Đọc Hồi Kư 26 Năm Lưu Đày Của Người Tù Thích Thiện Minh

 

Đào Văn  B́nh

Nói về những “kỷ niệm” trong các trại tù cải tạo do cộng sản dựng lên sau ngày 30-4-75 th́ tại hải ngọai này có cả ngàn truyện ngắn, hồi ức, thơ tù đă được viết ra. Các hồi kư viết về các trại tù - trong một giai đọan khá dài, đă được coi như là một thể lọai văn chương gây tác động mạnh mẽ cho người đọc. H́nh như suốt một thập niên từ những năm 1980 tới 1990 là thời kỳ “vàng son” của những hồi kư tù. Người ta đua nhau đọc những cuốn hồi kư do các cựu tù nhân chính trị  hoặc vượt biển hoặc định cư theo diện ODP hoặc HO viết ra mà tôi c̣n nhớ được một số tác phẩm như sau:

Đại Học Máu của Hà Thúc Sinh

Trại Cải Tạo của Phạm Quang Giai

Đáy Địa Ngục của Tạ Tỵ

Những Năm Tháng Cải Tạo Tại Miền Bắc của  Trần Hùynh Châu

Cùm Đỏ của Phạm Quốc Bảo

Những Sự Thực Không Thể Chối Bỏ của  Đào Văn B́nh

Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp

Trại Ái Tử và B́nh Điền của Dương Viết Điền

Cuộc Nổi Dậy ở Trại A20 của Phạm Văn Thành

Vụ Án Vính Sơn của Trần Kim Định

Bác Sĩ Lê Mai (Tiểu thuyết lấy bối cảnh trại tù cải tạo của Thanh Thương Ḥang)

Trại Đầm Đùn (không nhớ tên tác giả)

Tôi Phải Sống của LM Nguyễn Hữu Lễ

          Thế rồi bẵng đi một thập niên, thể lọai hồi kư tù dần dần lui vào hậu trường sân khấu để nhường bước cho những hồi kư chính trị xuất hiện, đặc biệt là những cuốn sách mổ xẻ về cuộc chiến tranh Việt Nam. Thế nhưng ngày hôm nay, do t́nh h́nh chính trị đổi thay, do sự ra đời của Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Và Tôn Giáo ở quốc nội, đă đưa vấn đề tù nhân chính trị trở thành một trong những đề tài nóng bỏng. Và thật là bất ngờ, một cuốn hồi kư tù mà tác giả là người c̣n đang bị ḱm kẹp ở trong nước được xuất bản ở Hải Ngọai. Đó là tập Hồi Kư 26 Năm Lưu Đày của Thượng Tọa Thích Thiện Minh ra mắt ngày 20-1-2007 tại một hội trường sang trọng của Ambassy Suites Hotel thuộc Thành Phố San Jose nhân Lễ Ra Mắt Ban Điều Hành Hải Ngọai của Hội Cựu TNCT& Tôn Giáo Việt Nam.

          Là một cựu tù nhân chính trị dĩ nhiên là tôi phải yêu thích các hồi kư tù. Nhưng tôi không làm cộng việc phê b́nh mà chỉ giới thịệu tới quư vị những ǵ mà một cựu tù nhân chính trị - cũng là một tu sĩ viết ra khi đă phải chịu đựng 26 năm lưu đày khổ nhục trong các nhà tù cộng sản. Với một quá tŕnh khổ đau dài như thế, những điều tác giả viết ra chắc chắn phải có một chút ǵ lưu lại cho đời sau như là những sử liệu qúy giá về một giai đọan đen tối nhất của dân tộc.

          Hồi Kư 26 Năm Lưu Đày dày 278 trang, b́a bốn màu với tấm h́nh của tác giả chụp lúc c̣n trẻ, mặt mũi sáng sủa, phúc hậu, trang nghiêm trong bộ y vàng của Đức Phật, tay lần tràng hạt, gồm cả thảy 13 Chương.

Chương I: Tác giả kể lại thời thơ ấu, sinh năm 1955 tại Bặc Liêu mà phụ thân là một tín hữu Cao Đài. Cha tôi có tấm ḷng nhân hậu, tính t́nh rộng răi hay giúp người. Mẹ tôi là một người đàn bà hiền thục, mẫu mực vất vả quanh năm v́ chồnng con.” (Tr. 8) Có lúc gia đ́nh phải tha hương cầu thực tại Vĩnh B́nh (Trà Vinh). Chính tại nơi đây cậu bé Hùynh Văn Ba (thế danh của tác giả) đă có duyên với cửa Thiền và được cha mẹ cho phép xuất gia. Năm 17 tuổi (1972) tác giả thọ giới Sa Di và năm 22 tuổi (1977) thọ Cụ Túc Giới do Ḥa Thượng Thích Trí Thủ - Nguyên Viện Trưởng Viện Hóa Đạo làm đàn chủ và Đại Lăo Ḥa Thượng Thích Hành Trụ kiêm Phó Tăng Thống làm chứng minh đạo sư. Sau đó ông “tu sĩ sữa (*) này được cử về trụ tŕ tại một ngôi chùa tại Vĩnh B́nh và đă được đồng bào Phật tử tại đây gọi thân mật bằng các tên “ông đạo, huynh, cậu và thậm chí bằng con, bằng cháu nữa.” (tr. 12).

Chương II: Biến Cố 30 Tháng 4 xảy đến như một cơn đại hồng thủy mà tác giả gọi đó là “Ách Vận Đại Biến” hay “Hắc Ám Nhật Tử (Ngày Đen Tối). Ng̣ai phần văn xuôi, tác giả đă mô tả lại những đau thương vô tiền khóang hậu này bằng 76 câu  thơ, tôi xin trích ra một số đọan như sau:

Chuông giáo đường đă từ từ hoang vắng

Chùa, nhà thờ vườn cảnh trống người thưa

Người thay trâu kéo cộ để cày bừa

Bao cơ khổ sáng trưa chiều tối.

 

Ăn cháo độn cùng củ khoai củ chuối

Biết bao người chết đói thảm thương

Kẻ ăn xin, người hành khất vạn nẻo đường

Phải trú ẩn nhà thương, bến cảng

 

Và cả những em bé, nữ sinh, sân trường đại học cũng không thóat khỏi cảnh đổi đời ghê rợn này:

Sân đại học ngày xưa thơ mộng lắm

Đến bây giờ cảnh buồn vắng sầu vơi

Bao thư sinh đi viễn xứ xa vời

Gío thu thổi, lá rơi buồn rũ rượi

 

Công viên vắng như nhớ nhung chờ đợi

Phương lẻ sầu không phơi phới trổ hoa

Cô nữ sinh áo dài trằng thướt tha

Nay cắt ngắn áo bà ba lo cuộc sống!

 

Riêng tác giả phải đối đầu ngay với các “anh hùng giải phóng” điển h́nh là Hai Thổ- Xă Đội Trưởng Du Kích, hống hách bước vào chùa, chỉ vào lá cờ ngũ sắc của Phật Giáo nói “Giờ này mà nhà chùa c̣n treo lá cờ của Thực Dân Pháp nữa à? Bọn Đế Quốc Mỹ và Ngụy Quân, Ngụy Quyền Sài G̣n đă cuốn xéo bỏ chạy rồi, tại sao Pháp c̣n ở đây? Thật là hết sức phản động, có lẽ cần phải cho đi học tập dài hạn mới được!” (tr. 25)  Và ông “Quan Kách Mệnh” (*) này chỉ vào tượng Đức Phật Đản Sinh, cười khinh khỉnh nói Thằng Phật nhỏ xíu này nó không có công làm cách mạng để đánh đuổi Đế Quốc, tại sao phải thờ nó? Nó ngồi một chỗ, để chờ người ta đem quà lại dâng cúng. Nó là thành phần giai cấp bóc lột mà!” (tr. 25)

Do áp lực của chính quyền địa phương và ủy ban tôn giáo vận buộc phải hiến ngôi chùa cho để làm trụ sở của xă đội, tác giả chạy lên Sài G̣n để tŕnh với Tổ Đ́nh Ấn Quang và trực tiếp xin gặp LS Nguyễn Hữu Thọ - Chủ Tịch MT/GPMN và đem về một bứt thư…tŕnh lên Tư Hóa - Trưởng Ban Quân Báo Huyện Đội Vĩnh Lợi. Đọc xong, Tư Hóa xé nát bức thư nói rằng “Chừng nào thằng Thọ, thằng Phát (Hùynh Tấn Phát) – Chủ Tịch Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam xuống đây th́ tao mới không lấy ngôi chùa này mà thôi !” ( Tr.31)

Trong thời gian này, sự đàn áp tôn giáo thật khốc liệt và xảy ra ngay cho hàng ngũ lănh đạo
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ở Sài G̣n. Đại Đức Thích Huệ Hiền trụ tŕ Chùa Thiền Viện Dược Sư Cần Thơ cùng chư tăng ni tự thiêu tập thể vào ngày
2-11-75 để phản đối bạo quyền. Ḥa Thượng Thích Thiện Minh – Cố Vấn Viện Hóa Đạo bị tra tấn đến chết trong trại tù, ng̣ai ra khắp các tỉnh, nhiều ngôi chùa,  trường học, tự viện và tài sản giáo hội bị quản lư, xung công..”(tr. 33)

Chương III: Nói về giai đọan tác giả vừa cứu khổ độ sanh vừa hỗ trợ, rồi tham gia Mặt Trận Dân Quân Phục Quốc sau đổi thành Mặt Trận Nghĩa Quân Cứu  Quốc – Việt Nam Dân Quốc với tư các cố vấn. Vào ngày 28-3-1979 tác giả bị bắt rồi bị giam vào Trại Giam Vĩnh Lợi , Tỉnh Minh Hải (gồm hai tỉnh Bặc Liêu và Cà Mau). Và đây đúng là một địa ngục trần gian với “những người mang tội chính trị chưa bị kết án nhưng bị cùm kẹp liên tục ngày đêm hơn bốn năm rồi..” (tr. 53) Và đây là cảnh tù đi tắm Chúng tôi tắm ở một ao nước rất cạn và dơ. Khi tắm giặt, nước bên trên chảy xuống ao, cứ múc lên tắm tiếp. Thậm chí khi khát nước cũng cứ múc lên mà uống. Cái ao này nữ tù cũng cũng thường xuyên tắm giặt, giặt đủ mọi thứ trên đời kể cả tấm tă lót của các cháu bé. Nước ao càng ngày càng bị cạn và đục ngàu, nhưng mọi người tù khát nước cứ tự nhiên múc lên mà uống, uống một cách ngon lành, dường như chẳng có suy nghĩ chuyện ǵ đă xảy ra.” (tr. 55) C̣n các tù nhân được gọi lên “làm việc” với chấp pháp, khi trở về buồng giam th́ “thân thể, tay chân bầm tím, mặt mày xưng vù, đêm về không sao ngủ được.” (tr. 56). Nếu quả đây là lời của một vị chân tu viết ra th́ phải nói, tác giả là người “nghĩa khí can vân” mang gịng máu anh hùng mă thượng của Miền Nam, không bao giờ chịu khuất phục, chịu nhục trước cai tù và chấp pháp. Dù không nói ra nhưng người đọc có thể hiểu tác giả rất giỏi vơ nghệ cho nên tác giả đă né tránh một cách nhẹ nhàng ngón đ̣n Thôi Sơn Thủ (Thiếu Lâm Bắc Phái) của tên công an muốn đánh tác giả  để dằn mặt, rồi dơng dạc nói với tên công an  Xin lỗi anh v́ tôi đang ở tù chứ cỡ hai người như anh không thể là đối thủ của tôi. Nếu muốn công bằng mà tỉ thí…” (tr. 57) Trong thời gian này tác giả âm mưu giải thóat tù nhưng v́ bị phản bội cho nên kế họach vỡ lở và bị chuyển tới Trại Tù Ty Công An Minh Hải.

Chương IV: Nói về Trại Giam Ty Công An Minh Hải. Tại đây có một lọai công an mà dân chúng gọi là “công an 30 Tháng 4”. Bọn này có ngón nghề độc đáo để điều tra, nào là đánh túi bụi, đánh kiểu trên đao dưới búa, c̣ng tay đứng, c̣ng chéo tay sau lưng, c̣ng ngồi đan chéo hai tay. Họ dùng nhục h́nh để điều tra và bản thân tôi cũng không thóat khỏi…” (Tr. 63) và “pḥng giam chỉ rộng khỏang 3 mét vuông mà nhốt có khi đến 20 người..” (Tr. 63). Cũng tại trại này, cộng sản cho tù giả vào để làm khổ nhục kế để theo sát tù và khai thác điều tra đó là tên Hồ Công Sơn – cựu hạ sĩ quan binh chủng Biệt Động Quân QL/VNCH bị móc nối trước 1975 và có người chú là Hồ Nghi- Bí Thư Tỉnh Ủy Quảng Nam- Đà Nẵng. Trong chương này có một đọan “ đối khẩu nảy lửa” (*) giữa tác giả và tên Phạm Minh Chánh – Trưởng Ban Chấp Pháp có biệt danh Ba Lát Gừng rất lư thú như sau “ Này chú Thiện Minh ! Tôi hỏi chú, cách mạng từ trước đến giờ có đào mồ cuốc mả cha chú không? Cách mạng có hăm hiếp mẹ, chị gái, em gái của chú không? Mà chú tham gia vào tổ chức phản cách mạng để chống lại cách mạng vậy chú?” Và đây là câu trả lời của tác giả Này Ông Ba, tôi từ nhỏ đến giờ chỉ tu hành không có tham gia chính quyền Miền Nam, nhưng đứng khách quan tôi muốn hỏi ông rằng: Chánh quyền Sài G̣n có đào mồ cuốc mả cha ông không? Chánh quyền Sài G̣n có hăm hiếp chị gái, em gái của ông không? Tôi biết chắc là không nhưng giả sử cho rằng mọi việc là có đi nữa th́ ông mới đứng lên tham gia cái gọi là “cách mệnh”. Nếu mọi việc là không th́ chắc ông không tham gia cách mệnh chứ ?” (Tr. 68 &69). Khi tác giả vừa nói xong, Ba Lát Gừng tay run run…nộ khí xung thiên quát to “ Mầy, đồ bán nước, đồ lũ phản động, đồ ôm chân Đế Quốc Mỹ, làm tay sai cho Sen Đầm Quốc Tế….” (tr. 69)

Chương V: Nói về trại tù Cà Mau, nhưng tác giả đă làm người đọc phải rơi lệ khi mô tả về t́nh cảnh khốn quẫn của gia đ́nh như người cha vừa qua đời, mẹ th́ gầy ṃn, tiều tụy” (*) c̣n các em “ Em thứ bảy phải nghỉ học đi bán bánh ḿ dạo nuôi gia đ́nh. Em thứ sáu phải làm nghề xe đạp thồ. Em thứ năm vào tù v́ liên hệ tới tác giả và người em gái thứ tư cũng phải bỏ học ngồi bán khoai, cóc, mía, ổi trước cửa nhà.” (Tr. 77). Trong giai đọan này người dân quá đói khổ cho nên liều chết vượt biển ra đi. Cho nên bên cạnh tù chính trị c̣n có tù vượt biên, tù cải tạo công thương nghiệp cho nên nhà tù tỉnh không c̣n chỗ chứa. Tỉnh Minh Hải cho dựng thêm rất nhiều nhà tù, có những địa điểm măi tận rừng sâu và ..rất nhiều án tử h́nh đă được ban ra kể cả phụ nữ có thai cũng bị đem ra hành quyết! (tr. 83).

Tại trại tù này tác giả phải “quần thảo” với hai tên chấp pháp là Trần Văn Ơn và Lê Quang Dũng. Riêng tên Ơn đă ghép tội tử h́nh cho gần 20 người. Nhưng có một tên chấp pháp rất độc đáo đó là Nguyễn Ngọc Cơ tự Sáu Búa – đương kim Viện  Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân. Sở dĩ Nguyễn Ngọc Cơ có hỗn danh Sáu Búa chỉ v́ công trạng của y như sau Thời kỳ c̣n họat động trong rừng ông này phụ trách thi hành án tử h́nh. Một hôm nọ, ṭa án xử tử h́nh một bà lăo trên 70 tuổi. Cụ bà bị khép vào tội “làm điềm” tức là chỉ điểm cho Quân Đội VNCH…đáng lư ra ông ta thi hành án xử tử bằng mă tấu. Nhưng đây là phiên ṭa nhân dân lưu động đặc biệt, nên xử xong là thi hành án ngay. Hôm đó ông không đem theo mă tấu bên ḿnh, nên đành tạm mượn một chiếc búa của dân làng. Ông phải cật lực và ra đ̣n đúng sáu nhát búa bà cụ mới tắt thở. Có người cho rằng bà cụ bị hàm oan cho nên khi chết đôi mắt cứ mở trao láo, mà không chịu nhắm nghiền lại…Ở Viện Kiểm Sát, tội nhân chỉ nghe danh thôi th́ đă khiếp đảm, rởn tóc gáy rồi !” (tr. 85). Với những tên lấy khẩu cung ghê gớm như thế th́ bản án tử h́nh chắc chắn đă dành sẵn cho tác giả. Trong phiên ṭa xử tại Bặc Liêu vào năm 1981 do Ung Ngọc Uyển (em ruột Ung Văn Khiêm- cựu Bộ Trưởng Ngọai Giao của chỉnh phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa) ngồi ghế chánh án, tác giả bị tuyên án chung thân. Nhưng chỉ ít tháng sau, tác giả lại bị lôi ra ṭa một lần nữa - gọi là xử phúc thẩm ḥan ṭan kín với những ông chánh án Miền Bắc mặc vét-tông oai vệ nhưng răng nhuộm đen, khít rịt, không c̣n thấy kẽ hở. Tôi không giỏi về Ma Y Thần Tưởng nhưng nh́n thóang qua tôi biết đây là thứ thiệt rồi!” (tr. 94) Phiên ṭa y án chung thân và tác giả bị áp tải đi Trại Tù Cây Gừa giữa hai hàng nước mắt của “người mẹ với mái đầu bạc trắng và đứa em gầy ốm, lêu khêu...” Đó là hai nhân chứng duy nhất của phiên ṭa điển h́nh cho lọai  pháp đ́nh của ḷai muông thú. Trại Tù Cây Gừa là một vùng thiên la địa vơng là nơi tác giả có gặp gỡ một số tù nhân, thuộc lực lượng phục quốc của các ông Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh. Sở dĩ tổ chức này bị phá vỡ là v́ cộng sản cài t́nh báo vượt biên qua các trại tỵ nạn Thái Lan để xâm nhập. Trong thời gian này tác giả hợp tác với hai người bạn đồng tù để vượt ngục nhưng bất thành và bị cùm hơn một năm trời trước khi bị áp tải đi Xuân Phước. C̣n người bạn cùng vượt ngụcvới tác giả là Nguyễn Văn Tấn – Cựu trung úy đặc công VC ra ṭa lănh án tử h́nh.

Chương VI: Trong đợt di chuyển bất thần tới Trại Tù Xuân Phước mệnh danh là Thung Lũng Tử Thần, gồm 21 người trong đó có chị Thái Thị Kim Vân – nguyên huấn luyện viên Trường Nữ Quân Nhân QL/VNCH, tham gia Mặt Trận Dân Tộc Tự Quyết bi án tù chung thân, được anh em đồng tù mệnh danh là Nữ anh hùng, một đấng nam tử trượng phu, một nữ tướng hào kiệt. Chị đă bị công an đánh gẫy cả hàm răng chỉ v́ dám hô Đảo Đảo Cộng Sản ngay trước trại.” (tr.114). Đ̣an áp tải và tù nhân có ghé ngang Sài G̣n vào lúc nửa khuya, nghỉ tạm tại Khám Chí Ḥa và tác giả đă được nh́n lại Sài G̣n…một Sài G̣n đă chết bởi một lũ người không phải người tràn vào từ Miền Bắc đang làm ô uế cả một thành phố hoa mộng yêu kiều trước đây.

Chương VII: Đây Xuân Phước, đây Thung Lũng Tử Thần! Một trại tù trừng giới “nằm dưới thung lũng, chung quanh là rừng núi âm u với dăy Trường Sơn bao la, nơi sơn cùng thủy tận, tưởng chừng như là chỗ cuối đất, cùng trời nên ít thấy bóng người…” (tr. 122) Trại tù này có bí số A20 gồm ba phân trại, mỗi phân trại chứa khỏang 1000 tù nhân, trước giam giữ sĩ quan thuộc chế độ cũ, sau giam giữ tù nhân bị kết tội xâm phạm an ninh quốc gia. Do chế độ lao tù khắc nghiệt, do sơn lam chướng khí, tù nhân ở đây “dễ bị nhiều chứng bệnh bất thường như sốt rét kinh niên, vàng da, bại liệt, sạn thận, mù ḷa, lao phổi hay tâm thần điên lọan..” (tr. 123). Tại trại tù này, công an xử dụng tù h́nh sự vốn là những cán bộ, công an, bộ đội phạm pháp để cai trị tù nhân.. Có những lần Thượng Tọa Thích Huệ Đăng cùng LM Nguyễn Huy Chương ngồi rửa từng hạt cơm v́ trộn muối mặn quá mà đếm chỉ được vài mươi hạt. Sau LM Nguyễn Huy Chương chết tại trại kỷ luật K2. Sống th́ như thế, nhưng chết cũng chưa yên. Giai đọan đầu tù nhân chết không có quan tài, chỉ bó sơ một chiếc chiếu không được lành cho lắm. Về sau mới có quan tài nhưng không đủ đinh để đóng nắp đậy. Khi đưa xác đi chôn, quan tài được đặt trên một chiếc xe gọi là “xe cải tiến” dùng tay đẩy đi. Khốn khó trong khi đẩy, đinh bị mục, ván thùng xe rớt xuống đất, chiếc quan tài cũng rớt theo, thi hài lộ ra ng̣ai nằm sơng ṣai trên đất.” (tr.133). Trong thời gian này tác giả đă gan ĺ cộng tác với một số người như BS Nguyễn Kim Long để phá ngục, giải cứu cho khỏang 1000 tù nhân nhưng kế hoạch bị bại lộ và bị tra tấn chết đi, sống lại, rồi bị đưa ra ṭa thiết lập ngay tại trại tù… lănh bản án chung thân lần nữa đúng vào năm 1987. Trong thời gian bị kiên giam, tác giả có dịp ở chung với một số chức sắc tôn giáo như: Ô. Phan Đức Trọng con nuôi Trung Tướng Cao Đài Trần Quang Vinh, Ô. Trần Văn Nhành (PGHH), LM Nguyễn Văn Vàng (Ḍng Chúa Cứu Thế), LM Nguyễn Quang Minh (Nhà Thờ Vinh Sơn), LM Nguyễn Luân (Phan Rang) và LM Nguyễn Tấn Chức. LM Nguyễn Quang Minh bị đánh hộc máu ứa ra từ miệng và hậu môn rồi chết sau đó vài ngày chỉ v́ mang vào trại vài chiếc bánh Thánh. Tác gỉa cũng kể lại kỷ niệm xướng họa thơ với LM Vàng và LM Nguyễn Luân trong đó có một bài thơ tứ tuyệt như sau:

Vô thần diệt sạch khó ǵ đâu

Đ̣an kết liên tôn cứu họa sầu

Đập rắn, đập ḿnh không thể chết

Mà ta phải đập cả luôn đầu ! (tr. 146)

Riêng LM Luân bị kiên giam quá lâu, bọn cai tù dụ dỗ bằng cách chỉ cần linh mục viết một câu sau đây là chúng thả ra:

Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc

Thế nhưng đă bao lần, linh mục chỉ viết:

Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

Không Độc Lập, Không Tự Do, Không Hạnh Phúc

Sau đó LM Luân bị cùm cho đến chết. Trước khi chết, linh mục để lại một bài thơ sau đây:

Trước kia không biết Thầy Minh

Đến đây không hẹn mà ḿnh gặp nhau

Chúa Trời, Đức Phật trên cao

C̣n ta trong ngục kết giao nghĩa t́nh

Chương VIII: Trại Tù Xuân Lộc Z30A nằm gần chân Núi Chứa Chan là trại tù mà chính tôi đă có lần ở đó, được thả ra năm 1984 và tác giả được chuyển về đây cùng với 250 người vào năm 1987. Tại đây tác giả có dịp gặp gỡ các Tướng, Tá Miền Nam bị tù trên 10 năm cùng một số tu sĩ nổi danh thuộc các tôn giáo như sau:

Ḥa Thượng Thích Đức Nhuận- Chánh Thư Kư Vịên Tăng Thống

Thượng Tọa Thích Trí Siêu (án tử h́nh chưa đem bắn)

Thượng Tọa Tuệ Sĩ (án tử h́nh chưa đem ra bắn).

Thượng Tọa Thích Tâm Lạc

Thượng Tọa Thích Nguyên Giác

Thượng Tọa Thích Minh Thông

Thượng Tọa Thích Tâm Căn

LM Trần Đ́nh Thủ- Cha Bề Trên Ḍng  Đồng Công

LM Lê Quang Quế- Tiến Sĩ Thần Học

LM Tiến (Ḍng Tên) Tiến Sĩ Thần Học Roma

LM Nguyễn Tấn Chức

LM Tuyên

LM kiên nhạc sĩ Huyền Linh

Cụ Nguyễn Trác (Cao Đài)

Cụ Ba Đấu (PGHH)

Cụ Bảy Khánh (PGHH)

Ô. Tư Nhành (PGHH)

Tu Sĩ Đ̣an Văn Huynh

Rồi trong một dịp phái đ̣an trung ương của VC phối hợp với Viện Sử Học tới trại để thuyết giảng về đề tài “Truyền Thống Dân Tộc Việt Nam” và cho phép tù được phát biểu tự do. Hai lần tác giả bị cướp micro và sau đó bị chuyển sang Phân Trại B với tội lợi dụng học tập để tuyên truyền sách động chống chế độ. Và chính tại nơi đây, tác giả có dịp gặp gỡ BS Nguyễn Đan Quế và gọi đùa BS Quế là John F. Kennedy v́ BS Quế được giải thưởng nhân quyền mang tên Cố TT. Kennedy. V́ sức khỏe tác giả quá yếu sau những lần tuyệt thực, BS Quế đă nhét đường vào lỗ gió thông hơi cho tác giả. Những lần Bà Tâm Vấn – vợ BS Quế vào thăm có gửi cho một số đồ chay chế biến trông giống như đồ mặn (Bà Tâm Vấn ăn chay trường) làm tác giả tưởng đó là đồ mặn, trả lại khiến tí nữa mang họa với cai tù. Sau đó th́ BS Quế được phóng thích nhưng “t́nh cảm và tinh thần bất khuất với lập trường kiên định của BS Quế luôn hằn măi trong trái tim tôi.” (tr. 172)

Chương IX: Tác gỉa mô tả về cuộc tiếp xúc với phái đ̣an nhân quyền LHQ vào ngày 24-10-1998 do Ô. Abdel Rattah Amor cầm đầu với hai người tù Phan Ngọc Ấn tức TT. Thích Không Tánh và Huỳnh Văn Ba tức TT. Thích Thiện Minh. Mặc dù đă được ban giám thị trại tù “xuống nước năn nỉ”, dụ dỗ cho định cự tại Pháp v.v.. hai vị đă dũng cảm đề nghị với Ô. Abdel Rattah Amor bốn điểm như sau:

1.     Thả tất cả tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm, tù nhân tôn giáo đang bị giam giữ.

2.     Đ̣i trả lại tài sản của các tôn giáo và phục hồi quyền tự do tôn giáo một cách ḥan ṭan trong đó có phục hồi quyền sinh họat pháp lư của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

3.     Xóa bỏ Đ́êu 4 Hiến Pháp, thực hiện một chế độ đa đảng, đa nguyên, b́nh đẳng giữa các đảng phái.

4.     Tổng tuyển cử tự do với sự giám sát của LHQ, đôi bên đồng bộ chủ trương t́nh thương nhân đạo và hóa giải hận thù.

Khoảng ba tháng sau, TT. Thích Không Tánh được phóng thích, nhưng vẫn tiếp tục gửi tiền và vật chất để nuôi tác giả trong tù. Sau buổi gặp gỡ này, cuộc sống trong tù của tác giả dễ thở hơn một chút. Và thế là sau sáu năm biệt giam, tác giả được quay trở lại với tù tập thể và lao động khổ sai. Chính v́ t́nh h́nh chính trị thế giới đổi thay, do tinh thần đ̣an kết, một ủy ban đấu tranh  cho quyền lợi của tù nhân chính trị và tôn giáo đă ra đời bao gồm những nhân vật như sau:

TT. Thích Thiện Minh (Đại diện Phật Giáo)

Ô. Nguyễn Viết Huân (Ḍng Đồng Công, đại diện Thiên Chúa Giáo)

GS Nguyễn Văn Bảo (Đại diện Cao Đài)

Cụ Nguyễn Văn Đấu (Đại diện PGHH)

Ô. Phạm Trần Anh (Cựu Sinh Viên QGHC, đại diện Hội Bảo Vệ Tù Nhân Chính Tri Việt Nam)

Trong chương này, tác giả cũng ghi lại một số câu chuyện đau thương, trớ trêu nghiệt ngă mà tác giả thu lượm được như: Vợ Thiếu Tá Đặng B́nh Minh ra thăm chồng tại Trại Tù Đồng Mua ở Miền Bằc. Sau buổi thăm nuôi người vợ ngủ nhờ tại nhà thăm để chờ mai xuôi Nam. C̣n Thiếu Tá Minh trở về trại mở tiệc liên hoan mừng gặp mặt vợ. Nhưng v́ sức khỏe quá suy yếu, đêm đó anh đột ngột qua đời. Chị Minh chờ cho nhà tù đưa quan tài chôn cất xong, chị tự cầm dao cắt mái tóc dài đen huyền óng ả của chị để lại trên mộ chồng cùng với một bài thơ xé ruột:

Nắng hè thiêu đốt Đồng Mua

Đặng B́nh Minh chết giữa mùa thương đau

Thương anh em cắt mái đầu

Quấn trên mộ đá thay màu khăn tang.

Và chuyện của một người tù, vợ đến thăm, dẫn theo người chồng mới, ăn ở với nhau có ba đứa con, giới thiệu xong, chị ta nói rằng Nhờ người chồng sau giúp đỡ mới có tiền đến thăm nuôi anh trong nhiều năm qua và nuôi con ăn học tới ngày khôn lớn!” (Tr. 208)

Chương X: Tác giả chia tập thể đấu tranh chống cộng sản trong nước thành bốn thành phần như sau:

1.     Đấu tranh v́ tinh thần quốc gia, dân tộc

2.     Đấu tranh v́ hận thù

3.     Đấu tranh v́ quyền lợi

4.     Đấu tranh v́ xu hướng phong trào.

Chương XI: Tác giả ghi ơn suốt đời một số ân nhân mà tác giả gọi là “ân công” như: BS Nguyễn Đan Quế, LM Trần Đ́nh Thủ, Thầy Chương, Thầy Nguyễn Viết Huân, Thầy Nguyễn Văn Hịêp (nay đă là Linh Mục), Ḥa Thượng Thích Đức Nhuận và Ô. Phạm Trần Anh (nguời anh em kết nghĩa với tác giả). Cũng trong chương này tác giả đề cao một số nhân vật như Ḥa Thượng Thích Huệ Đăng, TT. Thích Không Tánh, TT. Thích Tuệ Sĩ, GS Nguyễn Văn Bảo. Nhà văn Dơan Quốc Sĩ đă được tác giả mô tả như sau “ Bác là nhà văn hóa, một bậc mô phạm, đầy đủ tư cách, một trí thức uyên thâm, tính t́nh từ tốn, lịch sự, nhă nhặn, ôn tồn và phúc hậu. Bác là một Phật tử trí thức thuần ḥa, đạo hạnh.” (tr. 231)

Chương XII: Là chương kết luận và tác giả đă gửi gấm tâm sự của ḿnh qua một vài nhận định như sau:

1.     Việc thả tự do cho tác giả cũng như cho bao nhiêu tù nhân chính trị và tôn giáo khác không phải phát xuất từ ḷng nhân đạo của nhà cầm quyền cộng sản mà v́ họ bắt buộc phải thả do áp của thế giới.

2.     Trong thời đại “ma vương quỷ dữ” lộng hành này, tác giả rất hănh diện khi thấy Giáo Hội Phật Giáo VNTN được lănh đạo bởi Đại Lăo Ḥa Thượng Tăng Thống Thích Huyền Quang và HT. Viện Trưởng Thích Quảng Độ. Tác giả đă dẫn Thông Điệp của Đệ Nhị Tăng Thống Thích Giác Nhiên nói cách đây 25 năm để minh định lập trường đấu tranh hiện tại của Giáo Hội cũng như của chính tác giả “ Đối với Giáo Hội PG/VNTN, giáo hội chúng ta là hậu thân thừa kế của các tổ chức giáo hội tiền nhiệm đă có từ ngàn xưa. Pháp lư của Giáo Hội là lịch sử, địa vị của Giáo Hội là trong ḷng người, đường lối của Giáo Hội là phục vụ dân tộc và chúng sanh. Do đó, dù ở đâu hay trong ḥan cảnh nào, Phật Giáo Việt Nam muôn đời vẫn là Phật Giáo Việt Nam. Phật Giáo Việt Nam muôn đời vẫn là của dân tộc Vịêt Nam.” (tr.250)

3.     C̣n về chuyện Đạo và chuyện Đời, tác giả ḥan ṭan tán đồng quan điểm của Ḥa Thượng Viện Trưởng Thích Quảng Độ khi đề cập đến thái độ chính trị của một công dân “Trên lănh vực tu hành, sự tham gia vào đời sống chính trị không có nghĩa là ra tranh chức, tranh quyền, ứng cử dân biểu, hoặc lập đảng này, đảng nọ” mà là “ Ư thức được trách nhiệm của ḿnh đối với Tổ Quốc, cho nên mọi người dân có quyền suy nghĩ chính trị, nói chính trị và hành động chính trị. Mỗi người dân khi biết xử dụng quyền công dân, cân nhắc lá phiều của ḿnh để chọn người xứng đáng đại diện cho ḿnh hay bầu người cầm vận mệnh quốc gia th́ dù muốn dù không cũng đă tham dự vào đời sống chính trị rồi.” (tr. 251)

4.     C̣n về vấn đề đ̣an kết tôn giáo, tác giả ghi nhớ tới lời trăn trối cuối cùng của LM Luân để nhắn nhủ tới các tôn giáo trong và ng̣ai nước như sau Dầu các tôn giáo không thể trở thành keo sơn gắn bó đi nữa th́ chúng ta nhất quyết không bao giờ bị sa vào âm mưu cạm bẫy chia rẽ của loài quỷ dữ ma vương.” (tr. 255)

Chương Phụ Lục: Bao gồm một số tấm h́nh tác giả tới vấn an Ḥa Thượng Tăng Thống Thích Huyền Quang và Ḥa Thượng Viện Trưởng Thích Quảng Độ cùng một vài sinh họat cứu trợ băo lụt Miền Trung mới đây của tác giả. Rồi tác phẩm kết thúc bằng 170 câu thơ làm theo thể Song Thất Lục Bát nhan đề Ngày Quốc Nạn xin tạm trích bốn câu:

Ngày ghi chép càng buồn trang sử

Ngày tang sầu chứng cứ c̣n đây

Ngày này sử khó mờ phai

Ngày vừa quốc nạn, vừa ngày quốc tang (tr. 269)

Lời Kết: Đọc xong tập hồi kư, ḷng tôi vừa phẫn uất, vừa buồn bă, vừa xót xa. Qua 256 trang giấy, bằng thơ và lời văn chân t́nh, mộc mạc, b́nh dị, chất phác, hiền hậu của Miền Nam, của người dân xứ Bặc Liêu ruộng thẳng cánh c̣ bay, cá tôm đầy đồng, đời sống nơi đây chân t́nh, cởi mở…tác giả đă vẽ nên một địa ngục trần gian, một cơn ác mộng không thể t́m thấy ở một nơi nào trên thế giới. Ở một nơi nào đó trên thế giới người ta có thể giết nhau trong chiến tranh. Thế nhưng tại nơi đây, trong ḥa b́nh, nguời ta đă dùng những thủ đọan tàn độc nhất, xử dụng những con người ngu dốt và hung ác nhất, những âm mưu hung hiểm nhất, những tṛ chơi tra tấn tinh vi nhất để giết hại hằng triệu người …chỉ cho một mục đích duy nhất là thỏa măn tham vọng quyền lực cuồng điên. Chính cái thiên đường ảo vọng, chính cái chủ nghĩa cộng sản quái ác này là thủ phạm của mọi tang thương, đổ vỡ, chết chóc cho dân tộc Việt trong hơn nửa thế kỷ qua. Thế nhưng trong nỗi nhục h́nh của bản thân, sự đổ vỡ của gia đ́nh, nỗi đau thương của đồng lọai, trong suốt 256 trang giấy chúng ta không thấy tác giả khơi dậy căm thù. Tác giả đă dùng những danh từ lễ độ như “anh” hoặc “ông” hoặc “bà” hoặc dùng “cấp bậc” để gọi những con quỷ dữ nói ở trên. Lúc nào tác giả cũng giữ ǵn phong độ của một nhà tu hành, không bao giờ bộc lộ vẻ oán hờn mà chỉ dùng “Nhẫn nhục Ba La Mật”,”Trí Huệ Ba La Mật”, “Thiền Định Ba La Mật” để đối đầu với ḷai quỷ, để thóat qua những khổ h́nh ngặt nghèo nhất. Dù hiện nay đang đấu tranh cho Dân Chủ, Tự Do, cho Tự Do Tôn Giáo, tác giả không chủ trương trả thù, hoặc quét sạch những con người đă gây tạo những tội ác tày trời với dân tộc mà bằng tâm nguỵện chí thành “ Cuối cùng tôi nguyện cầu mười phương chư Phật khai thị Phật tánh cố hữu của những tư tưởng bảo thủ trong Đảng CSVN, sớm giải thóat khỏi phiền trược, dứt bỏ ác nghiệp cơ cầu, hồi tâm chuyển ư, quay về nẻo thiện để đưa Dân Tộc , Tổ Quốc Việt Nam ngày càng thăng hoa phát triển.” (tr. 256).

          Cùng với những hồi kư tù nói ở trên, Hồi Kư Lưu Đày 26 Năm của TT. Thích Thiện Minh sẽ góp phần như một sử liệu quư giá cho đời sau nghiên cứu về đất nước Việt Nam bất hạnh./.

Đào Văn B́nh

(3-3-2007)

 

Cước chú: Dấu (*) là nguyên văn trích dẫn lời tác giả.                                                                    

Sách không ghi giá bán, quư vị muốn mua yểm trợ xin gửi thư về:

Anh Phạm

6533 Lemarand Ave.

San Diego, CA 92115 - Email: thanhhonglt@yahoo.com