DỰ ÁN CÔNG VIÊN VĂN HÓA SAN JOSE
CÂU CHUYỆN 20 NĂM VỀ TRƯỚC
Giao Chỉ – San Jose 2005
Ngày thứ Hai 28 tháng 2-2005 vừa qua, Hội Truyền Thống Việt tổ chức họp mặt công bố chính thức dự án Công Viên Văn Hóa tại khu đất của thành phố San Jose phía sau vườn Nhật.
Các quan khách Mỹ – Việt có mặt đông đảo và buổi ra mắt với nhiều xúc động đă mang đến cho cộng đồng Việt tại San Jose một niềm hưng phấn đặc biệt. Chương tŕnh đă được xử dụng hầu hết bằng Anh ngữ và đă có sự tham dự tích cực của các khuôn mặt trẻ của thế hệ thứ hai và khá đông các nhà tư bản thành công trong cộng đồng. Đó là hai yếu tố được coi như ưu điểm của dự án.
Và cũng v́ vậy, dù là tối thứ Hai nhưng cũng đă có sự hiện diện của thị trưởng San Jose, các nghị viên và đông đảo quan khách Việt – Mỹ. Trong bài diễn văn khai mạc, bác sĩ Nguyễn Xuân Ngăi đă thay mặt hiệp hội cảm ơn các ân nhân giúp đỡ cho dự án đặc biệt là phía chính quyền địa phương.
Phần mở đầu ông cũng nói đến những tổ chức đă đi tiên phong từ 18 năm trước là cơ quan IRCC, Liên Hội Bắc Cali, và Hội Đền Hùng của cụ Trần Hữu Phúc. Cụ Phúc mới ra đi mấy năm gần đây. C̣n phần chúng tôi rất cảm kích và vui mừng thấy con đường ḿnh đi được một giai đoạn, nay đă khai thông và nh́n thấy rơ đoạn cuối sẽ chắc chắn sẽ huy hoàng rực rỡ.
Theo hồ sơ của thành phố San Jose th́ dự án kư kết đầu tiên giữa cơ quan IRCC chúng tôi và luật sư thị xă ngày 13 tháng 11-1987, tính đến nay là 18 năm.
Tuy nhiên, thực sự con đường dẫn đến dự án phải kể lại là đă bắt đầu từ ngày 3 tháng 11-1985, cách đây 20 năm có hai thành viên của Liên Hội Bắc Cali xuống miền Nam dự một Lễ Thượng Kỳ Việt – Mỹ. Đó là quư ông Lại Đức Hùng và Hồ Quang Nhựt.
Lúc đó thực ra ở Quận Cam chỉ có một ngọn cờ khiêm nhường ở giữa sân đậu xe của một thương xá tư nhân. Tuy nhiên, buổi lễ đă diễn ra vô cùng xúc động với cả ngàn người hiện diện. Do đó, hai ông Liên Hội đă đem niềm xúc động từ Orange County về San Jose.
Ngày 18 tháng 11-1985, chúng tôi được ủy nhiệm làm chủ tịch Ủy Ban Xây Dựng Kỳ Đài và ông Nhan Thành của Hiệp Hội Kim Hoàn vận động các chủ tiệm vàng xuống đường gây quỹ. Mặt khác, Ủy Ban Vận Động để xin dựng Kỳ Đài trên đất công của thành phố San Jose.
Công việc vận động kéo dài một năm mới được thành phố chấp thuận với điều kiện là phải t́m đất để làm một công viên Việt Nam, và trên đó có nhiều kiến trúc gồm cả Kỳ Đài. Ngày lịch sử được thành phố chấp thuận là 10 tháng 4-1986 với 7 phiếu thuận và một phiếu trắng.
Sau đó lại gặp trở ngại về pháp lư. Thẩm quyền thành phố không thể quyết định về lá cờ của Việt Nam Cộng Ḥa v́ không c̣n hiện hữu về công pháp quốc tế.
Ủy Ban Vận Động vận động xin được một lá thư của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đề ngày 22 tháng 9-1986 nói rơ là nếu treo cờ Việt Nam Cộng Ḥa của miền Nam với ư nghĩa trên một đài tưởng niệm các chiến sĩ đă hy sinh th́ không trở ngại.
Vừa xong vấn đề pháp lư th́ ngay trong cộng đồng Việt Nam cũng có các dư luận khác biệt đưa ra làm cho cả các thành viên liên hệ trong thành phố cũng phải chán trường và nao núng. Nói tóm lại là chúng tôi bị đánh phá tả tơi từ TV, Radio, báo chí cho đến thư rơi và kiện tụng lên City.
Mặt khác ngay chính dân chúng Hoa Kỳ tại khu vực Kỳ Đài trên đường Capitol Expwy. cũng phản đối. Một số cựu chiến binh Hoa Kỳ c̣n dị ứng với cờ vàng của miền Nam.
Nhưng sau cùng những khó khăn cũng đă vượt qua và khế ước kư với thành phố ngày 13 tháng 11-1987. Rồi phải hơn một năm t́m đất cho đến ngày 22 tháng 1-1989 tổ chức lễ thượng kỳ lần đầu tiên trong buổi lễ động thổ trên đường Capitol Expwy. gần Senter. Tuy nhiên, đây mới chỉ là cột cờ dựng tạm.
Từ lễ động thổ dựng bảng cho đến lúc đặt 3 cột cờ cao 70 Feet chở từ miền Đông qua đă phải mất thêm hai năm.
Ngày chính thức đáng ghi nhớ là 23 tháng 6-1991 và Ủy Ban Kỳ Đài coi như hoàn tất giai đoạn đầu với chúng tôi là Vũ Văn Lộc, Lại Đức Hùng, Hồ Quang Nhựt và Nguyễn Đức Lâm.
Ngày làm lễ thượng kỳ là ngày gây rất nhiều xúc động. Một số cựu tù cải tạo vượt biên đă tham dự cùng với các đợt HO đầu tiên. Nước mắt nghẹn ngào. Phạm Duy làm quản ca cho hơn 4,000 người hát bài Việt Nam – Việt Nam.
Ba ngọn cờ Việt – Mỹ – California cao 70 Feet, vượt lên trên hàng cây bên bờ suối Guadalupe in trên nền trời xanh của San Jose.
Những lời xuyên tạc, dị nghị tạm yên được một thời gian rồi búa ŕu dư luận đầy ác ư lại tiếp tục. Thực là một sự vô cùng đáng tiếc. Ngay cùng trong hàng ngũ quốc gia nhưng v́ thù hận vô cớ đă có người phá Kỳ Đài mỗi đêm, và cắt giây cờ.
Lại phải tổ chức canh gác, làm hàng rào an ninh, đặt hệ thống đèn và báo động.
Trong suốt 9 năm các ông Lại Đức Hùng và Hồ Quang Nhựt là những người bền bỉ giữ cho ngọn cờ tung bay ngày đêm. Biết bao là công khó về bảo toàn, tài chánh và kỹ thuật.
Ba lá cờ trên đỉnh cao 70 Feet đều là những lá đại kỳ rất vĩ đại và rất tốn kém. Gió bay trên trời cao rất mạnh nên chỉ hơn một tháng là tơi tả. Đồng bào ngày ngày đi qua thấy cờ hơi cũ là điện thoại nhắc nhở và có khi th́ mắng mỏ tàn nhẫn. Đêm đêm Ủy Ban thường trực ngóng chờ điện thoại báo tin kẻ gian phá Kỳ Đài, là phải chạy ra giải quyết.
Suốt thời gian dài, dù là IRCC hay Liên Hội hay đoàn thể nào th́ cũng phải lo sinh kế, nên Ủy Ban Kỳ Đài chỉ nỗ lực giữ cho được ngọn cờ tung bay với đèn sáng ban đêm. Không c̣n khả năng làm thêm các công tác kế tiếp. Qua 9 năm dài hầu hết các phái đoàn quốc tế đều có đến thăm viếng kể cả ông Thiệu và ông Kỳ.
Phần xây cất Đền Hùng giai đoạn kế tiếp trông cậy quư vị trong ban chấp hành mới. Cụ Trần Hữu Phúc tuy cao niên nhưng rất nỗ lực tiếp tục giai đoạn kế tiếp của Công Viên Văn Hóa với sự đảm trách gần như tất cả mọi việc qua một thành viên trẻ là Nguyễn Thanh Liêm.
Ông Liêm trong một giai đoạn đă rất được các giới chức thành phố San Jose tin cậy, được quư vị của hai hội Cao Niên và Đền Hùng ngưỡng mộ và hết sức ủng hộ.
Cho đến ngày 26 tháng 9-1999, ông Lê Văn Hướng là chủ tịch mới Hội Đồng Quản Trị và ông Nguyễn Thanh Liêm, giám đốc điều hành tổ chức buổi họp để bàn về việc thành phố yêu cầu di chuyển dự án Công Viên Văn Hóa về vị trị mới ở công viên Kelly v́ lư do vị trí cũ thành phố dành lại để cho làm sân Golf. Đây là một quyết định áp đặt rất bất công.
Ngoài ra, việc di chuyển dự án Công Viên Văn Hóa qua địa điểm mới đă không có Kỳ Đài. Sau các sự phản đối quyết liệt của chúng tôi và các thành viên trong cộng đồng, các cơ quan, các đoàn thể với hàng ngàn thư kiến nghị, cùng với sự can thiệp của nghị sĩ, dân biểu, thành phố San Jose sau cùng đă đồng ư cho dựng cột cờ ở khu đất mới. Ba cột cờ ở đường Capitol được hạ xuống.
Ngày 20 tháng 12-2000, chúng tôi đứng đơn độc để nhận ba cột cờ vĩ đại đem về cất tại trụ sở đường Park, San Jose.
Như vậy là ngọn cờ VNCH đă được treo thường trực tại đường Capitol San Jose suốt 9 năm với 3,462 ngày.
Mặc dù một cột cờ mới đă được dựng lên trên khu đất công viên nhưng chúng tôi vẫn thấy ḷng dạ nao nao vô cùng đau đớn khi chở cột cờ thân yêu về lại IRCC.
Dù bao nhiêu là ân oán, lời qua tiếng lại với búa ŕu dư luận hết sức bất công, nhưng chúng tôi không hề hối tiếc v́ chưa bao giờ v́ tức giận mà viết ra, hay nói lên những ngôn ngữ bất xứng để tranh luận hay bào chữa. Dù sao th́ giữa anh em tỵ nạn sự đánh phá, chống đối cũng chẳng khác ǵ lúc xưa ngoài mặt trận Không quân và Pháo binh ta đă khai hỏa trên đầu đơn vị bạn chỉ v́ không nói cùng một ngôn ngữ thông tin. Và hơn nữa, thực sự so với hơn 15 ngàn chiến sĩ vừa Nhảy Dù vừa Thủy Quân Lục Chiến đă chết trong trận dựng cờ ở Quảng Trị th́ chuyện thị phi ở San Jose quả nhiên chỉ là chuyện quá nhỏ.
Và niềm đau thương phải được ghi lại rằng, với bao nhiêu người đă nằm xuống để dựng cờ ở Cổ Thành miền Trung năm 1972, sau cùng lại một lần nữa vào năm 1975, chúng ta lại phải bỏ Quảng Trị và c̣n buồn rầu hơn nữa là bỏ cả miền Nam.
Đó là lư do chúng tôi đă có cả sự vui mừng lẫn bùi ngùi nghĩ đến con đường đă đi qua suốt 20 năm của dự án Công Viên Văn Hóa trong đó sẽ phải có dự án Kỳ Đài.
Hai mươi năm qua, dự án vẫn là dự án cũ nhưng thế hệ quản trị và lănh đạo mới rơ ràng là trẻ trung hơn, tài giỏi hơn, đông đảo hơn, có thế lực hơn, có nguồn tài chánh dồi dào hơn. Anh em cũng được sự nể v́ của giới chức dân cử địa phương, bởi v́ cộng đồng của chúng ta đă mạnh hơn về cả số cử tri, về cả tiền bạc, trí tuệ, đặc biệt là trẻ trung và nói Anh ngữ khá hơn thế hệ cũ kỹ, già yếu của chúng tôi.
Bác sĩ Nguyễn Xuân Ngăi đă lịch sự nói rằng Hội Truyền Thống Việt đang nỗ lực theo gót đàn anh.
Chúng tôi xin đáp nhẹ lại rằng, quư vị coi chừng, theo các đàn anh cũng không chắc đă là con đường tốt đẹp. Thế hệ chúng tôi đă bao năm đi theo các niên trưởng, các niên trưởng làm ăn chẳng ra làm sao để nước mất nhà tan, bây giờ đến lượt ḿnh được gọi là đàn anh th́ cũng có phần hơi đỏ mặt ngại ngùng.
Chúng tôi chỉ xin bác sĩ Ngăi, ông Lê Văn Hướng, quư vị trong hội đồng quản trị mới mẻ, trẻ trung sớm dựng cho chúng tôi ngọn cờ với chiều cao trông cho được một chút.
Dường như đa số quư chiến hữu cao niên chúng tôi đă có phần dễ tính. Cơm già Hoa Kỳ ăn chỗ nào cũng được. Công viên ghế đá và cảnh quan Hoa Kỳ chỗ nào cũng đẹp. Duy chỉ có Kỳ Đài VNCH thật huy hoàng tại San Jose không t́m đâu thấy cái chiều cao ngon lành như xưa.
Nếu Công Viên Văn Hóa Việt Nam không có một ngọn cờ thật bảnh th́ chẳng hóa ra phụ ḷng anh em lắm sao.
Xin dựng cờ sớm hơn một chút kẻo e rằng không kịp. Chắc bác sĩ Ngăi đă biết rằng mới đây người tù quật cường của Hỏa Ḷ Sài G̣n là thi sĩ Hoàng Anh Tuấn đă vào làm thân chủ dài hạn trong Nursing Home của ông cạnh khu Tully.
Và đă nằm sẵn trong đó từ năm ngoái là thiếu tá nhà báo Phạm Huấn vẫn nửa tỉnh nửa mê. Cả hai đă từng nói với chúng tôi rằng các ông dựng được cây cờ đẹp như vậy mà sao lại để Tây nó cất đi.
Chúng tôi không biết làm sao trả lời, nên đă nói rằng các cậu nằm Nursing Home th́ sao không hỏi thẳng bác sĩ Ngăi để xin Hội của ông dựng cờ cho sớm. Hoặc là từ Nursing Home đường Alvin, cố đi xe lăn qua tiệm bánh ḿ Lee để hỏi ông Lê Văn Hướng. Với đêm ra quân khí thế mạnh mẽ như thứ Hai vừa qua, chắc chắc là trong năm nay việc lớn phải xong. Đó cũng là ước mơ của chúng tôi.
Ngoài ra, xin quư vị bước kế tiếp là giúp chúng tôi một tay để dựng thêm cái Viện Bảo Tàng. Trước Viện Bảo Tàng tương lai, thế nào cũng sẽ dùng lại cây cột cờ lịch sử đă tung bay 9 năm trên đường Capitol Expwy.
Giao Chỉ – San Jose 2005
Phiếm Luận Gây Quỹ
SỐNG TRONG ĐỜI SỐNG
CẦN CÓ MỘT TẤM L̉NG
Giao Chỉ – San Jose 2006
Ca sĩ Khánh Ly hát nhạc Trịnh Công Sơn. Cô Mai ca rằng: “Sống trong đời sống, cần có một tấm ḷng... để gió cuốn đi.” Xem ra như vậy rất t́nh cảm nhưng cũng vẫn c̣n khó hiểu. Kỳ này ở San Jose, chúng tôi xin quư vị nhớ cụ thể rằng: Sống trong đời sống, cần có một tấm ḷng là để xây viện bảo tàng.
Vâng, thưa quư vị đây là bài phiếm luận về đề tài gây quỹ.
Chúng tôi có cơ hội làm việc cho cơ quan thiện nguyện thường gọi là bất vụ lợi. Đây chỉ là một cách gọi cho lịch sự để phân biệt với công ty làm ăn kiếm lời của Hoa Kỳ. Thật ra dù làm cho Non-Profit, bất vụ lợi th́ nhân viên cũng phải lănh lương đầy đủ.
Cơ quan chúng tôi trải qua 30 năm sống nhờ công tác khế ước với chính phủ, thường bị đồng hương chế diễu gọi là “ăn phân.” Trên thực tế một phần ba tổ chức làm việc tại Hoa Kỳ từ giáo dục, xă hội, y tế, văn hóa v.v... đều cạnh tranh để lấy “Funding.” Hai phần ba dứt khoát làm ăn lấy lời. Các chủ nhân thành công trở thành tỷ phú. Từ trường đại học y khoa Stanford cho đến nhà nuôi trẻ mồ côi ở Gilroy có 6 đứa bé cũng đều nhận tài trợ của nhà nước. Tất cả đều là Non-Profit. Và không bao giờ thành triệu phú.
Các cơ quan làm việc xă hội như IRCC thường trông cậy thêm vào sự đóng góp của Mạnh thường quân. Hàng năm chúng tôi cũng có tổ chức tiệc gây quỹ. Tuy nhiên, nếu công tác làm khế ước với chính phủ thành công th́ việc gây quỹ của IRCC trong cộng đồng thường ra là thất bại.
Trong suốt 30 năm, chúng tôi chỉ tổ chức gây quỹ hàng năm có trên 10 lần và lần nào cũng lỗ. Chẳng bao giờ là thành công rực rỡ. Có thể v́ nghệ thuật xin tiền c̣n kém, các mục tiêu đưa ra thường bị coi là ưu tiên thấp. Gây quỹ xă hội cho IRCC không thể nào cạnh tranh với băo lụt, với thương phế binh hay vận động chính trị tranh đấu cho nhân quyền tại Việt Nam.
Ngoài ra, nhu cầu xin đóng góp th́ nhiều mà số người hảo tâm th́ khan hiếm, nên việc gây quỹ ngày càng khó khăn nhất là vào thời điểm kinh tế tŕ trệ.
Và một điểm quan trọng nữa là việc xin tiền luôn luôn rất tế nhị. Đi xin tiền thiên hạ dù ḿnh có chính nghĩa đến đâu th́ cũng là điều khó nói. Và thêm vào đó, thiên hạ th́ ai cũng có thể ủng hộ không ít th́ nhiều, nhưng biết ai là người có ḷng để gơ cửa.
Người Việt có từ tâm hay không?
Câu trả lời là có. Việt Nam nói chung rất rộng lượng chứ không phải là keo kiệt. Đây là nói về số đông. Ông Nam Lộc và anh em nghệ sĩ Nam Cali vừa tổ chức gây quỹ “Nhớ người thương binh” thu được 300 ngàn Mỹ kim. Dân Việt gửi về quê hương năm qua gần 4 tỷ Mỹ kim. Dù là gửi cho bà con th́ cũng phải có tấm ḷng. Thiếu ǵ người có cha mẹ anh em ở quê nhà mà quanh năm cũng không hề liên lạc.
Thống kê cho biết, số người gửi quà, gửi tiền về Việt Nam đa số là người nghèo và người trung b́nh. Càng nghèo càng bạt mạng. Có người ngày mai chưa biết lấy ǵ ăn, hôm nay gửi hết cả những trăm bạc cuối cùng về cho gia đ́nh. Ở nhà ngồi chờ tiền quanh năm.
Nhà giàu thường tính toán. Đó là lẽ thường t́nh. Và đặc biệt khi bạn có tiền, bạn lại e ngại người ta lợi dụng tiền bạc của ḿnh. Bạn có thể cho rằng, đám xin tiền làm việc thiện thường hay bịp, nhẹ nhất cũng là của người phúc ta. Nó xin tiền của ḿnh để làm công tác nhưng danh tiếng th́ nó lấy hết. Ông không dại.
Chuyện như vậy cũng là suy nghĩ thường t́nh.
Tấm ḷng Hoa Kỳ.
Trên tờ báo Việt Tribune vừa qua, tác giả Ngô Nhân Dụng có viết hai bài về chuyện nhà giàu làm phúc. Bài viết về chuyện ông tỷ phú thứ nh́ Warren Buffett cho tiền cho ông tỷ phú thứ nhất của Hoa Kỳ là ông Bill Gate. Cả hai đều là tỷ phú nhưng không hề cạnh tranh nhau về danh tiếng. Ông Bill Gate vốn xưa nay chỉ biết có kỹ thuật làm ăn. Ông trúng mối bốc lên quá sức nhưng chưa từng nghĩ đến làm việc phúc đức. Chính bà mẹ cũng phải nhắc nhở con trai nên nghĩ đến việc giúp kẻ khốn cùng.
Tuy nhiên, phải đến khi Bill Gate lấy vợ th́ ưu tiên chia bớt tiền cho xă hội mới được đặt ra. Ḍng họ Gate có phúc bây giờ là do bà vợ có ḷng.
Hai vợ chồng bỏ việc kỹ thuật làm ăn, về hưu để dồn nỗ lực vào công tác thiện nguyện. Ông Gate c̣n dự trù chỉ để lại một phần nhỏ cho các con. Hơn 90% tài sản dành cho tổ hợp lo về xă hội khắp thế giới. Ông Buffeet thấy tổ hợp của Gate đàng hoàng bèn tặng cho quỹ vợ chồng Bill Gate 35 tỷ. Con số lớn lao nhất từ xưa đến nay.
Quả thật những tay nhà giàu như thế đúng là thiên sứ từ trên trời rơi xuống để giúp cho đời. Bởi v́ nếu bạn có vài ngàn để dành nay nhắm mắt cho đi hết coi như tài sản mất hết th́ cuộc đời vẫn c̣n nhẹ nhàng.
Nhưng nếu bạn có chừng vài chục triệu mà bảo cho đi một nửa th́ thật là quá sức vất vả. Xem ra như thế mới biết là sự hy sinh của những người như Bill Gate và Warren Buffett lớn lao biết chừng nào.
Khi được báo chí hỏi ông Buffett đă trả lời rằng đây là lúc ông t́m cách trả nợ lại cho xă hội.
Tuy nhiên, cá nhân các ông Bill và Warren không đủ sức để t́m hiểu, cân nhắc xem nên trả nợ chỗ nào. V́ vậy họ lập ra các tổ hợp để thuê các nhà chuyên môn làm thành những công ty nghiên cứu việc cho tiền thiên hạ. Để tránh phát tiền cho các tay thợ bịp mà phải làm cho đồng tiền được chi ra hữu hiệu.
Những chỉ dẫn kỹ thuật.
Nhờ đọc sách báo Mỹ, chúng tôi học được lơm bơm một vài chiêu thức đă áp dụng trong nghề xin tiền. Kể lại để bà con rơ về nghệ thuật gây quỹ.
Sau đây là hai điểm trong số 100 điểm của bài hướng dẫn đọc được:
Thứ nhất – Hăy xin tiền người hay cho tiền: Không xin những người không cho tiền. Đó là lư do tại sao mỗi khi bạn cho tiền các cơ quan thiện nguyện một lần là thư gửi đến xin tiền cứ nhận được đều đều. Nếu bạn cho ăn mày, cả đám xúm lại quanh bạn. Thí dụ như vậy thật đau đớn nhưng h́nh ảnh này có thật. Các tay nhà nghề c̣n lấy địa chỉ của bạn làm thành danh sách bán cho các cơ quan xin tiền. V́ vậy khi bạn nhận được thư của cơ quan IRCC gây quỹ có nghĩa là bạn được coi là người có vẻ “hảo tâm nhân.”
Thứ hai – Xin từng chuyện nhỏ: Thí dụ, xin $5 để nuôi em bé mồ côi ở Việt Nam một tháng. Theo sách vở, chúng tôi cũng xin $1 cho một tuần lễ nghe Radio Dân Sinh. $52 cho một năm. Đ̣i hỏi lớn nhất là xin góp cho $1,000 đồng để đào một cái giếng cho quê nhà. Tại San Jose chúng tôi bắt chước xin một ngàn đồng cho viên gạch tượng trưng xây viện bảo tàng. Hiện nay cũng đă bán được hơn 10 viên gạch danh dự.
* * *
Mặc dù đă học nghề gây quỹ, xin tiền nhưng chưa có tài áp dụng, tính chất chuyên nghiệp chưa có. Chúng tôi lại thiếu xông xáo và lại hay ngần ngại. Do đó, phần lớn gây quỹ không thành công, lần này tổ chức gây quỹ cho viện bảo tàng vào trưa ngày Chủ Nhật 23 tháng 7-2006 tại Kobe không biết sự thể ra sao?
Quảng cáo lôi cuốn nhưng thật sự có khách hay không lại là việc khác. Cũng may mắn là trận cầu của thế kỷ đă qua, không gặp ngày lễ lạc lớn, bạn quen và có ḷng c̣n đủ vài chục bàn. Nếu không thắng th́ ḥa.
Niềm an ủi lớn lao.
Tuy nhiên, dù việc gây quỹ chưa tổng kết nhưng chúng tôi đă ghi nhận hai chuyện đầy khích lệ.
Một lá thư của ông chuẩn úy quân đội quốc gia đi lính từ 1953 c̣n thuộc 3èm RIC. Đây là đơn vị Liên Hiệp Pháp thuộc trung đoàn 3. Sau năm 1954, ông qua ngành Pháo Binh Việt Nam.
Ông trung sĩ thân mến đă gửi đến $50 Mỹ kim và yêu cầu trả góp để mua một viên gạch dưới tên vô danh. Cụ hứa sẽ góp 1 tháng $50 cho đến khi nào chết th́ con sẽ trả hết số c̣n lại. Giá viên gạch là $1,000, góp 20 tháng là xong nợ. Đây là nợ danh dự.
Cụ cho biết đă đóng tiền cho cả hai hội tử tuất của Tàu và của Việt Nam. Nếu cụ chết sớm trong ṿng hai năm th́ đă có di chúc cho con. Nếu không th́ góp 24 tháng là xong viên gạch. Tái bút cụ cho biết nếu c̣n sức, sau hai năm cụ sẽ mua cho thêm một viên gạch nữa.
Đọc lá thư mà thấy đứt ruột. Ông cụ vô danh này c̣n ngon hơn Bill Gate. Bill chỉ cho những ǵ sẵn có. Dù cho đi hết ông Gate vẫn c̣n giữ tiền lẻ vài tỷ Mỹ kim. Ông cụ cựu chiến bin của VNCH này hứa sẽ cố gắng để cho cả những ǵ cụ chưa có. Cụ dặn các con nếu lănh tiền tử th́ trả nợ viên gạch trước rồi mới trả tiền hỏa thiêu.
Tiếp theo, chiều thứ Hai, gia đ́nh cô Hương ghé đến chúng tôi kư chi phiếu $100 Mỹ kim cho IRCC. Vợ chồng cô Hương vượt biên cách đây 17 năm, đă ở Phi được 16 năm mới qua San Jose năm 2005 và đă dự tiệc đầu năm do IRCC mời tại Phú Lâm.
Cô Hương ghé đến chúng tôi cho biết là chồng đi làm mới hai tháng được vào chính thức. Đầu tháng lănh lương trích ra $100 để cho quỹ xă hội của IRCC.
Nhận cái chi phiếu này, chúng tôi hết sức cảm động. Giá trị tinh thần của nó c̣n hơn 35 tỷ của ông Buffett tặng ông Bill Gate. Bởi v́ khi cô Hương viết chi phiếu rồi ghi lại vào sổ check số tiền c̣n lại là $400 Mỹ kim.
Các con của ông Buffett đều đă có tài sản riêng cũng hàng tỷ bạc. C̣n 3 đứa con của chị Hương vẫn c̣n học High School, trong túi mỗi đứa không bao giờ có ghi nhiều hơn $5. Trong sổ check có $500, cho đi $100 th́ gia đ́nh cô Hương c̣n có $400. Và cả một tương lai lâu dài trước mặt. Lại c̣n dự tính gửi $50 cho các bạn bè kẹt lại ở Làng Việt Nam.
Sống trong đời sống, cần có một tấm ḷng. Lời ca tha thiết này chỉ dành cho tôi và các bạn. Không phải dành cho ông cựu chiến binh vô danh hay vợ chồng cô Hương mới đến từ Phi Luật Tân. Tấm ḷng của họ đẹp đẽ biết là bao và chẳng gió nào làm cho bay đi được.
Trong đĩa hát tiếng cô Mai vẫn c̣n véo von. “Sống trong đời sống, cần có một tấm ḷng, để làm ǵ bạn biết không? Để gió cuốn bay đi...”
Giao Chỉ – San Jose 2006
CHÍNH TRỊ VÀ RÁC TẠI SAN JOSE
MỘT THỜI HĂNH DIỆN, MỘT THỜI XẤU HỔ
Giao Chỉ – San Jose 2006
Lời ṭa soạn: Giao Chỉ là bút hiệu của ông Vũ Văn Lộc, giám đốc cơ quan IRCC, Inc. Bài này tác giả viết theo lời yêu cầu riêng của báo Việt Tribune.
Thành phố San Jose đă từng có hai ông thị trưởng sắc tộc. Ông gốc Nhật và ông gốc Mễ. Vào năm 1971, nghị viên San Jose gốc Nhật là ông Norman Mineta lên làm thị trưởng. Ông chỉ làm một nhiệm kỳ rồi sau đó được bầu làm dân biểu cũng tại San Jose suốt hai mươi năm từ 1975 đến 1995.
Ngày xưa, Norman là cậu bé sinh ra tại San Jose đă từng phải sống trong trại tập trung thời kỳ thế chiến thứ hai, khi Nhật tấn công Trân Châu Cảng. Sau này ông đă trả nợ tổ tiên bằng một đạo luật Hoa Kỳ bồi thường và tuyên dương cho các nạn nhân vô tội đă cùng sống với ông trong trại tạm giam.
Sau 20 năm trong quốc hội Hoa Kỳ, ông chuyển qua lănh vực tư nhưng đến năm 2000 ông được tổng thống Bill Clinton mời ra làm bộ trưởng thương mại. Năm 2001, tân tổng thống Bush lại mời làm bộ trưởng giao thông. Cuộc đời của ông là những chuỗi dài của những ghi nhận đặc biệt.
Với tư cách là công dân gốc Nhật tại San Jose, ông trở thành nghị viên đầu tiên, thị trưởng đầu tiên, dân biểu đầu tiên, bộ trưởng thương mại, bộ trưởng giao thông cả hai nội các Dân Chủ và Cộng Ḥa.
Kỳ biến cố 911, nhân danh bộ trưởng giao thông, ông cho lệnh tất cả các máy bay dân sự hạ cánh, các phi trường án binh bất động. Một quyết định lịch sử chưa từng có trên thế giới.
Tại địa phương vùng San Jose, trong trách nhiệm dân biểu rồi sau này là bộ trưởng giao thông, ông Mineta là người góp phần xây dựng các xa lộ 237, 101 và 85.
Đặc biệt phi trường San Jose được mở mang từ thời kỳ ông làm thị trưởng đă chính thức mang danh hiệu phi trường quốc tế Norman Mineta vào năm 2001.
Tuần vừa qua, cựu thị trưởng San Jose Mineta loan báo từ chức bộ trưởng giao thông trong nội các liên bang sau 6 năm làm việc với ông Bush để về hưu ở tuổi 74. Ông nghỉ hưu v́ lư do sức khỏe và tuổi già. Đây là sự lựa chọn để chấm dứt sự nghiệp chính trị của một người Mỹ gốc Nhật trong vinh dự. Hết sức vinh dự.
Trong khi đó th́ vị đương kim thị trưởng San Jose là người Mỹ gốc Mễ có thể sẽ về vườn sau hai nhiệm kỳ thị trưởng với rất nhiều cay đắng.
Đó là chuyện ông thị trưởng Ron Gonzales của chúng ta hiện nay. Câu chuyện bắt đầu như sau:
Tuần lễ vừa qua ở San Jose đă có những chuyện ǵ xảy ra. Dù là người Việt ít quan tâm đến chính trị Hoa Kỳ tại địa phương th́ ta cũng phải biết đến chuyện ông thị trưởng gốc Mễ Ron Gonzales đang bị truy tố. Câu chuyện có thể tóm tắt là thành phố đă tài trợ hơn 11 triệu Mỹ kim cho công ty thầu rác Norcal để họ có tiền tăng lương cho nhân công.
Bề ngoài có vẻ đây là một h́nh thức tốt đẹp v́ thành phố lo cho phúc lợi của nhân viên, nhưng nghi vấn đưa ra là phải chăng ông thị trưởng đă có thỏa hiệp mật với nhà thầu cho bỏ giá thấp để thắng cuộc, rồi sẽ được thị xă tài trợ sau.
Luật sư của bị cáo nói rằng, không có ǵ để chứng minh rằng ông thị trưởng có lợi trực tiếp. Công tố viện cho rằng đă có án lệ, nếu thỏa hiệp ngầm để có lợi cho đệ tam nhân (ở đây là nhân công nghiệp đoàn được tăng lương) th́ cũng là tội hối lộ. Chúng tôi chỉ đưa ra một điểm truy tố quan trọng nhất dưới h́nh thức quản trị. Trên thực tế, vụ án này c̣n sẽ kéo dài với rất nhiều chi tiết phức tạp.
Có điều khá đặc biệt là khi ông thị trưởng đưa đề nghị tài trợ hơn 11 triệu cho nhà thầu rác Norcal th́ đa số nghị viên tán thành và bây giờ cũng đa số quư vị đó bỏ phiếu chống lại hành động được coi là sai quấy của con người lănh đạo ṭa thị sảnh San Jose.
Một trong số hai nghị viên có can đảm “say NO” đối với việc truy tố ông Ron Gonzales là cô Madison Nguyễn. Madison là nghị viên mới gốc Việt không hề liên quan ǵ đến việc bỏ phiếu thuận cho Norcal trước đây nhưng đă có quan điểm rất độc lập không ngả theo chiều gió. Cô đă tuyên bố rằng phải đặt ông Gonzales vào trường hợp nghi vấn cho đến khi có án ṭa.
Báo San Jose Mercury News trong số mới nhất đă phân tích về hoàn cảnh của ông thị trưởng để độc giả hiểu rằng, nguyên cáo ở trong trường hợp rất khó khăn mặc dù vẫn cương quyết đấu tranh đến cùng và không chịu từ chức.
Với số lương thị trưởng hơn 100 ngàn một năm, xem ra cuộc đời chính trị của nhân vật gốc Mễ một thời chói sáng nhưng không phải là người giàu có.
Trước đây, ông đă làm cho hăng HP rồi đi vào con đường dân cử từ County Santa Clara qua City of San Jose. Khi đắc cử lần thứ nhất rồi tái cử lần thứ hai ghế thị trưởng San Jose đều rất vẻ vang. Tổng thống Dân Chủ và tổng thống Cộng Ḥa đều gọi điện thoại chúc mừng.
Nhưng đến những năm sau này th́ gia đạo không êm. Ông bỏ người vợ tao khang để ngoại t́nh với nữ nhân viên trong văn pḥng. Mới đầu th́ chối, sau ra nhận công khai, rồi ly dị vợ cũ, lấy cô vợ mới, trẻ hơn ông rất nhiều. Dân chúng vẫn gặp ông Ron chịu chơi, mặc quần ngắn dắt cô vợ Mễ c̣n trẻ đi sắm đồ ở các khu thương xá. Xem ra đôi trẻ rất sung sướng, hạnh phúc trong t́nh yêu mới.
Bà vợ tao khang cũ th́ xồ xề, yên phận với nghề cắt tóc. Trải qua bao nhiêu năm cho đến khi ông làm thị trưởng, bà vẫn chỉ có nghề tóc.
Báo chí c̣n tiết lộ là vụ kiện ly dị vẫn chưa thỏa hiệp xong về tài chánh nhưng lương thị trưởng vẫn phải dành một phần ba để tài trợ.
Ông Gonzales chỉ có một căn nhà Condo ở Downtown giá 339 ngàn mới Down được $72,700.
Xem ra, tài sản cũng chẳng có ǵ. Cô vợ trẻ th́ làm đâu cũng bất tiện v́ bị nghi ngờ là lợi dụng địa vị của chồng. Nếu vụ kiện này kéo dài từ 6 tháng đến một năm th́ chi phí luật sư lên đến bạc triệu. Giá biểu của luật sư thượng thặng hiện thụ lư cho ông Ron Gonzales là $550 một giờ. Đám báo chí tọc mạch c̣n cho biết là ông Gonzales mới chi ra 15 ngàn đồng cho luật sư và c̣n cái Bill mới $1,200 chưa trả.
* * *
Với một vài sơ lược kể trên liên quan đến sinh hoạt chính trị tại địa phương, cộng đồng của chúng ta ghi nhận được những bài học ra sao.
Nếu được hỏi về trường hợp của ông thị trưởng, chúng tôi cho rằng, mọi việc phải để ṭa án quyết định. Dù có âm mưu hay không, chính ông Gonzales là người phải biết, và dù ông là người xấu hay người tốt, ông vẫn có quyền chiến đấu để tồn tại. Tuy nhiên, đối với công lư Hoa Kỳ không có hy vọng ǵ mà cố bám lấy chức vụ để có lợi cho bản án. Việc từ chức chính là hành động cần thiết để cứu văn cho sự ổn định công việc quản trị thành phố và v́ phúc lợi của người dân.
Dù không có tội th́ ông cũng đă làm cho thành phố này bị tai tiếng quá nhiều. Phải cứu thành phố trước khi cứu thân ḿnh. Không một nhà quản trị nào có thể điều hành được một thành phố với một triệu dân trong lúc đeo trên ḿnh 7 tội danh, tất cả đều rất xấu xa.
Sau khi từ chức, ông vẫn có đủ thẩm quyền và hoàn cảnh để chiến đấu chống bản án, và nếu có tội, hy vọng có sự khoan hồng nhiều hơn.
Đối với cộng đồng Việt Nam từ hơn 10 năm trở lại đă có nhiều sinh hoạt vận động yểm trợ cho các ứng cử viên Hoa Kỳ. Trên b́nh diện quốc gia, chúng ta đă ủng hộ Bill Clinton và cũng đă có lúc xấu hổ v́ chàng. Chúng ta đă ủng hộ George Bush đánh Iraq rồi bây giờ chúng ta cũng lúng túng v́ chàng.
Tại địa phương San Jose, Việt Nam ta đă ủng hộ ông Mỹ đen Terry Gregory vào ghế nghị viên số 7 để rồi lại phải ân hận v́ tay nghị viên này thuộc loại gà què ăn quẩn. Đọc lại tội danh của ông toàn chuyện ăn bẩn lặt vặt. Ăn cua ở Dynasty, chai rượu ở siêu thị Tàu, vé đi coi thể thao. Và chúng ta cũng đă tổ chức tiệc tùng ủng hộ ông Ron Gonzales để rồi cũng chẳng được ông này làm việc ǵ đáng kể cho cộng đồng Việt Nam. Quả thật là hết sức đáng tiếc.
Sau hết, dư luận b́nh dân trong các bà nội trợ San Jose rất chán anh chàng thị trưởng bỏ vợ tao khang để đi theo tiếng gọi của tuổi trẻ và nhan sắc. Người ta cho rằng, phần số của Ron Gonzales bắt đầu xuống một cách thê thảm kể từ khi ông phụ bạc bà đệ nhất phu nhân San Jose vẫn c̣n chịu khó hành nghề cắt tóc cho thiên hạ.
Tại Hoa Kỳ, bất cứ chuyện ǵ cũng xảy ra được nhưng không ai có thể vừa làm chính khách tới chức thị trưởng thành phố lớn mà lại vừa làm tay chơi như vua Playboy ở Chicago.
Ông Ron Gonzales, ngôi sao thị trưởng đang lên của cộng đồng Mễ chỉ v́ muốn làm tay Playboy mà lôi kéo cả ṭa thị sảnh tráng lệ trở thành thùng rác.
Thật là điều đáng tiếc và là kinh nghiệm đáng suy ngẫm từ h́nh ảnh thị trưởng gốc Nhật năm 1975 cho đến thị trưởng gốc Mễ năm 2006.
(Và bài sau đây được viết bằng Anh ngữ cũng của tác giả Giao Chỉ cho báo San Jose Mercury News.)
DO YOU KNOW THE WAY TO SAN JOSE?
SAN JOSE, MỘT THỜI HĂNH DIỆN, MỘT THỜI XẤU HỔ
Bốn mươi năm trước 1960 từ San Francisco, người ta phải ca bản “Anh có biết đường về San Jose?” Hai mươi năm sau 1980, San Jose nổi danh trên thế giới với sự bùng nổ của điện tử. Cái nôi của Thung Lũng Silicon đă trở thành một trong các mục tiêu của Mạc Tư Khoa chuẩn bị chiến tranh nguyên tử cùng trong danh sách là Ṭa Bạch Ốc. Hăng xưởng ở đây mọc lên như nấm. Tiền thuế vào thành phố như nước. Không hề có chuyện tai tiếng trong ṭa nhà thị xă. Mười nghị viên và thị trưởng là một đội banh túc cầu luôn luôn đá rất nhịp nhàng đồng điệu. Đó là một thời hănh diện.
Ngày nay, mọi thứ đă thay đổi. Dù dân số gia tăng lên hàng thứ 10 tại Hoa Kỳ nhưng San Jose vừa xếp hàng chót trong số đo lường 100 đô thị phát triển về kinh tế. Bao nhiêu tỷ bạc đă đổ vào Downtown nhưng không bốc lên được. Có một cái niềm hănh diện tiêu biểu là High Tech Museum năm nào cũng thua lỗ v́ không có khách. Đội ngũ 10 ông bà nghị viên và ông thị trưởng th́ chia làm ba phe, tháng nào cũng đấm đá nhau. Không thể nào một đội banh với thủ quân và các cầu thủ như thế mà có thể xây dựng cho thành phố này cất đầu lên được.
Chưa bao giờ mà một thành phố có đến 4 nghị viên ra tranh chức thị trưởng gồm một người cựu trào và ba người đương nhiệm. Đă bao nhiêu năm họ ngồi bên nhau mà vẫn t́m cách chống đối nhau. Đây là một thời xấu hổ của San Jose.
Thật sự San Jose cần loại bỏ cả ông thị trưởng và một nửa số nghị viên mới có thể khá hơn được. San Jose ngày nay cũng như đội bóng đá Hoa Kỳ vừa thảm bại. Tất cả phải làm lại từ đầu.
Do you know the way to get out of San Jose?
Do you know the way to get San Jose out of the trash today?
Giao Chỉ – San Jose 2006
DI DÂN VIỆT VÀ LỄ ĐỘC LẬP MỸ
Giao Chỉ – San Jose 2006
Một lần nữa chúng ta chào đón July 4 hàng năm. Ngày 4 tháng 7 là ngày lễ trọng đại nhất của Hoa Kỳ. Ngày Mỹ quốc đưa ra bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 và bắt đầu cuộc chiến tranh cách mạng chống lại Anh quốc sau 6 năm. Anh và Mỹ kư thỏa ước ở Paris và công nhận Hoa Kỳ độc lập. Người Mỹ đă chiến thắng trận chiến tranh đầu tiên của lịch sử Hiệp Chủng Quốc.
Là công dân gốc Việt trong đợt di dân cuối cùng của thế kỷ 20, chúng ta cần t́m hiểu về đất nước mà chúng ta lập nghiệp. Các di dân tỵ nạn Việt Nam đầu tiên đến Mỹ đă được dự ngày kỷ niệm 200 năm lập quốc vào năm 1976. Đến bây giờ nước Mỹ đă già thêm 30 năm. Dù mới có hơn 200 năm nhưng lịch sử trẻ trung của Hiệp Chủng Quốc rất phong phú và cũng rất độc đáo. Hoa Kỳ là quốc gia bao gồm tất cả các sắc dân, các ngôn ngữ, các tập tục văn hóa. Nước Mỹ đă có các kỷ niệm vừa hung bạo vừa nhân từ. Tiêu diệt da đỏ, bắt da đen làm nô lệ, kỳ thị da vàng, đem quân đi làm cảnh sát trên thế giới, đi đến đâu là gây sóng gió ở đó. Hoa Kỳ cũng là quốc gia phát huy tự do dân chủ toàn cầu, viện trợ kinh tế, quân sự, giáo dục, xă hội, văn hóa cho toàn thể các quốc gia chậm tiến trên thế giới. Và bây giờ vào thời điểm 2005, việc truyền bá tự do và dân chủ ở Trung Đông đang gặp nhiều kinh nghiệm đắng cay.
Biên cương của Hoa Kỳ trên địa cầu là một vùng đất bao la tiếp giáp với hai đại dương Thái B́nh Dương và Đại Tây Dương. Tiểu bang Alaska của Hoa Kỳ là ải địa cầu trấn giữ Bắc Băng Dương. Biên giới không gian của Hoa Kỳ lên đến mặt trăng và Mỹ quốc cũng đă đặt cọc đất trên Hỏa tinh. Hai ngàn vệ tinh kinh tế thương mại và quân sự của Hoa Kỳ canh gác toàn vùng khí quyển của quả đất. Đế quốc nhân văn của Hiệp Chủng Quốc thống trị thế giới bằng các ṭa đại sứ và lănh sự quán luôn luôn tấp nập các khách hàng vào xin visa.
Cơ sở ngoại vi của các đại sứ quán Hoa Kỳ là những chỗ bán thức ăn Fast Food McDonald, Coke, nhạc Rock và quần Jeans. Mỹ phát thực phẩm cho dân nghèo toàn thế giới nhưng đi đến đâu cũng bị đuổi về nhà: Yankee go home.
Đó là Hoa Kỳ ngày nay, sau 230 năm lập quốc. Đó là đất nước mà chúng ta đang mang nhăn hiệu công dân có đứng lên tuyên thệ bảo vệ và tuyệt đối trung thành.
Dù muốn hay không, chúng ta cũng nên biết qua lịch sử lập quốc của quê hương mà phần đông chúng ta sẽ cùng các thế hệ tiếp theo ở lại đời đời.
Một câu hỏi đặt ra: Ai là người Mỹ đầu tiên trên đất Mỹ?
Câu trả lời của các nhà nhân chủng học cho biết 12 ngàn năm trước, khi các lục địa c̣n dính liền cuối thời băng giá th́ Á châu và Mỹ châu nối tiếp ở phía Bắc. Con người tiền sử Á Châu đi t́m đường sống đă từ Á qua Mỹ. Sau đó quả đất chuyển đổi, băng tan, nước biển dâng cao và hai lục địa không c̣n dính liền nhau nữa. Các người Á châu tiền sử ở lại và trở thành thủy tổ của các bộ lạc ở Bắc Mỹ.
Nhiều nền văn minh đă được kiến tạo, nhiều bộ lạc đă tàn lụi. Sau cùng chỉ c̣n các bộ lạc da đỏ tồn tại cho đến thời kỳ năm 1500 các sắc dân Tây phương mới đến Mỹ bằng đường biển. Nổi danh nhất là nhà hàng hải Columbus năm 1492 đi t́m Á châu và khám phá ra Mỹ châu. Rồi tiếp theo là Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh Cát Lợi, Pháp, Đức rồi đến Nga và các quốc gia Đông Âu.
Các cuộc chiến đẫm máu, triền miên ở tân lục địa giữa người địa phương và dân giang hồ mới đến. Chiến tranh giữa các thế lực xâm lấn Tây phương. Sau cùng Anh quốc ổn định được phần lớn miền Đông Hoa Kỳ và các di dân bắt đầu lên đường. Con tàu Hoa Tháng Năm tức Mayflower nổi tiếng đến Mỹ năm 1620 vỏn vẹn có 35 người trở thành biểu tượng của cuộc định cư trên đất mới.
Năm 1621 di dân được mùa đă cùng tổ chức Lễ Tạ Ơn và ăn uống với dân da đỏ trong một lễ Thanksgiving đầu tiên của nhân loại.
Nhưng rồi những ngày vui qua mau. Thổ dân tại Mỹ chết dần v́ bị giết, bị đói, bị bệnh, có thể do các mầm bệnh từ Tây phương đem đến.
Trong khi đó từ năm 1620 đến 1732 tức là hơn 100 năm. Một nước Mỹ thuộc Anh đă h́nh thành với 13 tiểu bang liên hiệp ở miền Đông. Phần lớn làm nghề nông, trồng thuốc lá, trà, và lúa. Các vùng khác thuộc Tây Ban Nha, Pháp vẫn c̣n tranh chấp.
Cuộc chiến giữa Pháp và Anh giành đất trong 7 năm từ 1754. Sau cùng Anh thắng và mở rộng biên cương thuộc địa của đế quốc hùng cường nhất thế giới.
Tiếp theo nước Anh cần tiền cho mẫu quốc nên đánh thuế các thuộc địa, thu tiền các nhà sản xuất và các đồn điền tại Hoa Kỳ.
Chính sách thuế của Anh ban hành năm 1774 trở thành mầm mống cho cuộc chiến dành độc lập tại Hoa Kỳ. Tướng Washington nhận trách nhiệm lănh đạo chiến tranh cách mạng vào năm 1775 và chính thức đứng ra tuyên bố độc lập 1776.
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập do Thomas Jefferson đại diện tiểu bang Virginia viết ra lúc ông 33 tuổi được coi là một áng văn tuyệt tác nhất của nhân loại và mở đầu cuộc chiến giành độc lập cho đến chiến thắng cuối cùng bằng hiệp định Paris 1782.
Tiếp theo Hoa Kỳ có 5 năm xây dựng dân chủ từ 1782 – 1787 để Hiến Pháp ra đời với 9 tiểu bang chính thức rồi đến 13 tiểu bang thỏa hiệp. Những lá cờ Mỹ đầu tiên có 9 ngôi sao rồi 13 ngôi sao và bây giờ là 50 ngôi sao.
Suốt từ buổi b́nh minh của Hiệp Chủng Quốc cho đéán nay, nước Mỹ đă trải qua biết bao nhiêu là biến động.
Từ hơn 4 triệu dân vào năm 1800 trở thành gần 300 triệu vào năm 2005. Trên giấy tờ tính đến nay là 229 năm lập quốc nhưng thực sự quốc gia này đă nảy mầm từ trên 300 năm.
Phải chăng Hoa Kỳ là một đĩa rau trộn gồm đủ mọi sắc thái nhưng tía tô vẫn là tía tô, rau giấp cá vẫn nồng nàn mùi tanh của biển mặn. Hay đây là nồi cháo mà mọi thứ thực phẩm đă được ḥa tan thành một hương vị mới. Cái đó c̣n tùy hoàn cảnh, địa phương và thời gian.
Nước Mỹ đă trải qua các giai đoạn hành động tàn nhẫn với các sắc dân thiểu số. Vào thế kỷ thứ 19, da trắng buộc dân da đỏ phải tập trung vào các khu vực ấn định. Thảm kịch diễn ra trên con đường ṃn được gọi là: Đường ṃn nước mắt.
Da đỏ già trẻ lớn bé đều phải ra đi, bỏ nhà cửa, vườn trại để vào các khu đồng khô cỏ cháy xa cách vạn dặm. Hàng chục ngàn người đă chết.
Trong khi đó ở miền Nam Hoa Kỳ, dân da đen bị bắt làm nô lệ đem từ Phi châu qua đă trở thành một lực lượng lao động quan trọng. Những bàn tay đen đủi đă xây dựng nên nền nông nghiệp miền Nam nuôi cả nước Mỹ vào thời kỳ lập quốc với những vườn bông trắng xóa. Nhưng cũng chính da đen là vấn nạn cho cuộc chiến tranh tương tàn Nam Bắc. Những người da đen bỏ trốn các nông trại đă bị đánh roi cho đến chết. Câu chuyện Uncle Tom với bài ca da đen lừng danh: Let my people go – Hăy cho dân tôi đi. Trở thành một vấn nạn trong lương tâm Hoa Kỳ.
Da đỏ xin ở lại th́ bị đuổi đi. Da đen xin đi th́ bị giữ lại. Ngay khi nội chiến chấm dứt, da đen được giải phóng mà vẫn c̣n bị kỳ thị.
Cuộc chiến đấu vĩ đại của một đàn bà lẩm cẩm da đen năm 1955 không chịu ngồi phía sau xe bus đă trở thành một cuộc tổng đ́nh công tẩy chay xe bus tại Hoa Kỳ. Từ cuộc đ́nh công này, da đen có được một nhà lănh đạo đầy huyền thoại là mục sư King mà tên tuổi trở thành một ngày quốc lễ.
Rồi đến lịch sử Tây tiến làm đường xe lửa đem da vàng Nhật Bản và Trung Hoa nhập cuộc. Các tiền nhân di dân châu Á cũng đă ngậm đắng nuốt cay ở miền Tây Hoa Kỳ trong suốt thời lịch sử cận đại.
Sau cùng đến lượt chúng ta. Việt Nam có hơn một triệu người tại Hoa Kỳ. Sau đợt di tản 75 tiếp đến là 10 năm thuyền nhân từ 1980 đến 1990 rồi là các HO, ODP nhập cư cho đến cuối thế kỷ thứ 20. Mười quận hạt có dân số đông đảo nhất là Orange, Santa Clara, Los Angeles, Houston, San Diego, Seattle, Oakland, DC, Dallas và Fort Worth (Texas).
Với 5 vị tổng thống can dự vào chiến tranh Việt Nam, bắt đầu từ Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixon và Ford, người Mỹ gọi đây là Cuộc chiến của các vị tổng thống - The War of the Presidents. Ư nói là cuộc chiến riêng tư của các vị tổng thống, không can dự ǵ vào nước Mỹ và dân Mỹ. Làn sống chống chiến tranh của dân Mỹ dâng cao với các cuộc xuống đường hàng triệu người.
Năm 1967 sa lầy tại chiến trường Việt Nam, chính ông Johnson đă uất ức nói rằng: “Đây không phải là cuộc chiến của riêng tôi. Đây là cuộc chiến của nước Mỹ, nếu ngày mai tôi chết đột quỵ, th́ chiến tranh vẫn c̣n măi với các anh.”
Bây giờ sống tại đây chúng ta mới có thể hiểu được là ḷng dân của Mỹ quốc thực sự ảnh hưởng đến chính quyền ra sao. Không cần đúng hay sai, không cần giữ lời cam kết. Đối với dân chúng Hoa Kỳ, ḷng kiên nhẫn và sự chịu đựng, hy sinh rất giới hạn. Đánh không xong th́ rút, sống chết mặc bay. Từ các quan niệm đó, định mệnh đưa chúng ta đến Hoa Kỳ.
Sau ông Ford, dân tỵ nạn lần lượt sống với 5 vị tổng thống của thời hậu chiến. Bắt đầu từ ông Carter, tổng thống thứ 39, ông già hiền lành đạo đức chính là vị ân nhân đầu tiên mở cửa nước Mỹ cho thuyền nhân từ các trại tỵ nạn vào Hoa Kỳ.
Khi đoàn biểu t́nh Việt Nam thắp nến đi trước Bạch Cung để than khóc cho thuyền nhân th́ ông Carter đă mở cửa ban công ngó xuống vẫy tay chào. Nước mắt dân tỵ nạn Việt Nam di tản đợt đầu, nhỏ giọt xuống đại lộ Constitution đă làm động ḷng ông tổng thống chuyên cất nhà Homeless.
Lệnh tổng thống ban ra từ đây các tàu chiến của hạm đội Bảy bắt đầu xua đuổi hải tặc và vớt người di tản, các phái đoàn Mỹ đến phỏng vấn tại trại tỵ nạn Đông Nam Á.
Rồi tiếp đến ông thứ 40 là Reagan suốt 8 năm đưa ra các đạo luật tỵ nạn, khởi sự các buổi thảo luận thả tù, để sau này ông Bush số 41 chỉ tiếp tục mở rộng tấm ḷng nhân đạo.
Bước qua thập niên 90, triều đại Bill Clinton, tổng thống thứ 42 là thời kỳ của ḥa giải và hàn gắn. Clinton mở đường hiệp thương, giải tỏa cấm vận, đưa tay dắt đường cho Hà Nội trở về với thế giới tự do. Sau cùng ông Clinton chấm dứt nhiệm kỳ bằng một chuyến công du cuối cùng dưới h́nh thức qua Việt Nam để tŕnh diễn một màn Workshop dân chủ đi từ Hà Nội đến Sài G̣n.
Qua đến ông Bush hiện nay, vị tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ đă đem bài học Việt Nam ra để đánh trận Trung Đông.
Chúng ta không phải là sắc dân cuối cùng, và chúng ta không phải là sắc dân duy nhất có quê hương cố quốc. Di dân tỵ nạn Việt Nam có người mang theo quê hương, có người bỏ lại quê hương. Tùy theo hoàn cảnh và cảm nghĩ. Tuy nhiên quả thực chúng ta không thêå khác những người di cư khác trong các trách nhiệm xây dựng đất mới.
Sắc dân nào cũng có những niềm tự hào của họ. Ai cũng có các hănh diện về truyền thống văn hóa, ngôn ngữ của cội nguồn.
Tuy nhiên, điều quan trọng là phong cách đối xử và t́m hiểu để hội nhập. Chúng ta phải cảm ơn những người đi trước đă mở đường. Kể cả người xấu lẫn người tốt đă sống và đă qua đi trong công cuộc chinh phục đất nước vĩ đại này.
Một lần nữa, đợt người Việt đầu tiên ở Mỹ sẽ là nhưng cây tràm cây đước giữ chặt đất cho một cộng đồng tương lai phát triển. Con cháu chúng ta sẽ vừa nhớ ơn ông cha đă đến đất này mà cũng không hổ thẹn về những đóng góp của chúng ta trong những giai đoạn đầu tiên. Bỏ lại phía sau con sông Hồng, sông Hương, sông Cửu Long và dăy Trường Sơn. Bây giờ ta phải làm quen với con sông Sacramento và rặng Rocky Mountain để có ngày con cháu ta sẽ phải đứng lên đáp lời sông núi mới.
Xin hăy công b́nh với hoàn cảnh. Mỗi năm hăy lưu tâm ngày 4 tháng 7 của Hoa Kỳ. Phải bước ra khỏi cái Ghetto của cộng đồng nhỏ hẹp. Tham dự vào cái xă hội vĩ đại đă đem phúc lợi cho chúng ta. Đó là cách hay nhất để xây dựng cùng một lúc cộng đồng tại Mỹ và quê hương bỏ lại ở Việt Nam. Bao gồm cả giấc mơ tự do và dân chủ.
Giao Chỉ – San Jose 2005