Đi T́m Con Cháu Thuyền Nhân 849 Năm Trước :

Nguyên Tổ Hai Gịng Họ Lư Tại Đại Hàn

Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sĩ


Tác giả chân thành cảm tạ Tiến-sĩ Thái Văn Kiểm, hội viên Hàn-lâm viện Pháp-quốc hải ngoại, đă giúp đỡ rất nhiều khi viết bài này.

Ngày 17 tháng 9 năm 1957, Tổng-thống Ngô-đ́nh Diệm công du Đại-hàn (1). Năm sau, ngày 6 tháng 11 năm 1958, Tổng thống Đại-hàn dân quốc là Lư Thừa Văn, viếng thăm Việt-Nam. Trong dịp này ông đă tuyên bố rằng tổ tiên ông là người Việt. Báo hồi ấy có tường thuật sơ sài. C̣n chính quyền th́ gần như không để ư đến chi tiết lịch sử này.

Bấy giờ, đệ nhất Cộng-ḥa thành lập chưa quá hai năm, mới chỉ có viện Khảo-cổ, không có cơ quan nghiên cứu lịch sử. Cho nên không ai nghĩ đến việc sang Đại-hàn t́m hiểu xem họ Lư từ Việt Nam, đă di sang đây từ bao giờ? Ai là nguyên tổ của họ?

Thời gian này tôi mới 19 tuổi, vừa bước chân vào đại học. Nhưng nhờ thấm nhuần Nho-giáo, nên đă chững chạc lắm rồi. Tôi viết thư cho sứ quán Đại-hàn tại Việt-Nam để hỏi về chi tiết này. Dĩ nhiên tôi viết bằng chữ Nho. Hơn tháng sau tôi được thư trả lời của tộc Lư tại Nam-hàn. Trong thư, họ cho tôi biết rằng:

"Tổng-thống Lư Thừa Văn là hậu duệ đời thứ 25 của Kiến-b́nh vương Lư Long Tường. Kiến B́nh vương là con thứ 6 của vua Lư Anh-tông. Người cùng tông tộc sang Cao-ly vào đầu thế kỷ thứ 13 v́ quốc nạn".

Ánh sáng đă mở ra trước mắt tôi. Nhưng tôi tra trong Đại-Việt sử kư toàn thư (ĐVSKTT), trong Việt-sử lược (VSL), trong Khâm-định Việt-sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM), không bộ nào nói đến Kiến B́nh vương Lư Long Tường cả.

Ṭ ṃ chưa được thỏa măn, nhưng tôi đành bỏ qua, v́ bấy giờ tôi phải dồn hết tâm tư vào việc học. Năm 1959, trong khi lục lọi tại thư viện Paris, vô t́nh tôi đọc được Tập-san sử địa của Nhật-bản, số 2 năm 1941, trong đó nói vắn tắt rằng:

"Năm Bính Tuất, 1226, bấy giờ là niên hiệu Kiến-trung thứ nh́ đời vua Thái-tôn nhà Trần. Biết ḿnh là con thứ sáu vua Lư Anh-tông, lại đang giữ chức đô đốc, tư lệnh hải quân, trước sau ǵ cũng bị Trần Thủ Độ hăm hại, nên ông đă đem tướng sĩ dưới quyền, tông tộc, cùng hạm đội ra đi, sau đó trôi dạt vào Cao-ly".

Tôi tự hẹn, sau này có tiền sẽ sang Đại-hàn t́m hiểu chi tiết này.

Thế nhưng, sau khi ra trường, 1964, tuy đă có chỗ đứng vững chắc về phương diện tài chánh. Ngặt v́ nghề sinh nhai lối dọc đường ngang, tôi vẫn không thực hiện được cái ước vọng sang Hàn quốc, t́m hiểu về nguồn gốc họ Lư tại đây.

Măi tới năm 1980, tháng 8, tôi đi trong phái đoàn Pháp, sang dự đại hội y khoa tại Hàng-châu Trung-quốc. Ở đại hội, tôi được tiếp xúc với phái đoàn Bắc-cao. Phái đoàn này cóù bác sĩ Lư Chiếu Minh ở Hùng-xuyên (Hunchon) và bác sĩ Lư Diệp Oanh ở Thuận-xuyên (Sunchon). Bấy giờ tôi đă 41 tuổi, c̣n Diệp Oanh mới 30 tuổi. Tuy là bác sĩ, thế nhưng cô tươi như hoa lan, phơi phới như hoa thủy tiên ban mai. Thấy mỗi bữa ăn cô lẩm nhẩm đọc kinh mà không làm dấu thánh giá, tôi cho là cô đọc kinh Phật. Tôi cũng đọc kinh Bát-nhă bằng tiếng Việt. Cô hỏi tôi:

- Ủa! Anh đọc kinh cảm ơn Tổng-thống Valéry Giscard đấy à?

- Không! Tôi đọc kinh Phật. Thế cô đọc kinh ǵ vậy?

- Phật đâu có cho anh cơm ăn, áo mặc ?

- Vậy cô đọc kinh ǵ ?

- Tôi đọc kinh cảm ơn cha già Kim Nhật-Thành đă cho chúng tôi đươc tự do, có cơm ăn, áo mặc! (2)

Nghe cô nói, tôi rùng ḿnh. Song thấy cô xinh đẹp, tôi đùa:

"Ở nước tôi, vào thế kỷ thứ 12, dưới triều vua Lư Anh-tông, tổ tiên tôi là Trần Thủ Huy được gả công chúa Đoan Nghi...".

Diệp Oanh cắt lời:

"Sang đầu thế kỷ thứ 13, cũng tổ tiên anh là Trần Liễu được gả công chúa Thuận Thiên, Trần Cảnh được vua Chiêu Hoàng tuyển làm chồng. Rồi tổ tiên anh xua đuổi, nên tổ tiên tôi thành thuyền nhân, ngày nay Hàn quốc mới có họ Lư".

À! Vạn lư tha hương ngộ tri kỷ đây. Biết rất rơ Diệp Oanh là con cháu của Kiến B́nh vương Lư Long Tường, tôi đùa thêm:

"Biết đâu cô không là công chúa Đoan Nghi, tôi không là Trần Thủ Huy tái đầu thai? Có lẽ chúng ḿnh nên đi tiếp con đường tổ tiên ḿnh đă đi".

Diệp Oanh vă tôi một cái vào má trái, tỏ cử chỉ thân thiện. Song chúng tôi bắt con tim ngừng phiêu lưu ở đây, v́ bấy giờ bà vợ tôi c̣n sống, c̣n quá trẻ; vợ chồng lại rất tương đắc ngoài đời, nồng thắm trong pḥng the.

Thế rồi chúng tôi nhận họ. Suốt đại hội, tôi với Chiếu Minh, Diệp Oanh gần nhau như bóng với h́nh. Tôi kể cho hai người nghe về những trang sử rực hào quang dưới thời Lư, nhất là huyền sử về Linh Nhân hoàng thái hậu (Ỷ Lan). Sau đại hội, Chiếu Minh, Diệp Oanh rủ tôi du lịch Bắc-cao. Bấy giờ là thịnh thời của chủ tịch Kim Nhật Thành, Bắc-cao khép kín cánh cửa với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên nhờ mang thông hành Pháp, nên ṭa đại sứ Bắc-cao ở Bắc-kinh cho tôi cái chiếu khán được du lịch nghiên cứu về nhân sâm trong 8 ngày.

Tới Bắc-cao, ông đại sứ Pháp tưởng tôi đi nghiên cứu nhân sâm thực. Ông lệnh cho văn pḥng tùy viên văn hóa giúp đỡ tôi. Tôi không muốn nói dối ông đại sứ. Tôi thú thật là đi t́m một số tài liệu lịch sử. Dù biết tôi mượn danh đi nghiên cứu y khoa, cơ quan trao đổi y học dư thừa tài chánh đài thọ tất cả phí tổn cho tôi. Thế nhưng sứ quán Pháp vẫn giúp đỡ tôi tận t́nh. Nào cung cấp xe, cung cấp tài xế, gửi thư giới thiệu.v.v. Kể ra làm công việc nghiên cứu của Pháp cũng sướng thực. Xin vạn vạn lần cảm ơn tinh thần yêu văn hóa của nước Pháp.

Tại Hùng-xuyên, cũng như Thuận-xuyên, các chi họ Lư tiếp đón tôi rất niềm nở. Buồn là các cuộc đàm thoại bị giới hạn khá nhiều, tôi phải dùng tiếng Quan-thoại nói với Chiếu Minh và Diệp Oanh. Hai vị này dịch sang tiếng Đại-hàn. Các chi họ Lư xin phép chính quyền, rồi tổ chức những buổi hội, để nghe tôi nói chuyện về thời đại Tiêu-sơn. Khi nghe kể đến đoạn công chúa Bảo Ḥa tu tiên, cho đến tuổi 90 vẫn trẻ như hồi 17 tuổi, cử toạ suưt xoa sung sướng. Lại khi nghe tôi thuật giai thoại vua Lư Thánh-tông, đang đêm trốn khỏi hoàng cung, gặp cô thôn nữ Yến Loan, rồi sau đưa về cung phong làm Ỷ Lan phu nhân; cử tọa vỗ tay hết tràng này đến tràng khác. Khi nghe tôi kể đến các công chúa B́nh Dương, Kim Thành, Trường Ninh trấn ngự biên cương khiến các quan Tống ở Nam-biên nghe đến tên đều kinh hồn vỡ mật. Các cô ngửa mặt lên nh́n trần nhà cười đầy vẻ hănh diện. Lúc mà tôi thuật đến đoạn Quách Quỳ, Triệu Tiết đem đại quân phá vỡ pḥng tuyến Như-nguyệt, tiến đến rừng tre, cách Thăng-long có 25 cây số... Trong pḥng có đến hơn 700 người, mà không một tiếng động. Rồi tôi kể tiếp: Công chúa Thiên Ninh đánh bật quân Tống trở về Như-nguyệt, th́ pḥng hội hoan hô đến muốn rung động thành phố. Tôi thuật tiếp đến đoạn công chúa tuẫn quốc, th́ cả pḥng hội đều khóc nức nở. Những người khóc nhiều nhất lại là những thiếu niên.

Hầu hết những chi họ Lư đều đem gia phả ra hỏi tôi những chi tiết mà họ không hiểu. Tất cả gia phả đều viết bằng chữ Nho. Như gia phả của chi Thuận-xuyên, có đôi câu đối:

Thập-bát anh hùng giai Phù-đổng, Tam thiên nữ kiệt tỷ Mê-linh.

(Mười tám anh hùng đều như Phù-đổng thiên vương. Ba ngh́n nữ kiệt đều có thể sánh với Trưng-vương).

Tôi phải moi trí nhớ, để đọc cho họ chép lại tiểu sử 18 danh tướng vào thời vua Lư Nhân-tông, kháng Tống tuẫn quốc. Tôi lại phải thuật cho họ nghe về công chúa Thiên Ninh (Bà chúa kho) có 3 ngh́n nữ binh. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết mang quân sang Đại-Việt, phá vỡ pḥng tuyến Như-nguyệt tiến về Thăng-long. Quân Tống nhập vào pḥng đai pḥng thủ chỉ cách Thăng-long có 25 cây số, bị công chúa đánh bật trở về Bắc sông Như-nguyệt. Sau đó công chúa cùng 3 ngh́n nữ kiệt đều tuẫn quốc.

Hầu hết các chi, khi nghe tôi nói rằng: Triều Trần kế tục triều Lư. Nhưng các vua triều Trần đều dành ra một số ruộng đất lớn, cho tá điền cầy cấy, thu tô để làm phương tiện hương khói, thờ cúng, tu bổ lăng tẩm 9 đời vua triều Lư... đều hài ḷng. Các triều đại kế tiếp như Lê, Nguyễn vẫn giữ nguyên truyền thống này. Măi đến năm 1956, trong cuộc cải cách ruộng đất, những ruộng đất này mới bị tịch thu. Tuy nhiên đây là những di tích lịch sử, nên kể từ năm 1962, bộ Văn-hóa miền Bắc Việt-Nam đă ban nghị định công nhận là di tích văn hóa, lịch sử, và bảo quản rất kỹ.

Bác-sĩ Diệp Oanh dẫn tôi thăm những vùng đất linh của gịng họ Lư. Thực là kỳ điệu, dưới chế độ Cộng-sản cực đoan, chủ trương hủy diệt tất cả những ǵ là văn minh của tổ tiên, để chỉ c̣n biết đến Mác, Lê, biết đến cha già dân tộc Kim Nhật Thành. Thế nhưng gịng họ Lư vẫn giữ ǵn được những di tích của tổ tiên. Nào cửa biển Phú-lương giang nơi hạm đội của Kiến-b́nh vương cập bến Cao-ly, nào Ung-tân, nơi đầu tiên họ Lư làm nhà ở, nào ngọn đồi Julhang thuộc xă Đỗ-môn (Tô-mơ-ki) nơi có lăng của Kiến B́nh vương Lư Long Tường. Tôi cũng được lên Quảng-đại sơn thăm Vọng-quốc đài, là nơi vương lên nh́n về quê hương.

Sau đó, năm 1983, tôi lên đường đi Nam-hàn để t́m hiểu thêm về gịng họ Lư. Tiếc rằng khi Lư Long Tường tới Hàn-quốc táp vào miền Bắc, v́ vậy dường như tại Nam-hàn không có một chút di tích nào của ông. Gịng họ Lư sống tại Nam-hàn rất ít, tổng số chưa quá ngh́n người. Họ cũng giống như người Bắc hồi 1954 di cư vào Nam, mang theo rất ít di vật, gia phả về tổ tiên ḿnh. Không nhà nào mang được gia phả cổ. Gia phả mà họ cho tôi xem, hầu hết là mới chép gần đây. Nội dung lại quá nhiều sai lạc. Như chép về việc ra đi của Kiến B́nh vương, gia phả nói rằng họ Lư bị Trần Thủ Độ cướp ngôi, Lư Long Tường cầm quân chống lại, bị thua. Về Lư Chiêu Hoàng, họ chép là hoàng hậu của vua Lư Huệ-tông! (3)

Họ Lư, hậu duệ Kiến Hải vương, hay họ Lư Tinh-thiện

Thế nhưng, tại Nam-hàn tôi gặp ông Lư Gia Trung. Ông cho biết, tổ tiên ông là người Việt, nhưng không thuộc gịng dơi Kiến B́nh vương. Tổ tiên ông là Kiến Hải vương Lư Dương Côn, đă đến Cao-ly hồi đầu thế kỷ thứ mười một.

Quư độc giả có biết tâm trạng tôi bấy giờ ra sao không ? Kinh ngạc, bàng hoàng, đờ đẫn cả người ra. V́ trong khi nghiên cứu về triều Lư, tôi biết một huyền sử vắn tắt như sau :

"Vua Lư Nhân-tông không có hoàng nam, người nhận con của các thân vương trong hoàng tộc làm con nuôi. Năm Đinh Dậu (1117) nhận con của hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng làm con nuôi. Sau truyền ngôi cho con của Sùng Hiền hầu là Lư Dương Hoán, tức vua Lư Thần-tông. Khi Lư Thần-tông băng, Thái-tử Thiên-tộ c̣n bế ngửa, triều thần muốn tôn con của Thành Quảng hầu là Lư Dương Côn lên nối ngôi. Cuộc tranh quyền trong gịng họ Lư diễn ra, sau vợ của vua Lư Thần-tông nhờ có t́nh nhân là Đỗ Anh Vũ giúp đỡ, mà loại hết các địch thủ. Năm Canh Ngọ (1150) nhân vụ chính biến, Cảm Thánh thái hậu mưu với t́nh nhân Đỗ Anh Vũ giết hết tông tộc của các hầu Thành Khánh, Thành Chiêu, Thành Hưng. Bấy giờ con Thành Quảng hầu là Kiến Hải vương Lư Dương Côn đang là đô đốc Thủy-quân, bèn đem gia thuộc xuống chiến thuyền lưu vong. Song không biết đi đâu (1150)".

Bây giờ, sau 831 năm, tôi gặp lại hậu duệ của Kiến Hải vương. Tâm tư rúng động ! Hỡi ơi ! Tại Hàn-quốc có tới hai gịng họ Lư, gốc là thuyền nhân Đại-Việt. Tôi ghi chú tất cả những ǵ mà gịng họ Lư của Kiến Hải vương cung cấp để khi viết về thời đại Tiêu-sơn c̣n có thêm tài liệu.

Cuối năm 1996, một nhà nghiên cứu tộc phả nổi tiếng của Nam-hàn là giáo sư Phiến Hoằng Cơ (Pyon Hong Ke) công bố kết quả cuộc nghiên cứu của ông rằng ông đă phát hiện một gịng họ Lư thứ nh́, tại Đại-hàn, được gọi là Lư Tinh-thiện. Gịng họ này, chính là gịng họ Lư, con cháu Kiến Hải vương mà tôi đă có cơ duyên gặp hậu duệ là ông Lư Gia Trung.

Giáo sư Phiến Hoằng Cơ cho biết, căn cứ vào gia phả của gịng họ này mang tên Tinh-thiện Lư thị tộc phả, được lưu trữ tại thư viện Quốc-gia Hán-thành, th́ ông tổ của gịng họ Lư Tinh-thiện là Lư Dương Côn (Lee Yang Kon) tới Đại-hàn vào đầu thế kỷ thứ 12:

"Lư Dương Côn hiệu là Nguyên Minh, hoàng tử thứ ba con vua Càn Đức, được Tống triều phong tước Nam-b́nh vương".

Tra trong sử Việt, th́ vua Càn Đức chính là tên của vua Lư Nhân-tông. Vua Lư Nhân-tông là con của vua Lư Thánh-tông với Ỷ-Lan phu nhân, sau được tôn là Linh-Nhân hoàng thái hậu. Người chỉ đạo cuộc đánh Tống, kháng Tống lừng danh lịch sự Việt-Nam. Theo ĐVSKTT, Lư kỷ, Nhân-tông kỷ th́: "Niên hiệu Hội-tường Đại-khánh thứ 8 (DL.1117, Đinh Dậu)...

...T́m con trai trong tôn thất để nuôi trong cung. Xuống chiếu rằng: "Trẫm cai trị muôn dân mà lâu không có hoàng nam, ngôi báu của thiên hạ biết truyền cho ai? Nên trẫm nuôi con của các hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng, chọn người giỏi lập làm thái tử. Bấy giờ con Sùng Hiền hầu là Dương Hoán, lanh lợi, vua rất yêu, bèn lập làm Thái-tử".

Vậy th́ Lư Dương Côn là con nuôi của vua Lư Nhân-tông, chứ không phải con đẻ. Con nuôi thứ ba, th́ là con của Thành Quảng hầu tên Lư Dương Côn, tước phong Kiến Hải vương.

Giáo-sư Phiến Hoằng Cơ dựa theo Tinh-thiện Lư thị tộc phả và bộ Cao-ly sử, ông công bố: Hậu đuệ đời thứ sáu của Lư Dương Côn là Lư Nghĩa Mẫn (Lee Unimin) trở thành nhân vật kiệt hiệt trong lịch sử. Bấy giờ Cao-ly đang ở dưới triều đại vua Nghị-tông (Ui-jiong 1146-1170). Nhà vua rất sủng ái Lư Nghĩa Mẫn, phong cho chức Biệt-trưởng. Nước Cao-ly trong thời gian này, phải chống trả với cuộc xâm lăng của Khiết-đan tức Đại-liêu, nên các vơ tướng nắm hầu hết quyền hành. Năm 1170 tướng Trịnh Trọng Phu (Jeong Jung-bu) chưởng môn một vơ phái, đảo chính vua Nghị-tông lập vua Minh-tông (Mycong 1170-1179). Trọng Phu bị các vơ phái, vơ tướng nổi lên chống đối. Lư Nghĩa Mẫn là người phụ tá đắc lực cho Trịnh Trọng Phu, đem quân dẹp các cuộc nổi dậy. Ông được thăng chức Trung-lang tướng, Tướng-quân, Đại-tướng quân (1173), Thượng-tướng quân (1174), cuối cùng là Tây Bắc bộ binh mă sứ (1178). Năm 1179, một vơ quan khác là Khánh Đại Thăng (Kyung Dae-Seung) làm cuộc chính biến, giết chết Trịnh Trọng Phu, lên nắm quyền. Bấy giờ Lư Nghĩa Mẫn giữ chức H́nh-bộ thượng thư (1181). V́ ông thuộc phe Trịnh Trọng Phu, nên bị nghi ngờ, chèn ép. Ông cáo quan về hưu.

Sau khi Khánh Đại Thăng chết, vua Minh-tông mời Lư Nghĩa Mẫn vào bệ kiến, được trao chức Tư-không, Tả-bộc xạ, Đồng-trung thư môn hạ b́nh chương sự tức Tể-tướng trong 14 năm (1183-1196). Năm 1196, một phe vơ tướng do Thôi Chung Hiếu (Cho Chung Heon) cầm đầu làm cuộc đảo chính, giết Lư Nghĩa Mẫn. Ba con ông là Lư Chính Thuần, Lư Chí Vinh, Lư Chí Quang đều là tướng cầm quân, cũng bị giết chết. Quân phiến loạn chỉ tha cho người con gái ông là Lư Hiền Bật. Gịng họ Lư Tinh-thiện tưởng đâu tuyệt tự. Nhưng may mắn thay, gịng họ này c̣n kế tục là nhờ người anh Lư Nghĩa Mẫn và các con không bị hại.

Phối hợp chính sử với gia phả, giáo sư Phiến Hoằng Cơ kết luận rằng: Gịng họ Lư tại Tinh-thiện thuộc đạo Giang-nguyên, phía Đông Nam Đại-hàn ngày nay là con của hoàng tử Lư Dương Côn thuộc triều Lư, Việt-Nam (1010-1225). Lư Dương Côn bỏ quê hương ra đi v́ sự đe dọa của nước Kim đối với Tống, năm 1115. Tới năm 1127 th́ Bắc Tống bị diệt.

Qua cuộc nghiên cứu của Phiến Hoằng Cơ, tôi thấy có đôi chút nghi vấn:

Một là, vua Lư Nhân-tông nhận con nuôi năm 1117. Vua Thần-tông sinh năm 1116, vậy th́ Lư Dương Côn chỉ có thể sinh năm 1116 hay 1117 mà thôi. Năm Lư Dương Côn rời Đại-Việt ra đi là năm 1150. Bấy giờ ông mới 32-33 tuổi. Thế nhưng gia phả Lư Tinh-thiện nói rằng năm 1170 Lư Nghĩa Mẫn, hậu duệ đời thứ sáu của Lư Dương Côn, được vua Nghị-tông phong cho chức Biệt-trưởng. Đây là điều vô lư. Bởi năm đó chính Lư Dương Côn có c̣n tại thế th́ ông mới có 54 tuổi, làm sao ông đă có cháu 6 đời? Tôi th́ tôi cho rằng Lư Nghĩa Mẫn là con Lư Dương Côn. C̣n hậu duệ đời thứ sáu là kể từ vua Lư Thái-tổ:

1. Lư Thái-tổ. 2. Lư Thái-tông. 3. Lư Thánh-tông. 4. Lư Nhân-tông. 5. Kiến Hải vương Lư Dương Côn. 6. Lư Nghĩa Mẫn.

Hai là, trong gia phả Lư Tinh-thiện nói rằng, Lư Dương Côn rời quê hương ra đi v́ quốc nạn. Giáo-sư Phiến Hoằng Cơ cho rằng v́ sự đe dọa của Kim. Có lẽ khi giải đoán việc ra đi của Lư Dương Côn, ông đă bị ảnh hưởng bởi sử Cao-ly. V́ hồi ấy, nước Kim đang từ một bộ lạc Nữ-chân, nổi lên diệt nước Liêu, rồi đem quân đánh Tống. Sau đó, họ bắt vua Tống mang về Bắc. Nhưng con cháu nhà Tống lại tái lập triều Nam-Tống. Khoảng cách Kim với Đại-Việt c̣n một nước Tống quá rộng, quá xa. Dù Kim hùng mạnh cũng không ảnh hưởng ǵ tơí Đại-Việt khiến Lư Dương Côn phải bỏ nước trốn đi. Nhất là giai đoạn 1161 đến 1174, bấy giờ binh lực Đại-Việt đang mạnh, muốn hướng lên Bắc tái chiếm lại Quảng Đông, Quảng Tây! (xin đọc Anh-hùng Đông-A dựng cờ B́nh-Mông hồi 4 và hồi 16-17-18).

Lần lại trang sử Đại-Việt thời đó: Vua Thần-tông được vua Nhân-tông đem vào cung nuôi cùng 4 người anh em họ. Nhưng ngài được lập làm Thái-tử, rồi lên ngôi vua. Theo Hội-điển sự lệ triều Lư th́ những chức như: Thái-úy, Tổng-lĩnh Thiên-tử binh, Đại Đô-đốc Thủy quân, luôn trao cho các hoàng đệ. V́ vậy trong 5 con nuôi của vua Lư Nhân-tông, th́ Thái-tử Dương Hoán đươc truyền ngôi, c̣n 4 con nuôi khác, là con của các hầu Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng ắt được phong vào các chức trên. Con của Thành Quảng hầu là Lư Dương Côn được phong tước Kiến Hải vương, lĩnh chức Đại Đô-đốc Thủy-quân. Khi vua Thần-tông băng (1138), Thái-tử Thiên-tộ mới có 2 tuổi, triều thần muốn tôn hoàng đệ Lư Dương Côn lên ngôi vua, v́ ông là người thông minh, tài trí, đang là Đại Đô-đốc, ở tuổi 22. Nhưng rồi mẹ của Thái-tử Thiên-tộ là Cảm Thánh hoàng hậu đă dùng vàng bạc đút lót cho các quan, bà lại được t́nh nhân Đỗ Anh Vũ là em của Chiêu Hiếu thái hậu, (mẹ vua Thần-tông) hết sức ủng hộ. Thiên-tộ lên ngôi vua, sau là vua Anh-tông.

Dĩ nhiên vua Anh-tông lên ngôi, khi c̣n bế ngửa, th́ mẹ là Cảm Thánh thái hậu thính chính, nói khác đi là làm vua. Bà phải diệt hết những mầm mống có thể nguy hiểm cho con bà. Bà cùng Đỗ Anh Vũ vu cáo, giết hết các em nuôi của vua Thần-tông là con của các hầu em vua Nhân-tông. Toàn gia các hầu, từ thê thiếp, con, cháu, thân binh, nô bộc đều bị giết sạch. Riêng Lư Dương Côn đóng quân ở Đồn-sơn, được mật báo. Ông đem hết gia thuộc, xuống chiến thuyền, bỏ quê hương ra đi, rồi táp vào Cao-ly.

Dù Lư Nghĩa Mẫn là cháu 6 đời của Kiến Hải vương Lư Dương Côn hay là cháu 6 đời vua Lư Thái-tổ, th́ ta vẫn kết luận rằng : Năm 1150, Kiến Hải vương Lư Dương Côn, lĩnh chức Đại Đô-đốc đă cùng tông tộc dùng thuyền tỵ nạn tại Cao-ly. Đời sau có nhân vật kiệt hiệt là Lư Nghĩa Mẫn, đóng một vai tṛ trọng yếu trong lịch sử Cao-ly. Gịng họ Lư này, nay vẫn c̣n truyền tử lưu tôn tại Đại-hàn.

Gịng thứ nh́, hậu duệ của Kiến-b́nh vương Lư Long Tường, c̣n gọi là Lư Hoa-sơn

Gịng họ Lư thứ nh́ tới Đại-hàn sau gịng họ Lư Tinh-thiện 76 năm, là hậu duệ của Kiến B́nh vương Lư Long Tường, con thứ 7 của vua Lư Anh-tông. Mà tôi đă tŕnh bầy ở trên.

Theo Trần-tộc vạn thế ngọc phả, của chi bốn, thuộc gịng dơi Chiêu-quốc vương Trần Ích Tắc, để tại nhà từ ở thị xă Lănh-thủy, huyện Chiêu-dương, tỉnh Hồ Nam, Trung-quốc ; phần chép về Ninh-tổ hoàng đế Trần Lư. Có đoạn nói về các con vua Lư Anh-tông, nguyên văn như sau :

Vua có bẩy hoàng tử.

Hoàng trưởng tử Long Xưởng do Chiêu Linh hoàng hậu sinh vào niên hiệu Đại Định thứ 12 (DL.1151, Tân-Mùi). Được phong tước Hiển Trung vương, lập làm Thái-tử. Niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo nguyên nhiên (DL.1174, Giáp-Ngọ) bị giáng xuống làm con út, tước Bảo Quốc vương. Niên hiệu Trinh Phù thứ sáu (DL.1181, Tân-Sửu) làm phản, bị hạ ngục, rồi bị Đỗ An Di giết cả nhà, thọ 31 tuổi. Hoàng-tử thứ nh́ Long Minh do Thần-phi Bùi Chiêu Dương sinh vào niên hiệu Đại Định thứ 11 (DL. 1152, Nhâm-Thân). Tước phong Kiểm-hiệu Thái-sư, Thượng-trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Trung-vũ quân tiết độ sứ, lĩnh đại đô-đốc, Kiến Ninh vương. Bị giết niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo thứ nh́ (DL.1175.). Thọ 24 tuổi.

Hoàng-tử thứ ba Long Đức, cũng do Bùi Thần-phi sinh niên hiệu Đại Định thứ 12 (DL.1153, Quư-Dậu) ra. Chức tước phong như sau : Dao-thụ Thái-bảo, Khu-mật viện sứ, Thượng-thư tả bộc xạ, Phụ-quốc thượng tướng quân, Long-thành tiết độ sứ, Kiến An vương. Bị giết niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo thứ nh́ (1175), thọ 23 tuổi.

Hoàng-tử thứ tư Long Ḥa do Quư-phi Hoàng Ngân Hoa sinh niên hiệu Đại Định thứ 11 (DL.1152, Nhâm-Thân). Chức tước phong như sau : Đặc tiến Thiếu-sư, Khu-mật viện sứ, Thượng-thư tả thừa, Trấn Nam tiết độ sứ, Thượng-thư lệnh, Tả kim ngô thượng tướng, Tổng-lĩnh Thiên-tử binh, Kiến Tĩnh vương. Bị giết niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo thứ nh́ (1175) thọ 24 tuổi.

Hoàng-tử thứ năm Long Ích, do Đức-phi Đỗ Kim Hằng sinh niên hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ 5 (DL.1167, Đinh-Hợi). Chức tước phong như sau : Dao-thụ Thái-phó, trấn Nam tiết độ sứ, Thượng-thư tả thừa, Kiến Khang vương. Hoăng niên hiệu Kiến-gia thứ 2 (DL.1212 Nhâm-Thân), thọ 46 tuổi.

Hoàng-tử thứ sáu Long Trát, do Thục-phi Đỗ Thụy Châu sinh niên hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ 11 (DL.1172, Nhâm-Th́n), tháng 5, ngày 25, niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo nguyên niên được lập làm Thái-tử. Năm thứ nh́ được truyền ngôi. Băng niên hiệu Trị-b́nh Long-ứng thứ 6 (DL.1210, Canh-Ngọ), ngày 28 tháng 10, thọ 38 tuổi.

Hoàng-tử thứ bảy Long Tường do Hiền-phi Lê Mỹ Nga, sinh vào niên hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ 12 (DL.1174, Giáp-Ngọ). Đức Thái-tông nhà ta (tức Trần Cảnh) phong chức tước phong như sau : Thái-sư Thương-trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Thượng-thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô đốc, tước Kiến B́nh vương. Niên hiệu Kiến-trung thứ nh́ đời đức Thái-tông nhà ta (tức Trần Cảnh), tháng tám, ngày rằm, vương cùng gia thuộc hơn 6 ngàn người bôn xuất.

So sánh giữa Tộc phả Hoa-sơn và Trần tộc vạn thế ngọc phả, có một chi tiết khác nhau. Tộc phả Kiến B́nh th́ chép Kiến B́nh vương là con thứ sáu vua Anh-tông. Trong khi Trần tộc vạn thế ngọc phả lại chép vương là con thứ bẩy. V́ sao ? Phả Trần tộc chép theo huyết tộc, ai sinh trước là anh, ai sinh sau là em. V́ vậy Kiến B́nh vương là con thứ 7. Phả Kiến B́nh th́ chép thứ tự theo chỉ dụ của vua Lư Anh tông, Long Xưởng bị giang xuống làm con út, th́ Long Tường trở thành con thứ sáu.

Hồi đó Lư Long Tường dẫn tông tộc rời Đại-Việt ra đi. Trần triều không biết đi đâu. Nay chúng ta mới được biết vương với hạm đội bị băo phải ẩn ở Đài-loan. Nghỉ ít lâu, hạm đội của vương lại tiếp tục lên đường rồi dạt vào Cao-ly. Duy một người con của vương tên Lư Long Hiền cùng gia thuộc hơn hai trăm người ở lại Đài-loan. Vương là khai tổ của gịng họ Lư tại Đại-hàn, thế tử Long Hiền là khai tổ của gịng họ Lư tại Đài-loan hiện nay ? Sự kiện này tôi sẽ t́m hiểu sau.

Tôi đă bỏ công sang Bắc cũng như Nam-hàn, t́m các chi, hậu duệ của Kiến B́nh vương Lư Long Tường, khảo gia phả của họ. Phần chi tiết tuy có sự khác biệt, nhưng đại lược vẫn giống nhau. Tổng-thống Lư Thừa Văn của Đại-hàn là hậu duệ đời thứ 25 của Kiến B́nh vương Long Tường. C̣n tổng thống Lư Đăng Huy của Đài-loan có phải là hậu duệ của thế tử Lư Long Hiền hay không, th́ tôi không dám quyết, bởi Lư là gịng họ chiếm đa số ở Trung-quốc.

Cả ba bộ sử ĐVSKTT, VSL, KĐVSTGCM cùng chép rất mơ hồ về việc vua Anh-tông phế Long Xưởng lập Long Trát. Nhà vua có tới bẩy hoàng tử. Nếu sự thực Long Xưởng phạm tội, phế xuống, sao không lập các con đă trưởng thành, tài trí xuất chúng, đang cầm đại quyền như Kiến Ninh, Kiến An, Kiến Tĩnh vương? Hoặc cùng quá, th́ lập Kiến Khang vương Long Ích, năm ấy đă chín tuổi? Mà phải lập Long Trát mới có 26 tháng làm Thái-tử, rồi phải cử Tô Hiến Thành làm phụ chính? Cái khúc mắc này tôi đă giải thích rất chi tiết, rất rơ ở hồi 21-23 bộ Anh-hùng Đông-a dựng cờ b́nh Mông. Trong bài ngắn này không thể giải thích hết.

Dưới đây là phần tôi thuật theo Tộc-phả Lư Hoa-sơn:

Niên hiệu Kiến-trung thứ nh́ đời vua Thái-tông nhà Trần (DL.1226, Bính Tuất), lo sợ bị Thái-sư Trần Thủ Độ hăm hại, v́ vị thế trọng yếu của ḿnh:

- Là con vua Anh-tông, em vua Cao-tông, chú vua Huệ-tông. - Thân vương duy nhất nắm quyền hành. - Chức tước cực phẩm Thái-sư Thương-trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Thượng-thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô đốc.

Vương âm thầm cùng B́nh Hải công Lư Quang Bật từ căn cứ Đồn-sơn về Kinh Bắc, lạy ở lăng miếu Đ́nh-bảng. Lại đến Thái-miếu mang bài vị, các tế khí ra trấn Đồn-sơn, rồi đem hết tông tộc hơn 6 ngh́n người, xuống hạm đội ra đi.

Việc Kiến B́nh vương ra đi, có lẽ bắt nguồn từ việc ra đi của Kiến Hải vương trước kia chăng? Sau hơn tháng lênh đênh trên biển, th́ gặp băo. Hạm đội phải ngừng lại một đảo (Đài-loan?) rồi tiếp tục lên đường. Một trong các con của vương là Thế-tử Lư Đăng Hiền cùng vợ con ở lại đảo. Hạm đội lênh đênh trên biển một thời gian, th́ táp vào cửa Phú-lương giang, quận Khang-linh (Ong Jin-Gun) tỉnh Hoàng-hải (Hwang-hac) thuộc Bắc Cao-ly. Nơi hạm đội táp vào, dân chúng gọi là Nak-nac-wac có nghĩa là Bến của khách phương xa có đồ thờ cúng.

Kỳ diệu thay, đêm hôm trước, vua Cao-tông (Kojong) mơ thấy một con chim cực lớn bay từ phương Nam lại đậu ở bờ Tây-hải. Tỉnh lại, vua sai người tới đó t́m kiếm, th́ gặp hạm đội của Kiến-b́nh vương. Kiến-b́nh vương được bệ kiến. Vương dùng bút đàm với vua Cao-tông và các đại thần Cao-ly. Triều đ́nh Cao-tông đối xử với vương rất tốt, chu cấp lương thực. Cho làm nhà ở Ung-tân phủ Nam-trấn sơn (Chin-sang).

Lư Long Tường cùng tướng sĩ, gia thuộc bắt đầu cuộc sống mới. Trồng trọt, đánh cá, chăn nuôi làm kế sinh nhai. Ông mở trường dạy học: Thi phú, lễ nhạc, tế tự, binh pháp, vơ thuật. Ông soạn sách Học vấn giảng hậu. V́ học tṛ đông, ông cho xây Độc-thư đường, Giảng vơ đường. Đệ tử của ông lúc nào cũng trên ngh́n người.

Tháng 7 năm Quư-sửu (1253) đời vua Cao-tông thứ 40, quân Mông-cổ xâm lăng Cao-ly, vượt Hỗn-đồng giang, chiếm Tây-hải, phá An-giang Tây-thành. Về mặt thủy, Mông-cổ chiếm các đảo Đại-thanh, Tiểu-thanh, Sáng-lân, rồi tiến chiếm Tây-đô (Giang-hoa). Thủ-đô Cao-ly bị đe dọa. Các tướng sĩ hầu hết bị tử trận.

Thấy t́nh h́nh Cao-ly nguy ngập, Kiến B́nh vương đến gặp Thái-úy (tướng tổng chỉ huy quân đội) là Vi Hiển Khoan, cố vấn cho ông về binh pháp Đại-Việt. Đích thân vương cỡi bạch mă chỉ huy cuộc giữ thành: Đắp thành cao lên, đào hào đặt chông quanh thành. Trong thành đào giếng để có nước uống, tích trữ lương thảo. Ông đem tất cả binh pháp Đại-Việt trong những lần đánh Tống, b́nh Chiêm ra giúp Cao-ly.

Đánh nhau suốt 5 tháng, quân Nguyên bị tuyệt lương thảo, bị chặn đường rút lui, xin hàng (6). Tết năm ấy, toàn Cao-ly mừng chiến thắng. Triều đ́nh khen ngợi Lư Long Tường, lấy tên ngọn núi ở quê hương ông là Hoa-sơn; phong cho ông làm Hoa-sơn tướng quân. Cho đổi tên ngọn núi nơi ông cư ngụ là Hoa-sơn. (4). Nhà vua sai dựng bia ghi công ông trên núi Hoa-sơn, đích thân vua viết ba chữ Thụ hàng môn (Cửa tiếp thụ giặc đầu hàng). Cho đến nay, sau 746 năm, trải biết bao nhiêu mưa nắng, thăng trầm; tấm bia ấy vẫn trơ gan cùng cùng tuế nguyệt, nhắc nhở du khách nhớ huân công của một Việt-kiều trên Hàn-quốc.

Trong dịp thăm Hoa-sơn năm 1981, tôi xin người đại diện tộc Lư cho phép được mượn thợ khắc vào một phiến đá bài thơ cổ phong, đặt cạnh tấm bia trên, gọi là chút ḷng của người sau, tế người trước:

Phúc tại Tiêu-sơn lĩnh, Thất đại bôn Bắc Cao, B́nh Mông danh vạn đại, Tử tôn giai phong hầu. Học phong nhân bất cập. Vọng quốc hồn phiêu phiêu, Kim tải quá bát bách, Hà thời quy cố hương?

(Ngài là người họ Lư, được hưởng phúc tại ngọn núi Tiêu-sơn. Kể từ vua Lư Thái-tổ tới ngài là đời thứ bẩy, phải bôn tẩu đến xứ Bắc Cao-ly. Nhờ chiến công đánh Mông-cổ, mà con cháu ngài đều được phong hầu. Ngoài ra, ngài là người đem học phong tới Cao-ly, công đức ấy không ai sánh kịp. Thế nhưng trải trên 8 trăm năm, hồn ngài lúc nào cũng phiêu phưởng, không biết bao giờ được về cố hương ?).

Ngày nay trên ngọn đồi Julbang thuộc xă Đỗ-môn (Tô-mơ-ki) cách núi Hoa-sơn 10 cây số về phía Tây c̣n lăng mộ ngài và con, cháu cho đến ba đời. Trên Quảng-đại sơn có Vọng-quốc đàn, nơi cuối đời ngài thường lên đó, ngày ngày nh́n về phương Nam, ôm mặt khóc, tưởng nhớ cố quốc. Mỏm đá mà ngài đặt chân đầu tiên lên bờ biển Cao-ly, được gọi là Việt-thanh nham, tức đá xanh in vết tên Việt. Trên Hoa-sơn c̣n rất nhiều di tích kỷ niệm huân nghiệp của vương. Khi đến Hoa-sơn hành hương, thay v́ chào nhau, du khách được hướng dẫn viên du lịch dạy cho nói câu: Hữu khách, Hữu khách, kỵ bạch mă. Nghĩa là Có người khách cỡi ngựa trắng, tức Lư Long Tường.

Cho đến nay, gịng họ Lư Hoa-sơn truyền trải 28 đời. Tại Nam-hàn chỉ có khoảng hơn 200 hộ, với trên dưới 600 người. Tại Bắc-hàn th́ đông lắm, không thống kê được. Lư tộc tại Nam-hàn, hầu hết họ là những gia đ́nh có địa vị trọng yếu về giáo dục, kinh tế, kỹ nghệ. Kỳ ứng cử vừa qua, một ứng viên Tổng thống họ Lư suưt trúng cử.

Theo tấm bia trên mang tên Thụ-hàng môn bi kư, th́ Kiến B́nh vương Long Tường có nhiều con trai, tất cả đều hiển đạt. Không thấy nói tơí Lư Long Hiền, cùng tông tộc hơn 200 người ở lại Đài-loan. Lư Cán Đại lĩnh Đề-học nghệ văn quán, Kim-tử quang lộc đại phu. Lư Huyền Lương, Tham-nghị lễ tào, Chính-nghị đại phu. Lư Long Tiền Giám- tu quốc sử.

Ngày nay, tại Bắc-hàn, cứ đến dịp tết Nguyên-đán, hậu duệ của Kiến B́nh vương Lư Long Tường khắp lănh thổ Đại-hàn đều kéo về Hoa-sơn để dự lễ tế tổ. Khởi đầu của cuộc tế, đánh chín tiếng trống, gọi là Tâm-thanh để mọi người cùng tưởng nhớ cố quốc. Theo gia phả của chi Thuận-xuyên, sở dĩ đánh chín tiếng, v́ muốn ghi lại triều Lư trải 9 đời vua, kể cả Lư Chiêu-hoàng. (4)

Năm 1995, con cháu của Kiến B́nh vương Lư Long Tường, quy tụ hơn trăm người trở về Đ́nh-bảng, huyện Tiên-sơn, tỉnh Bắc-ninh dự lễ hội làng vào ngày rằm tháng ba Âm-lịch. Tại thiên chi linh, hẳn 9 đời vua triều Tiêu-sơn, cũng như Kiến B́nh vương Lư Long Tường đă thỏa nguyện: Những đứa cháu lưu lạc, nay trở về chầu tổ.

Lời quê gửi tới người Việt hải ngoại

Hiện nay gần ba triệu người Việt lưu lạc khắp mọi góc biển, mọi chân trời. Có nơi sống tập trung như Hoa-kỳ, Thái-lan, Cao-miên, Ai-lao, Canada, Úc, Pháp, Nga-sô. Có nơi sống rải rác cô độc như Do-thái, Irak, Gabon... Nh́n vào tấm gương của hai gịng họ Lư tại Đại-hàn. Dù con cháu quư vị không c̣n nói được tiếng Việt. Dù con cháu quư vị đă kết hôn với người địa phương. Nhưng quư vị phải luôn nhắc nhở cho chúng biết rằng: Chúng là người Việt, lấy chủ đạo là con Rồng cháu Tiên. Xin qúy vị khẩn chép lại:

1. Nguồn gốc gịng họ ḿnh từ làng nào, xă nào, tỉnh nào. Hoặc liên lạc với họ hàng trong nước để xin bản sao gia phả. 2. Tiểu sử những tiền nhân. Nếu không nhớ được hành trạng của các tổ xa đời, th́ ít ra cũng chép được từ đời ông, đời cha. 3. Rời Việt-Nam ra đi v́ lư do ǵ? Bắt đầu đến đâu? Lập nghiệp ra sao? 4. Mỗi năm vào dịp tết, quư vị sai đọc cho tất cả con cháu đều nghe. 5. Hằng năm, nếu có thể, khuyên con cháu, nên trở về quê hương, viếng thăm đất tổ, thăm mồ mả tiền nhân. Khi về già, các vị sai chép ra thành nhiều bản, cho mỗi con một bản.

Vài lời thô thiển. Biết rằng các vị cho là thường. Thưa quư vị, bây giờ là thường, nhưng sau đây trăm năm, ngh́n năm, sự ghi chép của quư vị sẽ trở thành quư báu vô cùng. Mong lắm thay! Cầu xin như vậy đấy.

Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ

----------------------------------------

(Những tài liệu tôi dùng để viết bài này rất phong phú, rất nhiều. Xin xem phần Những nguồn tài liệu, trong bộ Anh-hùng Đông-a dựng cờ b́nh Mông, quyển 1 ) (1) Trong chuyến đi này, Tổng-thống Ngô Đ́nh Diệm cho một sĩ quan tháp tùng, mà người ưu ái v́ ḷng yêu nước, tin tưởng v́ ḷng trung thành là Dương Văn Minh. Nhưng cũng tương đương với ngày tháng này, sáu năm sau, Dương Văn Minh tuân lệnh Hoa-kỳ, giết chúa. (2) Chế độ Cộng-sản cực đoan của Bắc-cao là một chế độ suy tôn lănh tụ vào bậc nhất thế giới, bậc nhất trong lịch sử nhân loại. Khi ăn cơm, sáng dậy, tối đi ngủ đều đọc kinh tạ ơn Kim chủ tịch. (3) Sau đó tôi đă giúp họ hiệu đính lại những chỗ sai lầm trong gia phả của họ. (4) Tôi tra trong địa lư thời Lư, trên lănh thổ Đại Việt không có ngọn núi nào tên Hoa-sơn cả. Có lẽ là núi Tiêu-sơn, nơi phát tích ra triều Lư chăng ? (5) Chín đời vua triều Lư là : 1. Thái-tổ Lư Công Uẩn. 2. Thái-tông Lư Đức Chính. 3. Thánh-tông Lư Nhật Tông 4. Nhân-tông Lư Càn Đức. 5. Thần-tông Lư Dương Hoán . 6. Anh-tông Lư Thiên Tộ. 7. Cao-tông Lư Long Trát. 8. Huệ-tông Lư Long Sảm. 9. Chiêu-hoàng Lư Phật Kim (6) Có một sự trùng hợp. Năm năm sau, tháng 1-1258, Thái-sư Mông-cổ là Ngột-lương Hợp-thai (Uriyang- qadai) đem quân đánh Đại Việt, cũng bị tuyệt đường lương, rồi bỏ chạy. Xin đọc Anh-hùng Đông-a dựng cờ b́nh Mông hồi 50.

__._,_.___