Núi Lạnh: Hành tŕnh t́m về những nấm mồ hoang

 

 

 

medium_doCongHuyen03.jpg

Ông Đỗ Công Huyền,  làm nghề giữ rừng. Đồi Cây Khế ở ngay phía sau nhà ông.

medium_yKien.jpg

Những người dân bên đường, cạnh đồi Con Trăn, nghe có người đi t́m mộ các sĩ quan “Ngụy” đă tập trung lại và mỗi người một ư cùng nhau hướng dẫn giúp đỡ.

medium_moXaVanHoi.jpg

Anh Lê Đức Hùng vạch t́m bia mộ đă bị cỏ dại lấp kín.

medium_toanCanhCayKhe.jpg

Cảnh phía trước đồi Cây Khế, nơi trước đây là bệnh xá của trại Cải Tạo Việt Cường.

medium_leDucHung.jpg

Ông Lê Đức Hùng, một sĩ quan bộ đội phục viên đang chuẩn bị đi vào xă Vân Hội hướng dẫn người đi t́m mộ.

medium_danDiaPhuong.jpg

Những cư dân địa phương đi theo người t́m mộ trên đồi Con Trăn.

medium_thapHuong.jpg

Trước khi quay về Nam, tác giả kính cẩn cầu nguyện các hương linh giữa vùng núi lạnh.

medium_choNho.jpg

Một cảnh họp chợ sáng ở thị xă Yên Bái.

medium_quanCheTuoi.jpg

Một quán chè tươi bên đường ở thị xă Yên Bái.

medium_duongVaoVanHoi.jpg

Một quán bên đường, trên đường vào t́m mộ ở xă Vân Hội.

medium_thuaRuong.jpg

Đây là thửa ruộng trước nhà bà Hải. Vị trí này trước đây có bốn ngôi mộ; một đă được bốc về nhà; một bị suối cuốn đi và c̣n lại hai ngôi.

medium_baTuyen.jpg

Bà Tuyên, nhà ở dưới chân đồi Con Trăn.

medium_doCongHuyen01.jpg

Ông Đỗ Công Huyền đang ḍ danh sách các ngôi mộ trên đồi Cây Khế.

medium_doCongHuyen02.jpg

Ông Đỗ Công Huyền đang phát cỏ dại quanh một ngôi mộ.

medium_cayKhe.jpg

Cả vùng núi xă Việt Cường - Yên Bái chỉ có một cây khế, nên địa danh này được gọi là đồi Cây Khế. Đă từng có 51 ngôi mộ các sĩ quan VNCH nằm lại trên đồi này.

medium_lamQuangDo.jpg

Bia mộ của ông Lâm Quang Đỏ, vẫn c̣n đọc rơ tên.

medium_moMatTen.jpg

Một bia mộ sắp mất tên.

medium_bachDan.jpg

Những ngôi mộ c̣n tên hoặc mất tên đang nằm rải rác với rừng cây Bạch Đàn trên đồi Cây Khế.

 

 

 

Trần Tiến Dũng/Người Việt

LTS: Ngày 9 Tháng Chín, 2006, nhật báo Người Việt đăng bài viết “31 Năm Sau, Người Lính Ấy Đă Về Với Gia Đ́nh...” kể lại cuộc hành tŕnh của một người con gái t́m lại được xác cha là một cựu thiếu tá Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, qua đời trong tù cải tạo thuộc tỉnh Yên Bái (Hoàng Liên Sơn cũ). Ngay sau đó, Người Việt đă nhận được nhiều e-mail, điện thoại chia sẻ t́nh cảm. Bên cạnh đó, khá nhiều độc giả muốn t́m hiểu về việc đi t́m lại tung tích của những ngôi mộ của các sĩ quan Việt Nam Cộng Ḥa đă nằm lại Hoàng Liên Sơn trong thời gian đi tù cải tạo sau 30 Tháng Tư, 1975. Đáp lại t́nh cảm của độc giả, cộng tác viên Trần Tiến Dũng của nhật báo Người Việt đă từ Sài G̣n lên đường đi Yên Bái. Sau gần một tuần lưu lại tại đây, phóng viên Trần Tiến Dũng đă tiếp xúc nhiều cư dân địa phương, ghi lại những tâm t́nh của người địa phương đối với “sĩ quan Ngụy” và đối với cuộc đi t́m lại những ngôi mộ hoang.

 

Sinh Nam tử Bắc

 

Lấy vé từ bến xe Mỹ Đ́nh đi Yên Bái, ngồi chờ chiếc xe khách loại xe 24 chỗ ngồi “nghĩa địa Nhật Bản” rời bến, tâm trạng chúng tôi lúc đó mất phương hướng. Với những người từ miền Nam ra, vùng thượng du Bắc Bộ đúng là sương giá mù mịt. Nhưng chúng tôi vẫn may mắn có những người bán hàng rong và những người nhà quê chân chất để làm bạn đường tṛ chuyện. Chỉ nội chuyện đó không thôi đă cực kỳ khác biệt nếu so với những người sĩ quan quân đội VNCH mà 31 năm trước, được đưa từ miền xuôi lên mạn ngược này để học tập cải tạo. Người ta kể, lúc ấy họ được đưa đi thẳng vào bóng đêm hun hút và đầu Xuân năm ấy tiết trời vẫn rất lạnh.

Cho đến tận hôm nay, một đặc điểm của các chiếc xe khách chạy các tuyến đường ở miền Bắc là không có ảnh thờ Phật hay Chúa bên cạnh tài xế.

Người phụ nữ ngồi cạnh tôi nói: “Tôi xuống Đoan Hùng - Phú Thọ, đi xe 19 chúng vất giữa đường, xe 21 này mới về đến nơi. Bác có tiền đi chơi sướng nhỉ!”

Những ngôi mộ hiện c̣n nằm lại trên đồi Cây Khế
(xă Việt Cừơng, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái)

(Danh sách do ông Đỗ Công Huyên ghi chép)

Bùi Văn Phước. Sinh năm: 1930, chết: 23 tháng Năm, 1977. Cư trú: 34/08 Phạm văn Chí, Gia Định.

Nguyễn Văn Nghĩa. Sinh năm: 1949 tại Hà Nội. Chết: 10 tháng Chín, 1977. Cư trú: 5B/G. Hồng Thập Tự - Sài G̣n 1.

Nguyễn Quang Tôn. Sinh năm: 1930 tại Hữu Quang - Sơn Tây. Cư trú: 232F phường cư xá - Sài G̣n 3.

Nguyễn Phước Tôn. Cư trú: Chí Ḥa - Quận 10.

Trần Hữu Công. Sinh năm 1930. Cư trú: 75 phường Đăng Lễ - thị xă Châu Đốc.

Lư Văn Phinh. Sinh năm: 1947. Chết: 6 tháng Sáu, 1977. Quê quán: Cai An - Mỹ An - Vĩnh Long.

Vơ Tín. Sinh năm: 1936 tại Thừa Thiên. Cư trú: 314 Quốc lộ 1 - Tân B́nh.

Dương Văn Sáu. Sinh năm: 1919. Cư trú: 164/63 Bùi Thị Xuân - Sài G̣n 1.

Trần Tấn Chung. Sinh năm: 1944. Cư trú: Lê Quư Đôn-Kon Tum.

Lâm Quang Đỏ. Sinh năm: 1944.
 

Nguyễn Văn Măng. Sinh năm: 1928. Chết: 12 tháng Sáu, 1977.
 

Nguyễn Bá Th́n (Tự Long), Đại Tá Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 5.

Lương Mạnh Vân. Sinh Năm: 1945. Chết: 30 tháng Bảy, 1977. Cư trú: 34 Ḥa Chung - Quận 10 - Sài G̣n.

 

Các mộ ở Đồi Con Trăn, xă Việt Cường, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái

Phạm Hỗ - Đại tá

Hoàng Công (Văn) Dực – Thiếu tướng

Mộ hai anh em trốn trại. một người tên là Xuân

 

Các mộ ở xă Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái

Đặng Văn Thương. Sinh: 19 tháng Tám, 1928. Cư trú: Quận 4 – Sài G̣n.

Phạm Văn Thành. Phnom-Penh.

 

Địa chỉ người có liên quan để liên lạc

1. Ông Đỗ Công Huyên: Thôn 9 - xă Việt Cường - Huyện Trấn Yên – Tỉnh Yên Bái.

Điên Thoại: 029812301.

2. Lê Đức Hùng: Thôn 9 - xă Việt Cường - Huyện Trấn Yên - Tỉnh Yên Bái.

Điện thoại:029 215361.

3. Hà Cao Huệ ( Người chạy xe ôm) Thị Xă Yên Bái.
Điện thoại: 0912744059.

 

Cảnh giác người lạ nên chúng tôi chỉ cho bà biết một phần của lư do chúng tôi phải lên ngược. Bà lại nói: “Bốc mộ là duy tâm, tốn kém, nhưng không bốc các cụ về lại không yên tâm. Hồi đầu chiến tranh anh tôi đi, tôi bảo giấy tờ nhà ở Hà Nội cho cháu thuê nhờ phải rơ ràng. Anh không nghe bảo đi chóng về ấy mà. Đến giờ bên họ nhà chồng bảo trả xác. Nhà không trả cho tôi, ngh́n năm tôi không trả xác anh. Tôi ở với anh dù anh sống hay chết có khổ, tang thương mấy chẳng màng nhưng tôi c̣n thằng con phải giữ cho nó để hưởng cái chính sách.”

Chiếc xe khách vẫn cứ quay đầu ṿng ṿng để đón khách trong địa phận Hà Nội. Xe mấy lượt chạy qua chạy lại cơ quan ban quản lư dự án PMU 18. Bực ḿnh bà lại chỉ tay vào cái ṭa nhà to đùng ấy nói: “Đấy không khéo chúng ấy ăn mất cả phần con tôi.”

Người cán bộ trẻ vẫn đội mũ cối, ngồi ở băng ghế trước quay xuống hỏi: “Thế bác nhà bà hy sinh ở Điện Biên Phủ à! May mà c̣n trông được cái bằng liệt sĩ, trông ǵ cái nhà ở Hà Nội mà bác gay gắt thế!”

Khi biết chúng tôi t́m ra tận Yên Bái - Hoàng Liên Sơn để t́m mộ người thân sau 1975 đi tập trung cải tạo. Bà Đức (tên người đàn bà ngồi cạnh tôi) sửng sốt: “Ối giời! thế tôi cứ tưởng chỉ có người vượt đường vào trong ấy t́m mộ bộ đội. Sao các bác nhà anh lại không may thế nhỉ. Chiến tranh kinh thật!”

Cảnh sống của người dân và bộ mặt các thị trấn ven quốc lộ 20 với các bảng hiệu, hàng hóa và các bảng quảng cáo tiếng Anh đa dạng mà bừa bộn như h́nh ảnh các thị trấn miền Nam vào thời kỳ người Mỹ có mặt ở thập niên 60. Những bảng hiệu chữ to mời ăn đặc sản dê núi, gà đồi là ấn tượng thượng du Tây Bắc “thời đại” nhất.

Đi qua khu di tích đền Hùng - Phú Thọ, bà Đức xuống xe v́ có việc. Người phụ nữ mặc áo màu hoa cà, ngồi thế vào chỗ bà Đức. Một lúc sau, tôi đem chuyện đi t́m mộ sĩ quan “Ngụy” đi học tập cải tạo, để hỏi thăm quanh vùng này chị có nghe có biết về chuyện ấy không. Chị nói chuyện với tôi thông qua cái khẩu trang bít kín nửa gương mặt: “Nếu có nhà nước phải báo chứ đă đưa người ta ra tận đây kia mà.”

Xe vào vùng núi Phú Hộ. Cô sinh viên sư phạm đi cùng tuyến với chúng tôi về huyện Trấn Yên - Yên Bái, loáng thoáng nghe chuyện, bỗng nhiên cô hỏi: “Thế người chú t́m ra ngoài này đi buôn hàng Trung Quốc hay du lịch ạ?”

Nh́n vẻ hồn nhiên của cô gái Bắc thế hệ 8x, trong t́nh cảnh chuyện tṛ để giết thời gian trên xe khách này; chúng tôi không biết phải giải thích sao cho đủ nghĩa về lịch sử của các bên liên quan trong cuộc chiến tranh dai dẳng và ác liệt nhất của lịch sử dân tộc và số phận nghiệt ngă của những người lính miền Nam sau chiến tranh.

Không riêng ǵ người trong nước mà cả ở hải ngoại, có rất nhiều người lúc này cho rằng cái quí giá nhất mà dân tộc đă có là ḥa b́nh. Đă hơn ba mươi năm rồi không nên tiếp tục mở miệng vết thương chiến tranh. Nhưng trong trường hợp của chúng tôi, biết phải trả lời ra sao cho cô sinh viên này. Chúng tôi không thể đáp rằng: Không ǵ hết cháu ạ, người chú định t́m chỉ từ miền Nam ra đây để chịu đói khổ rồi chết mà thôi.

Mùa Thu Trung Du không phải là một quan ṭa nhưng khí hậu khắc nghiệt, đồi núi và cây rừng chập chùng chắn ngang tầm mắt này luôn nhắc người ta rằng, không hề có một ư thức hệ, một giá trị tư tưởng nào biết tổn thương, chỉ sự thật của số phận con người mới biết đau đớn. Từng số phận con người mới chính là lịch sử chân thật nhất, phần vô giá nhất của lương tri dân tộc.

31 năm trên đồi sương giá

Lúc tôi xuống thị xă Yên Bái, mặt trời đă khuất dù chỉ mới 15 giờ chiều. Và thật sự tôi không biết phải chọn bến nào để xuống trong cái thị xă nằm sát cạnh ḍng sông Hồng mùa nước kiệt. Tôi có mặt ở đây chỉ với một thôi thúc nôn nao lạ kỳ là muốn đến ngay cái đồi Cây Khế thuộc xă Việt Cường. Trong sổ tay của tôi có cả số điện thoại của người đàn ông giữ ǵn ngôi mộ của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nô suốt 29 năm và chờ đến khi thân nhân của người sĩ quan bất hạnh ấy ra tận nơi đưa phần xương cốt và vài kỷ vật của một người tù cải tạo về nhà. Lúc ấy tôi không rơ lư do v́ sao tôi không nói địa chỉ và nội dung câu chuyện “31 năm sau...” với người chạy xe ôm. Tôi chỉ nói với anh ta rằng tôi ra đây để t́m bà con họ hàng thất lạc và đồng ư cái giá một trăm ngàn để vào xă Việt Cường. Anh H. chạy xe ôm nói: “Bác yên tâm. Em là giáo viên tranh thủ vài cuốc xe. Không phải bọn láo nhận tiếng bác người trong ấy ra để chém đâu.”

Qua cầu sắt Yên Bái bắc qua sông Hồng hướng về phía Nghĩa Lộ một đoạn, anh xe ôm rẽ trái. Với người gần như đă mất phương hướng như tôi, đường vào xă miền núi có lúc theo các chân các đồi chè mà lên trời có lúc lại theo các nấc ruộng bậc thang mà xuống địa ngục. Đường cứ dài măi ra, dân cư thưa dần, khí lạnh của núi rừng làm tôi ớn sống lưng; tôi thấy hối hận v́ đă trao sinh mạng cho người chạy xe ôm. Núi-rừng-người lúc ấy quả là chập chùng ác hiểm.

Có vẻ như con đường này sẽ không đưa tôi tới nơi muốn tới. Tôi muốn dừng lại để hỏi thăm đường. Anh xe ôm lại nói chả cần, tôi biết nơi phải tới bác cứ yên tâm. Tôi đập vào lưng anh ta bảo dừng lại ngay! Chiếc xe Honda đang xuôi dốc bổng xoay đầu. Anh xe ôm cười h́ h́. Đấy hỏi th́ hỏi cho bác yên tâm. Trước mặt chúng tôi có ngôi nhà nhỏ, có bảng hiệu gỗ viết bằng phấn học sinh: Sửa xe đạp và xe máy. Nhận mặt người sửa xe, anh xe ôm reo lên: “Ối giời, bác Hùng! Đấy đă bảo bác yên tâm mà. Xă này toàn người quen của tôi cả.”

Chúng tôi biết anh xe ôm gặp được người quen cũng chỉ là ăn may, chứ thật ra anh xe ôm áo trong quần, giày tây bóng loáng, hoàn toàn mù tịt đường đi nước bước cái xă miền núi này. Anh Hùng mời chúng tôi vào nhà uống chè. Và quan trọng hơn hết là điều anh Hùng cho tôi biết địa danh đồi Cây Khế ở ngay sau lưng nhà anh, c̣n ông Đỗ Công Huyên chính là hàng xóm của anh. Từ Nam ra với ngần ấy đường trời nẻo đất, với bao lo âu nhưng chỉ trong một thoáng, trong ngôi nhà vách ván đơn sơ mà tươm tất của anh Hùng, cái cảm giác b́nh an tưởng mất đă trở lại với tôi. Sau này tôi được biết tất cả những người thân của các sĩ quan VNCH ra đây t́m mộ đều được người dân địa phương đối xử tử tế. Ai cũng biết dù sao t́m xác lính Mỹ cũng có lợi, t́m mộ lính “cách mạng” hưởng danh c̣n lo cho lính “Ngụy” cải tạo chết là trọn nghĩa tử là nghĩa tận, trọn cái tánh người và chỉ cầu mỗi cái may là không bị chụp mũ.

Anh Hùng, tên đầy đủ là Lê Đức Hùng, đại úy bộ đội phục viên. Khác với những người cùng làng dân kinh tế Nam Định - Thái B́nh ra lập nghiệp, anh là người có cội nguồn ở đất Việt Cường. Biết mục đích ra đây của tôi, anh nói: “Ngày xưa tôi và các bác ấy ở hai bên chiến tuyến. Anh nghĩ có thể làm được ǵ khác ngoài chuyện bắn nhau nào. Bây giờ các bác ấy nằm lại đất này, làm ǵ được chúng tôi sẽ làm, thú thật không ngại ǵ hết.”

Với nhiệt t́nh của người dân miền núi, anh vội vă đưa ngay chúng tôi đến nhà ông Đỗ Công Huyên.

Theo hướng mặt trời lặn, nhà ông Huyên nằm ở phía phải sát cạnh chân đồi Cây Khế. Ông Huyên được người nhà gọi từ nương chè về, tay c̣n lấm đất.

Trong bài báo “31 năm sau, người lính ấy đă về với gia đ́nh...,” kể từ lúc Thiếu Tá Nguyễn Văn Nô nằm xuống trên đồi Cây Khế, cho tới khi chỉ t́m thấy một phần xương cốt và vài món vật dụng của một kiếp người, suốt chiều dài thời gian ấy h́nh ảnh ông Đỗ Công Huyên luôn gắn bó thiết thân với linh hồn của Thiếu Tá Nô. Gắn bó như một người bạn chân t́nh! Thiếu Tá Nô ngộ độc chết v́ uống nước sắn luộc, điều này nhiều người bạn tù của thiếu tá biết. Họ cũng biết và luôn luôn nhớ sâu bền về nhiều trường hợp chết khác của các bạn tù. Nhưng từ ngày ấy, người ở lại kề cận với 51 ngôi mộ hoang, ở lại bầu bạn với 51 linh hồn trên đồi Cây Khế quanh năm sương giá này chỉ mỗi ông Đỗ Công Huyên.

Ông Huyên có một danh sách người chết bằng giấy học tṛ, do tự bàn tay thô kệch thợ rừng của ông nắn nót ghi chép tên, tuổi, nguyên quán, ngày sinh, ngày chết của từng người sĩ quan VNCH học tập cải tạo đă chết trong khoảng từ năm 1975 đến 1978 ở trại cải tạo Việt Cường, tỉnh Hoàng Liên Sơn cũ.

Ông Huyên đưa chúng tôi lên đồi Cây Khế. Ông từng đi bộ đội ở Lào, sau 1975 về đây làm người giữ rừng và bầu bạn với các ngôi mộ hoang. Suốt đoạn đường leo đồi ông Huyên không nói ǵ. Trong ánh sáng nhợt nhạt của chiều lạnh trên đồi, gương mặt nhân hậu đến mức thâm trầm của ông Huyên lúc ẩn lúc hiện giữa cây cỏ và gió rừng. Lúc đó tôi có cảm giác với riêng ông, trong không gian và thời gian trên ngọn ngọn đồi giá lạnh này không tồn tại biên giới giữa người sống và người đă khuất. Ông Huyên cúi thấp người vạch đám cỏ dại để lộ ra một tấm bia bằng xi măng đen xỉn, bia chỉ to bằng hai bàn tay. Đột nhiên ông nói: “Đây là mộ gởi lại. Bác này là Nguyễn Quang Tôn, sinh năm 1930 ở Hữu Quang - Sơn Tây, nhà ở phường cư xá, quận 3 Sài G̣n. Anh trai bác ấy là sĩ quan bộ đội cấp tá đấy. Ông ấy có cùng người nhà ra tận đây, t́m thấy mộ người em rồi nói. Thôi th́ t́m thấy chú rồi, chú yên tâm mà ở lại đây bao giờ có điều kiện tôi lại ra đưa chú về. Thế là họ về, gởi mộ bác Tôn lại cho tôi măi không thấy họ ra.”

Trước mắt chúng tôi là cả đồi Cây Khế, trước đây là nơi yên nghĩ của hơn 51 sĩ quan cấp tá và tướng của quân đội VNCH; đến nay cả ngọn đồi này chỉ c̣n lại 12 ngôi mộ c̣n bia và 5 ngôi mộ mất bia. Và chỉ duy nhất ngôi mộ Nguyễn Quang Tôn phải ở lại dù đă gặp thân nhân.

Hơn ba mươi năm ḥa b́nh, đa phần các người lính chết mất tích của quân đội cách mạng và của quân đội đồng minh mà đứng đầu là Hoa Kỳ đều đă được trở về nhà. V́ sao cùng một hoàn cảnh mà chỉ những người lính VNCH trong chiến tranh và sau chiến tranh là phải gánh chịu hết sự oan trái nằm lại với bờ bụi vô danh.

Đứng trước ngôi mộ “gởi lại,” chúng tôi định kể cho bác Huyên, anh xe ôm và ba đứa trẻ chăn trâu nghe chuyện: Sau cuộc nội chiến Nam-Bắc Mỹ, ngay giữa nghĩa trang thủ đô Hoa Kỳ của phe miền Bắc thắng trận vẫn có một khu mộ và tượng đài tưởng niệm những người lính miền Nam.

Bác Huyên tiếp tục đưa tôi đi và tự tay vạch t́m từng tấm bia mộ nằm khuất trong đám cỏ dại đẫm sương chiều. Bác hỏi: “Thế anh ra đây không quen có thấy lạnh không? Trước đây rừng c̣n độc hơn giờ nhiều. Mà lúc ấy đa số các ông sĩ quan miền Nam này ra đến đây đều có tuổi cao cả đấy.”

Thời gian bác Huyên bầu bạn với những linh hồn lính miền Nam đă dài hơn cả cuộc chiến tranh mười ngàn ngày trước đây. Chiến tranh tuy đă kết thúc nhưng sao cuối cùng chỉ mỗi nắm xương tàn và linh hồn không tan của những người này phải tiếp tục trả giá, phải tiếp tục chịu mọi hậu quả của cuộc chiến tàn khốc đó.

Gió lại lạnh hơn, nhưng không ǵ có thể nghe thấu cái lạnh vùng thượng du đất Bắc bằng chính những tấm mộ bia đang nghiêng đổ trên đồi Cây Khế. Những tấm mộ bia nhỏ bé, sơ sài mang trên đó là những cái tên, ngày sinh, ngày chết, mang trên đó là cả khát khao mong ngóng gặp người thân đến mức tuyệt vọng. Đó phải chăng là sự bấu víu cuối cùng trước khi chết một lần nữa, trước khi lạc mất vào vô danh.

Suối nước mắt

Nhà ông Đỗ Công Huyên là một ngôi nhà xây thô, nằm ngay bên chân đồi Cây Khế, ngay cạnh ḍng suối nhỏ không có tên, chảy về phía hai mỏm núi sánh đôi. Nơi ấy, mỗi ngày mặt trời buổi chiều như được treo bằng sợi dây và thả rơi chầm chậm.

Từ trên đồi Cây Khế xuống lại nhà, bác Huyên nói. Anh đi lối chuồng gà vào cho dễ. Rồi bác cười. Anh không phải lo gà bị cúm, gà ṃ rất khỏe. Dưới xuôi, gà ṃ gọi là ǵ nhỉ?

Tôi nói, lúc lên thăm mộ các sĩ quan VNCH, tôi có thấy đàn gà ṃ của bác bay đầy trời, có phải mỗi lần đăi cơm khách cần giết gà th́ phải hẹn với lũ gà trước một ngày không.

Nằm tựa lưng và hơi chếch về bên trái đồi Cây Khế xưa kia có một trạm xá của trại cải tạo. Bác Huyên cho biết: “Khi ấy chắc là các bệnh nhân ở trạm chết đều được đưa cả lên đồi Cây Khế mà chôn. Thế nên trừ một số mộ lẻ rải rác, hầu như các ông ấy đều nằm đây.”

Chúng tôi hỏi v́ sao ở đây lại có tên là đồi Cây Khế. Bác Huyên nói: “Đúng là có cây khế thật. Trước đây to lắm kia, cả vùng núi này có mỗi nó đấy, mấy năm trước bỗng găy ngang, chỉ mới đâm chồi trở lại trong năm.”

Trên đường quay trở lại đồi để chụp ảnh cây khế, chúng tôi định hỏi bác Huyên cây khế ấy có trái ngọt hay chua. Nhưng dù sao chúng tôi vẫn tin rằng vào ngày đầu ra đây “học tập cải tạo,” nh́n thấy cây khế, một giống cây quen thuộc thường trồng trước sân nhà ở miền Nam, chắc các bác ấy cũng thấy an ủi được phần nào.

Vạch đám cỏ và cúc dại nở trắng trên bờ suối cho chúng tôi bước qua, bác Huyên vẫy tôi lại gần và chỉ vào ngôi mộ hoang không c̣n bia nằm thoai thoải trên triền đồi. Bác Huyên nói: “Trước ở đấy có hai ngôi mộ đều không c̣n bia, nằm cạnh nhau như hai luống rau nhỏ. Bây giờ th́ người nhà ra lấy một cái về rồi, đấy anh xem cái hố vẫn c̣n. Cái bác được về với vợ hẳn là vui rồi cái bác c̣n nằm lại tôi nghĩ cũng phấn khởi. Tôi không là người duy tâm nhưng có chuyện lạ đến mức không thể tin mà lại thật anh ạ.”

Bác Huyên kể, chỉ c̣n nhớ tên người dưới mộ không bia mới được bốc về nhà là ông Thạnh, người vợ ra đưa chồng về có tên là bà Lanh. Những năm tháng vừa kết thúc chiến tranh với Trung Quốc đường đất nơi đây c̣n khó khăn vô cùng. Lần đầu khi t́m được nhà Bác Huyên người vợ sĩ quan học tập cải tạo ấy đă khóc nức nở. Bà Lanh kể với bác Huyên rằng chồng bà về báo mộng chỉ rơ địa danh này để bà t́m. Và trong mộng người chồng luôn lập đi lập lại với vợ ḿnh rằng: “Anh nằm cạnh con suối, lạnh lắm!” Bác Huyên hiểu chuyện, tận tâm đưa người vợ đi xem từng tấm mộ bia nhưng không t́m được mộ. Chắc là thời gian và trâu ḅ làm mất dấu vết cả rồi. Chỉ tay vào hai ngôi mộ hoang nằm cạnh ḍng suối, bác Huyên nói. Tôi nghi một trong hai cái mộ này là chồng bà. Bà Lanh hoang mang. Lỡ không đúng là chồng tôi th́ tội lắm bác ơi!

Bà ở lại nhà Bác Huyên đôi ngày rồi quay về Nam. Năm sau trở ra, lại vừa nói vừa khóc. Anh ấy lại về báo mộng là nằm cạnh con suối, lạnh lắm! Nhưng rồi bà vẫn không quyết định được chuyện phải bốc ngôi mộ nào. Trong suốt những năm dài đằng đẳng ấy người chồng vẫn cứ t́m vào giấc mơ người vợ chỉ để nói mỗi một câu. Anh nằm cạnh con suối, lạnh lắm! Bác Huyên nhớ là người đàn bà ấy phải dành dụm từng đồng tiền, một thân một ḿnh đi ra đi vào bốn lượt. Lần cuối cùng bà Lanh chỉ vào ngôi mộ đất thấp, nằm gần kề con suối nhất. Rồi bà quỳ xuống cầu nguyện trong nước mắt. Ngôi mộ không bia đó được bốc lên. Mấy mươi năm rồi đất mềm như đất mới cày, xương cốt chẳng c̣n được là mấy. Duy chỉ c̣n một cái lọ sành nhỏ mà các bạn tù ngày ấy chôn theo xác là lành lặn. Đập vỡ ra, trong đó có cái thẻ căn cước vẫn c̣n rơ tên người chồng.

Cầu nguyện giữa núi lạnh

Chúng tôi từ Việt Cường đi Vân Hội, con đường độc đạo quấn quít ôm chân các đồi chè, đồi cọ, đồi bạch đàn. Cả con đường hàng chục cây số không hàng quán, không trạm điện thoại; chỉ xa xa một căn nhà xây thô, nếu có gọi chủ nhà hỏi thăm cũng không ai trả lời, đến cả mấy chú chó cũng theo người đi nương hết ấy mà.

Anh Lê Đức Hùng bỏ việc nương rẫy để hướng dẫn tôi đi t́m mộ. Anh bảo tôi qua cho anh chở, anh cho rằng đi trên đoạn đường núi tôi sẽ không an toàn nếu tiếp tục ngồi sau tay lái của người chạy xe ôm không quen đường.

Ở vùng này chỉ có vài ngọn đồi được người dân đặt tên riêng. Theo thông tin của anh Hùng th́ ở đồi Con Trăn có ba ngôi mộ sĩ quan VNCH không biết c̣n hay đă mất dấu. Tôi hỏi v́ sao họ lại chôn ở đây. Anh cho biết. Trại cải tạo Việt Cường ngày xưa bao trùm hết vùng núi này và chia ra nhiều phân trại, chắc chết ở đâu chôn tại đó chứ làm ǵ có nghĩa trang chung.

Tất cả dân cư quanh đồi Con Trăn từ người già cho đến trẻ chăn trâu khi được hỏi về vị trí của ba ngôi mộ “mấy ông Ngụy” đều có vẻ rất rành. Lần đầu tiên trong suốt mấy ngày đi t́m mộ tôi được nghe người dân địa phương nói rơ cấp bậc trong quân đội VNCH của một người đă chết, Đại Tá Phạm Hổ.

Mộ của Đại Tá Phạm Hổ nằm trên lưng chừng đồi con Trăn. Bây giờ th́ tôi hiểu v́ sao vị đại tá tù cải tạo này “nổi tiếng,” ngày ấy dân địa phương cho rằng ông bị bệnh hủi, càng xa lánh ông họ lại càng đồn đại về ông. Với dân miền núi bệnh hủi là một thứ nan y, là nỗi ám ảnh tai họa. Đến lúc chết ông cũng được chôn riêng. Đại Tá Phạm Hổ nằm một ḿnh một vạt đồi hướng mặt về phía Đông. Dân sống quanh đồi nói với tôi rằng, lúc mới có mồ ông, ngọn đồi đó đến trẻ chăn trâu c̣n không dám héo lánh tới. Nhưng ngày nay th́ những người có tuổi biết chuyện và cả anh Hùng lại nói khác. Nào có phải hủi ǵ đâu. Ông bị bệnh nước ăn, lở loét không trị được.

Cách đó chừng nửa cây số đường đèo cũng dưới chân đồi Con Trăn có một ngôi mộ không c̣n bia. Mộ của Thiếu Tướng Hoàng Công (văn) Dực. Lúc băng qua con suối lên t́m mộ ông thiếu tướng, anh Lê Đức Hùng có ghé vào nhà bà Tuyên hỏi thăm. Bà Tuyên nói: “Đấy nằm trên cái miếng đất bằng của tôi, nhưng người nhà ra lấy về năm nào rồi.” Một anh nông dân đi theo chúng tôi lại nói: “C̣n trên đấy, lúc bé chăn trâu ngày nào tôi cũng qua đấy. Ông ta cùng họ Hoàng với tôi, sao tôi nhầm được.”

Anh nông dân cùng với anh Hùng sục sạo t́m cả một góc đồi Con Trăn. Cuối cùng họ xác định một khoảng mô đất nhỏ chính là mộ của Thiếu Tướng Hoàng Công Dực. Anh Hùng nói: “Thế mộ nằm trên dốc đồi này th́ không lẫn vào đâu được.”

Anh nông dân th́ chỉ vào một gốc cây cằn cổi lẩn trong cỏ dại cao lút đầu người khẳng định: “Đúng là tại gốc cây Mỡ này đây.” Chúng tôi hỏi v́ sao các bác không nhớ vị trí và tên của người nằm trong ngôi mộ thứ ba. Anh Hùng nói, cần có thời gian để hỏi các cụ già.

Theo thông tin truyền miệng của dân địa phương cho biết: “Trên đường vào Vân Hội có bốn ngôi mộ. Rời khỏi đồi Con Trăn chúng tôi đi thêm gần chục cây số nữa th́ đến xă Vân Hội. Trên suốt đoạn đường đi gặp ai anh Hùng cũng hỏi: “Có biết mộ của mấy “ông Ngụy” không.”

Bốn ngôi mộ ven đường mà chúng tôi t́m thấy thật ra chỉ c̣n lại ba. Một anh nông dân đang gặt lúa cho biết. Bị nước lũ năm rồi cuốn đi một ngôi, ngôi mộ ấy có bia nhưng cũng trôi mất, hai ngôi c̣n lại phía kia.

Vạch đám cỏ sát chân miếng ruộng tôi và anh Hùng chỉ t́m thấy một ngôi mộ c̣n bia, Tấm bia bị đất lấp hơn một nửa, chúng tôi cố đọc dù chữ rất mờ: Đặng Văn Thương, sinh ngày 19-8-1928, Quận 4. Riêng ngôi mộ c̣n lại chúng tôi cố hết sức để t́m tấm bia nhưng không thể. Tôi hỏi: “Các bác có ai biết ngôi mộ c̣n lại tên ǵ không?” Một người phụ nữ đang gặt lúa nói. T́m bà Hải, phía quán kia mà hỏi.

Bà Hải, chủ một tiệm tạp hóa nhỏ, lúc được bà mời vào nhà, chúng tôi có chào cô con gái của bà, lúc ấy cô đang ru con mọn, đứa bé ngũ trong một cái nôi kiểu thành thị. Chính người mẹ trẻ này là đầu câu chuyện t́m mộ mang nhiều màu sắc huyễn hoặc của một sĩ quan VNCH.

Bà Hải kể, ngoài đấy có tổng cộng bốn ngôi mộ. Cái ngôi mộ mất bia ngoài đấy mà các anh t́m là: Phạm Văn Thành ở tận Phnom-Penh. Ngôi c̣n bia tên là Đặng Văn Thương, ở Quận 4. Ông bị suối cuốn mộ mất bia tôi không biết tên. Một ông th́ người nhà bốc về rồi. Ông ấy tên là Phan Văn Ở, tôi c̣n nhớ là nhà ở số 57, đường Nguyễn Khoái trong Sài G̣n. Tôi là dân kinh tế lên, từ lúc lên đây trước nhà tôi đă có bốn ông ấy nhưng con gái tôi nó không biết anh ạ. Năm trước nó về xuôi ở Quỳnh Phụ - Thái B́nh học nghề may. Nó đi coi thầy ở Quỳnh Hương v́ việc cưới xin, thầy nh́n nó rồi bảo: “Ngoài nhà mẹ cô có bốn ngôi mộ, họ tù đày ở đấy, quê người ta ở xa lắm. Về bảo mẹ cô nhớ hương khói, người ta phù hộ cho.” Con gái tôi điện về hỏi mẹ. “Anh xem có linh không? Tôi mua cả bảy thước vải hàng mả về đốt, ngày nào cũng thắp hương. Ít hôm cô con lại điện về bảo. Mẹ ơi thầy nói vài hôm nữa có người nhà của người ta ra bốc mộ. Thế mà anh con ông Ở ra thật đấy, đi một ḿnh, t́m đúng nhà tôi, tôi đưa anh ra nhận mộ bố, anh khóc kể như giời mưa: Mười bảy năm con không một lần nằm mơ thấy bố, mấy tháng nay đêm nào con cũng mơ thấy bố. Bố linh thiêng phù hộ ngày mai con đưa bố về nhà! Anh con ở nhà tôi một đêm. Năm sau có bao xe đưa cả mẹ và họ hàng ra đây cảm ơn tôi. Bà mẹ tên là Lở, trước khi về có đặt lên bàn một triệu đồng. Tôi nhất định chỉ lấy một trăm ngh́n bạc. Chuyện là thế anh ạ. Năm sau nữa bà Lở có mời mẹ con tôi vào Sài G̣n ở chơi nhà bà. Trước khi chết v́ bệnh ưng thư ở nước Mỹ bà Lở c̣n để quà, bảo với anh con trai là nhất định phải gởi ra.”

Trong ánh sáng b́nh minh trong suốt của vùng Thượng Du đất Bắc, chúng tôi chỉ có mỗi hối tiếc là không ra được nơi này sớm hơn, nếu sớm hơn ít năm chắc c̣n kịp níu giữ danh tính của những mộ đă bị quên lăng suốt 31 năm.

Trở lại đồi Cây Khế, tôi nhờ anh xe ôm mua ít lễ vật, hương nến. Giữa trưa, tôi, vợ chồng bác Huyên, anh xe ôm và những đứa trẻ chăn trâu cùng thắp nén hương dâng lên những linh hồn người lính năm ấy dù nay có c̣n tên hay đă mất tên. Những đốm lửa rất nhỏ không đủ ấm đồi Cây Khế!

Cầu nguyện cho các vong linh c̣n ẩn khuất được sớm trở về nhà. Chúng tôi tin, chỉ khi nào những linh hồn của các bên liên quan trong cuộc chiến tranh cũ thất lạc về được trong ṿng tay hương khói của gia đ́nh, chừng ấy bao nỗi oan khiên sẽ tan. Sẽ không bao giờ có sự b́nh an đúng nghĩa cho một cá nhân, một dân tộc nếu cho đến tận hôm nay đêm đêm vẫn c̣n những linh hồn khóc giữa núi lạnh. Người lính VNCH cũng ra đi v́ lư tưởng yêu nước chân thành. Một dân tộc cao thượng không có núi lạnh.