NGƯỜI
ĐỜI VÀ NGƯỜI TU
Thích-Chân-Tuệ
Cơ-sở
Phật-học
Trong bài viết này, "người
đời" là từ ngữ tạm dùng để
chỉ tất cả những người thế gian,
sống trên cơi đời này, dù theo bất cứ tôn giáo
nào, không phân biệt nam, phụ, lăo, ấu, nghề nghiệp,
xuất xứ, học thức, thành phần xă hội.
C̣n "người tu" là từ
ngữ tạm dùng để chỉ tất cả những
người theo đạo Phật, dù đă qui y hay
chưa, gọi là Phật Tử, tại gia hay xuất gia.
Người tu là những người biết đi chùa,
lễ Phật, tụng kinh, tŕ chú, niệm Phật,
ngồi thiền, bố thí, cúng dường, làm việc
Phật sự, tham dự các khóa tu học ngắn hạn
hay dài hạn, giữ ǵn giới luật, cố gắng tu
tập tinh tiến.
Dù là người đời hay
người tu, hễ đă mang tấm thân tứ
đại, bao gồm đất nước gió lữa, con
người đều có hai thứ bệnh: thân bệnh và tâm bệnh.
Đối với thân bệnh, nhẹ như là: cảm cúm,
nhức đầu, sổ mũi, đau răng, nặng
như là: tim gan tỳ phế thận không hoạt
động đúng chức năng, con người cần
đến khả năng điều trị của các
vị thầy thuốc đông y hay tây y, hoặc cần
đến các bệnh viện, các cơ quan y tế với
các dụng cụ y khoa hiện đại, tân tiến. Nhiều người khi có thân
bệnh, lại đi t́m thầy bùa thầy bói, đi t́m
uống nước sông nước suối kém vệ sinh,
cho là nước thánh trị bá bệnh. Đó là những người mê
tín dị đoan.
Đối với tâm bệnh, con
người có tám muôn bốn ngàn thứ tâm bệnh khác nhau,
thường gọi là phiền năo khổ đau, chẳng
hạn như là: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Thêm nữa, c̣n có nhiều thứ
phiền năo khác như là: phẫn, hận, phú, năo, tật,
xan, cuống, xiểm, hại, kiêu, vô tàm, vô quí, trạo
cữ, hôn trầm, bất tín, giải đăi, phóng dật,
thất niệm, tán loạn, bất chính tri. Trong tam tạng kinh điển
của đạo Phật, chư Phật và chư Tổ
sư có dạy tám muôn bốn ngàn phương thuốc
điều trị các loại tâm bệnh dành cho
người đời cũng như người tu.
Vấn đề đặt ra ở
đây là: người tu đă và đang áp dụng tám muôn
bốn ngàn phương thuốc trong tam tạng kinh
điển, dùng để điều trị các loại
tâm bệnh, có đạt được kết quả ǵ,
hoặc có gặp hậu quả nào trên bước
đường tu tập.
Nếu đạt được
kết quả khả quan, chúng ta sẽ tinh tiến hơn
nữa, cho đến ngày được giác ngộ và
giải thoát. Nếu có trở
ngại nào làm cho đường tu không tiến
được như ư, hoặc gặp những hậu
quả tệ hại, chúng ta cùng nhau t́m phương cách
giải quyết.
* * *
Trước hết, chúng ta thử t́m
hiểu sự khác nhau giữa người đời và
người tu. Người
đời thường có các tâm ích kỷ, bỏn sẻn,
keo kiệt, ganh tị, đố kỵ, thích hơn thua
về mọi phương diện, nhất là phiền năo
v́ lời nói trong sinh hoạt hằng ngày, thích đấu
tranh giành giựt, thích những nơi vui chơi, đông đảo,
ồn ào, náo nhiệt, thích chăm sóc h́nh tướng
bề ngoài cho đẹp, coi trẻ măi chẳng già, không chú
ư đến đời sống tâm linh, thích hưởng
thụ ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy, tức
là: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn
uống, ngủ nghỉ.
C̣n người tu th́ sao? Người tu th́ thường có
các tâm bố thí, cúng dường, làm việc phước
thiện, giúp đỡ người nghèo khó, hoạn
nạn, thích những nơi yên tịnh, vắng vẻ,
thích tụng kinh, niệm Phật, tọa thiền, hành
thiền, tŕ chú, bái sám, tu tập và hành đạo.
Người tu nào tinh tấn thực
hành, dù theo bất cứ tông phái nào, hành tŕ bất cứ
pháp môn nào, theo đúng chánh pháp, khi đă nếm
được pháp vị, hay pháp hỷ thực, hay
thiền duyệt thực, tức là vị ngọt vi
diệu, hay niềm vui thanh tịnh do sự thực hành
chánh pháp mang lại, người tu đó đều
đạt được những lợi lạc,
chẳng hạn như là: tâm trí ngày càng an ổn hơn,
thanh tịnh hơn, bớt âu lo hơn, bớt phiền năo
hơn, ngày ăn được ngon, tối ngủ
được yên, cuộc sống ngày càng an lạc
hạnh phúc hơn, được mọi người
cảm mến hơn, nh́n đời bằng cặp
mắt từ bi, bằng tâm hỷ xả, nên gương
mặt lúc nào cũng vui vẻ và gần gũi với
mọi người chung quanh, nh́n đời bằng con
mắt trí tuệ, thấu rơ luật nhân quả, lư vô
thường, nên không oán đời trách người khi
gặp nghịch cảnh, khi gặp những điều
bất như ư. Đó là
kết quả tốt đẹp của sự tu hành theo
đúng chánh pháp.
Tuy nhiên, nếu như người tu nào
càng ngày càng thấy ḿnh tốt quá, thiện quá, lành quá, hoàn
toàn quá, c̣n mọi người chung quanh đều xấu
cả, càng ngày càng thấy bực dọc phiền năo, v́
chỉ thấy lỗi người mà không thấy lỗi
ḿnh, thường muốn dạy người khác bài
học này bài học kia, thường muốn trị
tội người này người khác, càng ngày càng thấy
chỉ có pháp môn tu của ḿnh là nhất, th́ người tu
đó nên xét lại đường lối tu hành của
ḿnh, hoặc người đó chỉ tu tướng, không
tu tâm, chấp chặt h́nh thức nghi lễ, chú trọng
nhiều về phần vật chất bên ngoài, tức là
thiên về phần sự, không có phần giáo lư, không
biết pháp môn để tu tâm dưỡng tánh.
Chẳng hạn như là: có người
rất thích tụng kinh, phát nguyện tụng hết
bộ kinh này đến bộ kinh khác, mỗi chữ
mỗi lạy, nhưng không hiểu và nhứt là không áp
dụng những lời dạy của đức Phật
trong các bộ kinh đó vào đời sống hằng
ngày. Cho nên người tu này
chỉ được lợi lạc rất ít oi, tâm
chỉ được an trụ trong những thời khóa
tụng kinh mà thôi.
Ngoài ra, khi người tu này tiếp xúc
với cảnh trần th́ phiền năo khổ đau không
kém người đời, nhiều khi c̣n phiền năo
khổ đau hơn người đời nữa. Tại sao vậy? Bởi v́ người tu này sẽ
bực dọc nếu trong đạo tràng tụng kinh, có
người không thuộc, nên đọc vấp váp, không
rành nghi lễ, gây trở ngại cho đạo tràng, dễ
làm cho người tu nổi sân. Hoặc khi người tu
này nghe những lời trái tai, thấy những điều
gai mắt, không dằn nổi tâm sân, gây nên bao nhiêu phiền
năo tiếp theo sau đó.
Chẳng hạn như là: có người
rất thích niệm Phật, thường xuyên niệm
Phật thành tiếng, luyện được giọng
niệm Phật nghe rất hay, nhưng trong cuộc
sống, người tu này vẫn c̣n đủ tâm tham sân si
của người đời, giờ đây lại có thêm
tâm tham sân si trong đạo, tâm van xin khẩn cầu
khấn vái thần linh, thường nh́n người khác
như những chúng sanh có nhiều tật xấu khó ưa,
cho nên hay tranh căi, bắt bẻ, lư sự, tâm thường
xuyên loạn động, không nhẫn nhịn
được, bởi v́ nghĩ rằng: nhịn th́
nhục, cự th́ đục, mặt mũi lúc nào cũng
hầm hầm như sắp sửa đánh nhau vậy.
Chẳng hạn như là: có người
tu rất thường đi chùa, lễ Phật, tụng
kinh, bái sám, hiểu biết rất rành các nghi thức
lễ lạy, rất thuộc các bài kinh, bài kệ, bài
sám. Bởi vậy cho nên, khi
người tu này thấy các người mới
đến chùa không có áo tràng, hoặc mặc không đúng
cách, đọc kinh kệ không trôi chảy, bèn khởi tâm
bực bội, cau có, gắt gỏng, khinh chê, dè bĩu, mà
không nhớ lời cổ nhân có dạy: "Người đi
trước nên rước người đi sau". Những người tu này
chẳng những không muốn rước ai, c̣n có tâm
cấu nhiễm muốn chà đạp những
người đi sau cho thỏa tâm tham, tâm sân và tâm si muôn
đời, ngụy biện là thử thách, rèn luyện
người đi sau, lâu dần quên mất hạt giống
từ bi của đạo Phật, thường đ̣i
hỏi mọi người phải tốt, phải hoàn
hảo, c̣n phần ḿnh th́ ngày càng thêm phiền năo, cáu
gắt khiến mọi người không ưa, phải xa
lánh.
Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Pháp
sư, Đức Phật có dạy:
"Nếu
có người ác dùng tâm không lành, ở trong một kiếp,
hiện ở trước Phật, thường chê
mắng Phật, tội đó c̣n nhẹ.
Nếu có
người dùng một lời chê mắng người
tại gia hay xuất gia đọc tụng kinh Pháp Hoa,
tội đây rất nặng".
Tại sao vậy? Bởi v́ chê mắng
Phật chẳng làm cho đức Phật động tâm.
Trái lại, chê mắng người tu sơ phát tâm, dù
tại gia hay xuất gia, có thể làm cho người này
thoái tâm, không tu được nữa, như vậy khác nào
tội ngũ nghịch: giết một vị Phật
tương lai?
Đó là hậu quả hết sức tai
hại của sự tu hành không đúng chánh pháp, không có chánh
pháp. Chư Tổ thường dạy: Tu mà không học, đúng là tu mù, chính là nghĩa
đó vậy.
* * *
Thực ra, trong kinh sách có câu: "Lư sự viên dung". Người tu theo đạo
Phật cần phải học hiểu giáo lư, để áp
dụng vào trong cuộc sống hằng ngày, chứ tam
tạng kinh điển không phải chỉ để
đọc tụng suông mà thôi.
Thường thường, con người dễ
bị phiền năo v́ lời nói của người khác. Một lời nói ra thường
dễ bị hiểu lầm, hiểu một cách sai
lạc, dẫn đến những sự tranh căi vô ích,
đôi khi đưa tới hậu quả không thể
lường trước được. Lời nói
thường không có nghĩa cố định, chúng ta nên
hiểu theo nghĩa tốt để khỏi bị
động tâm, và thường nên "y nghĩa bất y
ngữ", tức là "đạt ư quên lời".
Người có trí tuệ là người
thực hành được như sau:
Lời nói chẳng động tâm ta
Dù lời nói ngọt hay là đắng
cay.
* * *
Giờ đây, chúng ta bàn qua một vài
pháp môn tu tập có thể giúp người tu vượt qua
được những chướng nạn trên đây.
1) Pháp môn
tu tập thứ nhứt, đó là: Lễ Kính
Đây là điều thứ nhất trong
"Thập đại nguyện" của Ngài Bồ Tát
Phổ Hiền. Chúng ta
thường xuyên một ḷng thành tâm kính lễ chư
Phật mười phương, điều này là lẽ
đương nhiên đối với người Phật
Tử. Điều quan
trọng cần lưu ư là chúng ta không những kính lễ
mười phương chư Phật quá khứ, tức
là chư Phật đă thành, mà chúng ta luôn luôn kính lễ
hằng hà sa số chư Phật trong ba thời: quá
khứ, hiện tại và vị lai. Chư Phật hiện tại và
vị lai là những vị nào, ở đâu, làm sao chúng ta
biết được mà kính lễ?
Thông thường ở thế gian,
chỉ khi nào các bậc thánh nhân viên tịch, các nhà hiền
triết qua đời rồi, người đời sau
mới nhận ra được và tôn sùng, chiêm bái, kính
ngưỡng.
C̣n khi các vị đó đương
thời, tại thế, v́ mê muội, v́ ganh tị
đố kỵ, v́ gièm pha phỉ báng, nói chung, v́ vọng
tâm tham sân si che lấp, không có bao nhiêu người thấy
được, hiểu được, cảm nhận
được sự siêu phàm, sự thanh cao bên trong cái h́nh
tướng người đời của các vị
đó.
Đó là nói về các bậc chân tu
thực học, đạo cao đức trọng, c̣n
đối với mọi người khác th́ sao?
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có
dạy:
"Nhứt
thiết chúng sanh, giai hữu Phật Tánh".
Nghĩa là: bất cứ chúng sanh nào,
bất cứ người nào trên thế gian này, không phân
biệt h́nh tướng, tôn giáo, chủng tộc, sang hèn,
địa vị, nam nữ, tuổi tác, học thức,
xuất xứ, không phân biệt ǵ hết, mọi người
đều có Phật Tánh đồng như nhau, chỉ v́
mê ngộ không đồng, nghiệp chướng khác nhau,
cho nên h́nh tướng bên ngoài có khác.
Chính v́ người đời
thường chấp chặt cái h́nh tướng bên ngoài,
cho nên phân biệt tốt xấu, phải quấy, đúng
sai, không hiểu được ngoài các thân xác ra, chính ḿnh có
Phật Tánh, không hiểu được mọi
người đều có Phật Tánh như nhau.
Do đó phiền năo khởi lên, cuộc
đời ch́m đắm trong các sự tranh chấp,
hơn thua, kiện thưa, đấu tranh, trả thù, giành
giựt, phê phán, chỉ trích, chiếm đoạt. Nếu thực sự hiểu
được mọi người đều b́nh
đẳng, đều có Phật Tánh như nhau, th́
người tu không dám xúc phạm lẫn nhau, dù bằng hành
động, lời nói hay ư nghĩ, huống là phân biệt
nam nữ, âm mưu hăm hại nhau, bạt tai hay đánh nhau,
nói xấu hay xỉ vă nhau, thưa gửi kiện cáo nhau.
Thiệt là tội nghiệp lắm thay! Người
đời cũng như người tu thường
tạo nghiệp mà không hay, không biết! Hoặc biết mà
vẫn cố phạm!
Chư Tổ có dạy:
Chúng sanh
nh́n chư Phật là chúng sanh cho nên khổ đau phiền
năo.
Nghĩa là: người đời không
biết ḿnh có Phật Tánh, không biết mọi người
đều có thể thành một vị Phật trong
tương lai, thường mang tâm trạng tự ti, hèn
kém, luôn luôn mang "cặp kiếng chúng sanh", cho nên nh́n
thấy tất cả mọi người chung quanh
đều là chúng sanh như ḿnh, thường là tệ
hơn ḿnh, xấu xa hơn ḿnh, cho nên sanh tâm chán nản,
ghét bỏ, khinh khi, giận tức, bực dọc, từ
đó phiền năo khổ đau bắt đầu. Nói một cách thông thường,
đó là: "suy bụng ta ra bụng người".
Người mang cặp kiếng màu đen, nh́n chỗ nào
cũng thấy tối thui, nh́n người nào cũng
tưởng là ma đen thùi!
Trái lại, chư Phật từ nhăn
thị chúng sanh, các người tu ngộ đạo
thương nh́n cuộc đời với tâm bồ
đề giác ngộ, với "cặp kiếng b́nh đẳng",
cho nên nh́n thấy rơ ràng người nào cũng có Phật
Tánh, cũng có khả năng thành một vị Phật,
nếu giác ngộ, biết quày đầu hướng
thiện, từ bỏ nghiệp chướng. Trong nhà
Phật, người tu trân quí Phật Tánh của nhau, nên
thường chắp tay trước ngực, cúi
đầu, chào nhau bằng câu: "Mô Phật" hay "A
Di Đà Phật", ngụ ư rằng: "Búp sen xin
tặng người. Một vị Phật tương
lai". Đây cũng là hạnh
tu của Ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát.
Bởi vậy cho nên, tu hạnh
"Lễ Kính Chư Phật", người tu tạo
được biết bao nhiêu phước báu, tránh
được biết bao nhiêu phiền năo khổ đau,
từ đó người tu sống trong sự cảm thông,
tương kính, cho nên cuộc đời của
người tu sẽ được an lạc và hạnh
phúc, không nghi, mặc dù người tu đang sống ở
bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh
nào. Trong kinh sách có câu: "Tùy sở
trụ xứ thường an lạc", nghĩa là:
"Tùy theo chỗ ở thường an lạc", chính là
nghĩa đó vậy.
* *
2) Pháp môn
tu tập thứ nh́, đó là: Tứ Vô Lượng Tâm
(Từ, Bi, Hỷ, Xả).
Tâm từ bi là phương thuốc
điều trị tâm sân hận.
Khi tâm sân hận khởi lên, người đời
sẽ tạo tội tạo nghiệp rất nhanh và
rất nặng nề.
Người đời thường không thể
nhịn nổi khi nghe lời nói khó nghe, chạm tự ái,
mất mặt mũi, mất danh dự, cho nên gây thù
chuốc oán, dĩ nhiên dẫn tới phiền năo khổ
đau. Tâm sân của
người đời thực khó đo lường, ví
như ngọn hỏa diệm sơn, đại náo thiên
cung, lật tung nhà người, người đời
cũng dám làm!
Tâm hỷ xả là phương thuốc
điều trị tâm ganh tị đố kỵ. Khi tâm ganh tị đố kỵ
khởi lên, người đời sẽ cảm thấy
bất an, ngày ăn không ngon, đêm ngủ chẳng yên,
dĩ nhiên dẫn tới phiền năo khổ đau.
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có
dạy:
Lấy
oán báo oán, oán nghiệp chập chùng.
Lấy ân
báo oán, oán nghiệp tiêu tan.
và:
Sân
hận không bao giờ dập tắt sân hận.
Chỉ có
tâm từ bi mới diệt được ḷng sân hận.
Nghĩa là: người tu không nên trả
thù, không nên báo oán, dĩ ḥa vi quí, luôn luôn nhớ pháp lục
ḥa. Hận thù không thể tiêu
diệt được thù hận.
Tâm niệm báo oán, trả thù, không bao giờ đưa
đến ḥa b́nh, an lạc.
Sức mạnh chắc chắn phải
đương đầu với sức mạnh. Bom đạn sẽ gặp bom
đạn. Chiến tranh gây thêm chiến tranh. Bạo
động tiếp nối bạo động. Cứ
như thế đau khổ tiếp nối khổ đau,
triền miên không biết bao giờ mới kết thúc. Thí
dụ như: v́ nguyên do nào đó, có người đem ḷng
oán ghét, thậm chí c̣n đặt điều vu cáo, cố
t́nh hăm hại người tu. Nhưng những việc
đó chỉ ảnh hưởng đến tấm thân
tứ đại và vọng tâm của người tu mà
thôi.
Chứ những việc đó không
hề xúc phạm được Chân Tâm Phật tánh của
người tu. Đến khi
người đó gặp chuyện không may, người tu
hết ḷng giúp đỡ, với tâm từ bi hỷ xả
của một con người đối với một con
người, chắc chắn tâm sân hận của
người đó đối với người tu không c̣n
nữa. Oán thù nên giải, không
nên kết, chính là nghĩa đó vậy.
* *
3) Pháp môn
tu tập thứ ba, đó là: Pháp Môn Chăn Trâu.
Hành động lời nói, đều
được chỉ huy, bởi do tư tưởng, ư
nghĩ con người. Nói một cách khác: tư
tưởng chủ động, chỉ huy phát xuất, hành
động lời nói. Người có tư tưởng,
hay tâm ư thiện, th́ có hành động, và lời nói
thiện. Người có tư tưởng, hay tâm ư ác, th́ có
hành động, và lời nói ác.
Như vậy phải biết, tâm ư con người, có
lúc hiền thiện, có lúc ác độc, bởi vậy cho
nên, hành động lời nói, lẫn lộn thiện ác.
Tâm ư con người, từ xưa dến nay, từ đông
sang tây, lăng xăng lộn xộn, hằng ngày như
vậy.
Ở trong kinh sách, tâm ư con người,
thường được ví như, con vượn
chuyền cây, con ngựa chạy rong, nên được
gọi là: "tâm viên ư mă".
Con ngựa chạy rong, tung tăng khắp chốn,
khó mà điều khiển, thuần phục dễ dàng. Con vượn chuyền cành,
từ nhánh cây này, sang nhánh cây khác, cũng như tâm ư,
của một con người, nghĩ ngợi lung tung, linh
tinh lang tang, hết chuyện lầm than, quay sang
hưởng thụ, cũng c̣n chưa đủ, chuyện
đông chuyện tây, chuyện ta chuyện tàu, hết
chuyện tầm phào, đến chuyện tầm bậy,
hết chuyện người nầy, đến chuyện
người khác, gia đ́nh làng xóm, thế giới năm
châu, ở đâu cũng tới, hang cùng ngơ hẻm, khoa
học kỹ thuật, chính trị tôn giáo, quốc gia
đại sự, phụ nữ nhi đồng.
Ở trong thiền tông, tâm ư con
người, thường được ví như: trâu
đen trâu trắng. Con trâu thường ngày, không
được chăn giữ, thường hay xâm phạm,
giẫm đạp lúa mạ, của các người khác,
gây nhiều thiệt hại, tổn thất hoa màu, hư
hại mùa màng, của người láng giềng, lân cận
chung quanh, đó là trâu đen. Nếu được chăn
dắt, săn sóc thường xuyên, chăm nom kỹ
lưỡng, canh chừng cẩn thận, đem lại bao
nhiêu, ích lợi lớn lao, cho các nông gia, và cho xă hội,
đó là trâu trắng.
Điều quan trọng là: con
người hăy biết, chăn dắt con trâu, chớ
để con trâu, dẫn dắt con người! Nếu
để con trâu, dẫn dắt con người, không
biết rồi đây, sẽ đi về đâu? Cho nên
mới có, pháp tu gọi là: "Pháp môn chăn trâu", chính
là nghĩa đó.
* * *
Tóm lại, chúng ta khó có thể nhận
xét được người đời hay người
tu khác nhau như thế nào qua h́nh tướng bên ngoài,
người nào tu đến đâu, tự người
đó biết, hoặc người tu cao hơn sẽ
biết, sự khác nhau hay cách biệt này chỉ là
đường tơ. Cho nên tây phương có câu:
"Chiếc áo cà sa không tạo ra người tu
sĩ". (L'habit ne fait pas le moine).
Sách có câu: "Tri nhân tri diện bất
tri tâm", nghĩa là: biết người, chỉ biết
được mặt, không biết được tâm. Sách cũng có câu: "Ai ăn
nấy no, ai tu nấy chứng", chính là nghĩa đó
vậy.
Người đời thường nói:
Miệng
th́ nói tiếng nam mô
Trong ḷng
chứa cả một bồ dao găm.
Người tu bèn bực bội cho
rằng người đời phỉ báng người
tu. Thực ra không phải
vậy đâu. Người
đời chỉ nhắc tới người tu nào c̣n
chất chứa cả một bồ dao găm trong ḷng mà
thôi. Người tu nào đạt
được, hành được "Tâm khẩu nhất
như" như lời chư Phật và chư Tổ
dạy, th́ thực đáng kính trọng vô cùng.
Người đời thường nh́n
người tu như những kẻ chán đời,
điên rồ không biết hưởng thụ các thú vui
của đời. Trái
lại, người tu nhận thấy người
đời đang sống trong điên đảo mộng
tưởng, nhưng nếu không khéo, người tu
lọt vào cảnh giới điên đảo gấp
nhiều lần hơn người đời.
Khi phát tâm theo đạo Phật,
người tu cần phát nguyện: "Phục vụ chúng sanh là cúng dường chư
Phật", th́ hạnh nguyện tự độ
độ tha mới được viên măn,
đường tu mới có thể tiến được
nhanh, ít gặp chướng ngại, chuyện lớn
sẽ hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, chuyện khó hóa
dễ. Đó chính là bồ tát
đạo. Người tu
thọ bồ tát giới là người hành bồ tát
hạnh, tu bồ tát đạo, để phổ
độ chúng sinh, chứ không phải thọ bồ tát
giới để được mọi người tôn
trọng ḿnh như là bồ tát vậy!
Người đời thường
không biết nhẫn, không biết nhịn, đến khi
trở thành người tu một thời gian bèn khoe
rằng đă "nhịn" được, đă
"chịu đựng" được nhiều
thử thách. Một thời
gian sau, người tu này khoe rằng đă "vượt
qua" được nhiều thử thách mà không cần
phải "chịu đựng" ǵ hết. Cho đến một lúc nào đó,
người tu này luôn luôn chỉ mỉm nụ cười
nhẹ nhàng, thanh thoát và không c̣n nói ǵ nữa cả!
Giáo lư của đạo Phật vi
diệu ở chỗ: tích cực giúp đỡ
người tu chuyển hóa phiền năo khổ đau thành
bồ đề niết bàn, chuyển hóa tâm cấu
nhiểm thành tâm thanh tịnh, chuyển hóa người tu
phàm phu tục tử thành bậc vô thượng chánh đẳng
chánh giác, tức là thành Phật. 鴬
Tỳ-Khưu
Thích-Chân-Tuệ
cutranlacdao@yahoo.com
cosophathoctinhquangcanada.org
Người
Đời và Người Tu
TK Thích-Chân-Tuệ
người
đời thực lắm lời
phê phán và
phỉ báng
người
tu không dính mắc
nước
đổ lá môn trôi.