, tt c các đảng phái k c ĐCS phi hy sinh quyn li riêng tư ca ḿnh để phc v mc tiêu chung ca dân tc là giành độc lp. Điu này đi ngược li ch trương ca ĐCSĐD là cướp chính quyn. (giành độc lp ch là mt chiêu bài hay mt chiến thut cướp chính quyn).

          Hơn nữa giới trí thức c̣n tha thiết với những quyền tự do dân chủ, trái với chủ trương độc tài đảng trị của ĐCS. Vả lại trong hàng ngũ các đảng phái quốc gia yêu nước (như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân v...v...), giới trí thức tiểu tư sản chiếm đa số. Dưới mắt Đảng CS, các đảng quốc gia và giới trí thức là những đối thủ nguy hiểm trên đường cướp chính quyền cần phải loại trừ.

           Phú nông và địa chủ tại Miền Bắc thực ra chỉ là những trung tiểu nông hay nông dân tiểu tư sản. Trong 5 đợt cải cách ruộng đất phát động từ năm 1952 đến 1956, được coi là phú nông bất cứ người nông dân nào có 3 mẫu ta ruộng (khoảng 1 hecta hay 10.000 m2) và có một con trâu để trực canh. Và địa chủ là người có trên 3 mẩu ta ruộng mà không có con trâu nào để tự canh tác. Tuy nhiên tiêu chuẩn này chỉ có giá trị hướng dẫn và có thể thay đổi theo từng địa phương. Trong cuốn Những Thiên Đường Mù, Dương Thu Hương đă nêu lên một trường hợp điển h́nh: Một quả phụ chỉ có 1.8 mẫu ta ruộng hương hỏa (hơn 6 sào tây hay 600 m2) cũng bị quy vào thành phần địa chủ và đă bị đấu tố, truất hữu ruộng đất và tịch thâu nhà cửa.

          Theo bản thống kê chính thức, số ruộng truất hữu trong 5 đợt cải cách ruộng đất là 800.000 hecta và đă được chia cho 2 triệu bần cố nông, trung b́nh mỗi người được hơn 1 mẫu ta. Đó là một con số phóng đại. V́ ở Miền Bắc, ruộng đất quá ít, mà dân số quá đông nên tính b́nh quân, mỗi người chỉ được dăm ba sào ruộng.

          Tuy nhiên trong thống kê có một con số đáng tin cậy là 150.000 căn nhà của địa chủ đă bị tịch thâu để phân phát cho bần cố nông. Muốn truất hữu 150.000 căn nhà, tối thiểu phải đấu tố từ 150.000 tới 300.000 trạch chủ. Như vậy con số nạn nhân bị đấu tố trong 5 đợt cải cách ruộng đất có thể ước lượng là 200.000 người. Đây là những cuộc chém giết dă man rùng rợn chưa từng thấy từ thời trung cổ man rợ.

          ĐCS đă huy động các nhà thơ lăng mạn thời tiền chiến như  Xuân Diệu, Tố Hữu... để ca tụng chiến dịch đấu tố.  Các văn công này đă viết những vần thơ sắt máu như sau:

         

Bầy choa quyết đấu cho tan chúng mày!

                             Bầy choa thắp đuốc đêm nay

                             Đấu cho nát mặt vỡ mày chúng ra!...

                                                          (Xuân Diệu)

          Tại một số “vùng giải phóng”, các cán bộ trong đội CCRĐ đào sẵn những hố sâu đến cổ, bắt nạn nhân đứng dưới hố chỉ để hở đầu. Rồi chúng dùng cày để cày “nát mặt vỡ mày” những người địa chủ mà họ cho là phản động này.

 ‘’ơNgười cha già dân tộc’’ đạo diễn chiến dịch đấu tố đă được tuyên dương:

         

                   Ôi người cha đôi mắt hiền sao!

                             Tiếng của người là suối máu ḥa cao

                             Rơi ḥa máu cho ḷng con mong ước...

                             Hồ Chí Minh! Máu thắm nơi nơi!

                             Mắt người đưa một thác máu rung rinh! (1)

                                                          (Tố Hữu)

         

Theo thẩm mỹ quan quái đản của người CS, cảnh thây rơi máu đổ tại đấu trường cũng đẹp và thơ mộng như những cánh hoa đào tung bay trước gió:

                             Thây rơi như cánh hoa đào!(2)

 (Tố Hữu)

 

CẢI CÁCH ĐIỀN ĐỊA:

          Để có một cái nh́n khách quan chúng ta hăy đối chiếu chính sách Cải Cách Ruộng Đất tại Miền Bắc với chính sách Cải Cách Điền Địa tại Miền Nam.

          Tại Miền Nam, từ khi thành lập chế độ cộng ḥa, các chính quyền Việt Nam Công Ḥa (VNCH) đă phát động hai cuộc cải cách điền địa (CCĐĐ) năm 1956 và l970.

          Dưới thời Đệ Nhất Công Ḥa, Luật Cải Cách Điền Địa 1956 cho phép chính phủ truất hữu các số ruộng thặng dư của các đại điền chủ có trên 100 hécta để bán lại cho các tá điền. Các điền chủ được chính phủ trả 10% trị giá ruộng truất hữu bằng tiền mặt, và 90% bằng trái phiếu CCĐĐ, trả trong 12 năm, với lăi xuất 3% một năm. Số ruộng truất hữu được phân phát cho các tá điền, mỗi người từ 1 ha đến 5 ha, và họ phải bồi hoàn tiền mua cho chính phủ cũng trong ṿng 12 năm. Đó là chính sách hữu sản hóa hay tiểu tư sản hóa nông dân.

          Dưới thời Đệ Nhị Cộng Ḥa, trong khi Hội Nghị Paris c̣n đang tiếp diễn, hai phe lâm chiến thi đua giành dân lấn đất. Với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, Chính Phủ Miền Nam đă phát động cuộc CCĐĐ quy mô năm 1970. Từ nay các điền chủ chỉ c̣n được giữ 15 ha để trực canh, số ruộng thặng dư được truất hữu để phát không (min phí) cho các tá đin, mi người được t 1 ha (ti Trung Phn và Cao Nguyên) đến 3 ha (ti Nam Phn). Các tân đin ch được cp bng khoán đin th để bo đảm quyn tư hu. Ln này chính ph tr cho các đin ch 20% tr giá rung trut hu bng tin mt và 80% bng trái phiếu CCĐĐ, tr trong 8 năm vi lăi sut 10% mt năm. Đây là mt cuc cách mng xă hi ôn ḥ và không đổ máu.

          Tổng kết lại,  từ 1956 đến 1975,  các chính phủ VNCH đă truất hữu và phân phát 1.800.000 ha cho 1.300.000 tá điền, tính b́nh quân mỗi tá điền được cấp 1.3 ha, khoảng 3 mẫu rưỡi ta. (Theo tiêu chuẩn Miền Bắc, năm 1975 tất cả các nông dân từ Quảng Trị đến Cà Mau đều trở thành phú nông).

          Sau khi cướp chính quyền tại Miền Nam, ĐCS đẩy tới chế độ xă hội chủ nghĩa. Và năm 1978 họ thâu hồi lại tất cả ruộng đất mà các chính phủ VNCH đă cấp phát cho các tá điền Đó là chính sách hợp tác hóa nông nghiệp hay tập sản hóa ruộng đất của CS

          Đối với nhà nông, ruộng đất không những là phương tiện mưu sinh, mà c̣n có những liên hệ về t́nh cảm (giữa con người, con trâu và đồng lúa), hay về ba sinh hương lửa (giữa nhiều thế hệ kế tiếp). Có thể nói ruộng đất là lẽ sống, là hạnh phúc của nông dân. ĐCS đă dùng CCRĐ như những mồi câu, những bánh vẽ để dụ dỗ và dối gạt bần cố nông. Theo chủ thuyết Mác Lê họ không công nhận quyền tư hữu. Do đó họ không chủ trương chia ruộng cho tư nhân và không cho người cày có ruộng. Trái lại họ đă tước đoạt tất cả ruộng đất, nông cụ của nông dân trong chính sách vô sản hóa nhân dân để tập sản hóa tất cả ruộng đất trong tay nhà nước. Do đó chúng ta có thể khẳng định rằng,  ngày nay, từ Nam Quan vào Cà Mâu, không một người nông dân nào c̣n ủng hộ chế độ CS.

          Bằng ngụy trang dối trá họ đă huy động quần chúng đấu tranh. Dùng giả nhân giả nghĩa họ đă giành lấy chính nghĩa để cướp lấy chính quyền.

          Vấn đề đặt ra là: Muốn thực thi CCRĐ, nhà nước CS chỉ cần ban hành các đạo luật truất hữu vô thường ruộng đất của các đại địa chủ (bằng cách đánh thuế nông nghiệp hồi tố từ 1945). Tại sao họ phải đấu tố dă man những tiểu điền chủ trong khi chiến tranh c̣n đang tiếp diễn?

           Lư do là v́ CCRĐ không nhằm cải cách xă hội (chia ruộng cho người cày), mà nhằm đấu tranh giai cấp, phá vỡ gia đ́nh, văn hóa dân tộc và đạo lư truyền thống, đặc biệt  là để xây dựng và phát triển Đảng

 

XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐẢNG.

          Năm 1930 khẩu hiệu đấu tranh của ĐCSĐD là “Cách Mạng Bạo Động v́ Ruộng Đất và Độc Lập”. Theo thứ tự ưu tiên, CCRĐ là chính yếu, giành độc lập sẽ hạ hồi phân giải. V́ sao?

          V́ có CCRĐ mới phát động được đấu tranh giai cấp, tiêu diệt tiểu tư sản và tư sản. Có CCRĐ mới chiêu dụ và lường gạt được nông dân vô sản, buộc họ phải tích cực tham gia vào chiến dịch đấu tố. Những phần tử mệnh danh là phú nông hay địa chủ thực ra chỉ là những trung tiểu nông luơng thiện, cần cù, suốt đời chịu thương chịu khó, dành dụm trong nhiều năm mới tạo được một căn nhà và dăm ba mẫu ruộng (nhiều khi là ruộng hương hỏa từ đời ông đời cha để lại).

          Muốn đấu tố và truất hữu 150.000 trạch chủ, ĐCS đă phải huy động từ 300.000 đến 600.000 bần cố nông trong các đội CCRĐ, mỗi đội 6 người trong đó có một chánh án, một biện lư và nhiều khổ chủ. Những người này phải tố cáo (tố điêu, cáo gian) rồi chửi rủa, đánh đập, sỉ nhục những người nông dân hiền lành, chất phác có dăm ba mẫu ta ruộng. Đặc biệt là các tố cáo viên phải nhúng tay vào máu, sát hại người vô tội, gây nợ máu và oán thù sâu sắc không thể nào giải kết được. Phương châm của CS là “thà giết lầm 10 người c̣n hơn bỏ sót một tên địch!”.

          Năm 1956 chính phủ phân phát cho bần cố nông trong 5 đợt CCRĐ, mỗi người khỏang vài ba sào ruộng, hay một mảnh vườn, hay một gian nhà, hay một phần ao cá. Để rồi 2 năm sau, năm 1958, chính phủ lại thâu hồi toàn bộ tất cả ruộng đất ao vườn để trả lại cho nhà nước trong chính sách hợp tác hóa nông nghiệp hay tập sản hóa ruộng đất.

          Chính sách hợp tác hóa nông nghiệp nằm trong một chương tŕnh kế hoạch quy mô có bài bản đă được quyết định từ trước khi phát động chiến dịch CCRĐ, chứ không phải là một nhu cầu của giai đoạn mới.

          Nếu chúng ta không cho trẻ em đồ chơi th́ thôi. Nếu chúng ta cho chúng đồ chơi để rồi đ̣i lại,  th́ phản ứng tự nhiên của chúng sẽ là phẫn uất, phản kháng bằng la khóc. Người nông dân cũng vậy. Mới phải học tập tam cùng, ḥ hét, chửi rủa, sát hại những nạn nhân (mà họ biết là vô tội) để hy vọng có được một thửa ruộng hay một mảnh vườn. Nay Đảng đ̣i hết lại, rồi biến họ thành các nông nô trong các tổ đổi công với lợi tức 10 kư thóc hay 7 kư gạo một tháng, trong một gia đ́nh từ 4 đến 6 miệng ăn. Lẽ tất nhiên họ sẽ bất măn, sẽ phản kháng và sẽ có khuynh hướng muốn trở lại hàng ngũ của những người không CS, những nạn nhân lương thiện và vô tội.

          Để chặn đứng hiểm họa trở cờ này, ĐCS áp dụng chính sách chặt cầu, bắt bần cố nông phải gây oán thù, gây nợ máu, phải nhúng tay vào máu để không bao giờ có thể trở lại hàng ngũ dân tộc được nữa.

          Tại một nước kỹ nghệ chưa phát triển như Việt Nam hồi 1950, ĐCS không trông mong ǵ vào giai cấp công nhân đô thị. Chủ lực quân của họ được tuyển mộ trong giới bần cố nông tại nông thôn.

          Giới trí thức tiểu tư sản dầu có công cách mạng, có công kháng chiến, hay đă gia nhập ĐCS cũng vẫn bị đấu tố. Trong s các nn nhân CCRĐ, gii trí thc chiếm t l t 20% đến 25% (t 40 đến 50 ngàn người).

          ĐCS đă phát động phong trào đấu tố CCRĐ từ 1952, 2 năm trước khi Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất kết thúc. Họ không muốn có quá nhiều anh hùng tiểu tư sản trong cuộc kháng chiến mà họ gọi là ‘’thần thánh’’ơ.

          Buộc bần cố nông phải gây oán thù sâu sắc, phải nhúng tay vào máu để suốt đời trung thành với ĐCS, đó là dụng ư thâm độc của người CS. Năm 1945 khi ĐCS cướp chính quyền tại Việt Nam, số đảng viên chỉ có chừng 5000 người. Sau 5 đợt đấu tố CCRĐ và giai đoạn hợp tác hóa nông nghiệp, số đảng viên đă tăng 100 lần, từ 5000 năm 1945 lên 500.000 năm 1960.

          Từ nay số phận của những người đảng viên (nhiều khi bất đắc dĩ này) được gắn liền với số phận của ĐCS. Nếu Đảng lâm nguy, họ cũng sẽ lâm nguy. Do đó bằng đấu tố CCRĐ, ĐCS đă tổ chức và kết nạp được một hàng ngũ đảng viên cơ sở cố cùng và liều mạng. Đó là sức mạnh của Đảng CS.

          Đó là mục tiêu chính của CCRĐ. Tại Á Châu, ở nơi nào chưa có chính quyền, lực lượng này sẽ giúp Đảng cướp chính quyền. Ở nơi nào đă có chính quyền rồi, lực lượng này sẽ giúp Đảng củng cố chính quyền.

 

KINH TẾ LẠC HẬU.

          Thế nhưng lịch sử đă không diễn ra trên con đường thẳng của các xa lộ, mà nhiều khi  gặp phải những khúc quanh không thể tiên liệu được. Thực tế cho biết,  chính sách kinh tế chỉ huy, kinh tế quốc doanh xă hội chủ nghĩa đă đưa dân tộc và đất nước ta đến nghèo đói và lạc hậu.

          Sau Thế Chiến Hai ti Đông Nam Á, tŕnh độ phát trin ca các nước trong vùng không chênh lch là my. Vit Nam, Thái Lan, Mă Lai, Tân Gia Ba, Nam Dương, Phi Lut Tân, Đại Hàn v.v... đều là nhng nước có nn kinh tế tin công nghip, k ngh chưa phát trin, li tc ch yếu ca đại đa s nhân dân ch trông vào nông nghip vi các k thut canh tác thô sơ. Ti Thế Chiến Hai, Vit Nam được mnh danh là ‘’bao lơn Thái B́nh Dương’’, Sàigon là “ḥn ngc Vin Đông”. Lúc này ngoi tr Nht Bn,Vit Nam không thua bt c quc gia nào ti Đông Nam Á.

          60 năm trôi qua với 3 thế hệ con người sống dưới chế độ kinh tế xă hội chủ nghĩa, chúng ta không khỏi kinh ngạc khi thấy Việt Nam bị các nước láng giềng bỏ quá xa.

          Trong niên khóa 2003 lợi tức b́nh quân mỗi đầu người tại Việt Nam là 480 mỹ kim. Trong khi đó:    

         Tại Tân Gia Ba là 21.230 mỹ kim.

          Tại Đài Loan là 12.570 mỹ kim.

          Tại Đại Hàn là 12.030 mỹ kim.

          Tại Mă Lai là 3.780 mỹ kim.

          Tại Thái Lan là 2.190 mỹ kim.

Tại Phi Luật Tân là 1.080 mỹ kim.

 Tại Nam Dương là 810 mỹ kim.

          Đặc biệt tại Congo (cựu thuộc địa Pháp) là 640 mỹ kim. (Encyclopedia Britannica Book of the Year 2005).

          Hơn nữa, những bất công và bất b́nh đẳng xă hội trầm trọng đă gây nên sự chênh lệch giầu nghèo quá đáng, khiến cho lợi tức thực sự của người dân trung b́nh tại nông thôn chỉ bằng nửa con số lư thuyết 480 mỹ kim một năm. Và Việt Nam ngày nay là một trong những nước nghèo đói nhất trên thế giới, kém cả Congo và ngang Bắc Hàn (với 457 mỹ kim một năm).

          Trước cảnh tượng này mọi người Việt Nam yêu nước đều phải ngậm ngùi, tủi hổ cho đất nước và xót xa cho đồng bào.

          Lư do chính yếu là v́ ĐCS đă kéo dài chiến tranh quá lâu (hơn 4 thập niên). Và sau khi cướp được chính quyền, họ đă rập theo khuôn mẫu của Quốc Tế CS, phát động đấu tranh giai cấp để tiêu diệt tư sản và tiểu tư sản là những thành phần có khả năng và kinh nghiệm trong việc phát triển kinh tế. Họ đă bắt giữ và hành hạ hàng trăm ngàn quân nhân, công chức và trí thức văn nghệ sĩ Miền Nam. Cả triệu người đă bỏ nước đi t́m tự do.

          Những người lănh đạo đất nước th́ ích kỷ, tham lam, vô học và vô hạnh. Chế độ th́ vừa độc tài, vừa tham nhũng, vừa bất lực. Xă hội th́ bất công, vong bản, văn hóa đạo lư suy đồi, con người buộc phải gian manh dối trá để tự tồn.

          Ngày 2-9-1945, tại Quảng Trường Ba Đ́nh, Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập nhắc lại phần chủ văn của Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ: ‘’Mọi người sinh ra B́nh Đẳng và được Tạo Hóa ban cho những quyền không thể chuyển nhượng như ø Quyền Sống, Quyền Tự Do và Quyền Mưu Cầu Hạnh Phúc’’. Từ đó đến nay là 60 năm, ĐCS đă ḥan toàn thất bại trong việc xây dựng và phát triển kinh tế xă hội, văn hóa giáo dục và tự do dân chủ.

          V́ những lư do nêu trên, chế độ CS phải bị giải thể cho người dân được quyền mưu cầu hạnh phúc trong chế độ Dân Chủ Pháp Trị, trong đó các dân quyền và nhân quyền được tôn trọng, kinh tế quốc gia được phát triển và công bằng xă hội được thực thi.  

                                               

                                                     LS. NGUYỄN HỮU THỐNG

                                                    (PHỤC HỒI SỰ THẬT LỊCH SỬ)

Chú thích:

 

(1)và (2): Văn Nghệ (Hà Nội, 1955), tài liệu của Nha Chiến Tranh Tâm Lư Bộ Quốc Pḥng (Saigon).

Lá Thư Miền Nam của Nhuệ Hồng (1958).