ĐỐM LỬA QUÊ NGƯỜI...

Giao Chỉ – San Jose 2006

Bài viết về cuốn hồi kư của một kháng chiến quân sắp xuất bản.

 

“Này em, anh sẽ về bên kia biên giới.

Đèn nhà ai hay đốm lửa quê người...”

 

      Tháng 3-1975, tôi gặp tướng Hoàng Cơ Minh lần đầu tiên tại Cam Ranh.  Một vị đề đốc hải quân nóng nảy, bồn chồn vừa nhận toàn bộ trách nhiệm tư lệnh cuộc triệt thoái từ duyên hải. 

      Sau lễ chào cờ lần cuối tại Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân trên bán đảo, hạm đội chở phần c̣n lại của hai quân đoàn suôi Nam“Trùng khơi vạn lư, như chưa vừa ư, lắc lư con tàu đi.”  Bài ca vui tươi ngày nào bây giờ chuyên chở biết bao nhiêu cay đắng.

      Tháng 5-1975, gặp lại ông Hoàng Cơ Minh trong trại tỵ nạn Barrigada trên đảo Guam.  Hơn 30 vị tướng tá của một đạo quân tan hàng nằm chờ phi vụ vào Mỹ.  Ông Nguyễn Cao Kỳ, vị phó tổng thống dân Sơn Tây được đem đi trước.  Rồi đến ông Ngô Quang Trưởng, vị tư lệnh quân đoàn 1 dân Bạc Liêu.  Tôi nằm bên tướng Đồng Văn Khuyên, vị tham mưu trưởng liên quân người gốc G̣ Công, mặt dài như chiều đông.

      Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn III xuống sân đánh bóng chuyền cho quên ngày tháng.  Tướng Không quân Phan Phụng Tiên lâu lâu lại buông lời cay đắng.  Riêng ông Hoàng Cơ Minh là người duy nhất nói đến chuyện trở về.

      Những ư kiến rời rạc, mơ hồ của ông dường như đă bắt đầu h́nh thành.  Con đường trở về sẽ vô cùng khốc liệt và ư ông Hoàng Cơ Minh nói là phải dùng tất cả các phương pháp của cộng sản để đánh cộng sản.  Chuyện đó sau này thành sự thật.

      Sau cùng, chuyến bay cuối tháng 5-1975 từ hải đảo đă đưa vào lục địa Hoa Kỳ một vị tướng lănh Việt Nam Cộng Ḥa duy nhất quyết tâm trở về với tấm ḷng hết sức sắt đá.  Đó là Phó đề đốc Hải quân Hoàng Cơ Minh.

      Mười hai năm sau vào ngày 28 tháng 8-1987, vị đề đốc một thời Tư lệnh Hành quân biển của Hải Quân VNCH đă nằm chết bên bờ suối, giữa rừng già miền Nam Lào.

      Người lănh đạo Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam, đảng trưởng đảng Việt Tân với 110 kháng chiến quân vượt sông Mekong trong chiến dịch Đông Tiến t́m đường về Việt Nam.  Đến vùng Xalavang trên đất Lào, đạo quân kháng chiến bị săn đuổi bởi số địch quân đông đảo nên đă hoàn toàn tan ră.  Kháng chiến quân bị bắt đă kể lại trong tù về những cái chết đau thương và hào hùng.  Vị tư lệnh và các cấp chỉ huy Kháng Chiến đều tự sát sau khi bị thương.

      Vào đầu thập niên 80, cộng sản Hà Nội và thế giới Mác Xít đang ở trên đỉnh cao của chiến thắng.  Không thể có con đường nào khác gọi là đấu tranh chính trị.  Chỉ c̣n giấc mơ trở về gây dựng cơ sở chiến đấu trong ḷng địch.  Cả một ước mơ dù là đội đá vá trời nhưng vẫn có người cố thực hiện.         

      Bắt đầu tại Nhật Bản tháng 11-1975, anh chị em sinh viên thành lập tổ chcứ Người Việt Tự Do với lời chào nhau trong ước mơ “Mai này cùng hẹn về Việt Nam.”

      Từ Úc châu, Vơ Đại Tôn lập Chí nguyện đoàn Phục Quốc và t́m đường về vào năm 1981.  Ông đă bị bắt và xuất hiện trong cuộc họp báo tại Hà Nội ngày 13 tháng 7-1982.  Cuộc họp báo bất hủ đưa đến 10 năm viết thành trang sử “Tắm máu đen.”

      Từ Paris, Pháp Quốc, nhóm Trần Văn Bá, Mai Văn Hạnh, Lê Quốc Túy, Hồ Thái Bạch thành lập Mặt Trận Thống Nhất các lực lượng yêu nước giải phóng Việt Nam.  Tổ chức đă xâm nhập bằng đường biển vào Cà Mau, bị bắt và xử ngày 18 tháng 12-1984.  Mai Văn Hạnh và Lê Quốc Túy là các cựu sĩ quan Không Quân VNCH. 

      Trong Chí Ḥa, Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch bị xử bắn 8-1-1985.  Máu đỏ bức tường khám lớn.

      Và sau cùng, Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh từ Hoa Kỳ đă t́m đường về suốt 10 năm từ 1981 đến 1990 qua 4 giai đoạn.  Tất cả đều lấy đất Thái Lan làm bàn đạp.  Năm 85, hai nhóm cán bộ chính trị Tiền Phương Kháng Chiến đă qua Cam Bốt để về nước nhưng đều bị bắt tại Nam Vang.

      Cũng năm 85, Đông tiến I, vượt sông Mekong, qua Nam Lào do Đại tá Dương Văn Tư chỉ huy đến gần biên giới Việt Nam phía Bắc Kontum th́ bị Pathet Lào đánh đuổi và tan ră.  20 kháng chiến quân hy sinh.

      Năm 1986, Đông tiến II lần thứ nhất với 130 kháng chiến quân tiến về Đông Nam nhưng vượt sông Mekong tại Pác Xế bất thành nên đành phải rút.  Trước khi lên đường Mặt Trận đă triệt tiêu toàn thể căn cứ trên đất Thái.  Khi rút về lại phải sống ngoài trời gần một năm chờ tái xuất quân.

      Năm 1987 với 110 kháng chiến quân cuộc Đông tiến II lần thứ nh́ khởi sự, vượt sông Mekong và bị quân địch quá mạnh đánh tan.  Toàn bộ chỉ huy và tư lệnh tự sát.  Một số lớn tử trận và bị bắt.

      Đặc biệt là sau khi Đông tiến II lần thứ hai hoàn toàn thất bại, thành phần c̣n lại tại hậu cứ Thái Lan và tổng vụ hải ngoại tại San Jose, Hoa Kỳ cũng không biết rơ tin tức.  Chiến dịch Đông tiến lần thứ III vẫn tiếp diễn với người chỉ huy hậu cứ là một sĩ quan Dù.  Ông Đào Bá Kế đi vào đất chết muộn màng năm 1990 với số thành phần c̣n lại của hậu cần kháng chiến.  Các thành viên đài phát thanh, các nhân viên bảo vệ, tiếp liệu cùng với các tân kháng chiến quân mới tuyển thêm từ trại tỵ nạn đều đồng ư chấp nhận lên đường.  Tất cả xóa xổ căn cứ tại Thái Lan tiếp tục đi theo con đường Đông tiến I, vượt sông Mekong t́m về biên giới Việt Nam ở phía Bắc Kontum.

      Trong giai đoạn này thật sự không c̣n sự hiện diện của tướng Minh và ṿng đai kỷ luật hết sức sắt đá khốc liệt của ông.  Nhưng lạ lùng thay, những phần tử c̣n lại của Kháng Chiến không tan hàng mà lại đồng ḷng lên đường.  Không ai thật sự biết rơ tâm tư của anh em, nhưng có thể họ quyết tâm đi t́m “ông thầy.”

      Thêm một lần sau cùng, toán quân này cũng bị chặn đánh, bị giết, bị bắt.  Người chỉ huy Đông Tiến III là Đào Bá Kế nhận án tù chung thân, hiện c̣n bị giam tại trại tù Việt Bắc.

      Tất cả các anh hùng kháng chiến suốt 10 năm tuy hoàn cảnh mỗi người một khác và đôi khi việc tuyên truyền quá cường điệu phóng lên con số hàng chục ngàn tay súng nhưng sự gian khổ và khốc liệt hoàn toàn có thật.

      Vào những năm 80, bài hát bất hủ được ban hợp ca Thùy Dương cất lên vừa hùng tráng vừa bi thảm.  “Này em, anh sẽ về biên kia biên giới, đèn nhà ai hay đốm lửa quê người.”

      Hơn 100 kháng chiến quân đă hy sinh trên đường t́m về bên kia biên giới.  Vượt con sông Mekong, thấy ánh sáng leo lắt đêm khuya, tưởng là ánh đèn của thôn xóm trên đất nước thân yêu.  Ngờ đâu vẫn chỉ là đốm lửa quê người.  Tướng Hoàng Cơ Minh nằm bên bờ suối, chiến hữu chung quanh chẳng c̣n được mấy người.  Sức cùng lực kiệt, trải qua bao nhiêu gian khổ và cô đơn. 

      Bên kia bờ đại dương cả một tổng vụ hải ngoại đang trầm kha xâu xé làm cho ḷng tin tan vỡ.  Khi lên như sóng trào dâng, khi xuống như nước vỡ bờ.  Bên này tiền tuyến chỉ có trên dưới 200 tay súng bị săn đuổi suốt những năm tháng dài.  Thái Lan đổi thái độ không cho đóng quân.  Lào Cộng hợp lực với Việt cộng truy kích.  Kháng chiến quân bị thương phải tự sát hoặc đă bị các chiến hữu hạ sát để khỏi rơi vào tay địch.  Không c̣n đường nào khác.

      Con đường giải phóng là con đường một chiều.  Giải phóng hay là chết.  Bây giờ, những người thân tín của ông Minh trong hàng ngũ lạnh đạo không c̣n nữa.  Đại tá Dương Văn Tư đă hy sinh.  Trung tá Lê Hồng đă qua đời.  Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh với một đời hành quân biển đă bỏ quân phục đại lễ mầu trắng và biển cả màu xanh, để t́m về bộ quần áo đen, khăn rằn Nam Bộ nằm chờ đợi giây phút cuối cùng ở giữa rừng núi Hạ Lào.  Ông đă dùng chiêu thức của cộng sản để đánh cộng sản và đường lối này cũng đă tạo ra bao nhiêu sóng gió.  Sau cùng giải phóng hay là chết.  Khi không thành công th́ cái chết là giải thoát.  Và một phát súng cuối cùng đă nổ.  Tướng Hoàng Cơ Minh đă chết.  Nhưng tiếng súng của ông tự sát phải chờ đến 14 năm sau mới chính thức nghe được tại San Jose lúc đó vào tháng 7 năm 2002.

      Tất cả các câu chuyện kể trên và c̣n nhiều chi tiết hết sức đặc biệt đều được giăi bày trong cuốn Hồi Kư của Kháng Chiến Quân Phạm Hoàng Tùng, tác phẩm một bộ hai cuốn tựa đề “Hành tŕnh người đi cứu nước.”

      Tôi hân hạnh được học giả Đỗ Thông Minh từ Đông Kinh gửi riêng cho đọc bản in thử từ máy điện toán.  Tập hồ sơ tổng cộng 900 trang là một tài liệu hết sức quan trọng để các nhà nghiên cứu và toàn thể thế hệ Việt Nam sau này hiểu rơ câu chuyện t́m đường về của những năm 80.

      Với bản danh sách đầy đủ các kháng chiến quân đă hy sinh, đă tù đày và cả những người hiện c̣n sống xót đều là nhân chứng của một giai đoạn anh hùng và cũng hết sức bi thảm.

      Riêng câu chuyện về cuộc đời của tác giả năm nay trên dưới 50 tuổi đă trải qua 12 năm đi kháng chiến. 

      Phạm Hoàng Tùng cũng như hàng trăm ngàn thuyền nhân khác đă lên đường t́m tự do vào đầu năm 1982.  Từ Sài G̣n đi thuyền rồi qua đường bộ đến Nam Vang lần thứ nhất.

      Năm 1983 lại vượt biển vào trại tỵ nạn Sikhiu Thái Lan.  Anh trở thành một trong số 964 ngàn thuyền nhân mà thống kê của Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc ghi nhận tổng số 5 đợt trong 20 năm từ 1975 đến 1995.  Phạm Hoàng Tùng đă không chết trên biển Đông.  Phạm Hoàng Tùng cũng không đi Mỹ định cư.  Nếu anh đi Mỹ vào khoảng 1984 - 1985 th́ bây giờ cũng đă thành người Mỹ trên 20 năm ở San Jose trong số 100 ngàn dân Việt tại Thung Lũng Điện Tử.

      Nhưng phần số con người đă thay đổi khi anh chấp nhận giao hết giấy tờ tỵ nạn để đi theo Kháng Chiến.  Vào khu chiến năm 1984 làm việc trong đài phát thanh.  Tháng 9-1986, tham dự Đông tiến II kỳ 1.  Tháng 7-1987, tham dự Đông tiến II kỳ 2 rồi bị bắt giải về Sài G̣n.  Năm 1990, cải tạo lao động ở Phú Yên.  Năm 1993, trốn trại về Sài G̣n rồi vượt biên đến Nam Vang lần thứ 2.

      Bây giờ Phạm Hoàng Tùng ở lại làm người Việt lưu vong trên đất Cam Bốt.  Lập gia đ́nh, và đă trải qua hơn 12 năm trên đất khách quê người.  Lấy tin tức từ chiến hữu kháng chiến trong trại giam và từ kinh nghiệm bản thân, tác giả viết lại hành tŕnh của một người đi cứu nước. 

      Anh đă dâng hiến tất cả tương lai, hy vọng và tuổi thanh niên cho lư tưởng.  Anh t́m thấy ở Kháng Chiến cả mộng lẫn thực.  B́nh tĩnh và công b́nh, tác giả ghi lại những đau thương dằn vặt của từng chiến binh và người lănh đạo không phải bằng lời nói mà bằng các hành động.

      Đặc biệt chỉ cần sơ lược về hoàn cảnh hết sức tuyệt vọng hàng ngày, hết sức khó khăn, căng thẳng mỗi ngày, ta có thể h́nh dung được tâm trạng của người lănh tụ Kháng Chiến ra sao.  Tướng Hoàng Cơ Minh dưới ng̣i bút của tác giả hiện thân của sự quyết đoán, cao ngạo, không tin người và hết sức tàn nhẫn.  Nhưng rơ ràng là không có đường lối nào khác, ít nhất là vào thời điểm của các cuộc Đông tiến.

      “Một lần đi là một lần vĩnh biệt, một lần đi là hết lối quay về.”

      Tác giả đă kể lại những vụ xử tử kháng chiến quân muốn đào ngũ.  Những vụ thi hành kỷ luật sắt đá trong chiến khu.  Toán cận vệ trung thành của lănh đạo xuống tay lạnh lùng, tàn nhẫn và dứt khoát không tha thứ bất cứ ai.  Ngay cả vị bác sĩ duy nhất của khu chiến là ông Nguyễn Hữu Nhiều.

      Xem ra trước sau chỉ có trên dưới 200 tay súng.  Đủ mọi thành phần.  Có thể nói là một toán quân ô hợp.  Với kỷ luật sắt đá, lănh đạo đă tôi luyện thành các du kích quân bắt đắc dĩ, ngày đêm học tập.  Người từ hải ngoại về rất ít.  Đa số từ trại tỵ nạn.  Quân đội VNCH có, mà bộ đội đào ngũ cũng có.  Người v́ lư tưởng.  Người căm thù cộng sản và có cả những thành phần ảo tưởng, chỉ muốn thoát ra khỏi trại tỵ nạn v́ chờ đợi ṃn mỏi không thấy tương lai.  Tất cả đều được đưa vào ṿng cương tỏa chặt chẽ để dứt khoát không thể thoát ra được.  Chỉ cần một người trốn về là tất cả huyền thoại vỡ lở và những câu chuyện khắc nghiệt đau thương ở khu chiến sẽ làm đổ vỡ tổ chức toàn thế giới.

      Tác giả kể lại nhưng không một chút oán hận, đôi khi c̣n có vẻ phân trần cho hoàn cảnh.

      Toàn thể tác phẩm là một bản liệt kê những cái chết.  Bắt đầu là những vụ lên án và xử tử các âm mưu đào ngũ.  Tiếp theo là những nhu cầu đôn đốc bừng bừng lửa dậy tại hải ngoại đ̣i hỏi tiền tuyến  phải làm một cái ǵ.

      Cuộc Đông Tiến bắt đầu mặc dù chỉ có vài trăm tay súng.  Chỉ biết t́m cách vượt sông Mekong đi măi về phía Đông, không có một lệnh hành quân rơ ràng.  Lần đầu chưa được lại trở về.  Lần sau trước khi lên đường phá sạch trại để hết đường về nhưng rồi lại trở về sống bờ sống bụi chờ chuyến sau.

      Mỗi lần Đông Tiến là một lần thương vong.  Trận chiến hoàn toàn không cân xứng.  Đi vào đất địch với quân số ít ỏi.  Không có phương tiện liên lạc.  Địch không đánh quân ta cũng chết đói, chết khát.  Địch tấn công với quân số gấp 10 lần.  Quân ta chết là may mắn, bị thương là không có phương tiện cứu chữa.  Không thể để lọt vào tay địch, bị tra tấn lộ tin tức rồi cũng bị giết chết. 

      V́ vậy quân bạn ra tay trước.  Kháng Chiến giết hết thương binh của ta.  Hoặc là thương binh phải tự sát.  Kháng chiến quân tài hoa là nhạc sĩ Trần Thiện Khải, người sáng tác bài Trăng Chiến Khu đă tự sát sau khi bị thương trên đường Đông Tiến.

      Đoàn quân Đông Tiến như Hốt Tất Liệt ngày xưa dẫn quân Thát Đát tiến về phía mặt trời.  Cứ phương đông mà đi cho đến khi ngựa hết nước, người hết sức, nhưng rồi quân Mông Cổ c̣n có đường về.  Kháng Chiến th́ tan hàng ngay tại Hạ Lào.  Đi như thế không bị địch đánh th́ cũng chết.  Dù về đến đất Kontum th́ cũng không thể mở được đầu cầu.  Cho dù mở được đầu cầu th́ làm ǵ có đại binh theo sau.

      Những cuộc hành quân gian khổ, điên cuồng như thế mang ư nghĩa ǵ?  Ông Minh rơ ràng chỉ muốn t́m về chết tại quê hương.

      Ba trăm tám tư năm trước, con tàu Mayflower từ Âu châu nhổ neo đi về phương Đông với 102 người.  Một nửa là di dân và một nửa là thủy thủ đoàn.  Cũng là một hành tŕnh vô vọng.  Con tàu tả tơi đến miền Đông Hoa Kỳ năm 1620, mùa Xuân đầu tiên chết 52 người v́ đói khát và bệnh tật.  C̣n lại 50 người sống xót và các gịng họ hậu duệ của con tàu Hoa Tháng Năm ngày xưa trải qua 4 thế hệ bây giờ đă có đến 35 triệu người trong số 300 triệu dân Hiệp Chủng Quốc.  Một cuốn sách biên khảo vừa xuất bản đă ghi lại vào ngày Lễ Độc Lập năm nay.

      Trên chuyến khởi hành đến Mỹ và sau khi sống những năm đầu đầy thử thách ở Tân Thế Giới, di dân đă có lúc hung bạo, tàn nhẫn với nhau.  Sử sách đều có ghi lại.  Tuy nhiên, Mayflower đă thành công.  Nhưng con tàu Đông Tiến của Hoàng Cơ Minh đă không nở hoa Kháng Chiến.

      Khi tướng Minh tổ chức đại hội tại San Jose để khai trừ người phụ tá số 1 là Đại tá Phạm Văn Liễu th́ tại Nam California cũng có đại hội của ông Liễu tổ chức để đặt vấn đề với ông Minh.

      Đó là vào ngày 29 tháng 12-1984.

      Cùng vào thời gian đó, tiền đồn Hải Vân của Kháng Chiến trên đất Thái bị địch vượt sông Mekong qua tấn công.  Đơn vị Kháng Chiến tiền tuyến phải triệt thoái.

      Sau khi mặt trận bể làm đôi, tướng Hoàng Cơ Minh trở lại khu chiến chuẩn bị và đích thân tổ chức Đông Tiến II lần 1 rồi lần thứ 2.  Ông ra đi để t́m bằng được ngọn đèn đêm hiu hắt trong thôn xóm Việt Nam, nhưng khi nằm chết bên con suối Hạ Lào, ông chỉ thấy xa xa đốm lửa quê người.

      Khi xuất bản tác phẩm của Phạm Hoàng Tùng, ông Đỗ Thông Minh có lẽ chỉ muốn cho tác phẩm có cơ hội tŕnh bày sự thật.  Khi người Kháng Chiến viết về 12 năm oan nghiệt, tác giả cũng chỉ đơn giản kể lại những ǵ đă trải qua. 

      Độc giả đọc tác phẩm chắc có thể mang nhiều suy tư.  Kẻ chống đối hận thù Kháng Chiến sẽ t́m thấy nhiều chứng cớ để buộc tội.

      Nhưng riêng phần tôi, với t́nh cảm dành cho người đi cứu nước, tôi hết sức đau thương và trân trọng cái chết của tướng Hoàng Cơ Minh.  Tấm ḷng thương cảm của tôi không phải chỉ dành cho chủ tướng mà cho tất cả đoàn viên của ông.  Những người ông tuyên án xử tử, những người theo ông đi vào chỗ chết, hay những người v́ theo ông mà suốt một đời tù đày cho đến ngày  nay vẫn c̣n chưa được tự do.

      Xem ra, tác giả đi một ṿng tṛn trên 4 xứ Đông Nam Á khoảng thời gian vừa đúng một con giáp, Phạm Hoàng Tùng lại là người Kháng Chiến hưởng hạnh phúc sau cùng.

      Tướng Hoàng Cơ Minh với cái chết của chính ông, ông đă làm trọn lời thề nguyền từ khi xuống tàu bỏ nước ra đi.  Ông đă giữ vẹn lời thề, khi đứng trên khán đài hô hào kháng chiến phục quốc ở Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn, ở Orange County và ở San Jose.

      Cái chết của vị Đề đốc Hải quân Hoàng Cơ Minh, của Đại tá Bộ binh Dương Văn Tư, của Trung tá Nhảy dù Lê Hồng và ngay cả các kháng chiến quân đào ngũ bị xử tử h́nh đều góp phần cho Kháng Chiến và Việt Tân tồn tại.  Đông Tiến là chuỗi đài của những thất bại nhưng học được bài học thất bại là lấy được ch́a khóa của thành công.

      Trong công cuộc đấu tranh cho Việt Nam bây giờ và sau này.  Dù bằng chính trị hay bằng những phương thức khác.  Dù giải phóng rồi canh tân hay dù canh tân rồi giải phóng.  Dù đúng hướng chính thống hay chệch hướng ḥa giải th́ điều quan trọng là phải tồn tại.  Bất cứ với giải pháp nào, ta không thể cứu nước nếu ta không tồn tại và tiếp tục hoạt động.

      Cái chết của một lănh tụ chỉ có thể mang ư nghĩa để cho thế hệ đấu tranh tiếp nối tồn tại.  Với ư  nghĩa đó, một đóa hoa tháng Năm, một Mayflower mới của người Việt sẽ nở hoa trong cộng đồng của chúng ta.

      Đối với những dư luận về công cuộc kháng chiến phục quốc, chúng tôi xin có đôi lời hơn thiệt. 

      Hơn 20 năm trước, Giao Chỉ đă bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với Vơ Đại Tôn, Trần Văn Bá và Hoàng Cơ Minh.  Thân hữu nói rằng, ông quá cả tin nên dễ bị lừa.  Đă xin thưa rằng, tôi muốn ngày nào cũng có người đến lừa tôi về chuyện xây dựng lại non sông.

      Hai mươi năm sau, thân hữu lại nói rằng, ông đă yêu lầm tướng cướp.  Bèn trả lời rằng:  T́nh yêu vốn mù quáng.  Bây giờ đă già rồi, không thể thay đổi được nữa.  Đành xin chịu mù ḷa để giữ lấy t́nh yêu.

      Đối với riêng tôi, mọi công cuộc kháng chiến phục quốc từ Vơ Đại Tôn, lực lượng đặc biệt đến không quân Lê Quốc Túy, Mai Văn Hạnh và của hải quân Hoàng Cơ Minh đều là những nỗ lực thần thánh, chúng tôi có tràn đầy đức tin tuyệt đối.

      Ngày xưa, cụ Nguyễn Bá Trác lưu lạc bên Tàu, mang nặng mối sầu phục quốc bất thành đă viết nên vần thơ bất hủ trong bài Hồ Trường:

      “Chí ta ta biết, ḷng ta ta hay.”

      Bây giờ ḷng dạ đó vẫn là tâm can của các đoàn viên cách mạng.  Chắc chắn rằng tôi hiểu tấm ḷng các bạn.  Khi thiên hạ sắp ném đá người đàn bà tội lỗi, Chúa nói rằng, ai không có tội th́ ném trước.  Tất cả đều bỏ đi.  Ngày nay, người lương thiện bỏ đi, người tội lỗi đứng lại lấy chuyện ném đá để mua vui đời luân lạc.  Từ Vơ Đại Bịp đến Kháng Chiến Phở Ḅ.  C̣n chữ nghĩa nào tàn nhẫn hơn để làm đau đớn người đi cứu nước.

      Hăy đọc tác phẩm của kháng chiến Nguyễn Hoàng Tùng để cùng suy nghĩ lại.

*    *    *

      Với tấm ḷng chân thành muốn t́m hiểu lịch sử trong đời sống hiện tại, tôi xin giới thiệu tác phẩm giá trị này đến quư độc giả.

Giao Chỉ – San Jose 2006

     

 

 


 

Nhân dịp cơ quan IRCC, Inc. kỷ niệm 30 năm thành lập tháng 7-2006

NIÊN BIỂU HẢI NGOẠI PHỤC QUỐC

(Ghi nhận tóm lược, cần bổ túc sau.)

Giao Chỉ – San Jose 2006

 

1954    -     20 tháng 7-1954:  Hiệp định Geneve chia đôi đất nước.  Một triệu người Bắc di cư vào Nam.

1975    -     Tháng 4-1975:  Miền Nam thất thủ. 

                  Từ 1975 đến 1995, một triệu thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam ra đi trong 20 năm.

            -     Tháng 10-1975:  Tại Paris, Lê Quốc Túy, Trần Văn Bá lập Mặt Trận Giải Phóng Việt Nam.

            -     Tháng 11-1975:  Tại Nhật Bản, Người Việt Tự Do thành lập

                  với lời chào “Mai này về Việt Nam.”

1977    -     Tại Hoa Kỳ:  Lục Phương Ninh thành lập Lực Lượng Quân Dân với sự tham dự của tướng Nguyễn Chánh Thi và tướng Hoàng Cơ Minh.

            -     Tại Úc châu:  Vơ Đại Tôn thành lập Lực Lượng Quân Dân.

1978    -     Tại Hoa Kỳ:  Tổ chức Phục Hưng Việt Nam ra đời.

            -     Vơ Đại Tôn thành lập chí nguyện đoàn tại Âu châu và Hoa Kỳ.

1980    -     Tại Hoa Kỳ thành lập Mặt Trận Kháng Chiến với Đỗ Thông Minh (Người Việt Tự Do), Trần Văn Sơn (Phục Hưng) và Hoàng Cơ Minh (Lực Lượng Quân Dân).

1981    -     Vơ Đại Tôn về Thái Lan xâm nhập Việt Nam qua Nam Lào (tháng 2-1981).

            -     Phái đoàn Mặt Trận về thăm ḍ tại Thái Lan (tháng 6-1981).

            -     Vơ Đại Tôn bị bắt tại Nam Lào (tháng 11-1981).

1982    -     Mặt Trận công bố cương lĩnh tại biên giới Thái – Lào, ngày 8-3-1982

                  Tin thời sự trên TV Hoa Kỳ.

            -     Hoàng Cơ Minh lănh đạo Kháng Chiến.  Phạm Văn Liễu, tổng vụ hải ngoại.  Phạm Ngọc Lũy, chủ tịch phong trào yểm trợ.

            -     Hà Nội đưa ra họp báo, Vơ Đại Tôn công khai lên án cộng sản ngày 13-7-1982.

            -     Hoàng Cơ Minh lập đảng Canh Tân trong khu chiến ngày 10-9-1982.

1983    -     Hoàng Cơ Minh từ khu chiến trở lại Hoa Kỳ.  Tổ chức đại hội chính nghĩa tại DC.

1984    -     17 tháng 3-1984:  Đại hội Mặt Trận khắp nơi.  Cao điểm của Mặt Trận tại hải ngoại. 

                  Trên 10 ngàn người tham dự tại San Jose.

            -     Trần Văn Baù từ Thái – Miên xâm nhập vào Việt Nam tại Cà Mau, bị bắt đem xử

                  tại Sài G̣n ngày 18-12-1984.

            -     25 tháng 12-1984:  Cộng sản tấn công tiền đồn Hải Vân của Kháng Chiến

                  tại chiến khu Thái Lan.

            -     29 tháng 12-1984:  Ông Hoàng Cơ Minh tổ chức đại hội giải chức Phạm Văn Liễu.  Cùng một lúc, Nam Cali tổ chức đại hội ông Liễu đặt vấn đề với ông Hoàng Cơ Minh.  Mặt Trận bể làm đôi.  Phe Hoàng Cơ Minh cải tổ tiếp tục đấu tranh.

1985    -     Cộng sản xử tử Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch ngày 8-1-1985.

            -     Tướng Hoàng Cơ Minh về khu chiến xây dựng lại cơ sở tại Thái Lan.  Chuẩn bị Đông Tiến.  Trung tá Nhảy dù Lê Hồng, Tư lệnh Lực Lượng Vũ Trang bị bệnh chết. 

            -     Theo kháng chiến quân Phạm Hoàng Tùng, tổng cộng có 9 kháng chiến quân bị Mặt Trận xử tử h́nh v́ phản kháng hay đào ngũ. 

            -     Tháng 5-1985, Đại tá Dương Văn Tư chỉ huy Đông Tiến I, bị Việt cộng chặn đánh.  Tất cả đều bị hy sinh và bị bắt.  Cấp chỉ huy Dương Văn Tư và Huỳnh Trọng Hà tử thương.

1986    -     Đông Tiến II lần thứ nhất tháng 9-1986, tướng Hoàng Cơ Minh chỉ huy với 130 kháng chiến quân, có kháng chiến Lào dẫn đường.  Chạm súng với Lào cộng.  Vượt sông Mekong thất bại phải quay về.

1987    -     Tháng 7-1987:  Tướng Minh tổ chức Đông Tiến II lần thứ hai với 120 quân bị một trung đoàn Việt công luân phiên đánh trong 40 ngày.  Một nửa hy sinh tại trận, một nửa bị bắt.

            -     Các cấp lănh đạo và tướng Hoàng Cơ Minh đều bị chết hoặc tự sát sau khi bị thương. 

            -     Tướng Minh chết ngày 18 tháng 8-1987.

            -     1 tháng 12-1987:  Cộng sản Hà Nội đem 18 kháng chiến quân bị bắt ra xử tại Sài G̣n và công bố h́nh tướng Minh đă chết.

1990    -     Mặt Trận do sĩ quan Nhảy dù Đào Bá Kế chỉ huy với tất cả thành phần hậu cứ c̣n lại 30 chiến sĩ lên đường Đông Tiến III.  Một lần nữa bị cộng sản đánh tan tại Nam Lào.  Tất cả đều hy sinh và bị bắt. 

            -     Đào Bá Kế bị bắt đem xử tại Hà Nội và vẫn c̣n bị giam cho đến nay (2006).

1991    -     Lănh đạo Kháng Chiến hải ngoại bị sở thuế Hoa Kỳ truy tố phải đóng tiền phạt.

            -     Kháng Chiến kiện một số báo chí ra ṭa tại San Jose nhưng bị thua.

            -     Đài phát thanh Kháng Chiến ngưng hoạt động. 

            -     Ngô Chí Dũng và nhóm phụ trách tại Thái Lan mất tích.

            -     Bắt đầu từ 1991, Kháng Chiến do ông Nguyễn Kim, lănh đạo hướng về các sinh hoạt đấu tranh chính trị tại hải ngoại.

2002    -     Tháng 7-2002:  Mặt Trận chính thức truy điệu tướng Hoàng Cơ Minh và các chiến

                  hữu hy sinh tại San Jose.

2004    -     Tháng 9-2004:  Mặt Trận tổ chức ra mắt công khai đảng Việt Tân tại Âu châu. 

                  Chấm dứt Mặt Trận Kháng Chiến sau 23 năm hoạt động.

2006    -     Đầu năm 2006:  Bác sĩ Trần Xuân Ninh, luật sư Hoàng Cơ Long

                  và hơn 70 đoàn viên ly khai Việt Tân v́ bất đồng quan điểm.

 

      Trên đây là các thời điểm ghi lại một phần lớn lấy từ tác phẩm Hành Tŕnh Người Đi Cứu Nước của Phạm Hoàng Tùng cùng với h́nh ảnh của nhà xuất bản Tân Văn.  Sách sẽ phát hành tháng 11-2006.

 

 

 


C̣n Nhớ Hay Đă Quên?

KHÔNG QUÊN 11 THÁNG 9

Giao Chỉ – San Jose 2006

 

     Ngày thứ Hai 11 tháng 9-2006, cơ quan IRCC chúng tôi khởi công sửa chữa ngôi nhà Victoria trong vườn Kelley trên đường Senter, San Jose.  Mới bắt đầu dọn dẹp bên ngoài và sửa các bậc thang.  C̣n phải chờ kiến trúc sư phác họa và chụp h́nh trước khi vẽ lại sơ đồ tái chỉnh trang thành Viện Bảo Tàng.  T́nh cờ ngày bắt đầu lại là ngày ghi dấu 5 năm biến cố đau thương của Hoa Kỳ.

     Mặt sau ṭa nhà hai tầng của Viện Bảo Tàng tương lai, có hai khẩu hiệu song ngữ.  Nhớ măi 30 tháng 4.  Không quên 11 tháng 9.  Một biến cố năm 1975 tại Việt Nam.  Một biến cố năm 2001 tại Hoa Kỳ.  Năm 1975, một đất nước thay đổi.  Năm 2001, một cuộc sống đổi thay.

     Và cũng vào buổi sáng thứ Hai, khi mà tại Downtown San Jose có cuộc diễn hành của lính cứu hỏa dành cho 911 th́ có hai người khách quận Cam đến thăm cơ sở của Viện Bảo Tàng.  Luật sư Lâm Lễ Trinh và đại tá dược sĩ Cao Thiện Chánh.  Hai người là bạn học từ thủa c̣n là học tṛ miền Tây.  Năm nay ông Trinh 84 tuổi và ông Chánh 81 tuổi.

     Ngày thứ Bảy vừa qua, tác giả Lâm Lễ Trinh ra mắt cuốn sách Về Nguồn với 200 khán giả tham dự.  Có cả ông bà đại tướng Nguyễn Khánh từ Sacramento, luật sư Trần Thanh Hiệp từ bên Pháp và bà Nguyễn Tôn Hoàn.  Đây là các vị khách đặc biệt của San Jose.  Tác giả rất hài ḷng về sự thành công của ngày giới thiệu tác phẩm.  Bây giờ hai vị khách cao niên t́m đường về lịch sử.

     Khi ghé thăm pḥng trưng bày tại đường Park và vị trí tương lai tại đường Senter, các vị khách của chúng tôi đều hết sức khen ngợi và khích lệ cho dự án.  Quư vị cũng nói rằng, chuyện 30 tháng 4 không ai quên được nhưng biến cố 11 tháng 9 th́ mới có 5 năm mà sao dường như không được cộng đồng ta lưu ư.

     Từ Nam đến Bắc Cali, chúng ta đă bận khá nhiều công việc.  Riêng tại San Jose, có thể kể ra nhiều nơi tổ chức cho một ngày thứ Bảy 9 tháng 9-2006.  Mỗi chỗ đều có tầm quan trọng và mang một ư nghĩa riêng.

     Hội thảo của Sức Khỏe Là Vàng.  Họp báo đấu tranh cho ông Đỗ Thành Công.  Ra mắt sách Về Nguồn.  Tuyên dương của nghiệp đoàn tại Ṭa Thị Sảnh San Jose và sau cùng văn nghệ 10 tiếng hát tại CPA.

     Tất cả đều là những sinh hoạt rất riêng tư của cộng đồng.  Con tim Việt Nam có vẻ như chưa hội nhập toàn diện vào nhịp sống Hoa Kỳ.  Chúng ta nhớ 30 tháng 4 từ 31 năm trước.  Chúng ta c̣n nhớ chăng ngày 11 tháng 9 mới có 5 năm qua.

     Lịch sử lập quốc Hoa Kỳ có những ngày đáng ghi nhớ.  Ngày 4 tháng 7 là Lễ Độc Lập và suốt 12 tháng đều có những ngày nghỉ lễ của quốc gia.  Trong các ngày đau thương toàn quốc đều nhớ đến trận Trân Châu Cảng và sau này là ngày Ṭa Tháp Đôi tại Nữu Ước bị đánh xập.

     V̀ ĐÂU NÊN NỖI

     Nếu phải viết lại cho con cháu chúng ta vài hàng ngắn ngủi th́ lịch sử sẽ ghi lại ra sao về cái ngày 11 tháng 9-2006.

     Vào hậu bán thế kỷ thứ 20, dầu hỏa Trung Đông trở thành vàng đen của nhân loại.  Các quốc gia Hồi giáo ngồi trên mỏ dầu nhưng lại có những người dân sống trong địa ngục.

     Tuy cùng chung một gốc rễ tôn giáo nhưng thù hận nhau quyết liệt.  Trong đó mối thù truyền kiếp Do Thái và Palestine trở thành một đề tài vô phương giải quyết.  Có quốc gia thay đổi từ các chế độ độc tài quân chủ qua độc tài quân phiệt.  Các vị tướng lănh thay thế vua chúa tiếp tục cầm quyền, sống trên đầu trên cổ dân đen.  Bên cạnh là một giai cấp giáo sĩ sẵn sàng xách động các cuộc thánh chiến và khích lệ tinh thần tử đạo.

     Ôm vào tất cả mọi t́nh huống phức tạp ở Trung Đông nhưng Tây Phương không thể nhắm mắt bỏ đi v́ khối lượng vàng đen khổng lồ nằm dưới ḷng sa mạc.  Dầu hỏa lại là máu huyết của nền kinh tế và khoa học toàn cầu. 

     Mâu thuẫn, xung đột tại Trung Đông không bao giờ giải quyết xong.  Chính trị gia gọi là ḷ lửa.  Báo chí gọi là ung nhọt.  Người Ả Rập gọi là Thánh địa.  Tất cả chỉ có thể giải quyết tạm từng vùng, trong một thời gian tính bằng năm, tháng và có đôi khi chỉ tính được bằng ngày. 

     Với các đầu óc bị đầu độc từ lúc c̣n nhỏ, với một cuộc sống trưởng thành trong đói khổ và nhục nhă, chủ trương chiến tranh khủng bố ra đời.  Tây Phương là kẻ thù và trong đó Hoa Kỳ là mục tiêu số một.

     Vào ngày 11 tháng 9 có một đột quyết tử 19 người của khối Hồi giáo đă hy sinh tính mạng làm thay đổi toàn diện cuộc sống trên thế giới.  Phía bên kia gọi họ là chiến sĩ Thánh chiến.  Bên này gọi họ là những tên khủng bố.

     Chưa bao giờ nhân loại lại có thể nghĩ ra phương cách dùng chính thân xác của ḿnh làm vũ khí cho cuộc chiến.  Bốn phi cơ thương mại bị không tặc trong một buổi sáng.  Hai phi vụ đă thành công đánh xập Ṭa Tháp Đôi Nữu Ước giết 3,000 người để Nữu Ước c̣n lại mang tên một khu vực Ground Zero.  H́nh ảnh của trận đánh được chiếu đi chiếu lại trên TV toàn cầu.

     Chiếc thứ ba đâm vào một góc Ngũ Giác Đài để lại một bia đá khắc tên 184 chiến sĩ hy sinh tại nghĩa trang Arlington.  Trong số này có ông Nguyễn Ngọc Khanh, người Mỹ gốc Việt, một nhân viên của Bộ Hải Quân Hoa Kỳ.

     Nguyễn Ngọc Khanh sanh năm 1960, tốt nghiệp kỹ sư điện.  Có gia đ́nh và 1 con trai ở Fairfax, Virginia.

     Sáng ngày 11 tháng 9, người thanh niên lúc đó 41 tuổi từ trong nhà c̣n chạy ra xe Bus học tṛ từ giă đứa con 4 tuổi lần thứ nh́:  Byebye Daddy lần nữa đi con.

     Đứa bé tên An vẫy tay chào ba nó.  Và đây là lần cuối cùng.  Đă 5 năm qua, đứa bé bây giờ 9 tuổi vẫn không hiểu rơ bố nó đi sao lâu quá chưa về.  Và người mẹ quả phụ c̣n trẻ nuôi con nhưng không bao giờ thay thế được h́nh ảnh của người cha có một thời làm việc trong trong Ngũ Giác Đài vô cùng vĩ đại.

     Chuyến máy bay thứ 4 không thành công v́ những chiếc Cell Phone kỳ diệu liên lạc được với gia đ́nh đă cho biết tin các phi cơ bị không tặc bây giờ là con tàu tự sát.  Hành khách trở thành các anh hùng cướp máy bay và sau cùng phi cơ United 93 cất cánh từ Newark đi San Francisco đă đâm xuống cánh rừng hoang ở Pennsylvania.

     Tại đây người ta làm một đài tưởng niệm có một bộ thông phong khổng lồ với 45 chiếc leng keng như chuông đồng khánh ngọc, thay cho các linh hồn đă cùng về nơi vĩnh cửu.

     Hành khách của chuyến bay này có phân nửa là dân cư ngụ tại Bắc California và phân nửa là du khách đến San Francisco.  Bây giờ, sau năm năm, chuyến trở về Cali không tới.  Chuyến đi thăm Golden Gate không bao giờ hoàn tất.  Tất cả chỉ c̣n là tro tàn ở trong khu rừng hoang vắng tại Shanksville, Pennsylvania với các ống thông phong lớn nhỏ dài ngắn, gió thổi kêu vang vang không ngừng.

*   *   *

     Năm năm trước, cũng như sau trận tấn công bất ngờ của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng, khi xảy ra ngày 11 tháng 9, cả nước Mỹ xững xờ.  Nhưng rồi Hoa Kỳ lại gượng đứng lên, mạnh mẽ và đoàn kết hơn bao giờ hết.  Toàn thể Quốc Hội nắm tay nhau trên thềm điện Capitol hát bài God Bless America.  Toàn quốc đứng sau tổng thống Mỹ.

     Năm năm qua, tinh thần đoàn kết hào hùng như thế không c̣n nữa.  Dưới 50% dân chúng bây giờ không c̣n tin tưởng vào nội các của tổng thống Bush.

     10 năm trước, ai cũng nói rằng Trung Đông khác Việt Nam.  Bây giờ chúng ta đă thấy rơ.  Trung Đông không giống Việt Nam, nhưng Trung Đông chính là một thứ Việt Nam khác.  Thời cuộc biến chuyển khôn lường.

     Dù đúng hay sai, khối Hồi giáo trên thế giới vẫn có hơn một tỷ người cùng chung một thứ tôn giáo và sống trong một môi trường văn hóa đặc thù.  Có lúc họ giết nhau tàn bạo, có lúc họ cùng liều chết trước kẻ thù chung.  Kẻ thù thực hay kẻ thù ảo.  Và Hoa Kỳ đôi khi phải giải quyết với các vấn đề từng ngày.  Đó là cái giá của cuộc sống hiện nay.  Khi mà đối phương lấy thân xác làm vũ khí th́ mọi sự đương đầu trực diện cần phải xét lại.

     Đứng trước khó khăn của 911 để lại cho Hoa Kỳ, cộng đồng Việt Nam đương nhiên chia phải xẻ tất cả.  Chúng ta đă chia xẻ sự xao xuyến đau thương 5 năm về trước.  Sẽ tiếp tục chia xẻ nỗi phân vân về các giải pháp của Hoa Kỳ trên thế giới.

     Ngày xưa tại Việt Nam, 50 năm về trước, đất nước ta như một sân đá banh, chia đôi Quốc Cộng.  Ai ở bên nào th́ đá cho bên đó.  Chịu hy sinh và cố làm tṛn nhiệm vụ.

     Ngày nay, định mệnh đưa ta làm dân Mỹ, đương nhiên phải cùng chia xẻ cay đắng hay vinh quanh với đất nước này.

     Nhớ măi 30 tháng 4 – Không quên 11 tháng 9.  Từ Việt Nam đến Hoa Kỳ.  1975 – 2001 cách nhau 26 năm.  Chẳng vết thương nào lành.

Giao Chỉ – San Jose 2006